Tải bản đầy đủ (.pdf) (87 trang)

Các giải pháp nâng cao năng lực cạnh tranh của công ty giao nhận kho vận ngoại thương (Vietrans) trong quá trình hội nhập

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (552.5 KB, 87 trang )



BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC NGOẠI THƯƠNG
***





NGUYỄN THỊ LAN HƯƠNG





CÁC GIẢI PHÁP NÂNG CAO NĂNG LỰC CẠNH TRANH CỦA
CÔNG TY GIAO NHẬN KHO VẬN NGOẠI THƯƠNG
(VIETRANS) TRONG QUÁ TRÌNH HỘI NHẬP


Chuyên ngành: Quản trị kinh doanh
Mã số : 60.340.5

LUẬN VĂN THẠC SỸ QUẢN TRỊ KINH DOANH











Hà Nội, tháng 5-2007


MỤC LỤC

Trang
MỤC LỤC

DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
5
DANH MỤC BẢNG VÀ HÌNH
6
LỜI MỞ ĐẦU
7
CHƢƠNG 1: BỐI CẢNH CẠNH TRANH CỦA CÁC DOANH
NGHIỆP GIAO NHẬN VẬN TẢI VIỆT NAM.

10
1.1. Hội nhập kinh tế quốc tế
10
1.1.1. Việt Nam hội nhập kinh tế quốc tế- Các nhân tố ảnh hưởng
đến doanh nghiệp giao nhận vận tải Việt Nam

12
1.1.1.1. Các nhân tố quốc tế
12

1.1.1.2. Các nhân tố trong nước
13
1.1.2. Cơ hội và thách thức
14
1.1.2.1. Cơ hội đối với các doanh nghiệp giao nhận vận tải Việt
Nam

15
1.1.2.2.Thách thức đối với các doanh nghiệp giao nhận vận tải Việt
Nam

16
1.1.3. Tình hình chung của các doanh nghiệp giao nhận vận tải Việt
Nam

17
1.1.3.1. Doanh nghiệp giao nhận vận tải: khái niệm, nội dung hoạt
động

17
1.1.3.2. Tình hình chung của các doanh nghiệp giao nhận vận tải
Việt Nam

22
1.2. Sự cần thiết phải nâng cao năng lực cạnh tranh của doanh
nghiệp giao nhận vận tải trong quá trình hội nhập

23
1.2.1.Khái niệm về cạnh tranh, năng lực cạnh tranh
23


2
1.2.1.1.Cạnh tranh
23
1.2.1.2. Năng lực cạnh tranh
27
1.2.2.Sự cần thiết phải nâng cao năng lực cạnh tranh của doanh
nghiệp giao nhận vận tải Việt Nam

28
1.3. Các yếu tố cấu thành năng lực cạnh tranh của các doanh
nghiệp giao nhận vận tải Việt Nam

29
1.3.1. Chiến lược kinh doanh của doanh nghiệp
30
1.3.2. Quy mô của doanh nghiệp
32
1.3.3. Năng lực quản lý và điều hành kinh doanh
33
1.3.4. Khả năng nắm bắt thông tin
33
1.3.5. Trình độ công nghệ
34
1.3.6. Chất lượng nhân lực
34
1.3.7. Uy tín và thương hiệu của doanh nghiệp
35
1.3.8. Khả năng hợp tác hữu hiệu với đại lý
36

1.3.9. Thị phần doanh nghiệp và tốc độ tăng trưởng
36
1.3.10. Chất lượng dịch vụ và giá cả
37
1.4. Ngành giao nhận vận tải Việt Nam
38
CHƢƠNG 2: THỰC TRẠNG NĂNG LỰC CẠNH TRANH
CỦA CÔNG TY GIAO NHẬN KHO VẬN NGOẠI THƢƠNG –
VIETRANS TRONG THỜI GIAN 10 NĂM QUA (1996-2006)


42
2.1. Tình hình Công ty Giao nhận kho vận ngoại thƣơng trong
thời gian 10 năm qua ( 1996-2006)

42
2.1.1. Giới thiệu về Công ty Giao nhận kho vận ngoại thương
42
2.1.2. Tình hình kinh doanh của Công ty Giao nhận kho vận ngoại
thương trong thời gian vừa qua

44
2.2. Phân tích, đánh giá thực trạng năng lực cạnh tranh của
VIETRANS trong thời gian 10 năm qua (1996-2006)

48

3
2.2.1. Chiến lược kinh doanh của Công ty
48

2.2.2. Quy mô của Công ty
49
2.2.3. Năng lực quản lý và điều hành kinh doanh
50
2.2.4. Khả năng nắm bắt thông tin
51
2.2.5. Trình độ công nghệ
51
2.2.6. Chất lượng nhân lực
52
2.2.7. Uy tín và thương hiệu
52
2.2.8. Khả năng hợp tác hữu hiệu với đại lý
52
2.3. Các biện pháp cạnh tranh của VIETRANS
53
2.4. Định vị VIETRANS trên thị trƣờng Việt Nam
54
2.5. Kết luận về năng lực cạnh tranh của VIETRANS
59
CHƢƠNG 3: PHƢƠNG HƢỚNG VÀ GIẢI PHÁP NHẰM
NÂNG CAO NĂNG LỰC CẠNH TRANH CỦA VIETRANS
TRONG THỜI GIAN TỚI


62
3.1. Xu hƣớng phát triển của ngành logistics Việt Nam trong 10
năm tới

62

3.2. Quan điểm, phƣơng hƣớng nâng cao năng lực cạnh tranh
của VIETRANS trong thời gian tới

64
3.2.1. Định hướng: Phát triển VIETRANS thành 1 tập đoàn logistics
65
3.2.2. Quan điểm, phương hướng nâng cao năng lực cạnh tranh
66
3.3. Một số giải pháp nâng cao năng lực cạnh tranh của
VIETRANS trong thời gian tới

