Tải bản đầy đủ (.pdf) (154 trang)

Tác động của việc Trung Quốc gia nhập WTO đối với xuất khẩu hàng dệt may Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.99 MB, 154 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC NGOẠI THƯƠNG




NGUYỄN THỊ THANH CÚC


TÁC ĐỘNG CỦA VIỆC TRUNG QUỐC GIA NHẬP WTO
ĐỐI VỚI XUẤT KHẨU HÀNG DỆT MAY VIỆT NAM





LUẬN VĂN THẠC SỸ KINH TẾ




Hà Nội, 2004
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC NGOẠI THƯƠNG



NGUYỄN THỊ THANH CÚC


TÁC ĐỘNG CỦA VIỆC TRUNG QUỐC GIA NHẬP WTO


ĐỐI VỚI XUẤT KHẨU HÀNG DỆT MAY VIỆT NAM



Chuyên ngành: Kinh tế quốc tế và Quan hệ Kinh tế thế giới

LUẬN VĂN THẠC SỸ KINH TẾ

Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS. Vũ Sĩ Tuấn



Hà Nội, 2004





MỤC LỤC


MỞ ĐẦU
1
CHƯƠNG 1- QUÁ TRÌNH GIA NHẬP WTO CỦA TRUNG QUỐC VÀ
TÁC ĐỘNG ĐẾN NGÀNH DỆT MAY TRUNG QUỐC

4
1.1
Quá trình đàm phán gia nhập WTO của Trung Quốc
4

1.1.1
Đàm phán song phương
4
1.1.2
Đàm phán đa phương
16
1.2
Cam kết của Trung Quốc khi gia nhập WTO
21
1.2.1
Những cam kết của Trung Quốc liên quan đến các nguyên tắc cơ bản của
WTO
21
1.2.2
Những cam kết liên quan đến lĩnh vực công nghiệp
22
1.2.3
Những cam kết về ngành nông nghiệp
23
1.2.4
Những cam kết về ngành dịch vụ
24
1.3
Tác động của việc Trung Quốc gia nhập WTO đối với ngành dệt
may Trung Quốc
27
1.3.1
Mức độ bảo hộ ngành dệt may của Trung Quốc
29
1.3.2

Một số chỉ tiêu của ngành dệt may thay đổi trước tác động của WTO
31
1.3.3
Tình hình ngành công nghiệp dệt may của Trung Quốc sau khi gia
nhập WTO
34
CHƯƠNG 2- TÁC ĐỘNG CỦA VIỆC TRUNG QUỐC GIA NHẬP WTO
ĐỐI VỚI XUẤT KHẨU HÀNG DỆT MAY VIỆT NAM
38
2.1
Thực trạng của ngành dệt may Việt Nam
38
2.1.1
Tổng quan về ngành dệt may
38
2.1.2.
Tình hình thu hút và sử dụng vốn đầu tư
42
2.1.3
Năng lực thiết bị công nghệ của các công ty dệt may
45
2.1.4
Về chủng loại, cơ cấu mặt hàng dệt may
48
2.1.5
Các ngành hỗ trợ ngành dệt may
51
2.1.6
Thực trạng xuất khẩu của hàng dệt may Việt nam
53

2.2
Tác động của việc Trung Quốc gia nhập WTO đối với xuất khẩu
hàng dệt may Việt Nam
58
2.2.1
Tác động đến thị trường xuất khẩu
58
2.2.2
Tác động đến mặt hàng xuất khẩu
73


2.3
Tác động của việc Trung Quốc gia nhập WTO đến khả năng cạnh
tranh của hàng dệt may Việt Nam
75
2.3.1
Hàng dệt may Trung Quốc thống trị thế giới
75
2.3.2
Tác động đến khả năng cạnh tranh của hàng dệt may Việt Nam so với
hàng dệt may Trung Quốc
79
2.3.3
Thách thức và cơ hội đối với các doanh nghiệp Việt Nam
83
CHƯƠNG 3- GIẢI PHÁP THÚC ĐẨY XUẤT KHẨU HÀNG DỆT MAY VIỆT
NAM SAU KHI TRUNG QUỐC GIA NHẬP WTO
87
3.1

Định hướng phát triển ngành công nghiệp dệt may Việt Nam đến
năm 2010
87
3.1.1
Mục tiêu cơ bản phát triển ngành dệt may Việt nam
87
3.1.2
Định hướng cơ bản phát triển ngành dệt may Việt nam
88
3.2
Các giải pháp vĩ mô
93
3.2.1
Tích cực đàm phán gia nhập WTO
93
3.2.2
Giải pháp về thị trường
95
3.2.3
Thu hút vốn đầu tư nước ngoài
96
3.2.4
Nâng cao năng lực cạnh tranh của ngành dệt may
97
3.2.5
Chính sách quy hoạch phát triển ngành
103
3.2.6
Giải pháp về quản lý điều hành và phát triển nguồn nhân lực
105

3.2.7
Chính sách hỗ trợ mở rộng vùng nguyên liệu
107
3.3
Các giải pháp vi mô
111
3.3.1
Giải pháp về thị trường
111
3.3.2
Đổi mới quản lý và tổ chức sản xuất
114
3.3.3
Sử dụng hợp lý nguồn vốn đầu tư
115
3.3.4
Đầu tư đổi mới công nghệ
117
3.3.5
Đẩy mạnh nghiên cứu cải tiến hình thức của sản phẩm
118
3.3.6
Không ngừng nâng cao trình độ đội ngũ cán bộ
119
3.3.7
Tham gia các hiệp hội doanh nghiệp
119

KẾT LUẬN
121


TÀI LIỆU THAM KHẢO
123



DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT

APEC
:

Asean Pacific Economic Corporation– Diễn đàn hợp tác kinh tế
châu Á Th¸i B×nh D-¬ng
ATC
:
AGREEMENT ON TEXTILES AND CLOTHING - HIỆP
ĐỊNH VỀ DỆT MAY
ASEAN
:
Các quốc gia Đông Nam Á
EU
:
EUROPEAN UNION – LIÊN MINH CHÂU ÂU
FDI
:
Foreign Direct Investment - Đầu tƣ trực tiếp nƣớc ngoài
GATT
:
GENERAL AGREEMENT ON TARIFFS AND TRADE -
HIỆP ĐỊNH CHUNG VỀ MẬU DỊCH VÀ THUẾ QUAN

GNP
:
Gross National Products – Tổng sản phẩm quốc nội
IMF
:
INTERNATIONAL MONETARY FUND – TỔ CHỨC TÀI
CHÍNH TIỀN TỆ
MFA
:
Multi - Fibre Agreement – Hiệp định đa sợi
MFN
:
MOST FAVOR NATION – QUY TẮC TỐI HUỆ QUỐC
NAFTA
:
North American Free Trade Area – Khối mậu dịch tự do Bắc Mỹ
NDT
:
ĐỒNG NHÂN DÂN TỆ
OPT
:
Oversea Processing Trade – Hình thức gia công ở nƣớc ngoài
UNDP
:
CHƢƠNG TRÌNH PHÁT TRIỂN LIÊN HỢP QUỐC
VINATEX
:
Vietnam national Textiles and Garment Corporation – Tổng
công ty dệt may Việt Nam
VITAS

