Tải bản đầy đủ (.pdf) (122 trang)

Một số biện pháp xúc tiến hàng hóa của Việt Nam sang thị trường Nhật Bản

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.72 MB, 122 trang )




BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC NGOẠI THƯƠNG
***




Nguyễn Thúy Hồng






MỘT SỐ BIỆN PHÁP XÚC TIẾN XUẤT KHẨU
HÀNG HOÁ CỦA VIỆT NAM
SANG THỊ TRƯỜNG NHẬT BẢN




LUẬN VĂN THẠC SỸ
CHUYÊN NGÀNH QUẢN TRỊ KINH DOANH












Hà nội - 2007




BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC NGOẠI THƯƠNG
***




Nguyễn Thúy Hồng




MỘT SỐ BIỆN PHÁP XÚC TIẾN XUẤT KHẨU
HÀNG HOÁ CỦA VIỆT NAM
SANG THỊ TRƯỜNG NHẬT BẢN

Chuyên ngành : Quản trị kinh doanh
Mã số : 60.34.05




LUẬN VĂN THẠC SỸ QUẢN TRỊ KINH DOANH



NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
PGS. TS. Đỗ Thị Loan








Hà nội - 2007


LỜI CẢM ƠN

Trong quá trình thực hiện Luận văn, tác giả đã nhận được sự quan tâm sâu
sắc, sự chỉ bảo ân cần, giúp đỡ chân thành và đầy tận tâm của các Giảng viên
Trường Đại học Ngoại thương, bạn bè, đồng nghiệp và những người có liên quan.
Tác giả xin chân thành cảm ơn sự giúp đỡ đó, đặc biệt xin bầy tỏ lòng biết ơn sâu
sắc tới PGS.TS. Đỗ Thị Loan - Trưởng Khoa Sau đại học Trường Đại Học Ngoại
thương là người đã gợi ý cho tác giả chọn đề tài nghiên cứu này và trực tiếp hướng
dẫn tác giả thực hiện đề tài.
Xin chân thành cảm ơn sự hợp tác quí báu và sự giúp đỡ tận tình của các cơ
quan: Trường Đại học Ngoại thương; Vụ Châu Á - Thái Bình Dương, Cục Xúc

tiến Thương mại, Bộ Thương mại; Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam
(VCCI); Viện Nghiên cứu Thương mại; Đại sứ quán Nhật Bản tại Hà Nội; Hội
Mậu dịch Nhật - Việt, Tổ chức Xúc tiến Mậu dịch Nhật Bản (JETRO) đã giúp tác
giả hoàn thành Luận văn.




MỤC LỤC
Trang
MỞ ĐẦU
1
Chương 1: TỔNG QUAN VỀ XÚC TIẾN XUẤT KHẨU
4
1.1.Khái niệm hoạt động xúc tiến xuất khẩu
4
1.1.1. Khái niệm về xúc tiến xuất khẩu
4
1.1.2. Phân loại hoạt động xúc tiến xuất khẩu
7
1.2.Vị trí và vai trò của hoạt động xúc tiến xuất khẩu
11
1.2.1 Vị trí của hoạt động xúc tiến xuất khẩu
11
1.2.2 Vai trò của hoạt động xúc tiến xuất khẩu
13
1.3. Nội dung của xúc tiến xuất khẩu
15
1.3.1 Hoạt động xúc tiến xuất khẩu ở cấp quốc gia
15

1.3.2 Hoạt động xúc tiến xuất khẩu ở cấp doanh nghiệp
19
Chương 2: THỰC TRẠNG XÚC TIẾN XUẤT KHẨU HÀNG HOÁ CỦA
VIỆT NAM SANG THỊ TRƯỜNG NHẬT BẢN
34
2.1 Vài nét về thị trường Nhật Bản
34
2.1.1 Đặc điểm của thị trường Nhật Bản
34
2.1.2 Các quy định của Nhật Bản đối với hàng nhập khẩu
38
2.2 Thực trạng hoạt động xúc tiến xuất khẩu của Việt Nam
sang thị trường Nhật Bản
44
2.2.1 Thực trạng hoạt động xúc tiến xuất khẩu hàng hoá ở cấp quốc gia
44
2.2.2 Thực trạng hoạt động xúc tiến xuất khẩu
của các tổ chức chuyên trách
53
2.2.3 Thực trạng hoạt động xúc tiến xuất khẩu hàng hoá
của các doanh nghiệp Việt Nam sang thị trường Nhật Bản
56
2.3 Đánh giá chung về hoạt động xúc tiến xuất khẩu
sang thị trường Nhật Bản
61
2.3.1. Ưu điểm
61


2.3.2. Tồn tại và nguyên nhân của tồn tại

63
Chương 3: CÁC GIẢI PHÁP XÚC TIẾN XUẤT KHẨU HÀNG HOÁ
CỦA VIỆT NAM SANG THỊ TRƯỜNG NHẬT BẢN
68
3.1 Kinh nghiệm xúc tiến xuất khẩu của một số nước trên thế giới
và bài học cho Việt Nam
68
3.1.1 Kinh nghiệm xúc tiến xuất khẩu của một số nước trên thế giới
68
3.1.2 Những bài học kinh nghiệm về xúc tiến xuất khẩu
có thể vận dụng ở Việt Nam
72
3.2 Các giải pháp xúc tiến xuất khẩu hàng hoá của Việt Nam
sang thị trường Nhật Bản
75
3.2.1 Các giải pháp về phía chính phủ, các bộ ngành
75
3.2.2 Các giải pháp về phía doanh nghiệp
86
KẾT LUẬN
98
TÀI LIỆU THAM KHẢO

PHỤ LỤC




- 1 -


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Việt Nam đã thiết lập quan hệ ngoại giao chính thức với Nhật Bản từ năm
1973. Quan hệ Việt Nam - Nhật Bản duy trì được đà phát triển thuận lợi trên mọi
lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hoá, quốc phòng, v.v… theo tinh thần thoả thuận
của lãnh đạo cấp cao về việc xây dựng quan hệ đối tác tin cậy ổn định lâu dài. Qua
chuyến thăm Nhật Bản của Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng vào trung tuần tháng
10/2006, Việt Nam và Nhật Bản đã quyết tâm đưa quan hệ lên tầm cao mới, “quan
hệ chiến lược” [18] vì hoà bình và phát triển, đặc biệt là Việt Nam và Nhật Bản đã
bắt đầu đàm phán xây dựng Đối tác liên kết kinh tế EPA vào tháng 1/2007. Chuyến
thăm Việt Nam của Thủ tướng Abe nhân dịp tham dự Hội nghị cấp cao APEC vào
tháng 11/2006 đã tiếp tục khẳng định quan hệ đối tác chiến lược Việt - Nhật.
Quan hệ kinh tế - thương mại Việt Nam - Nhật Bản phát triển nhanh chóng
và đã gặt hái được những thành quả nhất định, góp phần không nhỏ trong phát triển
kinh tế của Việt Nam. Nhật Bản không chỉ là nhà tài trợ ODA lớn nhất, mà còn là
bạn hàng thương mại và là nhà đầu tư lớn vào Việt Nam. Nhật Bản không chỉ là thị
trường nhập khẩu quan trọng, là nơi cung cấp công nghệ nguồn cho sự nghiệp công
nghiệp hoá (CNH), hiện đại hoá (HĐH) đất nước mà còn là một trong những thị
trường xuất khẩu lớn của Việt Nam trong nhiều năm. Nhật Bản là thị trường tiêu
dùng và nhập khẩu lớn trên thế giới, đặc biệt đối với hàng nông, thuỷ sản - nhóm
hàng xuất khẩu thế mạnh của Việt Nam. Hàng năm, Nhật Bản nhập khẩu khối
lượng hàng hoá trị giá khoảng 360 tỷ USD, trong đó nhập từ Việt Nam khoảng 4,7
tỷ USD, chiếm khoảng 9,5% tổng kim ngạch xuất khẩu hàng hoá của ta [11]. Hơn
nữa, hai nước lại gần gũi về mặt địa lý và có nhiều nét tương đồng về văn hoá, điều
này càng tạo nhiều thuận lợi cho Việt Nam có thể tăng cường xuất khẩu sang Nhật
Bản, đáp ứng nhu cầu ngoại tệ mạnh để nhập khẩu công nghệ nguồn và thu hút đầu
tư trực tiếp từ Nhật Bản. Thị trường Nhật Bản trong thời gian tới vẫn là một trong
ba thị trường lớn nhất thế giới, đặc biệt là đối với những mặt hàng xuất khẩu chủ
lực của Việt Nam như nông sản, thuỷ sản, hàng thủ công mỹ nghệ,v.v… .