67
3.3.1. Nâng cao chất lượng hoạt động kinh doanh
67
3.3.1.1. Nâng cao chất lượng sản phẩm dịch vụ- Giành/giữ thị phần
và mở rộng thị trường

67
3.3.1.2. Nâng cao chất lượng thời gian
68
3.3.1.3. Nâng cao chất lượng không gian
69

4
3.3.1.4. Nâng cao chất lượng thương hiệu
70
3.3.1.5. Nâng cao chất lượng quan hệ với khách hàng
72
3.3.1.6. Nâng cao chất lượng giá cả
73

3.3.2. Tăng cường công tác marketing
74
3.3.3. Đối mới cơ cấu tổ chức quản lý
75
3.3.4. Nâng cao chất lượng nguồn nhân lực
76
3.3.5. Nâng cấp hệ thống thông tin, áp dụng công nghệ thông tin
trong hoạt động điều hành quản lý kinh doanh

77
3.3.5.1. Nâng cấp hệ thống thông tin
77
3.3.5.2. Áp dụng công nghệ thông tin trong quản lý điều hành kinh
doanh

79
3.3.6. Xây dựng nền văn hoá doanh nghiệp
79
3.4. Một số kiến nghị với cơ quan quản lý nhà nƣớc
81
KẾT LUẬN
82
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO


84












5
DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT

ADB : Ngân hàng phát triển châu Á
AFTA : Khu vực mậu dịch tự do châu Á
APEC : Diễn đàn hợp tác kinh tế Châu Á- Thái Bình Dương
ASEAN : Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á
ASEM : Diễn đàn kinh tế châu Á
CIF : Điều kiện mua hàng gồm giá+ phí bảo hiểm+ cước vận tải
EU : Liên minh châu Âu
FOB : Điều kiện mua hàng Giao hàng trên boong
IMF : Quỹ tiền tệ quốc tế
WB : Ngân hàng thế giới
WTO : Tổ chức Thương mại thế giới















6
DANH MỤC BẢNG VÀ HÌNH

Thứ tự Tên bảng Trang

Bảng 1.1: Những dịch vụ của người giao nhận……………… ……20
Hình 1.2: Quan hệ của người giao nhận với các bên………………21
Bảng 2.1: Hệ thống kho của VIETRANS……………………….…45
Bảng 2.2: Năng lực tài chính của Công ty VIETRANS………… 46
Hình 2.3: Năm lực lượng cạnh tranh của Micheal Porter………….54
Hình 2.4: Định vị VIETRANS trên thị trường Việt nam……….….59
Hình 3.1: Các thành phần của dịch vụ logistics……………………63


















7
LỜI MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Hội nhập là một xu thế tất yếu trong nền kinh tế toàn cầu hoá hiện nay.
Việt Nam cũng đã gia nhập Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO), đã tham
gia vào sân chơi chung của nền kinh tế thế giới, các doanh nghiệp Việt Nam
cũng không thể đứng ngoài cuộc. Vấn đề đặt ra là làm sao các doanh nghiệp
Việt Nam đủ sức đứng vững, cạnh tranh được với các công ty nước ngoài
ngay trên thị trường Việt Nam.
Trong những năm qua, thực hiện đường lối đổi mới, nền kinh tế nước ta
đã đạt được sự tăng trưởng khá, các nhân tố tạo thành năng lực cạnh tranh của
nền kinh tế đã phát huy tốt vai trò của mình, một số doanh nghiệp đã bắt đầu
vươn ra cạnh tranh với các doanh nghiệp nước ngoài. Tuy nhiên theo đánh giá
của các tổ chức nước ngoài thì năng lực cạnh tranh của nền kinh tế nước ta
nói chung và các doanh nghiệp, hàng hoá và dịch vụ so với thế giới còn thấp
kém và chậm được cải thiện. Theo đánh giá của Diễn đàn kinh tế thế giới về
chỉ số cạnh tranh của nền kinh tế, năm 1998, Việt Nam xếp thứ 43/53 nước
được xem xét, năm 1999 là 50/59, năm 2000 là 51/59, năm 2001 là 62/75,
năm 2002 là 60/80, năm 2006 là 77/125 quốc gia. Các chỉ số cạnh tranh của
hàng hoá và dịch vụ còn kém hơn.
Ngành giao nhận vận tải Việt Nam tuy không phải là ngành non trẻ
nhưng trước sự cạnh tranh gay gắt của các công ty nước ngoài cũng phải đối
mặt với không ít khó khăn. Các doanh nghiệp giao nhận vận tải cũng vậy,
nhất là đối với VIETRANS- một công ty giao nhận vận tải của nhà nước thì
càng phải cần thiết nâng cao năng lực cạnh tranh để đứng vững và phát triển
trong giai đoạn hiện nay. Vì vậy, đề tài: “Các giải pháp nâng cao năng lực

cạnh tranh của VIETRANS trong quá trình hội nhập” được chọn để

8
nghiên cứu nhằm tìm ra các giải pháp nâng cao năng lực cạnh tranh cho công
ty này trong tình hình cạnh tranh gay gắt như hiện nay.
2. Tình hình nghiên cứu
Quá trình nghiên cứu được tiến hành dựa trên tình hình hoạt động của
Công ty thời gian gần đây trong bối cảnh cạnh tranh gay gắt từ các doanh
nghiệp trong nước cũng như các doanh nghiệp nước ngoài khi Việt Nam hội
nhập vào nền kinh tế thế giới.
3. Mục đích nghiên cứu
Đề tài này thực hiện nhằm nghiên cứu thực trạng năng lực cạnh tranh của
VIETRANS trong quá trình hội nhập hiện nay và đề xuất các giải pháp nhằm
nâng cao năng lực cạnh tranh của công ty này trên thị trường trong nước và
quốc tế.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của đề tài này là thực trạng cạnh tranh của Công ty
VIETRANS, và các nhân tố tạo nên năng lực cạnh tranh của Công ty này.
5. Phƣơng pháp nghiên cứu
Đề tài vận dụng tổng hợp nhiều phương pháp nghiên cứu khác nhau.
Phương pháp nghiên cứu chủ đạo là phương pháp duy vật biện chứng của chủ
nghĩa Mác- Lênin, phương pháp phân tích, tổng hợp, so sánh, khái quát hoá
cũng được sử dụng kết hợp hoặc độc lập trong việc giải quyết từng vấn đề đặt
ra trong đề tài.
6. Cấu trúc luận văn
Căn cứ vào mục đích của luận văn, ngoài lời mở đầu, kết luận và danh
mục tài liệu tham khảo, Luận văn gồm 03 chương:
Chƣơng 1: Bối cảnh cạnh tranh của các doanh nghiệp giao nhận vận tải
Việt Nam