:
VIETNAM TEXTILE AND APPAREL ASSOCIATION –
HIỆP HỘI DỆT MAY VIỆT NAM
WB
:
World Bank – Ngân hàng thế giới
WTO
:
WORLD TRADE ORGANIZATION – TỔ CHỨC THƢƠNG
MẠI THẾ GIỚI





DANH MỤC CÁC BẢNG

Bảng 1.1
:
Mức độ bảo hộ nhập khẩu hàng dệt may Trung Quốc
30
Bảng 1.2
:
Tác động của việc Trung Quốc gia nhập WTO đối với ngành
công nghiệp dệt may Trung Quốc
31
Bảng 1.3
:
Giá trị tổng sản lƣợng và tiền lƣơng của Trung Quốc sau khi
gia nhập WTO

32
Bảng 1.4
:
Giá trị tổng sản lƣợng và tiền lƣơng của Trung Quốc
32
Bảng 1.5
:
Tỷ trọng tổng sản lƣợng của Trung Quốc trong tổng sản lƣợng
thế giới
33
Bảng 1.6
:
Tỷ trọng xuất khẩu của Trung Quốc trong tổng xuất khẩu
thế giới
33
Bảng 1.7
:
Tỷ trọng nhập khẩu của Trung Quốc trong tổng nhập khẩu
thế giới
33
Bảng 2.1
:
Năng lực sản xuất của ngành dệt may Việt Nam
38
Bảng 2.2
:
Tốc độ tăng trƣởng của ngành dệt may Việt Nam
40
Bảng 2.3
:

Giá trị sản xuất của ngành dệt may Việt Nam
40
Bảng 2.4
:
Sản lƣợng một số sản phẩm ngành dệt may Việt Nam
41
Bảng 2.5
:
Đầu tƣ trực tiếp nƣớc ngoài vào ngành dệt may Việt Nam
43
Bảng 2.6
:
Diện tích và sản lƣợng bông công nghiệp qua các năm
52
Bảng 2.7
:
Kim ngạch nhập khẩu một số nguyên phụ liệu
56
Bảng 2.8
:
Kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may Việt nam sang các thị
trƣờng
57
Bảng 2.9
:
Các nhà xuất khẩu chủ lực hàng may mặc vào Nhật
65
Bảng
2.10
:

Tình hình xuất khẩu một số cat nóng sang Mỹ
72
Bảng
2.11
:
Xuất khẩu hàng dệt may Việt Nam vào EU quý I năm 2005
73
Bảng
2.12
:
Sản lƣợng các mặt hàng dệt may chính của Trung Quốc
75


Bảng
2.13
:
Mức lƣơng và mức giá trị gia tăng trong ngành dệt may
80
Bảng 3.1
:
Mục tiêu chiến lƣợng “tăng tốc” phát triển ngành dệt may
Việt nam đến năm 2010
87
Bảng 3.2
:
Tình hình thực hiện các chỉ tiêu chủ yếu của ngành dệt may
Việt nam sau 3 năm thực hiện quyết định 55/CP
97
DANH MỤC CÁC HÌNH VẼ ĐỒ THỊ


Biểu đồ 2.1
:
Kim ngạch xuất nhập khẩu hàng dệt may của Việt nam
54
Biểu đồ 2.2
:
Tỉ lệ chủng loại mặt hàng dệt may xuất khẩu năm 2001
55
Biểu đồ 2.3
:
Tỉ lệ chủng loại mặt hàng dệt may xuất khẩu năm 2004
56
Biểu đồ 2.4
:
Kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may Việt Nam sang EU
63
Biểu đồ 2.5
:
Kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may Việt Nam sang Nhật
Bản
67
Biểu đồ 2.6
:
Kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may Việt Nam sang Mỹ
70



MỞ ĐẦU


1. TÍNH CẤP THIẾT CỦA ĐỀ TÀI
Sau hơn 15 năm nỗ lực đàm phán, ngày 11/12/2001, Trung Quốc đã chính
thức là thành viên của WTO. Là một nước lớn có tiềm năng thị trường khổng lồ
có quy mô kinh tế và tổng kim ngạch thương mại nằm trong số 10 nước đứng
đầu thế giới, các cam kết tăng mức độ mở cửa và tự do hoá thị trường của Trung
Quốc sẽ đem lại nhiều cơ hội về buôn bán và kinh doanh cho nhiều nước và khu
vực.
Tuy nhiên, việc Trung Quốc gia nhập WTO không chỉ đem lại nhiều cơ
hội mà còn làm nảy sinh những thách thức mới, đặc biệt là đối với những nước
láng giềng như Việt Nam – nơi có cơ cấu sản xuất, cơ cấu xuất khẩu tương tự
như của Trung Quốc. Hơn nữa, nhiều loại hàng xuất khẩu của hai nước lại có
chung nhiều điểm đến.
Trong xuất khẩu, Việt Nam và Trung Quốc có chung một số thị trường
lớn như Nhật Bản, Hàn Quốc, Tây Âu, Bắc Mỹ ; về cơ cấu mặt hàng, phần lớn
trong số 10 mặt hàng xuất khẩu chủ lực của Trung Quốc cũng chính là những
mặt hàng xuất khẩu chủ yếu của Việt Nam. Đặc biệt, Trung Quốc gia nhập WTO
làm tăng sức cạnh tranh sản phẩm dệt may vốn dĩ đã rất mạnh trên thị trường
quốc tế. Việt Nam là một nước đang phát triển, trong giai đoạn hiện nay và trong
thời gian tới, dệt may vẫn là một trong những ngành xuất khẩu mũi nhọn. Nếu
như năm 1991 kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may chiếm 5% kim ngạch xuất
khẩu Việt Nam thì năm 2003 chiếm tới 19%, những thành tựu trong lĩnh vực này
góp phần tăng trưởng kinh tế. Theo quyết định số 161/1998/QĐ-TTg ngày
04/09/1998 của Thủ tướng chính phủ: mục tiêu phát triển của ngành công nghiệp
dệt may đến năm 2010 là hướng ra xuất khẩu nhằm tăng nguồn thu ngoại tệ, đảm
bảo cân đối trả nợ và tái sản xuất mở rộng các cơ sở sản xuất của ngành, thỏa
mãn nhu cầu tiêu dùng trong nước về số lượng, chất lượng chủng loại và giá cả;