- 2 -

Những năm cuối thế kỷ 20 và đầu thế kỷ 21, Nhật Bản đã là thị trường xuất
khẩu lớn nhất của Việt Nam, tuy nhiên vài năm gần đây vị trí này đã phải nhường
cho Hoa Kỳ. Sự suy giảm do nhiều nguyên nhân, song một nguyên nhân quan
trọng phải kể đến là Việt Nam chưa có biện pháp xúc tiến xuất khẩu thích hợp
vào thị trường Nhật Bản. Thị trường Nhật Bản tuy không còn giữ vị trí số 1
trong xuất khẩu của Việt Nam, nhưng vẫn là thị trường xuất khẩu quan trọng,
nhập khẩu rất nhiều mặt hàng của ta. Để đẩy mạnh xuất khẩu sang thị trường
này, ngoài việc nâng cao chất lượng, đa dạng hoá sản phẩm, cải tiến mẫu
mã,v.v… chúng ta cần phải đẩy mạnh hoạt động xúc tiến xuất khẩu. Nghiên cứu
sâu về các biện pháp xúc tiến xuất khẩu hàng hoá của Việt Nam sang thị trường
Nhật Bản là rất cần thiết trong bối cảnh nước ta đang thực hiện CNH, HĐH
hướng về xuất khẩu. Vì lý do đó, tác giả chọn đề tài “Một số biện pháp xúc tiến
xuất khẩu hàng hoá của Việt Nam sang thị trường Nhật Bản” làm đề tài luận
văn thạc sỹ quản trị kinh doanh.
2. Tình hình nghiên cứu
Ở Việt Nam, những năm gần đây đã có một số công trình nghiên cứu về
quan hệ thương mại Việt Nam - Nhật Bản như: Luận văn thạc sỹ kinh tế “Quan
hệ kinh tế - thương mại Việt Nam-Nhật Bản và triển vọng phát triển” của Nguyễn
Hồng Mai, Trường Đại Học Ngoại Thương, Hà Nội-1999; Luận văn thạc sỹ kinh
tế “Xúc tiến xuất khẩu mặt hàng thuỷ sản Việt Nam vào thị trường Nhật Bản”
của Cao Ngô Hồng Anh, Trường Đại học Ngoại Thương, Hà Nội-2005; Đề tài
nghiên cứu khoa học cấp bộ, Bộ Giáo dục và đào tạo: “Các giải pháp chủ yếu đẩy
mạnh hoạt động xúc tiến xuất khẩu của Việt Nam khi Việt Nam là thành viên của
WTO” TS. Phạm Thu Hương - Trường Đại học Ngoại thương làm chủ nhiệm, Hà
Nội-2005; v.v… . Tuy nhiên, chưa có công trình nghiên cứu nào đề cập một cách
toàn diện tới hoạt động xúc tiến xuất khẩu hàng hoá nói chung sang thị trường
Nhật Bản. Như vậy, cho đến nay đề tài “Một số biện pháp xúc tiến xuất khẩu

hàng hoá của Việt Nam sang thị trường Nhật Bản” vẫn là đề tài đầu tiên nghiên


- 3 -

cứu một cách đầy đủ về các biện pháp hỗ trợ và xúc tiến xuất khẩu hàng hoá của
Việt Nam vào thị trường Nhật Bản.
3. Mục đích nghiên cứu
- Hệ thống hoá cơ sở lý luận của xúc tiến xuất khẩu
- Làm rõ đặc điểm của thị trường Nhật Bản (nhu cầu, thị hiếu của người
tiêu dùng,v.v…) và các quy định của Nhật Bản đối với hàng nhập khẩu.
- Đánh giá thực trạng xúc tiến xuất khẩu hàng hoá của Việt Nam sang thị
trường Nhật Bản đến năm 2006.
- Đề xuất một số giải pháp chủ yếu nhằm xúc tiến xuất khẩu hàng hoá sang
thị trường Nhật Bản đến năm 2020.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu: Đối tượng nghiên cứu của đề tài là các hoạt động xúc
tiến xuất khẩu của các doanh nghiệp xuất khẩu Việt Nam sang thị trường Nhật Bản.
Phạm vi nghiên cứu:
- Về mặt nội dung: Đề tài chỉ nghiên cứu hoạt động xúc tiến xuất khẩu
một số nhóm hàng xuất khẩu chủ lực sang thị trường Nhật Bản và các biện
pháp xúc tiến xuất khẩu hàng hoá sang thị trường Nhật Bản, không nghiên cứu
mảng dịch vụ.
- Về mặt thời gian: Đề tài nghiên cứu hoạt động xúc tiến xuất khẩu hàng
hoá sang thị trường Nhật Bản đến năm 2006.
5. Phương pháp nghiên cứu
- Thu thập tài liệu, số liệu liên quan đến hoạt động xúc tiến xuất khẩu hàng
hoá của Việt Nam sang thị trường Nhật Bản.
- Phân tích, tổng hợp, thống kê số liệu
- Xin ý kiến chuyên gia.

6. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và tài liệu tham khảo, nội dung của luận văn
được chia thành 3 chương:
- Chương 1: Tổng quan về xúc tiến xuất khẩu (XTXK)


- 4 -

- Chương 2: Thực trạng XTXK hàng hoá của Việt Nam sang thị trường Nhật Bản
- Chương 3: Các giải pháp XTXK hàng hoá của Việt Nam sang thị trường
Nhật Bản