9
Chƣơng 2: Thực trạng năng lực cạnh tranh của Công ty Giao nhận Kho
vận ngoại thƣơng – VIETRANS trong 10 năm qua.
Chƣơng 3: Phƣơng hƣớng và giải pháp nâng cao năng lực cạnh tranh của
VIETRANS trong thời gian tới.























10
CHƢƠNG 1: BỐI CẢNH CẠNH TRANH CỦA CÁC DOANH

NGHIỆP GIAO NHẬN VẬN TẢI VIỆT NAM
1. Hội nhập kinh tế quốc tế:
Tự do hoá thương mại là một xu thế tất yếu khi lực lượng sản xuất vượt
ra khỏi biên giới một quốc gia, trở thành lực lượng sản xuất quốc tế. Sự phát
triển nhanh chóng của thương mại thế giới theo hướng tự do hoá đã trở thành
nhân tố quan trọng thúc đẩy sự tăng trưởng kinh tế thế giới, thúc đẩy quá trình
toàn cầu hoá và khu vực hoá.
Từ nửa cuối thế kỷ XX toàn cầu hoá và hội nhập kinh tế quốc tế trở hành
xu thế mạnh mẽ. Thậm chí Hội nghị lần thứ 29 của Diễn đàn kinh tế thế giới
tại Davos (Thụy Sỹ) (28/1-2/2/1999) người ta khẳng định toàn cầu hoá không
còn là xu thế nữa mà đã trở thành một thực tế. Xu thế này cuốn hút tất cả các
nước, từ giàu đến nghèo, từ lớn đến nhỏ hội nhập vào nền kinh tế thế giới.
Hội nhập là một yếu tố của phát triển. Nước nào không hội nhập thì không có
cơ hội phát triển. Những nước hội nhập tốt, sâu rộng thì phát triển tốt.
Việt Nam bước vào thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá, phát triển
kinh tế, vì vậy chọn con đường hội nhập kinh tế quốc tế là quyết tâm của
Đảng và Chính phủ đã được khẳng định trong các Nghị quyết Đại hội Đảng,
Nghị quyết Trung ương, Nghị quyết 07 của Bộ Chính trị và các Chỉ thị,
chương trình hành động của Chính phủ [2, tr34].
Hội nhập kinh tế quốc tế là trình độ cao của quan hệ hợp tác kinh tế quốc
tế. Hội nhập có nghĩa là gia nhập, tham gia vào một tổ chức chung, một trào
lưu chung của quốc tế, mỗi quốc gia trở thành một bộ phận trong một tổng
thể. Hội nhập kinh tế thường có nhiều mức độ từ nông đến sâu, từ một vài
lĩnh vực đến nhiều lĩnh vực, từ một vài nước đến nhiều nước. Tổ chức
Thương mại thế giới (WTO) là một tổ chức toàn cầu, Liên minh châu Âu
(EU) là một tổ chức khu vực có mức độ kinh tế sâu trên nhiều lĩnh vực và là

11
liên minh kinh tế lớn nhất trên thế giới. Trên con đường hội nhập, Việt Nam
đã tham gia ASEAN, APEC, ASEM, bình thường hoá quan hệ với ADB, WB,

IMF, và đặc biệt là gia nhập vào Tổ chức Thương mại thế giới (WTO).
Lợi ích do hội nhập và tự do hoá mang lại ngày càng lớn nên bên cạnh
xu hướng toàn cầu hoá đồng thời phát triển mạnh xu hướng khu vực hoá. Biểu
hiện của xu hướng này là sự hình thành nhanh và nhiều các Khu vực thương
mại tự do (FTAs) và các Thoả thuận Thương mại khu vực (RTAs). FTAs và
RTAs có mức độ ưu đãi và tự do hoá thương mại cao hơn quy chế tối huệ
quốc (MFN) kéo theo những thay đổi lớn trong cục diện thương mại khu vực
và trên thế giới. Tính đến tháng 5/2003 đã có khoảng 250 hiệp định thương
mại tự do song phương (BTAs) và khu vực đã được thông báo cho WTO. Đến
cuối năm 2005 con số này đã tăng lên thành 300 [2, tr37].
Hội nhập đòi hỏi các nước phải tiến hành cải cách, đổi mới kinh tế trong
nước. Xu hướng hội nhập kinh tế quốc tế hiện nay tạo ra sức ép các nước phải
tiến hành mở cửa, tự do hoá để hội nhập mạnh hơn, nhanh hơn. Nước ta nếu
không cùng nhịp với các nước trong khu vực thì sẽ có nguy cơ tụt hậu và chịu
những thua thiệt của người đi sau.
“Hội nhập kinh tế thì mỗi quốc gia vẫn tồn tại với tư cách là quốc gia
độc lập, tự chủ, tự nguyện lựa chọn các lĩnh vực và tổ chức thích hợp để hội
nhập. Tuy nhiên, khi đã gia nhập thì phải tuân thủ các nguyên tắc chung, phải
thực hiện quyền lợi và nghĩa vụ của một thành viên, phải điều chỉnh chính
sách của mình cho phù hợp với luật chơi chung” [2, tr34].
Vì vậy mà hội nhập cũng tạo ra áp lực cạnh tranh mạnh hơn, gay gắt
hơn. Thuận lợi hoá, tự do hoá thương mại tạo ra nhiều đối tác cạnh tranh trên
cùng một thị trường, ngay cả thị trường nội địa.
Trên cơ sở đó, xem xét các nhân tố ảnh hưởng đến doanh nghiệp giao
nhận vận tải Việt Nam như sau:

