Tải bản đầy đủ (.pdf) (113 trang)

Chính sách thương mại quốc tế của EU và những tác động đến xuất khẩu của Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.39 MB, 113 trang )



BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC NGOẠI THƯƠNG






DƯƠNG QUỲNH HƯƠNG







CHÍNH SÁCH THƯƠNG MẠI QUỐC TẾ CỦA
EU VÀ NHỮNG TÁC ĐỘNG ĐẾN XUẤT KHẨU
CỦA VIỆT NAM






LUẬN VĂN THẠC SỸ KINH TẾ











HÀ NỘI - 2006


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC NGOẠI THƯƠNG




DƯƠNG QUỲNH HƯƠNG





CHÍNH SÁCH THƯƠNG MẠI QUỐC TẾ CỦA EU
VÀ NHỮNG TÁC ĐỘNG ĐẾN XUẤT KHẨU CỦA
VIỆT NAM






Chuyên ngành: KINH TẾ THẾ GIỚI VÀ QUAN HỆ KINH TẾ QUỐC TẾ
Mã số: 60.31.07




LUẬN VĂN THẠC SỸ KINH TẾ



NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: TS. TRỊNH THỊ THU HƯƠNG







HÀ NỘI- 2006

HÀ NỘI- 2005





Tên thành phố-năm




BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC NGOẠI THƯƠNG




DƯƠNG QUỲNH HƯƠNG






CHÍNH SÁCH THƯƠNG MẠI QUỐC TẾ CỦA EU
VÀ NHỮNG TÁC ĐỘNG ĐẾN XUẤT KHẨU CỦA
VIỆT NAM





Chuyên ngành: KINH TẾ THẾ GIỚI VÀ QUAN HỆ KINH TẾ QUỐC TẾ
Mã số: 60.31.07





TÓM TẮT LUẬN VĂN THẠC SỸ KINH TẾ










HÀ NỘI- 2006


DANH MỤC BẢNG



TRANG
Bảng 1.1
Thương mại hàng hoá của EU
7
Bảng 1.2
Tổng kim ngạch thương mại EU - châu á (ASEM) 2004
26
Bảng 1.3
Thương mại hàng hoá của EU - một số nước ASEAN năm
2004
28
Bảng 1.4
Thương mại hàng hoá của EU25 – Trung Quốc
29
Bảng 2.1

Kim ngạch xuất nhập khẩu Việt Nam – EU qua các năm
55
Bảng 2.2
Kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam với các đối tác chủ yếu
56
Bảng 2.3
Cơ cấu xuất khẩu hàng hoá Việt Nam sang EU
57
Bảng 2.4
Kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam sang EU phân theo thị
trường trong những năm gần đây
58
Bảng 2.5
Xuất khẩu hàng nông sản Việt Nam sang EU giai đoạn 2000-
2004
61
Bảng 3.1
Kim ngạch và cơ cấu xuất khẩu thời kỳ 2001-2010
71
Bảng 3.2
Tỷ trọng thị trường xuất khẩu thời kỳ 2001-2010
72

DANH MỤC BIỂU ĐỒ
Biểu đồ 2.1
Kim ngạch xuất nhập khẩu Việt Nam – EU qua các năm
55
Biểu đồ 2.2
Tỷ trọng thị trường xuất khẩu hàng dệt may sang EU của Việt
Nam năm 2004

60

DANH MỤC HÌNH VẼ
Hình 2.1
Cấp độ ảnh hưởng của chính sách môi trường EU
47



DANH MỤC CÁC KÝ HIỆU, CÁC CHỮ VIẾT TẮT

Chữ tắt
Tiếng Anh
Tiếng Việt
ACP
Africa, Caribe, Pacific
Khối Phi, Caribê, Thái Bình
Dương
ASEAN
Association of South East Asian
Nations
Hiệp hội các quốc gia Đông Nam á
APEC
Asia Pacific Economic Cooperation
Diễn đàn hợp tác kinh tế Châu á -
Thái Bình Dương
CAP
Common Agricultural Policy
Chính sách nông nghiệp chung
CCP