- 5 -

Chương 1
TỔNG QUAN VỀ XÚC TIẾN XUẤT KHẨU
1.1. KHÁI NIỆM HOẠT ĐỘNG XÚC TIẾN XUẤT KHẨU
1.1.1. Khái niệm về xúc tiến xuất khẩu
Theo Philip Kotler trong Marketing cơ bản “xúc tiến là hoạt động thông tin
tới khách hàng tiềm năng. Đó là các hoạt động trao truyền, chuyển tải tới khách
hàng những thông tin cần thiết về doanh nghiệp, sản phẩm của doanh nghiệp,
phương thức phục vụ và những lợi ích khác mà khách hàng có thể thu được từ
việc mua sản phẩm hay dịch vụ của doanh nghiệp cũng như những thông tin phản
hồi lại từ phía khách hàng để từ đó doanh nghiệp tìm ra cách thức tốt nhất nhằm
thoả mãn yêu cầu của khách hàng”.
Theo Điều 3 giải thích từ ngữ của luật Thương mại Việt Nam được Quốc
hội nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam khoá XI, kỳ họp thứ 7 thông qua
ngày 14/6/2005 thì “Xúc tiến thương mại là hoạt động thúc đẩy, tìm kiếm cơ hội,
mua bán hàng hoá và cung ứng dịch vụ, bao gồm hoạt động khuyến mại, quảng

cáo thương mại, trưng bày, giới thiệu hàng hoá, dịch vụ và hội chợ, triển lãm
thương mại.”
Trong tạp chí của Trung tâm xúc tiến nhập khẩu từ các nước đang phát
triển (CBI) Hà lan tháng 12/1993, Ông H.H.Leerrenveld, Giám đốc điều hành đã
viết “Xúc tiến xuất khẩu là những dịch vụ được chính phủ của một nước cung cấp
để đáp ứng nhu cầu của các nhà xuất khẩu với mục tiêu nhằm đẩy mạnh sự tăng
trưởng xuất khẩu” [7].
Xúc tiến xuất khẩu được coi là việc xây dựng và triển khai thực hiện các
chiến lược xuất khẩu quốc gia, là nội dung chính của hoạt động xúc tiến thương
mại và nhấn mạnh các giải pháp về xúc tiến xuất khẩu - Theo ITC.
Xúc tiến thương mại (XTTM) và xúc tiến xuất khẩu (XTXK)
Dưới giác độ kinh doanh quốc tế, XTTM bao gồm XTXK, xúc tiến nhập
khẩu, xúc tiến đầu tư. Do vậy, có thể nói XTXK là một bộ phận chính, một hoạt


- 6 -

động cơ bản trong tổng thể hoạt động XTTM. Nhưng trên thực tế, vào những thời
kỳ nhất định, ở những không gian nhất định và trong những môi trường kinh
doanh cụ thể, hoạt động XTXK lại được đồng nhất với hoạt động XTTM: Trên
phạm vi toàn thế giới ở đó diễn ra hoạt động trao đổi thương mại giữa các quốc
gia thì XTTM, XTXK, hay XTNK chỉ là một với mục đích làm tăng khối lượng
và trị giá trao đổi thương mại của thế giới; Thực tiễn hoạt động XTTM của Nhật
Bản những năm 50 và 60, của Hàn Quốc những năm 60 và 70 của thế kỷ XX và
của các nước đang phát triển, các nước chuyển đổi nền kinh tế ngày nay, cũng
chính là thực tiễn XTXK của các nước này vì mọi nỗ lực của Chính phủ, của các
tổ chức hỗ trợ thương mại và các doanh nghiệp ở các nước này đều tập trung cho
mục tiêu đẩy mạnh xuất khẩu.
Trên thực tế, các nước đang phát triển quan tâm nhiều hơn tới hoạt động
XTXK để nhằm mục đích thu ngoại tệ, cân bằng cán cân thương mại và có ngoại

tệ để nhập khẩu công nghệ nguồn thực hiện công cuộc CNH, HĐH đất nước,
trong khi các nước phát triển thì chú trọng nhiều hơn tới hoạt động xúc tiến nhập
khẩu và xúc tiến đầu tư để nhập khẩu nguyên vật liệu với giá rẻ hơn và/hoặc
chuyển dần việc sản xuất sang các nước đang phát triển.
Trong điều kiện cụ thể của Việt Nam hiện nay, nước ta đang thực hiện đường
lối đổi mới, chủ động hội nhập kinh tế quốc tế nhằm phát triển nhanh nền kinh tế và
đẩy nhanh sự nghiệp CNH, HĐH, trọng tâm của hoạt động XTTM là phải đẩy mạnh
xuất khẩu làm động lực cho tăng trưởng kinh tế. Việc thực hiện thắng lợi các chỉ tiêu
tăng trưởng xuất khẩu hàng năm đạt 16% cho thời kỳ 2001-2005 và nhịp độ tăng xuất
khẩu hàng năm gấp trên 2 lần nhịp độ tăng trưởng GDP thời kỳ 2001-2010 [6] đòi hỏi
phải đẩy mạnh XTXK trong phạm vi các cơ quan Nhà nước, các doanh nghiệp và toàn
xã hội. Thời kỳ 2006-2010, trọng tâm của hoạt động XTTM của Việt Nam vẫn là
XTXK vì để đạt được mục tiêu đặt ra trong Đề án Phát triển xuất khẩu 2006-2010 là
“kim ngạch xuất khẩu của cả nước tăng trung bình 17,5%/năm”. Ngay cả hoạt động
XTTM của Cục Xúc tiến thương mại - cơ quan đầu mối trong hoạt động XTTM
quốc tế hiện nay của Việt Nam cũng chủ yếu nhằm vào đẩy mạnh xuất khẩu. Có


- 7 -

thể nói, tại thời điểm hiện nay và trong vòng hai mươi năm tới, hoạt động XTXK
vẫn là trọng tâm của hoạt động XTTM ở Việt Nam.
Xúc tiến xuất khẩu và marketing xuất khẩu
Quan niệm marketing hiện đại coi thị trường là khâu quan trọng nhất của
quá trình tái sản xuất hàng hoá, nhu cầu của thị trường là mục tiêu của sản xuất
kinh doanh và thoả mãn nhu cầu của thị trường là yếu tố quyết định sự thành công
của một tổ chức sản xuất kinh doanh. Cụ thể, muốn sản phẩm của mình tiêu thụ
được trên thị trường, nhà sản xuất phải tiến hành nghiên cứu thị trường, xác định
nhu cầu của người tiêu dùng và chỉ tiến hành sản xuất những mặt hàng mà thị
trường cần trong hiện tại và trong tương lai. Theo nhà kinh tế Philip Kotler

“marketing là hoạt động nhằm vào việc thoả mãn nhu cầu và mong muốn của của
con người thông qua trao đổi hàng hoá và dịch vụ”; tức là mục tiêu của hoạt động
marketing là nhu cầu và mong muốn của con người còn trao đổi là phương tiện để
thực hiện mục tiêu.
Nội dung cơ bản của marketing hiện đại là nghiên cứu, xác định nhu cầu
hiện tại, phát hiện nhu cầu tiềm năng của thị trường và điều chỉnh dòng hàng hoá
và dịch vụ lưu thông thuận lợi nhất, đạt hiệu quả cao nhất từ nhà sản xuất tới
người tiêu thụ nhằm thoả mãn các nhu cầu. Đó là các chính sách về sản phẩm, về
giá cả, về kênh phân phối và xúc tiến bán hàng hay còn được gọi là chiến lược và
chính sách marketing hỗn hợp. Nếu dịch từ tiếng Anh thuần tuý thì “marketing”
có nghĩa là tạo dựng và phát triển thị trường cho một sản phẩm hàng hoá hay dịch
vụ, là vấn đề sống còn đối với một doanh nghiệp sản xuất kinh doanh trong điều
kiện nền kinh tế thị trường.
Theo các học giả phương Tây, marketing quốc tế có thể được tách thành
một bộ môn khoa học riêng biệt so với bộ môn marketing chung và bao trùm
nhiều khả năng của hoạt động kinh doanh quốc tế như: marketing xuất khẩu; đầu
tư quốc tế; liên doanh; hợp doanh mua bán bản quyền,v.v .Như vậy, Marketing
xuất khẩu là một bộ phận trong tổng thể hoạt động marketing và là một khả năng
chiến lược trong marketing quốc tế của một tổ chức hay doanh nghiệp.