góp phần tăng trưởng kinh tế, giải quyết việc làm, thực hiện đường lối công

nghiệp hóa hiện đại hoá đất nước.
Để đạt được những mục tiêu trên, vấn đề đặt ra là nâng cao sức cạnh tranh
của hàng dệt may trên thị trường quốc tế. Trong khi đó, như đã đề cập ở trên,
Trung Quốc là một nước xuất khẩu dệt may đứng đầu thế giới, trực tiếp ảnh
hưởng đến ngành dệt may Việt Nam; sau khi gia nhập WTO, sức cạnh tranh của
hàng dệt may Trung Quốc càng mạnh do được hưởng những ưu đãi của WTO và
có ảnh hưởng lớn đến Việt Nam. Do đó, việc nghiên cứu những ảnh hưởng, tác
động này đến ngành dệt may Việt nam là hết sức cần thiết nhằm góp phần vào
công cuộc phát triển của ngành. Chính vì vậy, em chọn đề tài: “Tác động của
việc Trung Quốc gia nhập WTO đối với xuất khẩu hàng dệt may Việt Nam”
với mong muốn góp phần nghiên cứu về điểm mạnh, điểm yếu của hàng dệt may
Trung Quốc, qua đó đưa ra những hướng đi, giải pháp đẩy mạnh xuất khẩu hàng
dệt may Việt Nam ra thị trường quốc tế
2. TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU
Dệt may là một ngành công nghiệp nhẹ, là một ngành xuất khẩu mũi nhọn
hiện nay mà rất nhiều nhà nghiên cứu, cán bộ hoạch định chính sách và cán bộ
dệt may,… quan tâm. Tuy nhiên, những nghiên cứu đó chủ yếu nhằm vào sự
phát triển của ngành dệt may Việt Nam chung chung, nâng cao sức cạnh tranh
của hàng dệt may Việt Nam xuất khẩu vào thị trường Mỹ, EU, Nhật,…; còn
nghiên cứu: “Tác động của việc Trung Quốc gia nhập WTO đối với xuất khẩu
hàng dệt may Việt Nam” là lần đầu tiên được đưa ra dưới góc độ một đề tài
khoa học thực sự.
3. MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU
Trên cơ sở phân tích ngành dệt may Trung Quốc, ảnh hưởng của WTO, đề
tài đánh giá tác động đối với ngành dệt may Việt Nam, qua đó đưa ra một số giải
pháp tăng sức cạnh tranh của sản phẩm dệt may Việt Nam trên thị trường quốc tế
đặc biệt đối với sản phẩm dệt may của Trung Quốc.




4. NHIỆM VỤ NGHIÊN CỨU
- Trung Quốc gia nhập WTO, những ưu đãi WTO về hàng dệt may
- Tình hình xuất khẩu của ngành dệt may Trung Quốc
- Đánh giá thực trạng và xuất khẩu của ngành dệt may Việt Nam
- Ảnh hưởng, tác động của sản phẩm dệt may Trung Quốc đối với sản
phẩm dệt may Việt Nam nhất là sau khi Trung Quốc gia nhập WTO
- Biện pháp tăng cường thúc đẩy xuất khẩu và tăng sức cạnh tranh của
ngành dệt may Việt Nam đối với hàng Trung Quốc.
5. ĐỐI TƢỢNG VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU
- Đối tượng nghiên cứu: dệt may Trung Quốc, dệt may Việt Nam, ưu đãi
của WTO trong lĩnh vực dệt may.
- Phạm vi nghiên cứu: tại Việt Nam
6. PHƢƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
- Phương pháp duy vật biện chứng
- Phương pháp tổng hợp, so sánh, thống kê,
7. KẾT CẤU LUẬN VĂN: gồm 3 chương
Chương 1: Quá trình gia nhập WTO của Trung Quốc và tác động đến
ngành dệt may Trung Quốc
Chương 2: Tác động của việc Trung Quốc gia nhập WTO đối với xuất
khẩu hàng dệt may Việt Nam
Chương 3: Giải pháp thúc đẩy xuất khẩu hàng dệt may Việt nam sau khi
Trung Quốc gia nhập WTO







Chƣơng 1

QUÁ TRÌNH GIA NHẬP WTO CỦA TRUNG QUỐC VÀ
TÁC ĐỘNG ĐẾN NGÀNH DỆT MAY TRUNG QUỐC

1.1 QUÁ TRÌNH ĐÀM PHÁN GIA NHẬP WTO CỦA TRUNG QUỐC
Ngày 11/7/1986, đại sứ Trung Quốc ở Liên hợp quốc tại Genevo-Tiền Gia
Đông - gửi công hàm cho GATT, chính thức đề xuất việc chính phủ Trung Quốc
xin khôi phục địa vị nước tham gia ký kết GATT. Đến tháng 6/1987 GATT đã
thành lập “Nhóm công tác về địa vị nước tham gia ký kết hiệp định chung của
Trung Quốc” mở đầu cho việc Trung Quốc khôi phục địa vị nước tham gia ký
kết GATT và gia nhập WTO. Từ năm 1986 đến năm 2001 Trung Quốc đã thực
hiện hàng loạt các biện pháp mở cửa và cải cách thể chế mậu dịch, tăng cường
đàm phán với các bên ký kết hiệp định chủ yếu.
1.1.1 Đàm phán song phƣơng [16], [21]
44 thành viên của WTO đã ký các cam kết song phương với Trung Quốc.
Các cam kết song phương là một phần của các điều khoản hiệp ước đa phương
được ký kết khi Trung Quốc trở thành thành viên của WTO.
Trung Quốc chỉ đạt được các bước tiến nhanh chóng trong việc kết thúc
các cuộc đàm phán song phương với phần lớn các thành viên khác của WTO sau
khi họ ký kết được Hiệp định song phương với Mỹ vào tháng 11/1999 và sau đó
là với EU vào tháng 5/2000.
1.1.1.1 Đàm phán Trung - Mỹ và những nội dung chủ yếu của Hiệp định
Thương mại Trung Mỹ
* Quá trình đàm phán
Để đi đến ký hiệp định thương mại Trung Mỹ, hai bên đã có một quá trình
đàm phán lâu dài, đầy khó khăn. Trong những năm 1986-1989, hai bên đã thực
hiện mười lần đàm phán có tiến triển và đạt được nhiều thoả thuận. Năm 1989,
do sự kiện Thiên An Môn, đàm phán bị hoãn lại. Năm 1992, sau khi Đặng Tiểu


Bình đi thị sát các tỉnh miền Nam Trung Quốc, kêu gọi Trung Quốc cần học tập

kinh nghiệm của chủ nghĩa tư bản, thổi luồng gió mới cho những cải cách táo
bạo thì hai bên nối lại hội đàm. Trong thời gian 1992-1994, Trung Quốc thực
hiện nhiều cố gắng để gia nhập WTO vào cuối năm 1994 nhưng Mỹ đưa ra yêu
cầu cao nên Trung Quốc không chấp nhận. Trong những năm 1995-1998, Trung
Quốc không tỏ ra hăng hái như trước, thậm chí có lúc lạnh nhạt. Tháng 4-1999,
Thủ tướng Trung Quốc Chu Dung Cơ thăm Mỹ với nhiều thỏa hiệp và nhượng
bộ với Mỹ nhằm hoàn tất đàm phán và ký hiệp định nhưng phía Mỹ tiếp tục đưa
ra yêu cầu cao hơn. Trong các vòng đàm phán, phía Mỹ thận trọng do lo ngại về
mức thâm hụt mậu dịch lớn, liên tục của Mỹ với Trung Quốc trong suốt những
năm 1990.
Bên cạnh đó, các nhà đàm phán Mỹ tiếp tục quan tâm nhiều đến việc đặt
ra hạn chót cho việc tiếp cận thị trường Trung Quốc, muốn Trung Quốc mở cửa
thị trường viễn thông và dịch vụ trong 3 năm thay vì từ 6 đến 7 năm. Mỹ yêu cầu
Trung Quốc đưa ra những điều khoản chi tiết hơn, dứt khoát hơn về tính minh
bạch, tức những biện pháp trở thành nền kinh tế thị trường đầy đủ và thời gian
biểu cho việc chấm dứt những hành động chống bán phá giá và các hình thức
bảo vệ pháp lý chống lại nhập khẩu ồ ạt.
Ngày 8/5/1999 Mỹ ném bom sứ quán Trung Quốc ở Nam Tư làm quan hệ
hai nước như bị rơi xuống vực. Đàm phán Trung - Mỹ bị ngừng lại. Với cuộc
gặp gỡ Giang Trạch Dân - Clinton ngày 11/9/1999 trong hội nghị APEC tại New
Zealand, hội đàm được nối lại nhưng hai bên vẫn chưa đạt được thoả thuận.
Ngày 10/11/1999, hai bên nối lại đàm phán. Sau 6 ngày đêm (đàm phán
cả ngày và đêm) đàm phán căng thẳng giữa đại diện thương mại Mỹ - bà
Charlene Bashefski và Bộ trưởng Thương mại và hợp tác kinh tế Trung Quốc -
ông Thạch Quảng Sinh, ngày 15/11/1999, hai bên đã đạt được thoả thuận sau khi
có sự khai thông ở phút chót với sự can thiệp của Thủ tướng Trung Quốc Chu
Dung Cơ. Bản hiệp định đề cập chủ yếu đến các vấn đề về hàng công nghiệp,