12
1.1.1. Việt Nam hội nhập kinh tế quốc tế- Các nhân tố ảnh hưởng đến
doanh nghiệp giao nhận vận tải Việt Nam:
Sức cạnh tranh của doanh nghiệp là khả năng vượt qua các đối thủ cạnh

tranh để duy trì và phát triển bản thân doanh nghiệp. Thông thường, người ta
đánh giá khả năng này thông qua các yếu tố nội tại doanh nghiệp như: quy
mô, khả năng tham gia và rút khỏi thị trường, sản phẩm, dịch vụ, năng lực
quản lý, năng suất lao động, v.v…. Tuy nhiên, khả năng này lại bị tác động
đồng thời bởi nhiều yếu tố bên ngoài ở trong nước và quốc tế. Vì vậy, khi xét
đến năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp, phải xét đến các nhân tố ảnh
hưởng đến nó như các nhân tố quốc tế và các nhân tố trong nước
1.1.1.1. Các nhân tố quốc tế:
- Các nhân tố thuộc về chính trị: Tuy khía cạnh chính trị là thuộc chủ quyền
nhà nước- chủ thể có khả năng phát hành tiền tệ, đánh thuế và định ra các luật
lệ quốc gia , nhưng vẫn có một số khía cạnh vượt ra khỏi biên giới quốc gia
và tác động không nhỏ đến môi trường kinh doanh và khả năng cạnh tranh
của doanh nghiệp trong điều kiện hội nhập hiện nay như:
+ Mối quan hệ giữa các chính phủ: mối quan hệ giữa các chính phủ tốt sẽ thúc
đẩy thương mại phát triển, tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp trong
kinh doanh
+ Các tổ chức quốc tế cũng đóng vai trò quan trọng trong sự phát triển và vận
dụng các chính sách biểu lộ nguyện vọng chính trị của các quốc gia thành
viên
+ Hệ thống luật pháp quốc tế, những hiệp định và thoả thuận được một loạt
các quốc gia tuân thủ có ảnh hưởng sâu rộng đến hoạt động kinh doanh quốc
tế. Mặc dù, có thể chúng không ảnh hưởng trực tiếp tới từng doanh nghiệp
riêng lẻ, nhưng chúng ảnh hưởng gián tiếp thông qua việc tạo ra môi trường
kinh doanh quốc tế ổn định và thuận lợi.

13
- Xu hướng phát triển và hội nhập kinh tế khu vực và toàn cầu hoá: Xu
hướng hội nhập kinh tế vùng, khu vực có ảnh hưởng quan trọng đối với các
công ty đang hoạt động trong các thị trường khu vực. Hội nhập kinh tế diễn ra
theo nhiều hình thức khác nhau, nhưng đặc biệt tập trung vào vấn đề hợp tác

kinh tế, được thiết lập để mang lại sự phụ thuộc kinh tế lẫn nhau nhiều hơn
giữa các quốc gia, như AFTA, EU và hội nhập đầy đủ nhất đối với một quốc
gia là gia nhập Tổ chức Thương mại thế giới.
Hầu hết các hình thức hội nhập kinh tế thường nhằm đưa ra sự thoả thuận
và thống nhất để giảm bớt các hàng rào thương mại giữa các thành viên tham
gia. Hội nhập giúp quá trình lưu thông hàng hoá và dịch vụ giữa các nước
ngày càng phát triển, vì những trở ngại như thuế quan, thủ tục xuất nhập khẩu,
các hạn chế mậu dịch…. được cố gắng giảm thiểu, thành tựu khoa học kỹ
thuật được sử dụng tối ưu và có hiệu quả hơn, quá trình toàn cầu hoá kinh tế
diễn ra nhanh hơn lại tác động trở lại vào tăng trưởng kinh tế của mỗi quốc
gia. Tuy nhiên, hội nhập còn đặt ra những thách thức đối với các doanh
nghiệp đó là phải chấp nhận chạy đua trong điều kiện cạnh tranh gay gắt hơn
để chiếm được vị trí trên thị trường.
- Đối thủ cạnh tranh quốc tế: Ngày nay sự bành trướng của các tập đoàn đa
quốc gia đang là mối đe doạ đối với doanh nghiệp trong nước. Các tập đoàn
này có lợi thế về vốn, kỹ thuật, kinh nghiệm tổ chức sản xuất kinh doanh,
kinh nghiệm cạnh tranh trên thương trường, sẽ có nhiều ưu thế trong cạnh
tranh. Ngược lại, những doanh nghiệp trong nước chưa có đủ kinh nghiệm
hoạt động trong ngành giao nhận vận tải sẽ phải gặp nhiều thách thức
1.1.1.2. Các nhân tố trong nước:
- Nhân tố kinh tế: Tốc độ tăng trưởng kinh tế cao sẽ làm cho thu nhập của
dân cư tăng, khả năng thanh toán cao dẫn tới sức mua tăng, thúc đẩy tiêu thụ
hàng hoá và dịch vụ, đây là cơ hội tốt cho các doanh nghiệp sản xuất, thương

14
mại cũng như dịch vụ giao nhận vận tải. Nếu doanh nghiệp nào nắm bắt được
điều này và có khả năng đáp ứng nhu cầu của khách hàng thì doanh nghiệp đó
sẽ thành công và có sức cạnh tranh cao. Ngược lại, khi nền kinh tế suy thoái,
sức mua giảm, sẽ làm gia tăng áp lực cạnh tranh và tạo ra nhiều “nguy cơ” đối
với doanh nghiệp