- 8 -

Hiện nay trên thế giới có nhiều định nghĩa về XTXK, định nghĩa chung
không nhắc tới chủ thể của XTXK như sau “XTXK là các hoạt động được thiết kế
để tăng xuất khẩu của một đất nước hay một doanh nghiệp", còn định nghĩa mang
tính tổng quát: “XTXK là chiến lược phát triển kinh tế nhấn mạnh đến việc mở
rộng xuất khẩu thông qua các biện pháp chính sách khuyến khích, hỗ trợ cao nhất
cho hoạt động xuất khẩu”.
Tóm lại, có thể nói trọng tâm hoạt động XTTM hiện nay và trong vài thập

kỷ tới ở Việt Nam là XTXK, hoạt động này bao trùm lên hoạt động marketing
xuất khẩu và nhằm mục đích đẩy mạnh xuất khẩu của đất nước, vì vậy việc
nghiên cứu XTXK ở Việt Nam phải đi liền với việc nghiên cứu phân tích hoạt
động xuất khẩu của đất nước.
1.1.2. Phân loại hoạt động xúc tiến xuất khẩu
Hoạt động XTXK có thể được phân loại dựa trên nhiều tiêu chí: (1) Mục
đích và nội dung các lĩnh vực cụ thể của XTXK: thông tin, nghiên cứu thị trường,
marketing, quảng cáo, hội chợ triển lãm,v.v ; (2) Các chủ thể của XTXK, gồm:
Nhà nước, các tổ chức hỗ trợ thương mại (Trade Support Institution - TSIs), các
doanh nghiệp ; (3) Không gian của hoạt động XTXK: XTXK ở trong nước
(onshore), XTXK ở nước ngoài (offshore); v.v .
1.1.2.1. Xúc tiến xuất khẩu quốc tế
Môi trường thương mại quốc tế ngày nay đã có những thay đổi căn bản:
Thứ nhất, xu thế mạnh mẽ của toàn cầu hoá, khu vực hoá và tự do hoá thương
mại; Thứ hai, giao lưu quốc tế trở nên nhanh chóng và dễ dàng hơn (cuộc cách
mạng công nghệ thông tin và phát triển mạng internet vào những năm 90); Thứ
ba, những xu hướng thị trường mới (các khối thương mại thay đổi, luồng di
chuyển hàng hoá, dịch vụ và vốn thay đổi, giảm khả năng can thiệp của chính phủ
các nước tới những thay đổi này),v.v . Tất cả đều ảnh hưởng tới hoạt động
XTTM trên phạm vi toàn thế giới.
Các tổ chức kinh tế thuộc Liên hiệp quốc, các thể chế kinh tế thương mại
toàn cầu và các tổ chức phi chính phủ trên thế giới đều thực hiện xúc tiến phát


- 9 -

triển thương mại tự do và coi tự do hoá thương mại như một công cụ đảm bảo cho
hoà bình và sự phát triển thịnh vượng của thế giới tương lai. Có thể kể tới Tổ
chức Thương mại Thế giới (WTO) - thể chế khung của thương mại toàn cầu, nền
tảng pháp lý của thương mại đa biên và cơ sở pháp lý của các hiệp định thương

mại song biên,v.v . Trung tâm thương mại quốc tế - ITC, cơ quan chức năng
XTTM trực thuộc WTO và UNCTAD, Phòng Thương mại quốc tế - ICC, tổ chức
của giới kinh doanh thế giới,v.v .
Các môi trường tác động đến XTXK quốc tế bao gồm:
Một yếu tố khách quan hết sức quan trọng có ảnh hưởng đến sự thành công của
việc thực hiện XTXK ở một quốc gia, đó là yếu tố môi trường kinh doanh quốc tế.
Môi trường kinh doanh quốc tế có thể tạo thuận lợi hay gây rất nhiều khó khăn cho
việc thực hiện XTXK của mỗi quốc gia. Ví dụ, nền kinh tế thế giới đang ở trong giai
đoạn tăng trưởng của chu kỳ kinh tế, điều này sẽ khuyến khích nhu cầu và sức mua
của người tiêu dùng thế giới và do vậy có tác động rất lớn tới việc tăng xuất khẩu của
một nước. Các quy tắc, luật lệ điều chỉnh trao đổi thương mại quốc tế và các chính
sách thương mại của các quốc gia ảnh hưởng rất lớn tới kết quả thực hiện XTXK của
một quốc gia. Nhìn chung, chủ nghĩa bảo hộ quốc tế sẽ gây rất nhiều khó khăn cho
việc thực hiện XTXK của một quốc gia, trái lại, chính sách tự do hoá thương mại sẽ
tạo nhiều thuận lợi cho một quốc gia thực hiện XTXK.
Môi trường kinh tế của một nước nói lên các đặc điểm của thị trường đó
như nhu cầu thị hiếu của người tiêu dùng, khả năng tiêu thụ hàng hoá, qui mô của
thị trường, hệ thống phân phối, mô hình và cơ cấu tiêu dùng,v.v .
Môi trường chính trị và pháp luật của các nước khác nhau rất đa dạng và
phức tạp. Khi hàng hoá được xuất khẩu phải tuân thủ luật pháp và các qui định
của nước ngoài. Nếu không nghiên cứu kỹ lưỡng các thông tin liên quan về vấn
đề này, công tác XTXK sẽ gặp nhiều trở ngại. Đơn cử như sản phẩm may mặc lưu
thông trên thị trường Nhật Bản phải tuân thủ các quy định của Luật Nhãn mác
hàng tiêu dùng, Luật Kiểm soát các chất có hại trong hàng tiêu dùng, Luật Cấm
đưa những thông tin sai lệch trong quảng cáo, các quy định của Luật Bao gói và


- 10 -

tái sử dụng bao bì cũng như Luật về Khuyến khích sử dụng hiệu quả các nguồn

tài nguyên. Luật cấm đưa những thông tin sai lệch trong quảng cáo bao gồm cả
những quy định về xuất xứ hàng may mặc. Những sản phẩm ghi sai xuất xứ cũng
như nhãn mác sẽ bị cấm nhập khẩu vào thị trường Nhật Bản.
Môi trường văn hoá của mỗi quốc gia đều mang bản sắc riêng, ngay cả
trong một quốc gia cũng có sự khác biệt giữa các vùng, miền. Các vấn đề về văn
hoá và truyền thống đã ăn sâu vào tiềm thức về giá trị Nhật Bản đến nỗi không
thể bỏ qua được trong từng việc cụ thể. Mỗi một cố gắng thay đổi trong thói quen
đều bị xem như là làm ảnh hưởng đến văn hoá. Tại Nhật, nhìn chung thông điệp
bằng ngôn ngữ hay quảng cáo bằng hình ảnh trên các hệ thống phương tiện thông
tin đại chúng như: báo ảnh, tuần báo, đặc san, hệ thống các kênh truyền hình
cable v.v được đánh giá là có hiệu quả quảng cáo vì có thể nhằm vào đúng đối
tượng khách hàng. Từ sự khác biệt về môi trường văn hoá và công nghiệp nên có
một số mặt hàng có thể chưa xuất hiện tại thị trường Nhật Bản. Vì thế, việc cung
cấp thông tin về công dụng của sản phẩm, cách sử dụng, đặc trưng, chất lượng
của sản phẩm trở nên rất quan trọng.
Ngoài những yếu tố cơ bản nêu trên, còn một số yếu tố môi trường khác
cần phải lưu tâm như môi trường địa lý, công nghệ, xã hội,v.v . Nhiệm vụ của
các tổ chức làm công tác XTXK là phải nghiên cứu kỹ thị trường, am hiểu rõ
những yếu tố môi trường tác động tới kinh doanh quốc tế, cung cấp cho các
doanh nghiệp thông tin chi tiết trước khi thâm nhập vào thị trường đó.
1.1.2.2- Xúc tiến xuất khẩu cấp quốc gia
Trên bình diện quốc gia, có sự tham gia XTXK của Nhà nước (Chính phủ)
và các TSIs. Hoạt động XTXK của Chính phủ nhằm tạo môi trường pháp lý, khoa
học kỹ thuật, kinh tế, văn hoá - xã hội thuận lợi cho hoạt động XTXK và xuất
khẩu, chỉ đạo, điều phối và hướng dẫn, giúp đỡ các doanh nghiệp và các tổ chức
hỗ trợ thương mại đẩy mạnh và nâng cao hiệu quả hoạt động XTXK và marketing
xuất khẩu, trực tiếp tiến hành các hoạt động XTXK hay cung cấp dịch vụ
XTXK,v.v . Các TSIs phối hợp hoạt động trong mạng lưới XTTM quốc gia và