dịch vụ, nông nghiệp, bảo hộ bản quyền, chuyển nhượng kỹ thuật, xuất khẩu của

các xí nghiệp quốc doanh, chống bán phá giá, đầu tư, trợ giá và một số lĩnh vực
khác.
* Những nội dung chủ yếu trong Hiệp định Thương mại Trung –Mỹ
 Về thuế quan và phi thuế quan: Trung Quốc đồng ý giảm mức thuế bình
quân từ 22,1% xuống còn 17% trong vòng 5 năm, Trung Quốc đồng ý xoá bỏ
toàn bộ hạn ngạch và các hạn chế về số lượng, nhưng trong một vài lĩnh vực đặc
biệt, các hạn ngạch sẽ được xoá bỏ trong vòng 2-3 năm.
 Về các sản phẩm công nghiệp: Trung Quốc cam kết giảm mức thuế chung
đối với sản phẩm công nghiệp từ mức trung bình 24,6% xuống còn 9,4% và mức
7,1% áp dụng đối với những sản phẩm Mỹ ưu tiên - tương đương với mức của
hầu hết các đối tác thương mại lớn của Mỹ. 2/3 số cắt giảm này sẽ được hoàn tất
trong 3 năm, số còn lại sẽ hoàn tất trong vòng 5 năm. Trung Quốc cho phép các
công ty Mỹ, trong thời gian 3 năm, được quyền nhập và xuất hàng nông sản
thông qua các công ty trung gian của Trung Quốc. Các công ty thiết lập mạng
lưới kinh doanh ở Trung Quốc cũng có thể nhập khẩu hàng hoá từ Mỹ. Trung
Quốc sẽ tham gia vào Hiệp định công nghệ thông tin và xoá bỏ tất cả các mức
thuế quan đối với các sản phẩm như máy tính, thiết bị viễn thông, máy bán dẫn,
thiết bị máy tính và các sản phẩm công nghệ cao khác.
 Về ô tô: Trung Quốc sẽ giảm mức thuế nhập khẩu ô tô của Mỹ từ mức
hiện tại là 80-100% xuống còn 25%, đối với hầu hết các phụ tùng ô tô xuống
10% vào giữa năm 2006. Các công ty Mỹ sẽ cung cấp tín dụng cho người Trung
Quốc khi mua xe của họ.
 Với các sản phẩm gỗ và giấy: giảm thuế quan đang ở mức 12-18% đối với
gỗ và 15-25% đối với giấy xuống mức phổ biến từ 5 - 7,5%. Với các sản phẩm
hóa chất, Trung Quốc cam kết giảm thuế quan hiện ở mức 10 - 35% xuống 5 -
6% trong hầu hết các trường hợp, đồng thời cắt giảm đáng kể thuế đối với các
hóa chất khác có mức thuế quan cao.


Trung Quốc cũng sẽ thực hiện các sáng kiến đồng bộ hóa các sản phẩm

hóa chất, theo đó mức thuế sẽ áp dụng là 0%; 5,5% và 6,5% đối với các sản
phẩm ở mỗi loại.
 Về dệt may: tới năm 2005, Mỹ phải xóa bỏ việc cấp quota nhập khẩu đối
với hàng dệt của Trung Quốc.
 Xoá bỏ các hạn ngạch và giấy phép: sau khi gia nhập WTO, Trung Quốc
đồng ý xoá bỏ các hạn ngạch hiện hành đối với các sản phẩm ưu tiên hàng đầu
của Mỹ, các sản phẩm còn lại sẽ loại bỏ hạn ngạch theo giai đoạn nhưng không
muộn hơn năm 2005, mức loại bỏ sẽ tăng 15% mỗi năm.
 Về nông nghiệp: Trung Quốc đồng ý giảm mức thuế chung đối với nhập
khẩu nông sản từ mức 45% hiện nay xuống 17% và xuống 14,5 - 15% đối với
những sản phẩm Mỹ ưu tiên (từ 45% xuống 12% đối với thịt bò; 40% xuống
12% đối với cam, quýt; 30% xuống 10% đối với táo; 50% xuống 12% đối với
pho mát; 65% xuống 25% đối với rượu vang). Toàn bộ cắt giảm sẽ diễn ra trong
khuân khổ thời gian tối đa là 4 năm, đồng thời định mức tối đa cho nhập khẩu
lúa mì, bông, ngô và gạo của Mỹ. Trung Quốc sẽ nhập thêm một số hàng nông
sản như thịt, hoa quả…của Mỹ. Trung Quốc sẽ tự do hoá việc mua hàng nông
sản khối lượng lớn như lúa mì, ngô, đậu tương, gạo, bông,… với mức thuế rất
thấp với một khối lượng đã được xác định các hàng hoá trong các loại hàng hoá
trên. Ví dụ, hạn ngạch đối với lúa mì từ 7,3 triệu tấn đến 9,3 triệu tấn vào năm
2004 so với mức nhập khẩu hiện tại dưới 2 triệu tấn. Trong tất cả hạn ngạch thuế
suất này, các doanh nghiệp tư nhân đảm bảo được hưởng một phần và có quyền
sử dụng phần hạn ngạch chưa được sử dụng đến được cấp cho các công ty nhà
nước. Trung Quốc sẽ không tiến hành trợ giá xuất khẩu nông sản nữa.
 Về dịch vụ: Trung Quốc chấp nhận những cam kết giảm dần hầu hết các
hạn chế theo từng giai đoạn đối với từng lĩnh vực dịch vụ bao trùm một phạm vi
rộng lớn như phân phối, ngân hàng, bảo hiểm, viễn thông, các dịch vụ chuyên
môn như kế toán, tư vấn pháp lý, kinh doanh các dịch vụ liên quan đến máy tính,