- Nhân tố về chính trị, pháp luật: Một thể chế chính trị, luật pháp rõ ràng,
rộng mở và ổn định sẽ là cơ sở đảm bảo sự thuận lợi, bình đẳng cho các
doanh nghiệp tham gia cạnh tranh và cạnh tranh có hiệu quả. Các văn bản
pháp luật, chính sách về thuế, về thủ tục xuất nhập khẩu có ảnh hưởng rất lớn
đến việc tác nghiệp của các doanh nghiệp giao nhận vận tải
- Trình độ khoa học và công nghệ: Nhân tố này quan trọng và có ý nghĩa
quyết định đến môi trường cạnh tranh và năng lực cạnh tranh của doanh
nghiệp. Dịch vụ giao nhận vận tải hiện nay cũng đòi hỏi cao về công nghệ, và
đây là yếu tố quyết định sự phản ứng nhanh nhạy của dịch vụ đối với yêu cầu
công việc đặt ra. Nếu doanh nghiệp giao nhận vận tải nắm bắt và đầu tư phát
triển tốt công nghệ sẽ có lợi thế cạnh tranh hơn hẳn so với các doanh nghiệp
khác
- Nhân tố về tâm lý “người tiêu dùng”-là chủ thể sử dụng dịch vụ. Hiện nay,
ở Việt Nam, các doanh nghiệp sản xuất chưa thật sự chú trọng dịch vụ giao
nhận vận tải đầu vào và phân phối sản phẩm giúp họ. Các doanh nghiệp nếu
nhập khẩu thì mua hàng giá CIF, còn nếu xuất khẩu thì bán theo giá FOB
cũng làm hạn chế thị trường dịch vụ giao nhận vận tải của các doanh nghiệp
giao nhận Việt Nam.
1.1.2. Cơ hội và thách thức:
Trong tiến trình hội nhập kinh tế khu vực và thế giới, nhận thức đầy đủ
những cơ hội cũng như những thách thức là bước đi đầu tiên giúp chuẩn bị tốt
việc ứng phó kịp thời, hiệu quả với những khó khăn có thể gặp phải.

15
1.1.2.1. Cơ hội đối với các doanh nghiệp giao nhận vận tải Việt Nam
- Cơ hội lớn nhất là mở rộng thị trường: quá trình hội nhập gắn liền với cắt
giảm và bãi bỏ thuế quan và các hạn chế thương mại khác làm cho hàng hoá,
dịch vụ lưu thông luân chuyển mạnh mẽ hơn. Cùng với dòng chảy của hàng
hoá là thị trường rộng mở cho dịch vụ giao nhận vận tải, thuê kho bãi.
- Môi trường kinh doanh được cải thiện: Hội nhập vào các tổ chức kinh tế,

thương mại khu vực và thế giới, Việt Nam phải thực hiện nghĩa vụ của một
thành viên, phải thực hiện các cam kết quốc tế, đòi hỏi phải sửa đổi, bổ sung,
điều chỉnh luật pháp, chính sách, cải cách hành chính cho phù hợp. Chính
điều đó làm cho môi trường kinh doanh được thông thoáng, rộng mở, các
doanh nghiệp hoạt động thuận lợi, dễ dàng hơn.
- Tiếp cận nhanh chóng công nghệ, kỹ thuật tiên tiến hiện đại thông qua con
đường chuyển giao công nghệ, liên doanh, liên kết, thu hút vốn đầu tư, nhờ
đó, các doanh nghiệp giao nhận vận tải Việt Nam có thể nâng cao chất lượng
dịch vụ của mình.
- Có điều kiện tham gia nhanh vào phân công lao động quốc tế theo các
công đoạn kinh doanh của các doanh nghiệp lớn. Với việc mở rộng quan hệ
thương mại quốc tế, sự vận động của các yếu tố nguồn lực cũng bắt đầu mang
tính chuyên môn hoá trên cấp độ quốc tế, các doanh nghiệp sản xuất chỉ tập
trung vào sản xuất, còn các công đoạn từ nhập khẩu, lưu kho bãi, vận chuyển
đầu vào, hay lưu kho và phân phối sản phẩm… đều có thể nhờ các doanh
nghiệp giao nhận vận tải làm một cách chuyên nghiệp và với giá cả hợp lý.
- Có khả năng tiếp cận, học tập những kinh nghiệm và kỹ năng quản lý tiên
tiến của thế giới. Một trong những điều kiện để thúc đẩy quá trình toàn cầu
hoá là sự phát triển của công nghệ thông tin-viễn thông. Kết quả của hệ thống
thông tin toàn cầu còn là điều kiện để nâng cao dân trí, mở rộng giao lưu giữa
các dòng văn hoá, tạo điều kiện thuận lợi tiếp xúc với một thế giới mở, nâng

16
cao năng lực đổi mới và hiện đại hoá công tác quản lý, trao đổi những tri thức
và kinh nghiệm đã được tìm tòi, đúc kết từ bao đời, hưởng thụ nền văn minh
nhân loại, tiết kiệm thời gian và nguồn lực. Đồng thời xu thế cạnh tranh của
nền kinh tế dựa trên trí tuệ, cũng là cơ hội tiềm tàng có nhiều hứa hẹn đối với
những nền kinh tế non trẻ.
1.1.2.2. Thách thức đối với các doanh nghiệp giao nhận vận tải Việt Nam
- Việt Nam phải mở cửa thị trường, do đó các doanh nghiệp Việt Nam buộc