- 11 -

cung cấp dịch vụ hỗ trợ kinh doanh, XTTM cho các doanh nghiệp và các khách
hàng có yêu cầu,v.v .
Có thể nói XTXK của Chính phủ là những biện pháp chính sách của Nhà
nước có tác động trực tiếp hay gián tiếp khuyến khích hoạt động xuất khẩu của
các doanh nghiệp, của các ngành và của đất nước. Mục đích của XTXK của
Chính phủ là khuyến khích, thúc đẩy xuất khẩu của đất nước thông qua việc áp
dụng các biện pháp và chính sách cần thiết. Đối tượng tác động của XTXK của
Chính phủ là các doanh nghiệp, các ngành sản xuất hàng hoá và cung cấp dịch vụ
cho xuất khẩu, các thể chế và các tổ chức hỗ trợ thương mại của đất nước, các thị
trường và các nhà nhập khẩu nước ngoài.
Vị trí, vai trò của XTXK Chính phủ quan trọng đến mức nào còn tuỳ vào
hệ thống, cơ chế quản lý kinh tế, trình độ phát triển kinh tế xã hội, nhận thức
chung của mỗi quốc gia về XTXK,v.v . Ở nhiều nước công nghiệp phát triển,
XTXK Chính phủ chủ yếu giữ vai trò thuận lợi hoá thương mại; trái lại, ở các
nước đang phát triển và các nước chuyển đổi nền kinh tế, XTXK Chính phủ có
khi lại giữ vai trò quan trọng quyết định đối với việc phát triển xuất khẩu của đất
nước. Điều này đã từng xảy ra đối với các nước như Hàn Quốc, Đài loan,
Xinhgapo,v.v .
Trong điều kiện của Việt Nam hiện nay, đất nước đang tiến hành công cuộc
“Đổi mới”, mở cửa nền kinh tế, hội nhập vào nền kinh tế khu vực và thế giới, xây
dựng nền kinh tế thị trường, XTXK là lĩnh vực hoạt động còn rất mới mà yêu cầu
đẩy mạnh xuất khẩu lại cực kỳ bức bách, vì vậy XTXK Chính phủ phải giữ vị trí
quan trọng nhất. Cụ thể, Chính phủ phải là người tiên phong và giữ vai trò lãnh
đạo hoạt động XTXK của đất nước, thống nhất quản lý các hoạt động này, tạo
môi trường và mọi điều kiện thuận lợi cho việc phát triển hoạt động XTXK, đồng
thời trực tiếp tiến hành các hoạt động XTXK.
Chính phủ Việt Nam đã có vai trò quan trọng hình thành lên mạng lưới
XTTM quốc gia. Mạng lưới này thể hiện mối quan hệ làm việc mới giữa XTXK

của Chính phủ với XTXK của các tổ chức hỗ trợ thương mại và cộng đồng doanh


- 12 -

nghiệp dưới sự lãnh đạo, chỉ đạo và thống nhất điều phối của XTXK Nhà nước,
các TSIs và các doanh nghiệp được tạo điều kiện và môi trường thuận lợi, được
sự hướng dẫn và hỗ trợ kỹ thuật và tài chính của Nhà nước để tiến hành hoạt động
XTXK, việc cung cấp dịch vụ XTXK chuyên môn dựa trên cơ sở của pháp luật về
XTXK, đảm bảo sự công bằng và bình đẳng, đảm bảo cạnh tranh lành mạnh giữa
các TSIs thuộc mọi thành phần kinh tế,v.v .
Hệ thống mạng lưới tổ chức XTXK đã bước đầu được hình thành ở Việt
Nam với các thành phần là các Tổ chức xúc tiến thương mại (Trade Promotion
Organizations – TPOs) Chính phủ, các TPOs phi Chính phủ cùng các doanh
nghiệp cung cấp dịch vụ hỗ trợ kinh doanh, các doanh nghiệp sản xuất và kinh
doanh xuất khẩu. Các TPOs đã bước đầu phát huy tác dụng và đã có những đóng
góp thiết thực hỗ trợ các doanh nghiệp Việt Nam thâm nhập thị trường Nhật Bản,
nâng cao khả năng cạnh tranh của hàng hoá và doanh nghiệp, đẩy mạnh xuất khẩu
hàng hoá sang thị trường Nhật Bản.
1.1.2.3. Xúc tiến xuất khẩu ở cấp doanh nghiệp
Để thực hiện được hoạt động xuất khẩu, trước hết đòi hỏi doanh nghiệp
phải nghiên cứu thị trường xuất khẩu cho sản phẩm hay dịch vụ của mình. Nghiên
cứu thị trường là quá trình điều tra thị trường để tìm kiếm cơ hội bán hàng hay là
để phát hiện nhu cầu của thị trường (nhu cầu hiện tại và nhu cầu tiềm năng) và
tìm ra các cách thức, biện pháp để biến các cơ hội bán hàng đó thành hiện thực
nhằm mục đích thu được lợi nhuận tối đa.
Các bản báo cáo kết quả nghiên cứu thị trường cung cấp cơ sở khoa học và
độ tin cậy cho việc xây dựng và thực hiện các chiến lược và chính sách marketing
hỗn hợp về sản phẩm, giá cả, phân phối và xúc tiến.
Khi đã thâm nhập thị trường thành công, việc củng cố và mở rộng thị phần,

phát triển kinh doanh xuất khẩu đòi hỏi doanh nghiệp xuất khẩu phải coi việc
triển khai các chiến lược và chính sách nghiên cứu phát triển, chính sách đầu tư,
phát triển công nghệ mới, đa dạng hoá sản phẩm và thị trường xuất khẩu,v.v là
mục tiêu hoạt động chính của mình.