phim ảnh, các dịch vụ thu hình, thu thanh… trong bảo hiểm: xoá bỏ ngay những

hạn chế đối với những bảo hiểm rủi ro quy mô lớn ở khắp Trung Quốc, cấp giấy
phép thuần tuý dựa trên những tiêu chuẩn thận trọng, giảm dần những hạn chế
đối với việc đặt chi nhánh bảo hiểm trong nước và xoá bỏ hạn chế về địa lý và số
liệu trên giấy phép. Trung Quốc đồng ý cấp giấy phép chỉ dựa trên cơ sở các tiêu
chuẩn xét đoán đúng đắn, không kiểm tra về nhu cầu kinh tế hay giới hạn về
định lượng giấy phép được cấp; từng bước xoá bỏ tất cả những giới hạn về địa lý
trong vòng 3 năm; mở rộng phạm vi hoạt động của các nhà bảo hiểm nước ngoài
với các tuyến bảo hiểm theo nhóm sức khoẻ và hưu trí, được chia theo từng giai
đoạn trong vòng 5 năm. Các công ty bảo hiểm về tài sản và tổn thất của người
nước ngoài được bảo hiểm các rủi ro về thương mại trên phạm vi cả nước ngay
sau khi Trung Quốc gia nhập WTO. Trung Quốc đồng ý cho phép nước ngoài sở
hữu 50% đối với bảo hiểm nhân thọ. Các nhà bảo hiểm nhân thọ có thể tự lựa
chọn đối tác liên doanh của mình.
 Về viễn thông: Trung Quốc cho phép các công ty Mỹ có thể nắm 49% cổ
phần đầu tư, sau 2 năm kể từ khi bắt đầu vào Trung Quốc, mức này được nâng
lên 50%. Xoá bỏ những hạn chế về địa lý đối với các dịch vụ máy nhắn tin và
giá trị gia tăng trong vòng 4 năm, điện thoại di động trong vòng 5 năm, điện
thoại cố định và các nhóm sử dụng điện thoại khép kín trong vòng 6 năm. Trung
Quốc sẽ chấm dứt việc cấm đầu tư nước ngoài trực tiếp vào dịch vụ viễn thông,
phân giai đoạn cho phép các công ty nước ngoài nắm 49% cổ phần ở tất cả các
dịch vụ trong vòng 6 năm và sở hữu 51% đối với dịch vụ nhắn tin và giá trị gia
tăng trong 4 năm. Về Internet, các công ty Mỹ có thể đầu tư toàn diện vào thị
trường cung ứng dịch vụ Internet của Trung Quốc.
 Về điện ảnh: Trung Quốc cho phép công ty nước ngoài nắm 49% cổ phần
trong phân phối băng hình và băng tiếng, được sở hữu đa số trong vòng 3 năm
trong xây dựng, sở hữu và điều hành các rạp chiếu phim. Hàng năm, Trung Quốc


nhập 20 bộ phim của Mỹ. (Mỹ đòi Trung Quốc phải nhập 40 bộ, lúc đầu Trung
Quốc chỉ chấp nhận nhập 10 bộ).

 Về ngân hàng: trước khi Trung Quốc gia nhập WTO, các ngân hàng nước
ngoài không được phép kinh doanh NDT với khách hàng Trung Quốc. Hai năm
sau khi Trung Quốc gia nhập WTO, các ngân hàng có vốn nước ngoài ở Trung
Quốc có thể thực hiện các nghiệp vụ tương tự với các cá nhân. Các ngân hàng
nước ngoài có quyền giống như các ngân hàng Trung Quốc trong phạm vi các
khu vực địa lý đã được chỉ định. Các hạn chế về địa lý và khách hàng sẽ được
huỷ bỏ trong vòng 5 năm. Các công ty tài chính phi ngân hàng có thể mời chào,
tài trợ cho ngành ô tô sau khi Trung Quốc gia nhập WTO.
 Về bù xuất khẩu: Trung Quốc sẽ đồng ý xoá bỏ tất cả các khoản trợ cấp
xuất khẩu.
 Về chứng khoán, quản lý tiền tệ: Trung Quốc cho phép các công ty chứng
khoán nước ngoài có thể sở hữu 33% cổ phần, các thương nhân nước ngoài có
thể sở hữu 33% cổ phần trong các công ty tài chính quản lý quỹ tiền tệ, mở rộng
phạm vi, địa bàn hoạt động cho các công ty nước ngoài kinh doanh trong lĩnh
vực bảo hiểm (hiện mới chỉ có ở Bắc Kinh, Thượng Hải và Thâm Quyến ). Đồng
thời sau 2 năm có thể lập các chi nhánh của mình.
1.1.1.2 Đàm phán Trung Quốc – EU và những nội dung chính của Hiệp định
Thương mại Trung Quốc - EU
* Quá trình đàm phán
Trước đây, Trung Quốc và EU đã nhiều lần thương thuyết để ký kết hiệp
định này, nhưng kết quả đạt được rất hạn chế và hai bên chưa đi đến kết quả cuối
cùng. EU luôn đặt ra những điều kiện mới cho Trung Quốc, yêu cầu Trung Quốc
giảm thuế những loại hàng hoá nhập khẩu có giá trị gia tăng cao như máy móc,
đồ mỹ phẩm, sản phẩm y dược, gốm sứ, đồ mỹ nghệ, dụng cụ gia đình bằng thuỷ
tinh… Nhiều yêu cầu của EU còn khắt khe hơn yêu cầu của Mỹ, như đòi giảm
thuế nhập khẩu xe hơi xuống còn 18% (Mỹ yêu cầu giảm xuống còn 25%). Về


thương mại dịch vụ, EU yêu cầu Trung Quốc mở cửa mạnh các lĩnh vực: ngân
hàng, bảo hiểm nhân thọ, bưu điện,… Nguyên nhân chính khiến hai bên chưa đạt

được sự nhất trí trong các vòng đàm phán trước đây là do phía Trung Quốc từ
chối chấp nhận một số điều kiện mà EU đưa ra không hợp với khả năng của
Trung Quốc (chẳng hạn yêu cầu Trung Quốc xoá bỏ tình trạng độc quyền của
các doanh nghiệp nhà nước trong các lĩnh vực sản xuất dầu và tơ lụa, việc nâng
tỷ lệ cổ phần của các công ty EU trong các liên doanh, trong đó có các liên
doanh viễn thông và bảo hiểm tại Trung Quốc lên 49%). Tại nhiều phiên thảo
luận trong bốn vòng đàm phán diễn ra từ đầu năm 2000 đến khi ký kết hiệp định,
các đại diện của Trung Quốc và EU tranh cãi rất gay gắt xung quanh vấn đề mở
cửa khu vực dịch vụ viễn thông, lập liên doanh sản xuất ô tô, bảo hiểm nhân thọ,
phân phối và chính sách buôn bán của Trung Quốc với EU. Tuy vậy, qua ba
vòng đàm phán đầu, hai bên cũng đã thảo luận được 80% các vấn đề then chốt.
Ở vòng đàm phán cuối cùng, sau 5 ngày thương lượng căng thẳng, đến
ngày 19/5/2000, Trung Quốc và EU đã chính thức ký hiệp định về việc Trung
Quốc gia nhập WTO. 80% các mục tiêu thương lượng của EU với Trung Quốc
là giống với Mỹ, tuy nhiên chúng có các ưu tiên khác nhau về một số vấn đề
như: xây dựng, khu vực ngân hàng, phân phối, viễn thông, bảo hiểm nhân thọ,…
* Những nội dung chủ yếu của Hiệp định Thương mại Trung Quốc –
EU
 Đối với hàng công nghiệp:
Trung Quốc đồng ý cắt giảm thuế quan xuống còn 8 - 10% (từ các mức
20% - 60%) đối với 150 mặt hàng nhập khẩu chủ yếu từ EU như máy móc, đồ sứ
và kính, hàng dệt, quần áo, giày dép, đồ da, mỹ phẩm và rượu mạnh. 52 sản
phẩm máy móc và đồ ứng dụng liên quan - chiếm tới 26% tổng xuất khẩu của
EU khi xuất sang Trung Quốc sẽ được giảm thuế từ mức hiện hành 35% xuống
còn 5 - 10%.


