Tải bản đầy đủ (.doc) (29 trang)

Động đất ở Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (599.74 KB, 29 trang )

Động đất ở Việt Nam
Nhóm 10
Nguyễn Thị Hường 532427
Trần Duy Khánh 532431
Chử Bảo Long 532437
Đỗ Thị Miền 532440
Trương Thị Thúy 532463
Hoàng Thị Trang 532468
1
I. Đặt vấn đề.
Trong lịch sử tồn tại và phát triển, nhân loại luôn luôn phải đương
đầu với các tai họa thiên nhiên, như lũ lụt, hạn hán, bão tố, động đất, sóng
thần, núi lửa… Trong các tai họa thiên nhiên đó, có lẽ động đất là tai họa
khủng khiếp nhất, đáng sợ nhất mà con người luôn phải hứng chịu từ bà
mẹ thiên nhiên. bởi vì chỉ trong vài giây đồng hồ cả một thành phố có thể
bị sụp đổ hoàn toàn, cả một khu vực có thể bị sụt lún và đôi khi những
dòng sông cũng bị đổi dòng do hậu quả của những trận động đất cực
mạnh. Điều đáng sợ hơn là cho đến nay khoa học và kỹ thuật đương đại
vẫn chưa dự báo chính xác thời điểm và địa điểm động đất sẽ xảy ra. Do
đó, con người chưa có biện pháp phòng chống chủ động đối với từng trận
động đất, như phòng chống bão hay lũ lụt. Tại hội thảo khoa học quốc tế
“Nguy cơ động đất tại Việt Nam” diễn ra 12/3/2009 tại Hà Nội, các nhà
khoa học Việt Nam và quốc tế đều khẳng định, Việt Nam nằm ở khu vực
ít có nguy cơ động đất lớn và tần suất diễn ra động đất cũng thấp. Tuy
nhiên điều đó không có nghĩa là Việt Nam sẽ tránh được những thảm họa
khi động đất diễn ra...Đảng và nhà nước rất quan tâm tới công tác dự báo
động đất, các phương pháp phòng tránh cũng như cách ứng cứu khi xảy ra
động đất nhắm giảm thiểu thiệt hại về người và của do động đất và các tai
biến gây ra.
2
II. Nội dung


1.Khái niệm:
Động đất là kết quả của hiện tượng đứt gãy thình lình sâu bên dưới mặt
đất, do sự di chuyển trái chiều của hai khối địa chất dọc theo một hệ thống
đường đứt gãy thẳng đứng hoặc trượt ngang. Động đất tại Việt Nam có kiểu
mẫu đứt gãy ngang. Nói một cách đơn giản, động đất là những rung động
của mặt đất, mạnh yếu khác nhau và cảm nhận đựơc trên một vùng rộng.
Chúng ta có thể so sánh động đất với vụ nổ bên trong lòng đất. Nhưng nói
theo ngôn ngữ khoa học, thì động đất là sự giải thoát đột ngột một lượng
năng lượng lớn tích tụ trong một thể tích nào đó bên trong Trái đất. Thể tích
tích tụ năng lượng đó gọi là vùng chấn tiêu hay lò động đất và tâm của vùng
gọi là chấn tiêu. Vị trí hình chiếu trên bề mặt của Trái đất, nằm ngay trên
chấn tiêu gọi là chấn tâm. Khoảng cách giữa chấn tiêu và chấn tâm gọi là độ
sâu chấn tiêu (hình 1 ).
3
Thời gian để năng lượng giải thoát tại vùng chấn tiêu rất ngắn, tính
bằng giây, nên ta coi động đất gần như là một sự bùng nổ tức thời. Bên
ngoài vùng chấn tiêu các biến dạng của môi trường đất đá được truyền đi
dưới dạng sóng đàn hồi và được gọi là sóng động đất. Chịu tác động của
sóng động đất đến bề mặt, mặt đất sẽ rung động. Biên độ của các rung động
nói chung nhỏ cỡ phần mười milimet và chu kỳ rung động nằm trong
khoảng 1/100 đến 100 giây. Do đó để ghi các rung động này các máy ghi
động đất phải có bộ phận khuếch đại. Sóng động đất truyền năng lượng động
đất đến các vị trí trên mặt đất (tất nhiên năng lượng sẽ giảm dần !). Đường
nối các điểm có năng lượng động đất như nhau biểu thị qua cấp động đất gọi
là đường đẳng chấn.
2. Nguyên nhân gây ra động đất
2.1. Nguyên nhân nội sinh
Động đất mạnh chỉ xảy ra trong những đới nhất định. Đó là những đới
đứt gãy địa chất sâu hoạt động, phân cách các địa khối đang vận động đối
với nhau. Đứt gãy càng lớn, chuyển động của các địa khối theo đứt gãy càng