- 13 -

Để làm được như vậy, các doanh nghiệp phải thực hiện các biện pháp
XTXK có hiệu quả - chính là việc sử dụng các công cụ XTXK như quảng cáo, hội
chợ triển lãm, xúc tiến bán hàng, quan hệ công chúng…
1.2 VỊ TRÍ VÀ VAI TRÒ CỦA HOẠT ĐỘNG XÚC TIẾN XUẤT KHẨU
1.2.1 Vị trí của hoạt động xúc tiến xuất khẩu
Xúc tiến xuất khẩu giữ vị trí quan trọng trong việc thực hiện mục tiêu đẩy
mạnh xuất khẩu, thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội đất nước: XTXK có chức
năng cơ bản là khuyến khích, thúc đẩy xuất khẩu. Do vậy, hoạt động XTXK có vị
trí quan trọng như thế nào là tuỳ thuộc vào nhu cầu và yêu cầu cần đạt được của
một quốc gia hay một doanh nghiệp đối với các mục tiêu xuất khẩu. XTXK sẽ có
vị trí đặc biệt quan trọng đối với một đất nước vào thời kỳ mà nước đó chủ trương
phát triển kinh tế hướng ngoại, nói cách khác là nước đó muốn thực hiện CNH,
HĐH theo định hướng xuất khẩu. Trong giai đoạn phát triển hiện nay của Việt
Nam, nước ta đang tiến hành công cuộc Đổi mới nền kinh tế và chủ động hội
nhập với kinh tế thế giới và khu vực thì vị trí quan trọng của hoạt động XTXK là
không phải bàn cãi. Do tầm quan trọng của hoạt động XTXK trong việc thực hiện
chiến lược CNH, HĐH đất nước, Bộ luật Thương mại được Quốc hội nước Cộng
hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam khoá IX, kỳ họp thứ 11 thông qua ngày 10 tháng
5 năm 1997 đã có những quy định cơ bản điều chỉnh hoạt động này. Hơn nữa,
trong các Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VII, VIII, IX và các chiến
lược phát triển kinh tế - xã hội 10 năm 1991-2000 và 2001-2010 đã được Quốc
hội thông qua, đẩy mạnh xuất khẩu luôn được coi là một trong những hoạt động

kinh tế trọng yếu của đất nước. Trong công tác chỉ đạo điều hành nền kinh tế đất
nước hiện nay, Chính phủ luôn theo dõi chặt chẽ tình hình xuất khẩu của đất nước
và có các giải pháp kịp thời nhằm thực hiện tốt các mục tiêu phát triển xuất khẩu
đã được đề ra,v.v .
XTXK giữ vị trí mở đường cho một doanh nghiệp tham gia thị trường
quốc tế: Hoạt động XTXK ở một doanh nghiệp chính là hoạt động marketing xuất
khẩu của doanh nghiệp đó. Đó là các hoạt động mà một doanh nghiệp cần phải


- 14 -

tiến hành khi muốn thâm nhập thị trường quốc tế gồm : Nghiên cứu thị trường
xuất khẩu để tìm ra các thị trường và khách hàng tiềm năng, nắm bắt được các
đặc điểm và xu hướng phát triển của các thị trường, khách hàng tiềm năng đó;
Xây dựng và thực hiện các chiến lược marketing xuất khẩu hỗn hợp (chiến lược
bốn “P” nhằm thâm nhập thành công thị trường xuất khẩu). Nếu không có các
hoạt động này (hoặc là doanh nghiệp tự tiến hành, hoặc là doanh nghiệp trông cậy
vào sự hỗ trợ và giúp đỡ của Nhà nước và các tổ chức hỗ trợ xuất khẩu khác) thì
doanh nghiệp sẽ không thể xuất khẩu được. Chính vì vậy, XTXK sẽ khai thông
con đường gia nhập thị trường quốc tế của doanh nghiệp. Hơn nữa, việc tiến hành
các hoạt động XTXK với mục đích tạo dựng và phát triển thị trường xuất khẩu
cho doanh nghiệp ngày càng củng cố vị trí là một trong những hoạt động chính
yếu nhất của doanh nghiệp trong môi trường toàn cầu hoá và cạnh tranh ngày
càng trở nên khốc liệt hiện nay.
1.2.2 Vai trò của hoạt động xúc tiến xuất khẩu
Hoạt động XTXK giữ vai trò là động lực thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội đất
nước: XTXK hiện đại, với những nội dung hoạt động mới, nhất là việc xây dựng
và thực hiện chiến lược xuất khẩu quốc gia, các chiến lược xuất khẩu ngành sẽ tạo
ra những động lực và những nhân tố mới thúc đẩy xuất khẩu trong môi trường
kinh doanh quốc tế ngày càng trở nên cạnh tranh khốc liệt.

Đối với Việt Nam, hoạt động XTXK trong giai đoạn hiện nay đóng một vai
trò khá quan trọng trong việc thực hiện các kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội nói
chung và đẩy mạnh xuất khẩu nói riêng. Hiện nay, nước ta đang chuyển dần từ một
nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung sang một nền kinh tế đa thành phần, vận hành
theo cơ chế thị trường và mở cửa hội nhập với thế giới. Sự chuyển đổi và mở cửa hội
nhập này đang và sẽ tạo ra cho các doanh nghiệp Việt Nam những cơ hội to lớn để
phát triển kinh doanh, mở rộng thị trường và đẩy mạnh xuất khẩu. Đồng thời, chính
sự chuyển đổi và mở cửa này cũng đặt ra những thách thức không nhỏ cho các
doanh nghiệp Việt Nam bởi họ đang và sẽ phải cạnh tranh gay gắt và bình đẳng với
nhau và với các doanh nghiệp nước ngoài mạnh hơn gấp nhiều lần không những


- 15 -

trong xuất khẩu mà còn ngay cả trên thị trường nội địa. Do vậy hoạt động XTXK
đang và sẽ đóng vai trò quan trọng đối với sự tồn tại và phát triển của các doanh
nghiệp.
Mặt khác, quá trình đổi mới và mở cửa nói trên của Việt Nam mới chỉ được
thực hiện trong hơn mười năm trở lại đây, cho nên trên thế giới cũng còn không ít
người chưa biết đến những thay đổi và phát triển gần đây ở nước ta hoặc chưa
nghĩ đến Việt Nam là một thị trường thương mại và đầu tư. Ngoài ra, hàng xuất
khẩu của ta, nhất là hàng công nghiệp vẫn còn chưa có tên tuổi và uy tín trên thị
trường thế giới. Do vậy, việc xây dựng hình ảnh Việt Nam là một thị trường tiềm
năng về thương mại và đầu tư cũng như tuyên truyền và giới thiệu hàng Việt Nam
trên thị trường thế giới hiện nay càng trở nên quan trọng và đòi hỏi sự nỗ lực lớn
của cả cộng đồng doanh nghiệp và chính phủ.
Hơn nữa, trong điều kiện nước ta hiện nay, do sức mua trong nước còn thấp,
nên việc tăng cường hoạt động XTXK sẽ góp phần quan trọng để giải quyết đầu ra
cho sản xuất, đặc biệt là trong những lĩnh vực hiện đang và/hoặc có nguy cơ thừa
năng lực sản xuất như một số mặt hàng nông sản và trong ngành may mặc, giầy dép,

thủ công mỹ nghệ,v.v…Duy trì được nhịp độ tăng trưởng xuất khẩu là một trong
những yếu tố quyết định để duy trì nhịp độ tăng trưởng GDP cao, giảm bớt những
sức ép về việc làm qua đó góp phần xoá đói giảm nghèo và nâng cao đời sống nhân
dân.
XTXK giúp cho doanh nghiệp tham gia xuất khẩu thành công, đảm bảo
hiệu quả hoạt động xuất khẩu và góp phần nâng cao khả năng cạnh tranh của
doanh nghiệp ở cả thị trường trong nước và quốc tế. Tham gia xuất khẩu là mong
muốn của nhiều doanh nghiệp vì trước hết, xuất khẩu tạo ra các cơ hội cho doanh
nghiệp đạt được quy mô kinh tế cần thiết, do đó mà tiết kiệm được chi phí, đảm
bảo hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp cả ở thị trường nội
địa và xuất khẩu. Thứ hai, thông qua xuất khẩu, doanh nghiệp thực hiện việc đa
dạng hoá thị trường đảm bảo sự phát triển ổn định, tránh những rủi ro có thể phát
sinh khi bị phụ thuộc quá mức vào một thị trường. Thứ ba, tham gia xuất khẩu,