Trung Quốc đồng ý mở cửa các lĩnh vực dầu thô và chế biến dầu, phân
bón cho các nhà buôn tư nhân thông qua quá trình tự do hoá từng bước (các lĩnh
vực này trước khi Trung Quốc gia nhập WTO vẫn còn thuộc độc quyền nhập

khẩu của nhà nước). Bên cạnh đó, các công ty EU có thể mua lụa tơ tằm trực tiếp
từ các nhà sản xuất Trung Quốc.
Các công ty EU được hưởng nhiều ưu đãi khi đầu tư vào sản xuất ô tô,
các loại xe tải Trung Quốc. Chính quyền cấp tỉnh được phép phê duyệt các dự án
đầu tư vào lĩnh vực này với số vốn tối đa là 150 triệu USD (trước đây là 30 triệu
USD). Tất cả các hạn chế liên quan tới loại xe và mẫu xe sản xuất được dỡ bỏ
trong 2 năm, nhà sản xuất được tự do quyết định dựa vào nhu cầu thị trường.
Với 5 loại sản phẩm quan trọng nhất trong số các vật liệu xây dựng như
đá hoa cương và đá xây dựng, mức thuế quan giảm từ 25% xuống còn 10%. Với
đồ gốm, Trung Quốc đồng ý giảm mức thuế quan đối với 11 sản phẩm chủ yếu
từ mức 24,5% xuống còn 10 - 15%. Các mức thuế quan đối với 6 sản phẩm thuỷ
tinh giảm từ 24,5% xuống còn 5%.
Mức thuế quan đối với 5 loại sản phẩm giầy dép - chiếm tới 70% nhập
khẩu giầy dép của EU giảm từ 25% xuống còn 10%.
Với da và đồ da, Trung Quốc đồng ý cắt giảm mức thuế của 13 loại sản
phẩm - chiếm 60 % tổng xuất khẩu của EU về loại hàng này từ 20 - 25% xuống
còn 10%.
Mức thuế quan đối với các loại rượu nhập từ EU giảm từ mức hiện hành
65% xuống còn 10% đồng thời không có sự phân biệt trong cách cư xử đối với
các loại rượu whisky, cognac,
Mức thuế quan đối với các loại mỹ phẩm giảm từ 30% xuống còn 10%.
 Đối với hàng nông nghiệp:
Các mức thuế quan đối với nhiều loại nông sản được giảm mạnh. Chẳng
hạn đối với dầu cây cải giảm từ 85% xuống còn 9%, mì ống giảm từ 25% xuống
còn 15%, bơ giảm từ 30% xuống còn 10%, sữa bột giảm từ 25% xuống còn


10%, quýt giảm từ 42% xuống còn 12%, mạch nha giảm từ 30% xuống còn
18%.
EU và Trung Quốc còn ký một hiệp định riêng về vệ sinh và vệ sinh thực

phẩm (SPS) theo đó Trung Quốc tuân thủ hiệp định SPS của WTO, đồng thời
chấp nhận một số khác biệt về thương mại SPS song phương với EU.
 Đối với các loại dịch vụ:
Lần đầu tiên, các nhà điều hành nước ngoài được phép thành lập các chi
nhánh với 25% cổ phần ngay khi Trung Quốc gia nhập WTO. Mức này sẽ tăng
lên 35% sau 1 năm gia nhập và lên 49% sau 3 năm gia nhập. Hai bên đồng ý giải
quyết thỏa đáng hoạt động đầu tư của các công ty viễn thông (như France
Telecom, Telecom Italy… vào các công ty Trung Quốc như China Unicom )
Về bảo hiểm: trước khi gia nhập, chỉ có 4 công ty bảo hiểm EU hoạt động
trên thị trường Trung Quốc. Sau khi gia nhập, Trung Quốc cấp ngay 7 giấy phép
mới gồm 5 giấy phép cho kinh doanh bảo hiểm nhân thọ và 2 giấy phép cho lĩnh
vực bảo hiểm phi nhân thọ. Các công ty bảo hiểm EU được thiết lập trên cơ sở
cổ phần 50 - 50. Công ty mới với cổ phần đa số thuộc về phía EU được phép
thành lập sau 3 năm gia nhập và sau 5 năm sẽ không còn sự giới hạn về cổ phần.
Về phân phối: Trung Quốc bỏ hạn chế trong liên doanh thành lập cửa
hàng bán lẻ quy mô lớn phải có diện tích 20.000 m
2
, và với hơn 30 chi nhánh ở
Trung Quốc.
Về du lịch: yêu cầu về vốn của công ty du lịch nước ngoài hoạt động ở
Trung Quốc được giảm dần xuống ngang mức áp dụng cho các công ty Trung
Quốc. Bên cạnh đó, yêu cầu về kim ngạch tối thiểu cũng được giảm xuống còn
40 triệu USD.
Về xây dựng: Trung Quốc đã nới lỏng các yêu cầu cho các liên doanh, cho
phép phía nước ngoài chiếm đa số cổ phần sau khi Trung Quốc gia nhập WTO.
Sau 3 năm các xí nghiệp do nước ngoài sở hữu hoàn toàn sẽ được phép tiến hành


các dự án do nước ngoài tài trợ và cả các dự án do phía Trung Quốc cấp kinh phí
nhưng các công ty xây dựng Trung Quốc cần sự giúp đỡ quốc tế.

Về các dịch vụ pháp lý: các công ty luật nước ngoài có thể cung cấp các
dịch vụ liên quan đến luật của Trung Quốc hay có thể cung cấp các thông tin cho
khách hàng về môi trường pháp lý của Trung Quốc. Yêu cầu về kinh nghiệm của
các luật sư được giảm xuống, kinh nghiệm thực hành không cần liên tục và thời
gian yêu cầu đối với các luật sư được giảm từ 3 năm xuống còn 2 năm.
Ngoài ra, Trung Quốc và EU còn đạt được một số thoả thuận về các vấn
đề khác như: sau khi Trung Quốc gia nhập WTO được 3 năm, các công ty nước
ngoài thuộc EU được nắm 49% cổ phần trong các công ty liên doanh viễn thông
và bảo hiểm tại Trung Quốc; các thương gia EU được phép đưa vào 20% lượng
nhập khẩu dầu mỏ của Trung Quốc.
Các quan chức của EU cho rằng, việc ký kết hiệp định này sẽ là “chìa
khoá mở đường đưa các doanh nghiệp châu Âu vào làm ăn tại thị trường Trung
Quốc” [21, tr.66]. Ngoài ra, hiệp định này còn giúp hàng hoá của Trung Quốc
trong đó có nhiều mặt hàng quan trọng như nông sản, dệt may, điện tử… có điều
kiện thâm nhập sâu hơn vào thị trường EU. Hoạt động xuất khẩu hàng dệt may
hiện mang lại cho Trung Quốc nguồn thu lớn. Năm 1999 Trung Quốc thu về hơn
41 tỷ USD từ xuất khẩu hàng dệt bằng 21% tổng kim ngạch xuất khẩu cả nước
trong năm 1999. Trung Quốc dự kiến sẽ tăng công suất gia công sợi để phục vụ
ngành dệt từ mức 9 - 10 triệu tấn trong năm 2000 lên khoảng 13 triệu tấn vào
năm 2005, khi đó kim ngạch xuất khẩu của ngành dệt may Trung Quốc có thể
đạt 60 - 65 tỷ USD.
1.1.1.3 Đàm phán Trung Quốc –Thái Lan và nội dung những thoả thuận
Thương mại Thái Lan - Trung Quốc năm 2000 đạt mức 5,79 tỷ USD,
trong đó xuất khẩu từ Thái Lan sang Trung Quốc là 2,56 tỷ USD. Cho đến đầu
năm 2002 Thái Lan đã đầu tư vào Trung Quốc khoảng 26 nghìn dự án với tổng
số vốn khoảng 2,8 tỷ USD. Đầu tư của Thái Lan vào Trung Quốc chủ yếu tập