Common Commercial Policy
Chính sách thương mại chung
CEEC
Central & Eastern European Countries
Các nước Trung và Đông Âu
CET
Common External Tariff
Biểu thuế quan ngoại khối chung
EC
European Community
Cộng đồng Châu Âu
ECSC
European Coal & Steel Community
Cộng đồng Than-Thép Châu Âu
EEC
European Economic Community
Cộng đồng Kinh tế Châu Âu
EU
European Union
Liên minh Châu Âu
FDI
Foreign Direct Investment
Đầu tư trực tiếp nước ngoài
GATT
General Agreement on Tariffs and
Trade
Hiệp định chung về Thuế quan và
Thương mại
GDP
Gross Domestic Product

Tổng sản phẩm quốc nội
GSP
Generalized System of Preferences
Hệ thống ưu đãi thuế quan phổ cập
HACCP
Hazard Analysis Critical Control Point
Hệ thống phân tích mối nguy và
kiểm soát điểm kiểm soát tới hạn
ISO
International Standardization
Organization
Tổ chức Tiêu chuẩn hoá Quốc tế
MFN
Most Favored Nations
Quy chế tối huệ quốc


OECD
Organization of Economic
Cooperation and Development
Tổ chức Hợp tác và Phát triển kinh
tế
UNCTAD
United Nations Conference on Trade
and Development
Hội nghị Thương mại và Phát triển
của Liên hiệp quốc
WB
World Bank
Ngân hàng Thế giới

WTO
World Trade Organization
Tổ chức Thương mại Thế giới



1
MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài:
Liên minh châu Âu vừa thực hiện lần mở rộng thứ năm vào 01/05/2004. Đây
là lần mở rộng lớn nhất trong lịch sử hình thành EU. Với 25 nước thành viên như
hiện nay, EU đã trở thành một thể chế kinh tế-chính trị khu vực lớn nhất trên thế
giới. EU cũng là đối tác thương mại quan trọng vào bậc nhất của nhiều quốc gia
trên thế giới, trong đó có Việt Nam.
EU là một thị trường lớn, sức tiêu thụ ổn định, lại hứa hẹn có nhiều khởi sắc
về kinh tế sau khi mở rộng. Chính sách thương mại quốc tế của EU đóng vai trò
quan trọng trong việc thúc đẩy phát triển kinh tế và củng cố, tăng cường địa vị của
EU trong các quan hệ thương mại - đầu tư quốc tế.
Đợt mở rộng vừa qua của EU đã tạo ra cả cơ hội và thách thức lớn đối với hàng
hoá xuất khẩu của Việt Nam sang thị trường EU. Việc đẩy mạnh xuất khẩu hàng hoá
sang thị trường EU, nâng cao vị thế cạnh tranh của hàng hóa Việt Nam trên thị
trường EU đang là một trong những chính sách trọng điểm của Việt Nam, góp phần
đảm bảo sự tăng trưởng ổn định về ngoại thương cũng như tạo thuận lợi cho Việt
Nam gia nhập WTO trong thời gian tới.
Chính vì vậy, việc nghiên cứu chính sách thương mại quốc tế của EU và
những tác động đến xuất khẩu của Việt Nam đã trở nên cần thiết và cấp bách đối
với việc phát triển kinh tế của Việt Nam. Do đó, em đã chọn vấn đề “Chính sách
thƣơng mại quốc tế của EU và những tác động đến xuất khẩu của Việt Nam”
làm đề tài của Luận văn thạc sỹ.


2. Tình hình nghiên cứu:
Cho tới nay, đã có rất nhiều công trình nghiên cứu của các tác giả về EU, về
tầm quan trọng, triển vọng của thị trường EU đối với Việt Nam, nhưng chưa có đề
tài nào đi sâu nghiên cứu chính sách thương mại quốc tế của EU, đặc biệt sau khi


2
EU mở rộng, không chỉ đối với Việt Nam mà còn đối với các nước khác nhưng lại
có ảnh hưởng, tác động trực tiếp hoặc gián tiếp tới việc xuất khẩu của Việt Nam
sang thị trường EU.