- 16 -

doanh nghiệp sẽ cọ xát với cạnh tranh khốc liệt và trở nên mẫn cảm hơn với các
đặc điểm văn hoá và cấu trúc của các thị trường để có thể cạnh tranh thắng lợi.
Cuối cùng, xuất khẩu là một trong những khả năng chiến lược marketing quốc tế,
từ xuất khẩu sẽ mở ra các khả năng chiến lược khác như đầu tư, liên doanh,v.v để
doanh nghiệp có thể tồn tại và phát triển bền vững.
XTXK là hoạt động không thể thiếu trong nền kinh tế thị trường. Ở cấp
doanh nghiệp, thực tế không một doanh nghiệp xuất khẩu nào không tiến hành
các hoạt động phát triển xuất khẩu nói chung và XTXK nói riêng dưới hình thức
này hay hình thức khác và ở mức độ này hay mức độ khác. Để có thể tồn tại và
phát triển trong cơ chế cạnh tranh, các doanh nghiệp luôn luôn phải nghiên cứu
phát triển/ cải tiến sản phẩm để đáp ứng nhu cầu thay đổi này càng nhanh chóng
của thị trường cũng như tiến hành các hoạt động tuyên truyền, quảng cáo và
khuyến mại sản phẩm hàng hoá và dịch vụ. Trong bối cảnh tự do hoá thương mại

toàn diện hiện nay, khi mà hàng hoá và dịch vụ được chào bán trên thị trường rất
dồi dào và phong phú và người mua là “vua”, thì hàng hoá và dịch vụ dù tốt và rẻ
đến mấy nhưng nếu không được người tiêu dùng biết đến thì cũng không thể bán
được. Cũng chính vì vậy mà các doanh nghiệp phải chi phí ngày cành lớn cho các
hoạt động Marketing. Ở các nước phát triển chi phí marketing chung chiếm
khoảng 50% trị giá tiêu dùng. Đối với một số hàng hoá và dịch vụ tỷ lệ này còn
cao hơn. ở Việt Nam, tuy không biết tỷ lệ này hiện nay cụ thể là bao nhiêu, song
một điều chắc chắn là chi phí marketing của các doanh nghiệp ngày càng tăng
trong những năm gần đây.
Cũng xuất phát từ những nhu cầu của doanh nghiệp, ở nền kinh tế thị
trường nào cũng có các hiệp hội sản xuất và kinh doanh, các phòng thương mại
và công nhiệp, các tổ chức và công ty dịch vụ thông tin, nghiên cứu thị trường, tư
vấn kinh doanh, tư vấn pháp luật, quảng cáo và hội chợ triển lãm,v.v để hỗ trợ
và cung cấp dịch vụ cho các doanh nghiệp trong các hoạt động XTXK nói trên.


- 17 -

1.3. NỘI DUNG CỦA XÚC TIẾN XUẤT KHẨU
1.3.1. Hoạt động xúc tiến xuất khẩu ở cấp quốc gia
1.3.1.1. Điều hành và tổ chức xúc tiến xuất khẩu
Nhà nước (Chính phủ) điều hành và tổ chức hoạt động XTXK được thể
hiện qua việc Nhà nước xây dựng khuôn khổ pháp lý điều tiết hoạt động này và
tạo môi trường thuận lợi cũng như cung cấp các phương tiện hỗ trợ để công tác
XTXK thực sự có hiệu quả và có tác động thiết thực tới việc đẩy mạnh xuất khẩu.
Cụ thể:
- Tạo dựng và hoàn thiện môi trường pháp lý theo cơ chế thị trường điều
chỉnh hoạt động XK và XTXK của Việt Nam; Lãnh đạo, chỉ đạo, hướng dẫn, điều
phối hoạt động XTXK của đất nước trong mạng lưới XTXK quốc gia.
- Thực hiện XTXK sản phẩm thông qua những biện pháp hỗ trợ gián tiếp

hay trực tiếp, có tác động lâu dài tới việc cung cấp sản phẩm xuất khẩu đáp ứng
yêu cầu của thị trường quốc tế hay có tác động trước mắt làm tăng nhu cầu đối
với sản phẩm xuất khẩu của một nước ở thị trường nước ngoài.
- Thành lập các cơ quan Chính phủ thực hiện hoạt động XTXK: Cục Xúc
tiến thương mại - XTTM, các trung tâm, phòng XTTM ở các tỉnh, thành, các địa
phương, các Đại diện thương mại Việt Nam ở nước ngoài đều trực tiếp tiến hành
các hoạt động XTXK và là lực lượng nòng cốt trong mạng lưới XTXK quốc
gia,v.v . Các Tổ chức XTTM này được thành lập để xúc tiến các chính sách
thương mại quốc gia nhằm đạt được các mục tiêu của chiến lược phát triển kinh tế
và giải quyết vấn đề lợi ích quốc gia.
- Đàm phán và ký kết các hiệp định song phương và đa phương tạo điều kiện
tiếp cận thị trường rộng hơn cho các nhà xuất khẩu và các sản phẩm xuất khẩu.
- Xây dựng và tổ chức mạng lưới thông tin quốc gia đáp ứng yêu cầu thông
tin thương mại của các nhà xuất khẩu.
- Cử các phái đoàn kinh tế thương mại tham quan, khảo sát thị trường nước
ngoài và tiến hành XTXK ở nước ngoài, đón tiếp các phái đoàn kinh tế thương
mại của Chính phủ nước ngoài,v.v .


- 18 -

- Hỗ trợ các doanh nghiệp tham gia hội chợ, triển lãm thương mại ở nước
ngoài, hay hỗ trợ các đoàn doanh nghiệp trong nước và nước ngoài tham quan
khảo sát lẫn nhau,v.v .
- Tham gia và hỗ trợ đào tạo nguồn nhân lực XTXK của đất nước,v.v .
1.3.1.2 Xây dựng chiến lược xuất khẩu quốc gia, ngành/ sản phẩm
Xây dựng chiến lược, quy hoạch, kế hoạch, chương trình, dự án XTXK và
phát triển xuất khẩu cụ thể của đất nước để định hướng và phát triển các hoạt
động XTXK của cơ quan Chính phủ, các tổ chức hỗ trợ thương mại và các doanh
nghiệp. Việc quan trọng nhất hiện nay là Chính phủ phải xây dựng và tổ chức