trung ở các thành phố Tây Nam và Duyên Hải Trung Quốc. Hầu hết những đầu
tư trong nông nghiệp tập trung vào sản xuất thức ăn gia súc, sản xuất bia và chế

biến lương thực, thực phẩm.
Trung Quốc và Thái Lan bắt đầu thực hiện đàm phán song phương từ năm
1994. Thái Lan yêu cầu Trung Quốc giảm thuế đánh vào các mặt hàng Trung
Quốc nhập khẩu từ Thái Lan và Trung Quốc phải mở cửa tự do cho các nhà đầu
tư Thái Lan trong các lĩnh vực du lịch, khách sạn, nhà hàng, đồng thời các nhà
đầu tư Thái Lan còn có thể nắm lượng cổ phần lớn. Cho đến ngày Trung Quốc
được chính thức trở thành thành viên của WTO, hai bên đã thực hiện đến 15 lần
bàn bạc, trao đổi, cuối cùng, ngày 10/3/2000 Thái Lan và Trung Quốc đã ký
được Hiệp định Thương mại và đạt được thoả thuận về việc Trung Quốc gia
nhập WTO.


* Những nội dung chính của thoả thuận
Trung Quốc sẽ dành cho Thái Lan những ưu đãi chung về thuế trong các
hoạt động thương mại, đầu tư vào các ngành dịch vụ và du lịch như với các quốc
gia khác là thành viên WTO.
 Về thương mại: Trung Quốc chấp nhận giảm thuế đối với 136 mặt hàng
của Thái Lan, tính chung mức thuế bình quân giảm từ 30,2% xuống còn 13,1%.
Trong số 136 mặt hàng nói trên có 39 mặt hàng nông sản, 12 mặt hàng thuỷ sản
và 80 mặt hàng công nghiệp. Mức thuế của những mặt hàng này sẽ giảm theo hai
giai đoạn: giai đoạn 1 giảm từ 37,6% xuống còn 30,2%; giai đoạn 2 giảm xuống
còn 13,1%. Những thay đổi thuế suất đặc biệt đối với một số nông sản xuất khẩu
từ Thái Lan sang Trung Quốc như sau: nông sản giảm từ 41,9% xuống còn
16,9%; bột sắn giảm từ 10-20% xuống còn 5-10%; quả vải giảm từ 30% xuống
12%; dứa hộp giảm từ 30% xuống còn 15%; tôm đông lạnh giảm từ 22,9%
xuống còn 10,3%. Riêng với mặt hàng gạo, Trung Quốc điều chỉnh từ chế độ


hạn ngạch quy định khối lượng nhập khẩu từ từng nước sang chế độ hạn ngạch
thuế trung. Thời gian thực hiện cam kết giảm thuế hầu hết là đến năm 2004. Đặc

biệt Trung Quốc đã cho phép tư nhân nhập khẩu gạo và các sản phẩm từ Thái
Lan với khoảng 50% tổng mức hạn ngạch thay cho việc chính phủ vẫn độc
quyền làm việc này trước đó.
 Về dịch vụ: Trung Quốc đồng ý mở cửa cho các nhà đầu tư Thái Lan
trong các lĩnh vực trên. Sau khi gia nhập WTO được 4 năm, Trung Quốc sẽ cho
phép các nhà đầu tư Thái Lan nắm 100% cổ phần ở các chi nhánh của các loại
dịch vụ này. Tuy nhiên, Trung Quốc chưa cho phép đưa nhân viên bình thường
của Thái Lan vào hoạt động trong lĩnh vực khách sạn, nhà hàng trừ việc thuyên
chuyển tạm thời các cán bộ quản lý, các bếp trưởng và các chuyên gia khác.
 Về du lịch: Trung Quốc cho phép người Thái Lan được hoạt động theo
quy định và khi liên doanh với các đối tác Trung Quốc được lập văn phòng
hướng dẫn du lịch ở các thành phố lớn của Trung Quốc như Quảng Châu,
Thượng Hải… Sau khi Trung Quốc gia nhập WTO được 3 năm, người Thái Lan
có thể nắm cổ phần lớn trong các công ty du lịch, nhưng Trung Quốc chưa cho
phép các công ty này tổ chức đưa du khách Trung Quốc đi du lịch nước ngoài.
Như vậy, theo đánh giá Thái Lan sẽ có thêm rất nhiều cơ hội để tăng xuất
khẩu đặc biệt là hàng nông sản sang Trung Quốc, đáng chú ý là những mặt hàng
sau đây:
 Gạo: là một trong những mặt hàng xuất khẩu quan trọng của Thái Lan.
Sau khi Trung Quốc và Thái Lan ký kết hiệp định thương mại song phương, các
nhà xuất khẩu gạo của Thái Lan đã có thêm nhiều cơ hội khi Trung Quốc tăng
hạn ngạch xuất khẩu gạo và số lượng hạn ngạch này tăng thêm hàng năm. Thị
trường Trung Quốc tiêu thụ khoảng 100 triệu tấn gạo mỗi năm. Trung Quốc là
thị trường tiêu thụ gạo lớn thứ 4 của Thái Lan. Theo kế hoạch mới, một nửa hạn
ngạch nhập khẩu gạo của Trung Quốc sẽ cấp cho khu vực tư nhân. Tuy nhiên
hiện nay chế độ hạn ngạch mới sẽ dựa trên cơ sở “ai đến trước thì phục vụ trước”