phải cạnh tranh với các đối thủ mạnh nước ngoài ngay trên thị trường nội địa.
Các đối thủ cạnh tranh nước ngoài có kinh nghiệm về kinh doanh lĩnh vực
giao nhận vận tải hàng chục thậm chí hàng trăm năm, có ưu thế về trình độ
công nghệ, về khả năng tổ chức, quản lý, về quy mô có thể “qua mặt” các
doanh nghiệp trong nước một cách dễ dàng.
- Năng lực cạnh tranh của Việt Nam nói chung còn thấp ở cả ba cấp độ:
quốc gia, doanh nghiệp và sản phẩm. Theo đánh giá của Diễn đàn kinh tế thế
giới (WEF) về năng lực cạnh tranh toàn cầu của nền kinh tế (dựa trên 9 tiêu
chí đánh giá gồm thể chế, cơ sở hạ tầng, kinh tế vĩ mô, giáo dục và y tế phổ
thông, giáo dục đại học, hiệu quả thị trường, độ sẵn sàng về công nghệ, mức
độ hài lòng doanh nghiệp, mức độ sáng tạo) năm 2000 Việt Nam được xếp
hàng 51/59, năm 2001 là 62/75, năm 2002 là 60/80, năm 2003 là 60/102, năm
2006 là 77/125 quốc gia ,tụt năm bậc so với năm 2005. Như vậy, chỉ số cạnh
tranh quốc tế của Việt Nam ngày càng lùi xa vị trí xếp hạng đầu tiên trong
bảng. Trong khối ASEAN, Việt Nam chỉ xếp trên Campuchia (xếp thứ 103).
Singapore vẫn dẫn đầu về năng lực cạnh tranh trên toàn khối, tiếp theo lần
lượt là Malaysia (xếp thứ 26), Thái Lan (xếp thứ 35), Indonesia ( xếp thứ 50),
Philippines (xếp thứ 71). WEF không xếp hạng Brunei, Lào và Myanmar.
Theo đánh giá của Ngân hàng Thế giới (WB) và Công ty tài chính quốc tế
(IFC) về mức độ thuận lợi của môi trường kinh doanh, năm 2006 Việt Nam

17
được xếp hạng 104/175 nền kinh tế, tụt 6 bậc so với năm 2005. Xét trong khu
vực châu Á – Thái Bình Dương, Việt Nam chỉ xếp thứ 17/23 nền kinh tế, tụt
rất xa so với một số nước trong khu vực như Singapore (xếp thứ 1/23), Thái
Lan (xếp thứ 3/23), Malaysia (xếp thứ 4/23). Đây cũng là một dấu hiệu cho
thấy năng lực cạnh tranh quốc gia của Việt Nam chưa được cải thiện rõ nét,
thậm chí còn có xu hướng thụt lùi trên một số khía cạnh [3, tr. 31].
- Hệ thống pháp luật, chính sách, chế độ quản lý của Việt Nam chưa thống
nhất và đồng bộ, vẫn còn nhiều bất cập về khuôn khổ pháp lý và thể chế, về

cấu trúc thị trường và hành vi cạnh tranh. Quá trình hội nhập đòi hỏi phải có
sự điều chỉnh lớn về chính sách và pháp luật để phù hợp với các cam kết,
thông lệ và chuẩn mực quốc tế đảm bảo cho tự do cạnh tranh. Các doanh
nghiệp giao nhận vận tải vẫn gặp nhiều vướng mắc trong quá trình làm giao
nhận, làm chậm tiến độ công việc, làm giảm uy tín với khách hàng, giảm năng
lực cạnh tranh của chính doanh nghiệp.
Những cam kết của Việt Nam đối với hội nhập vào nền kinh tế khu vực và
thế giới là hết sức rõ ràng và không thể đảo ngược được. Vì vậy, thách thức
cạnh tranh ngày càng lớn đối với doanh nghiệp Việt Nam nói chung và doanh
nghiệp giao nhận vận tải nói riêng.
1.1.3. Tình hình chung của các doanh nghiệp giao nhận vận tải Việt Nam
1.1.3.1. Doanh nghiệp giao nhận vận tải: khái niệm, nội dung hoạt động
- Khái niệm:
Giao nhận vận tải là một hoạt động không thể thiếu trong lưu thông hàng
hoá từ người bán đến người mua. Thật vậy, giao nhận vận tải là thực hiện
hàng loạt công việc liên quan đến quá trình chuyên chở như bao bì, đóng gói,
lưu kho, đưa hàng ra cảng, làm thủ tục gửi hàng, xếp hàng lên tàu, vận tải
hàng hoá đến nơi giao hàng, dỡ hàng và giao hàng cho người nhận.

18
Theo quy tắc mẫu của Hiệp hội Giao nhận vận tải quốc tế (FIATA) về
dịch vụ giao nhận, dịch vụ giao nhận được định nghĩa như là bất kỳ loại dịch
vụ nào liên quan đến vận chuyển, gom hàng, lưu kho, bốc xếp, đóng gói hay
phân phối hàng hoá cũng như các dịch vụ tư vấn hay có liên quan đến các
dịch vụ trên, kể cả các vấn đề hải quan, tài chính, mua bảo hiểm, thanh toán,
thu thập chứng từ liên quan đến hàng hoá [17, tr.7].
Nói chung, giao nhận hàng hoá là tập hợp những nghiệp vụ, thủ tục có
liên quan đến quá trình vận tải nhằm thực hiện việc di chuyển hàng hoá từ nơi
gửi hàng (người gửi hàng) đến nơi nhận hàng (người nhận hàng) [17, tr.8].
Doanh nghiệp giao nhận vận tải là doanh nghiệp kinh doanh các loại

dịch vụ giao nhận hàng hoá trong xã hội, bao gồm hai loại: doanh nghiệp giao
nhận vận tải hàng hoá trong nước, khi các hoạt động của doanh nghiệp chỉ
diễn ra trên và trong phạm vi lãnh thổ đất nước; còn doanh nghiệp giao nhận
vận tải hàng hoá quốc tế khi các hoạt động của doanh nghiệp có những phần
việc diễn ra ngoài lãnh thổ đất nước.
Sản phẩm của doanh nghiệp giao nhận chính là các dịch vụ trong giao
nhận (dịch vụ giao nhận hàng hoá) mà doanh nghiệp giao nhận đóng vai trò
người giao nhận. Người giao nhận có thể làm dịch vụ một cách trực tiếp hoặc
thông qua đại lý hoặc thuê dịch vụ của người thứ ba.
- Nội dung hoạt động:
Dịch vụ giao nhận hàng hoá bao gồm bốn loại thông dụng hiện nay là:
+ Thay mặt người gửi hàng (người xuất khẩu): Theo những chỉ dẫn của
người gửi hàng, người giao nhận sẽ thu xếp các công việc liên quan đến việc
giao hàng cho người nhận hoặc người do người nhận chỉ định.