thực hiện các chiến lược xuất khẩu quốc gia và chiến lược xuất khẩu ngành/sản
phẩm: Tập trung nỗ lực XTXK của Chính phủ cho việc đẩy mạnh xuất khẩu của
khu vực doanh nghiệp vừa và nhỏ, đồng thời nâng cao khả năng cạnh tranh xuất
khẩu của các ngành công nghiệp và dịch vụ,v.v .
Kinh nghiệm của các nước trong việc tìm kiếm các sản phẩm xuất khẩu
chiến lược là tiến hành phân tích, xác định lợi thế cạnh tranh của đất nước, của
sản phẩm, tìm được các sản phẩm có tiềm năng tăng trưởng xuất khẩu cao trong
tương lai và XTXK các sản phẩm này. Phân tích lợi thế cạnh tranh thường bắt đầu
từ việc phân tích lợi thế so sánh. Lợi thế so sánh về tài nguyên thiên nhiên và về
nguồn lao động thường tạo điều kiện thuận lợi cho xuất khẩu các sản phẩm cơ
bản và các sản phẩm sử dụng nhiều lao động. Nhưng về lâu dài, phải tiếp cận theo
hướng lợi thế so sánh thay đổi để đánh giá khả năng cạnh tranh của đất nước, của
sản phẩm vì cạnh tranh là một khái niệm “động”. Ngoài ra, sự thay đổi nhanh
chóng của môi trường kinh doanh quốc tế hiện nay dưới tác động của nền kinh tế
mới càng đòi hỏi phải phân tích sự thay đổi lợi thế so sánh, coi chi phí thấp mới
chỉ là khởi đầu của tính cạnh tranh để xác định các mặt hàng xuất khẩu chiến lược.
1.3.1.3 Các chương trình xúc tiến xuất khẩu của các tổ chức
xúc tiến xuất khẩu
Phối hợp hoạt động XTXK với các cơ quan Chính phủ và các doanh
nghiệp trong mạng lưới XTTM. Các TSIs là một bộ phận cấu thành mạng lưới


- 19 -

XTXK quốc gia gồm Chính phủ, các tổ chức hỗ trợ thương mại và các doanh
nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế. Sự phối hợp của các TSIs với các bộ
phận còn lại được thể hiện qua việc hiệp đồng, chia xẻ trách nhiệm và cả quyền
lợi XTXK. Chức năng chính của các TSIs là cung cấp các dịch vụ hỗ trợ phát
triển thương mại chuyên môn hoá và thuận lợi hoá thương mại. Các TSIs cũng
tham gia hoà nhập mạng lưới thông tin thương mại quốc gia, đảm bảo phân

phát và thu nhận thông tin thông suốt và hiệu quả.
Cung cấp các dịch vụ hỗ trợ kinh doanh, thuận lợi hoá thương mại và
XTXK cho các doanh nghiệp và các khách hàng có yêu cầu trên cơ sở hợp tác và
cạnh tranh lành mạnh, tuân thủ các quy định của pháp luật. Hệ thống các cơ quan
hỗ trợ xuất khẩu rất đa dạng, bao gồm các tổ chức và đơn vị nhà nước, các hiệp
hội doanh nghiệp, hiệp hội ngành hàng và các doanh nghiệp dịch vụ cả nhà nước
và tư nhân. Nếu các TSIs này cung cấp dịch vụ hỗ trợ thương mại cho các doanh
nghiệp trên cơ sở chuyên môn hoá cao của tổ chức sẽ góp phần làm giảm chi phí
dịch vụ thương mại, đẩy mạnh hoạt động xuất khẩu.
Xây dựng năng lực chuyên môn, đào tạo nguồn nhân lực cho hoạt động
XTXK. Nhà nước có thể phối hợp với TSIs để đào tạo lực lượng lao động trong
các thể chế hỗ trợ hay cho các doanh nghiệp xuất khẩu, nhưng bản thân các tổ chức
có thể tự đào tạo hay cung cấp dịch vụ đào tạo độc lập. Doanh nghiệp muốn tham
gia xuất khẩu phải có đội ngũ lao động được đào tạo, trang bị các kiến thức và kỹ
năng thực tế về xuất khẩu, về thị trường nước ngoài để có đủ tự tin bắt tay vào triển
khai nhiệm vụ xuất khẩu. Việc phát triển nguồn nhân lực trong lĩnh vực xuất khẩu
là một quá trình liên tục trang bị những kiến thức, kỹ năng xuất khẩu cơ bản, không
ngừng cập nhật những kiến thức và kỹ năng mới nhất đúc kết từ thực tiễn.
1.3.1.4 Tạo các nguồn lực cho xúc tiến xuất khẩu
Các tổ chức XTXK được nhà nước tạo điều kiện và trang bị các nguồn lực
cần thiết cho hoạt động XTXK khác với các tổ chức tư nhân phải tự tìm kiếm và
khai thác các nguồn lực cần thiết. Việc này đặc biệt khó khăn và đôi khi không
thể thực hiện được trong bối cảnh một nước còn kém phát triển.


- 20 -

Với tư cách là tổ chức của Chính phủ, mọi đối tượng tham gia thực hiện chiến
lược quốc gia đều có thể nhận được sự khuyến khích, hỗ trợ của tổ chức xúc tiến của
Chính phủ, kinh phí cho sự vận hành và hoạt động của tổ chức này rất lớn và chủ yếu

do ngân sách Nhà nước tài trợ, trong khi hoạt động của các tổ chức tư nhân phải là
hoạt động có thu, dựa vào việc cung cấp dịch vụ có phí mà không phải người hưởng
dịch vụ nào cũng có khả năng chi trả. Ngay cả Phòng Thương mại đại diện quyền lợi
giới kinh doanh, nhưng không phải doanh nghiệp nào cũng có thể đạt tới các dịch
vụ hỗ trợ do Phòng cung cấp vì hoạt động của Phòng Thương mại dựa trên nguồn
tài trợ chủ yếu là phí hội viên và cung cấp dịch vụ thu phí.
Thu từ hoạt động nhập khẩu: Một số nước trên thế giới trích một phần thu từ
hoạt động nhập khẩu phục vụ cho công tác XTXK. Các nước này cho rằng ngoại tệ
thu về từ hoạt động xuất khẩu là để phục vụ hoạt động nhập khẩu. Bởi vậy hoạt
động xuất khẩu càng tốt thì càng có nhiều kinh phí cho hoạt động nhập khẩu.
Thu từ hoạt động xuất khẩu: Hoạt động XTXK là để đẩy mạnh công tác
xuất khẩu, do vậy đương nhiên khu vực xuất khẩu phải đóng góp tài chính cho
hoạt động XTXK. Tuy nhiên nếu chỉ phụ thuộc vào khoản kinh phí này thì TPOs
có thể gặp khó khăn khi hoạt động xuất khẩu giảm sút.
1.3.1.5. Thu nhận thông tin phản hồi và đánh giá hoạt động xúc
tiến xuất khẩu
Một trong những hoạt động không thể thiếu trong XTXK cấp quốc gia là
hoạt động đánh giá hiệu quả của công tác XTXK bao gồm cả giám sát, kiểm tra
và thanh tra việc thực hiện các quy định của pháp luật về XTXK.
Công tác này giải thích cho việc sử dụng nguồn vốn công cộng và cung cấp cơ
sở cho việc phân bổ hoặc tái phân bổ các nguồn lực và điều chỉnh các chương trình
XTXK. Tuy nhiên hầu hết các quốc gia đều gặp khó khăn trong công tác này.
Công tác đánh giá các chương trình XTXK cũng gặp không ít khó khăn vì
phải đánh giá trên cả hai mặt chất và lượng. Doanh nghiệp dựa vào doanh số
trong quá khứ để xác định mức tăng giảm doanh số đối với hoạt động XTXK.
Đồng thời phải phân tích sự thay đổi về các mức độ nhận biết và ưa thích sản

×