[21, tr.70]. Gạo của Thái Lan có chất lượng khá tốt, đường vận chuyển từ Thái
Lan sang Trung Quốc lại gần, do vậy sẽ có thêm nhiều cơ hội cho các nhà xuất

khẩu Thái Lan tiêu thụ gạo trên thị trường Trung Quốc.
 Bột sắn: việc Trung Quốc nhập khẩu là điều có lợi cho các sản phẩm bột
sắn của Thái Lan. Sau khi ký kết hiệp định thương mại, thuế nhập khẩu tinh bột
sắn và bột sắn viên giảm tương ứng còn 20% và 10% vào năm 2003, tiếp đó
giảm xuống 10-5% vào năm 2004. Bột sắn Thái Lan chiếm 50% tổng khối lượng
bột sắn nhập khẩu vào Trung Quốc. Trung Quốc là thị trường nhập khẩu bột sắn
lớn thứ tư của Thái Lan vào năm 2001. Xuất khẩu bột sắn của Thái Lan vào
Trung Quốc có triển vọng tăng nhanh.
 Tôm: trong thời gian 1997-2000, mỗi năm Thái Lan xuất khẩu 13.650
tấn tôm đông lạnh, trị giá gần 100 triệu USD sang Trung Quốc. Từ năm 2001, do
Trung Quốc giảm thuế nhập khẩu với mức độ lớn (từ 30 - 35% xuống còn 10 -
20%) nên xuất khẩu tôm đông lạnh sang Trung Quốc gia tăng nhanh.
 Trái cây: Trung Quốc là thị trường nhập khẩu trái cây lớn thứ 6 của
Thái Lan trong năm 2001. Các loại trái cây xuất khẩu từ Thái Lan sang Trung
Quốc bao gồm nhãn tươi và khô, măng cụt, xoài và hạt điều. Thuế nhập khẩu trái
cây vào Trung Quốc giảm mạnh (còn 30% năm 2003 và 20% vào năm 2004), do
vậy các nhà xuất khẩu Thái Lan được lợi rất nhiều và số lượng xuất khẩu loại
sản phẩm này vào thị trường Trung Quốc được tăng lên rất nhiều.
1.1.2 Đàm phán đa phƣơng
1.1.2.1 Các giai đoạn đàm phán
Quá trình đàm phán đa phương gia nhập GATT/WTO của Trung Quốc có
thể được chia thành 4 giai đoạn với những nội dung chính như sau:
 Giai đoạn 7/1986-5/1989: trong giai đoạn này, nội dung và phạm vi đàm
phán tập trung vào 5 vấn đề chính là: thực thi rõ ràng và thống nhất các chính
sách thương mại; cắt giảm thuế quan; các biện pháp phi thuế quan; thời gian biểu
cải cách giá cả; các điều khoản bảo đảm mang tính chọn lựa.


Với những yêu cầu và nội dung như trên là tương đối hẹp, hầu hết các vấn
đề đề cập chỉ tập trung vào thể chế quản lý thương mại (mở cửa thị trường

thương mại hàng hoá và tự do hoá thương mại) của Trung Quốc, chưa đề cập
toàn diện đến vấn đề quyền sở hữu trí tuệ, biện pháp đầu tư và thị trường thương
mại dịch vụ. Trong giai đoạn này, Trung Quốc đã tiến hành hơn 10 cuộc thương
lượng song phương với các bên tham gia ký kết chủ yếu, về cơ bản đã đạt được
thoả thuận trong những vấn đề chính của việc Trung Quốc gia nhập GATT.
Thông qua 7 lần hội nghị, nhóm công tác Trung Quốc đã cơ bản kết thúc trả lời
chất vấn và đánh giá về thể chế ngoại thương của Trung Quốc. Đến cuối năm
1989, về cơ bản đã kết thúc đàm phán. Nghị định thư về việc Trung Quốc tái gia
nhập GATT đã được khởi thảo trên giấy. Về cơ bản Trung Quốc đã đạt được
những thoả thuận chung cả trong đàm phán đa và song phương. Việc gia nhập
GATT của Trung Quốc lúc đó tưởng như đã kết thúc.
Tuy nhiên do sự kiện Thiên An Môn (4/6/1989), nhiều nước phương Tây
đã thực hiện cấm vận kinh tế Trung Quốc, và coi việc tạm thời không cho Trung
Quốc gia nhập GATT là một nội dung chính trong các chính sách đối với Trung
Quốc. Kết thúc giai đoạn này, cơ hội đối với Trung Quốc tưởng như nằm trong
tay đã bị tuột mất.
 Giai đoạn 1989-1992: nhóm công tác mở hội nghị lần thứ 8, thứ 9 và
thứ 10 được xem là giai đoạn 2 của quá trình đàm phán về việc Trung Quốc gia
nhập GATT. Tuy nhiên cả 3 lần hội nghị chỉ mang tính hình thức, không có tiến
triển. Các nước phương Tây vẫn giữ thái độ thù địch với Trung Quốc.
Bên cạnh đó, còn một số nguyên nhân khác dẫn đến đàm phán gia nhập
GATT của Trung Quốc bị trì trệ, đó là:
Do kinh tế phát triển quá nóng, lạm phát cao, Trung Quốc đã thực hiện
chương trình “chỉnh đốn trật tự kinh tế ” (1989-1991), xoá bỏ hoặc tạm dừng áp
dụng một số biện pháp thị trường … do vậy, các nước phương Tây cho rằng đó
là sự giật lùi của cải cách.


Vòng đàm phán Urugoay rơi vào bế tắc, cuộc chiến về nông sản hàng hóa
giữa Mỹ và Châu Âu đạt đến cao trào, các bên không còn thời giờ để quan tâm

đến vấn đề Trung Quốc.
Giai đoạn 1992-1995: Trung Quốc có nhiều bước tiến mạnh mẽ về cải
cách. Các nước phương Tây ngừng cấm vận kinh tế Trung Quốc, đàm phán được
khôi phục trở lại. Tuy nhiên, trong giai đoạn đàm phán này, các nước phương
Tây không chỉ đề cập đến quản lý thương mại, các biện pháp thuế quan và phi
thuế quan mà còn đề cập đến các vấn đề quyền sở hữu trí tuệ, mở cửa thị trường
dịch vụ, thương mại nông sản, chính sách thuế, kiểm tra tư pháp…khiến cho
đàm phán gặp nhiều khó khăn. Các cuộc đàm phán phải đứng trước một thể chế
kinh tế - thương mại đang thay đổi, vấn đề đàm phán ngày càng nhiều thêm,
càng đàm phán nội dung càng rộng, càng đàm phán thì quyền lợi của phía Trung
Quốc càng mơ hồ. Dường như Trung Quốc càng cải cách mạnh mẽ, càng hoàn
thiện thể chế kinh tế thương mại thì càng đi xa khỏi mục tiêu và các yêu cầu gia
nhập GATT.
Giai đoạn 1995-2001: chuyển từ đàm phán tái gia nhập GATT sang
đàm phán gia nhập WTO. Ngày 11/7/1995, Trung Quốc chính thức nộp đơn xin
gia nhập WTO, đến tháng 11/1995, nhóm công tác về vấn đề Trung Quốc gia
nhập GATT đổi tên thành nhóm công tác về Trung Quốc gia nhập WTO và đến
tháng 3/1996 đã mở hội nghị nhóm công tác lần thứ nhất. Trong thời kỳ này,
Trung Quốc đã có nhiều nỗ lực trong giảm thuế, loại bỏ dần những hàng rào phi
thuế quan, mở cửa thị trường thương mại dịch vụ… làm cho trình độ tự do hoá
kinh tế của nước này tăng lên. Các bên đàm phán chủ yếu với Trung Quốc một
mặt đặt nhiều yêu cầu, điều kiện cho Trung Quốc nhưng mặt khác lại không
muốn cho người khác nhanh chân hơn mình chiếm lĩnh mất thị trường lớn và
béo bở này. Do vậy từ giữa tháng 11/1999, lần lượt Mỹ, Canada, EU… đều đạt
được các thoả thuận thương mại với Trung Quốc.

×