nhanh thì động đất xảy ra trong đới càng lớn, càng thường xuyên hơn. Ở
nước ta cũng vậy, động đất mạnh hơn 4,0 độ Richter chỉ xảy ra trong những
đới đứt gãy sâu đang hoạt động. Nước ta có kiến tạo địa chất tiềm ẩn nhiều
nguy cơ động đất cao, tuy không xảy ra thường xuyên, vẫn có những trận
mạnh gây phá huỷ lớn. Việt Nam có 4 loại đứt gãy gây ra động đất
Loại 1: Gồm các đứt gãy sông Mã, Pu Mây Tun - Sốp Cộp, gắn liền
với các hệ đứt gãy cùng tên (thuộc các tỉnh: Thanh Hóa, Ninh Bình, Sơn La,
4
Lai Châu) có thể phát sinh động đất cấp 8 - cấp 9 theo thang MSK; những
trận động đất mạnh nhất trên lãnh thổ VN từng xảy ra tại đây.
Loại 2: Gồm các đứt gãy sâu Lai Châu - Điện Biên, sông Hồng, sông
Chảy, sông Cả - Rào Nậy và đứt gãy Tây biển Đông (từ vĩ tuyến 13 đến vĩ
tuyến 19), biểu hiện phát sinh động đất ở đây yếu hơn trong các đứt gãy loại
1 (loại cấp 8) nhưng trong quá khứ đã xuất hiện nhiều trận động đất mạnh.
Loại 3 (cấp 7 ): Gồm hệ đứt gãy sâu Đông Triều, dọc theo sông Lô,
Hòa Bình, Yên Bái và tại nhiều nơi thuộc khu vực từ vĩ tuyến 17 trở vào
Nam.
Loại 4 (cấp 6 ): Gồm các đứt gãy Cao Bằng - Tiên Sơn, Sông Đà,
Mường Tè, Mường Nhé, hệ đứt gãy Đăkrông - Huế, Trà Bồng, Ba Tơ -
Củng Sơn, sông Ba.
(Nguồn: Viện Vật lý Địa cầu)
5

6
Bản đồ phân bố động đất taị Việt Nam của Nhật:
Bản đồ này được làm theo mô hình, mỗi điểm là 1 tâm động đất. Gồm
các lớp 0-10km (có 323 tâm động đất), 10-30km (có 374 tâm động đất),
30-50km (có 507 tâm động đất), 50-100km (có 417 tâm động đất),
100-200km (có 119 tâm động đất):
2.2. Động lực nhân sinh

Theo các chuyên gia địa chất. Ở Việt Nam việc xảy ra động đất kích
thích ở những vùng hồ chứa lớn sau khi tích nước là hoàn toàn có khả năng.
Nguy cơ này cũng đã được nghiên cứu đánh giá cho nhiều vùng hồ như: Hòa
Bình, Sơn La, Lai Châu, Yaly…Các tính toán cho thấy các hồ chứa nói trên
khi tích đầy nước sẽ gây ứng suất gia tăng 3 - 5 bar, xấp xỉ một phần trăm
ứng suất phá hủy đá núi, ở độ sâu 3 km. Ứng suất gia tăng rất nhỏ nhưng có
thể kích thích xảy ra dịch trượt (động đất) ở những nơi ứng suất kiến tạo đã
được tích lũy đến mức tới hạn
3. Các trận động đất lớn xảy ra ở Việt Nam trong những năm gần
đây:
Trong lịch sử đã ghi nhận những trận động đất mạnh 6,7 - 6,8 độ
Richter tại khu vực Tây Bắc, trong khi ở ngoài khơi, trên thềm lục địa đông
nam đất nước cũng đã xuất hiện động đất mạnh 6,1 độ Richter. Vùng phía
Nam cũng không nằm ngoài vùng ảnh hưởng của động đất. Tính đến năm
2003, nước ta có hơn 1.600 trận động đất mạnh từ 3 độ richter trở lên
Trận động đất lớn nhất ở Việt Nam trong vòng 100 năm qua là trận
động đất 6,8 độ Richter ở Tây Nam Điện Biên Phủ xảy ra lúc 23 giờ 22 phút
7
ngày 1 tháng 11 năm 1935 với cấp động đất bề mặt là 8-9. Tại Lai Châu,
chấn động xảy ra ở cấp 7. Bản đồ đẳng chấn của trận động đất Điện Biên
năm 1935 do Robert vẽ lần đầu vào năm 1935, theo đó thì chấn động cực đại
tại vùng chấn tâm là cấp 9. Sau đó, qua công tác điều tra động đất trong nhân
dân, Nguyễn Hữu Thái đã vẽ lại vào năm 1966. Theo kết quả này thì chấn
động cực đại tại vùng chấn tâm chỉ đạt cấp 8-9 thang MSK-64. Và như vậy,
chấn cấp động đất khoảng 6,8 độ Richter, độ sâu chấn tiêu là 25 km.
1953 và 1954, tại vùng Lục Yên, Yên Bái đã xảy ra hai trận động đất
có cường độ chấn động cực đại tại vùng chấn tâm là cấp 7 (thang MSK).
Vùng chấn động cấp 7 này kéo dài tới 30 km theo hướng Tây Bắc-Đông
Nam, hẹp và trùng với đứt gãy Sông Hồng. Dựa trên cơ sở đường đẳng chấn,
các nhà địa chấn của Viện Vật lý địa chấn xác định được thông số của động