3. Mục đích nghiên cứu:
Hiểu rõ chính sách thương mại quốc tế của EU và tác động của chính sách
thương mại quốc tế của EU đến hoạt động xuất khẩu hàng hóa của Việt Nam.
Làm rõ tác động của các chính sách đó đến hoạt động xuất khẩu hàng hóa
của Việt Nam sang thị trường EU: thuận lợi, khó khăn và hạn chế.
Kiến nghị các giải pháp đẩy mạnh xuất khẩu hàng hóa của Việt Nam sang thị
trường EU.

4. Nhiệm vụ nghiên cứu:
Nghiên cứu chính sách thương mại quốc tế của EU đối với một số nước và
khu vực, chủ yếu là châu Á, Trung Quốc.
Phân tích các tác động của chính sách đó đến hoạt động xuất khẩu hàng hoá
của Việt Nam sang thị trường EU.
Đánh giá thực trạng xuất khẩu hàng hoá của Việt Nam sang thị trường EU.
Đề xuất các giải pháp để đẩy mạnh xuất khẩu hàng hoá của Việt Nam sang
thị trường EU.

5. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu:

Đối tượng nghiên cứu của luận văn là các chính sách thương mại quốc tế của
EU đối với một số nước và khu vực, chủ yếu là châu Á, Trung Quốc có tác động,
ảnh hưởng đến xuất khẩu của Việt Nam. Tuy nhiên, trong khuôn khổ của một luận
văn thạc sỹ kinh tế, nghiên cứu của đề tài giới hạn ở việc phân tích các quy định
liên quan đến chính sách thương mại hàng hoá.
Về mặt thời gian, luận văn phân tích từ thời điểm Việt Nam bình thường hoá
quan hệ ngoại giao với EU vào ngày 22/10/1990 đến nay. Luận văn chỉ tập trung


3
phân tích một số mặt hàng xuất khẩu chủ lực của Việt Nam để đánh giá những ảnh
hưởng của chính sách thương mại của EU đến xuất khẩu hàng hoá của Việt Nam.
6. Phƣơng pháp nghiên cứu:
Cơ sở của phương pháp nghiên cứu được sử dụng trong luận văn là chủ
nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử.
Các phương pháp nghiên cứu được sử dụng trong luận văn là phương pháp
phân tích, so sánh, thống kê, suy đoán và phương pháp tổng hợp.

7. Kết cấu của luận văn:
Ngoài lời mở đầu, kết luận, phụ lục, bản chỉ dẫn tài liệu tham khảo, nội dung
của luận văn được kết cấu như sau:
Chương 1- Tổng quan về chính sách thương mại quốc tế của EU
Chương 2- Ảnh hưởng chính sách thương mại quốc tế của EU đối với xuất khẩu
hàng hoá của Việt Nam và thực trạng xuất khẩu hàng hoá của Việt Nam sang EU
Chương 3- Một số giải pháp đẩy mạnh xuất khẩu hàng hoá của Việt Nam sang thị
trường EU