19
+ Thay mặt người nhận hàng (ngưòi nhập khẩu): theo chỉ dẫn của người
nhận hàng, người giao nhận sẽ thu xếp các dịch vụ lấy hàng từ người xuất
khẩu hoặc người chuyên chở của người gửi hàng và giao cho người nhận.
+ Dịch vụ hàng hoá đặc biệt: giao nhận vận chuyển hàng công trình cần
thiết bị chuyên dụng như vận chuyển máy móc nặng, thiết bị để xây dựng
những công trình lớn như sân bay, nhà máy hoá chất, nhà máy thuỷ
điện,v.v…; hàng quần áo treo trên móc, giao nhận vận chuyển hàng triển lãm
ở trong nước và nước ngoài,
+ Những dịch vụ khác: gom hàng hoặc chia hàng lẻ, tư vấn cho khách
hàng về các thủ tục liên quan đến quá trình giao nhận vận tải như chiến lược
xuất khẩu, những điều khoản thích hợp cần đưa vào hợp đồng mua bán ngoại
thương…
Người làm dịch vụ giao nhận vận tải hàng hoá vừa là một nhà vận tải đa
phương thức, vừa là nhà tổ chức, kiến trúc sư của vận tải. Họ phải lựa chọn

phương tiện, người vận tải thích hợp, tuyến đường thích hợp có hiệu quả kinh
tế nhất và đứng ra trực tiếp vận tải hay tổ chức thu xếp quá trình vận tải của
toàn chặng với nhiều loại phương tiện vận tải khác nhau như tàu thuỷ, máy
bay, ô tô… vận chuyển qua nhiều nước và chịu trách nhiệm trực tiếp với chủ
hàng [17].
Vì vậy, chủ hàng chỉ cần ký hợp đồng vận tải với người giao nhận là
hàng hoá được vận chuyển kịp thời từ kho của nhà xuất khẩu tới kho của nhà
nhập khẩu (door to door service).





20
Bảng 1.1. NHỮNG DỊCH VỤ CỦA NGƢỜI GIAO NHẬN

Tƣ vấn về
Đóng gói - Lựa chọn loại nguyên liệu để sử dụng
Tuyến đường - Chọn hành trình và phương tiện vận chuyển
Bảo hiểm - Loại bảo hiểm cần cho hàng hoá
Thủ tục hải quan - Khai báo hàng hoá xuất nhập khẩu
Chứng từ vận tải - Những chứng từ đi kèm (người chuyên chở)
Những quy định L/C - yêu cầu của ngân hàng
Ngƣời tổ chức về
Vận tải những lô hàng xuất nhập khẩu và quá cảnh
Gom hàng, vận tải hàng nặng và đặc bịêt-hàng công trình
Hàng nhập khẩu
Dỡ hàng khỏi phương tiện của người vận tải
Tháo dỡ hàng thu gom. Khai báo hải quan
Hàng xuất khẩu

Nhận hàng
Đóng gói và đánh ký mã hiệu
Lưu cước/ lưu khoang với người chuyên chở
Cấp chứng từ vận tải- chứng từ cước phí đi kèm
Giám sát giao hàng
Thông báo giao hàng cho khách hàng
Khai báo hải quan
Quá cảnh
Lấy mẫu
Đóng gói lại
Lưu kho hải quan ( dưới sự kiểm soát của hải quan)
Vận chuyển tiếp

Nguồn: Giáo trình Nghiệp vụ Giao nhận hàng hoá ESCAP


21

Chính phủ và các nhà đương cục khác

Các cơ quan cảng

Cơ quan hải quan

Kiểm soát xuất nhập
khẩu- Giám sát ngoại
hối vận tải/ Cấp giấy
phép y tế

Người gửi

người nhận


Người giao nhận

Người chuyên chở
và các đại lý
Chủ tàu
Người kinh doanh
vận tải bộ/ đường
sắt/ hàng không/
nội thuỷ
Người giữ kho
Tổ chức đóng gói
Đại lý
Ngân hàng





Người bảo hiểm
hàng hoá
Tố tụng
Người bảo hiểm
trách nhiệm


Hình 1.2.QUAN HỆ CỦA NGƢỜI GIAO NHẬN VỚI CÁC BÊN
Nguồn: Giáo trình Nghiệp vụ Giao nhận hàng hoá ESCAP