đất như sau: chấn cấp là 5,4 độ Richter, độ sâu chấn tiêu là 16 km. Hai trận
động đất này không được ghi nhận bởi mạng lưới trạm địa chấn quốc tế. Nó
được phát hiện hoàn toàn bằng công tác điều tra động đất trong nhân dân.
Đây cũng là một trong số những trận động đất mạnh nhất đã xảy ra dọc đứt
gãy Sông Hồng trong phạm vi lãnh thổ nước ta.
Ngày 12/6/1961 tại Tân Yên, cách thị xã Bắc Giang 11 km về phía
Đông Bắc. Cường độ chấn động ở vùng chấn tâm đạt cấp 7, làm hư hại vừa
một số nhà cấp 4. Vùng chấn động cấp 7 rất hẹp, trong khi vùng chấn động
cấp 6 và cấp nhỏ hơn lại rất rộng. Điều này có thể lý giải là do hiệu ứng cục
bộ của chấn tiêu nằm gần sát mặt đất. Độ sâu chấn tiêu của động đất này
được xác định là 28 km. Chấn cấp của động đất theo các nhà địa chấn Việt
Nam là 5,3 - 5,9 độ Richter, trong khi theo tài liệu của Cục Địa chấn Trung
Quốc và USGS thì chỉ nằm ở mức 4,3 - 5,0 độ Richter.
8
Năm 1968, trận động đất 5,5 độ richter xảy ra ở Nhã Nam, Yên Thế
(Bắc Giang).
Hai trận động đất xảy ra ngày 12-4-1970 và 24-5-1972 ở phía Tây thị
xã sông Cầu (Phú Yên). Đều có cường độ chấn động cấp 7 tại vùng chấn
tâm, được phát hiện bằng quan trắc động đất và cả bằng điều tra động đất
trong nhân dân. Hai chấn tâm này cách nhau 20 km theo phương kinh
tuyến, vì vậy khi điều tra khó tách biệt được đường đẳng chấn nên bị gộp lại
thành một đường đại diện chung. Độ sâu chấn tiêu 13 km và chấn cấp M =
5,3 độ Richter là đặc trưng chung cho cả hai động đất này.
9
14h18 ngày 24/6/1983 Trận động đất 6,7 độ Richter trong vùng núi
cách thị trấn Tuần Giáo ( Điện Biên ) về phía bắc khoảng 11 km. Chấn cấp
của động đất được xác định là Ms = 6,7±0,2 độ Richter. Cường độ chấn
động trong vùng cực động I
0
= 8-9 (thang MSK). Động đất gây chấn động

mạnh trên những vùng rộng lớn ở Tây Bắc Bộ, Đông Bắc Bộ, Lào và Trung
Quốc. Chấn động cấp 8 và mạnh hơn xảy ra trên diện tích 1.500 km2, cấp 7
và mạnh hơn là 13.000 km
2
. Sau chấn động chính là hàng loạt dư chấn đã
xảy ra. Dư chấn mạnh nhất xảy ra vào ngày 15/7/1983 ngay trong vùng cực
10
động và có chấn cấp bằng 5,4 độ Richter, độ sâu chấn tiêu là 8 km và gây
chấn động trên bề mặt tại vùng chấn tâm với I
0
= 7-8.
Bản đồ đường đẳng chấn của trận động đất Tuần Giáo
(*) Nơi đứt đoạn của mội trường đất đá dẫn tới sự dịch chuyển tương đối ở
hai bên.
Ngày 23/5/1989 Ở vùng hồ Hòa Bình ( tỉnh Hòa Bình) chỉ bốn tháng
sau khi tích nước hồ chứa đến cao trình 86m xảy ra trận động đất mạnh 4,9
độ richter
11

Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×