22
1.1.3.2. Tình hình chung của các doanh nghiệp giao nhận vận tải Việt Nam
Theo Hiệp hội Giao nhận kho vận Việt Nam (VIFFAS) thì hiện nay trên
lãnh thổ Việt Nam có khoảng 900 doanh nghiệp kinh doanh lĩnh vực giao
nhận vận tải thuộc các thành phần kinh tế khác nhau. Vốn đăng ký trung bình
khoảng 1,5 tỷ đồng, thời gian hoạt động trung bình là 5 năm. Các doanh
nghiệp chỉ mới đáp ứng được khoảng 25% khối lượng công việc trên thị
trường nội địa. Khó khăn lớn nhất mà các doanh nghiệp giao nhận vận tải Việt
Nam gặp phải là : quy mô tài chính, kỹ năng và công nghệ thấp, thiếu hiểu
biết về khách hàng và luật pháp quốc tế, hiểu biết hạn hẹp về những yêu cầu
của tiến trình hội nhập, hạ tầng cơ sở nghèo nàn và những hạn chế trong
khung pháp lý và chính sách về vận tải biển. Trong khi đó, yêu cầu về nghiệp
vụ giao nhận ngày càng đòi hỏi cao.
Một trong những bước phát triển lớn trong hoạt động giao nhận vận tải
hiện đại là hoạt động logistics. Trong vài thập niên gần đây, logistics đã phát
triển nhanh chóng và mang lại kết quả tốt đẹp ở rất nhiều nước, điển hình là
Tây Âu, Mỹ, tiếp đó là Singapore, Đài Loan… Tại Việt Nam, các công ty giao
nhận hàng đầu thế giới đã có mặt và cung cấp dịch vụ logistics toàn cầu. Với
công nghệ vượt trội, các công ty logistics nước ngoài chắc chắn sẽ chiếm ưu
thế hơn so với các công ty nội địa. Trong khi đó, các công ty giao nhận Việt
Nam dù là những tổng công ty lớn mạnh nhất cũng chưa có một công ty nào
hoạt động trong lĩnh vực logistics theo đúng nghĩa của nó. Do vậy, yêu cầu
đặt ra đối với các doanh nghiệp giao nhận vận tải là phải cải thiện về kỹ năng
nghiệp vụ, cơ sở vật chất và trình độ công nghệ cũng như hiểu biết về luật
pháp và khách hàng quốc tế để có thể đáp ứng được khối lượng công việc kể
trên. Nếu không có sự phát triển, các công ty giao nhận Việt Nam có nguy cơ
sẽ thất thế ngay trên thị trường của chính mình.

23

1.2. Sự cần thiết phải nâng cao năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp
giao nhận vận tải trong quá trình hội nhập
1.2.1. Khái niệm về cạnh tranh, năng lực cạnh tranh
1.2.1.1. Cạnh tranh:
Cạnh tranh là một hiện tượng kinh tế xã hội chỉ xuất hiện và tồn tại trong
nền kinh tế thị trường. Có rất nhiều quan niệm về thuật ngữ này, có thể trích
dẫn như sau:
Theo “Từ điển rút gọn về kinh doanh”: “Cạnh tranh là sự ganh đua, sự
kình địch giữa các nhà kinh doanh trên thị trường nhằm giành cùng một loại
tài nguyên sản xuất hoặc cùng một loại khách hàng về phía mình”.
Từ điển Bách khoa của Việt Nam định nghĩa: “Cạnh tranh (trong kinh
doanh) là hoạt động ganh đua giữa những người sản xuất hàng hoá, giữa các
thương nhân, các nhà kinh doanh trong nền kinh tế thị trường, chi phối bởi
quan hệ cung cầu nhằm giành các điều kiện sản xuất, tiêu thụ và thị trường có
lợi nhất”.
Diễn đàn cao cấp về cạnh tranh công nghiệp của tổ chức Hợp tác và Phát
triển kinh tế (OECD) cho rằng: “Cạnh tranh là khái niệm của doanh nghiệp,
quốc gia và vùng trong việc tạo việc làm và thu nhập cao hơn trong điều kiện
cạnh tranh quốc tế”.
Theo cuốn Kinh tế học của P.Samuelson thì: “cạnh tranh là sự kình địch
giữa các doanh nghiệp cạnh tranh với nhau để giành khách hàng, thị trường’.
Theo các tác giả của cuốn “ Các vấn đề pháp lý và thể chế chính sách cạnh
tranh và kiểm soát độc quyền kinh doanh thì: Cạnh tranh có thể được hiểu là
sự ganh đua giữa các doanh nghiệp trong việc giành một số nhân tố sản xuất
hoặc khách hàng nhằm nâng cao vị thế của mình trên thị trường, để đạt được
mục tiêu kinh doanh cụ thể” [15, tr.14].

24
Ngoài ra còn có rất nhiều các cách tiếp cận về khái niệm cạnh tranh,
nhưng nói chung là tập trung vào các yếu tố sau:

- Cạnh tranh là sự ganh đua, giành giật lấy một đối tượng cụ thể nào đó (như
thị phần, khách hàng, nhà cung cấp…)
- Mục đích cuối cùng của cạnh tranh là kiếm được lợi nhuận cao
- Cạnh tranh diễn ra trong một môi trường cụ thể, có ràng buộc các bên
tham gia phải tuân thủ như: đặc điểm sản phẩm, thị trường, các điều kiện
pháp lý, thông lệ kinh doanh
- Trong quá trình cạnh tranh có thể sử dụng nhiều công cụ khác nhau: cạnh
tranh bằng đặc tính và chất lượng sản phẩm, cạnh tranh bằng chính sách giá
bán sản phẩm (chính sách định giá thấp, chính sách định giá cao, giá phân
biệt, bán phá giá), cạnh tranh bằng nghệ thuật tiêu thụ sản phẩm, cạnh tranh
nhờ dịch vụ bán hàng tốt,……
Như vậy, khái niệm cạnh tranh có thể hiểu như sau: Cạnh tranh là quan
hệ kinh tế mà ở đó các chủ thể kinh tế ganh đua nhau tìm mọi biện pháp, cả
nghệ thuật lẫn thủ đoạn để đạt mục tiêu kinh tế của mình, thông thường là
chiếm lĩnh thị trường, giành lấy khách hàng cũng như các điều kiện sản xuất.
thị trường có lợi nhất. Mục đích cuối cùng của các chủ thể kinh tế trong quá
trình cạnh tranh là tối đa hoá lợi ích. Đối với người sản xuất kinh doanh là lợi
nhuận, đối với người tiêu dùng là lợi ích tiêu dùng và sự tiện lợi.
Cạnh tranh được phân thành nhiều loại với các tiêu thức khác nhau:
- Xét theo quy mô của cạnh tranh có: cạnh tranh của sản phẩm, cạnh
tranh của doanh nghiệp và cạnh tranh của quốc gia
- Xét theo tính chất của phương thức cạnh tranh có : cạnh tranh hợp
pháp hay cạnh tranh lành mạnh (biện pháp cạnh tranh phù hợp với luật pháp,
tập quán, đạo đức kinh doanh) và cạnh tranh bất hợp pháp hay cạnh tranh

×