4
CHƢƠNG I

TỔNG QUAN VỀ CHÍNH SÁCH THƢƠNG MẠI QUỐC TẾ CỦA EU

1.1. VAI TRÒ CỦA EU TRONG NỀN KINH TẾ THẾ GIỚI
1.1.1 Khái quát quá trình hình thành và phát triển của EU
Liên minh Châu Âu (EU) từ 1/5/2004 là một tổ chức liên kết khu vực, với 25
nước thành viên độc lập về chính trị, bao gồm: 15 quốc gia ở Tây, Bắc và Nam Âu
(Pháp, Đức, Italia, Bỉ, Lúc Xăm Bua, Hà Lan, Anh, Tây Ba Nha, Bồ Đào Nha, Ai
Len, Đan Mạch, Áo, Thuỵ Điển, Hy Lạp, Phần Lan); 10 quốc gia Đông Âu và Địa
Trung Hải – CEEC (Czech, Estonia, Latvia, Lithuania, Ba Lan, Slovakia,
Slovennia, Hungary, đảo Cyprus, Malta) liên kết với nhau nhằm thúc đẩy sự phát
triển kinh tế, chính trị và xã hội. Nó bắt đầu với việc tự do hoá mậu dịch giữa các
nước thành viên và các chính sách kinh tế có liên quan.
Mốc lịch sử đánh dấu sự hình thành EU lúc đó là bản “Tuyên bố Schuman”
của Bộ Trưởng Ngoại giao Pháp Robert Schuman vào ngày 09/05/1950 với đề nghị
đặt toàn bộ nền sản xuất than và thép của CHLB Đức và Pháp dưới một cơ quan
quyền lực chung trong một tổ chức mở cửa để các nước châu Âu khác cùng tham
gia. Do vậy, Hiệp ước thành lập Cộng đồng Than – Thép châu Âu được ký kết ngày
18/4/1951 là tổ chức tiền thân của EU.
Nếu tính từ khi Hiệp ước thành lập Cộng đồng Than – Thép châu Âu (Paris
1951) thì đến nay Liên minh châu Âu đã bước vào năm thứ 55. Trong suốt thời gian
qua, nhìn tổng quát, có thể thấy Liên minh châu Âu đã trải qua 3 giai đoạn phát
triển chủ yếu sau:
Giai đoạn 1 (1951-1957), hợp tác trong phạm vi Cộng đồng Than – Thép
châu Âu (ECSC) gồm 6 nước Pháp, Cộng hoà Liên bang Đức, Italia, Bỉ, Hà Lan và
Lúc Xăm Bua.
Giai đoạn 2 (1957-1992), phát triển mối quan hệ hợp tác trên lĩnh vực kinh tế
và chính trị gồm 12 nước: 6 nước của ECSC cộng thêm Anh, Đan Mạch, Ai Len,
Tây Ba Nha, Bồ Đào Nha và Hy Lạp.



5
Giai đoạn 3 (1992 đến nay), Liên minh châu Âu (EU) đã thay thế cho cộng
đồng châu Âu (EC). Đây là giai đoạn “đẩy mạnh nhất thể hoá” trên tất cả các lĩnh
vực từ kinh tế-tiền tệ, ngoại giao, an ninh đến nội chính và tư pháp. Với việc kết nạp
thêm Áo, Thuỵ Điển, Phần Lan vào năm 1995, số thành viên của EU đã lên tới 15
và từ 1/5/2004 EU với 25 nước thành viên. Giai đoạn thứ 3 là giai đoạn phát triển
về chất so với hai giai đoạn trước. Với việc mở rộng này, EU hy vọng sẽ ngày càng
lớn mạnh với một thị trường 455 triệu dân, sản xuất hơn 20% lượng hàng hoá và
dịch vụ thế giới, EU sẽ tăng mạnh tiềm lực của mình về lãnh thổ thêm 23%, dân số
thêm 20% và GDP đạt 11,77 nghìn tỷ USD. EU hiện đang cạnh tranh với Mỹ để
giành vị trí nền kinh tế lớn nhất thế giới, đồng thời củng cố vị trí của mình trong
WTO, IMF và OECD. Tuy nhiên, con tàu EU chưa thể chạy với tốc độ “chóng mặt”
ngay vì thành viên cũ và mới vẫn đang chạy trên 2 tốc độ.
Có thể nói, EU đang tiến dần từng bước tới nhất thể hoá toàn diện. Hiện nay,
EU đang thực hiện nhất thể hoá về kinh tế (hình thành thị trường chung châu Âu, đã
cho ra đời đồng tiền chung Euro, xây dựng và hoàn thiện Liên minh kinh tế-tiền tệ
(EMU)), tiến tới sẽ thực hiện nhất thể hoá về hoá về chính trị, an ninh và quốc
phòng.

1.1.2 Nền kinh tế EU hiện nay và triển vọng 20 năm đầu thế kỷ 21
1.1.2.1. Nền kinh tế EU hiện nay
Từ giữa những năm 1980 đến nay, nền kinh tế thế giới đã và đang trải qua
những biến đổi sâu sắc, nhanh chóng. Trong bối cảnh đó, EU đã và đang điều chỉnh
chính sách kinh tế của mình, theo các hướng chính sau đây: (1) Thúc đẩy tiến trình
liên kết và mở rộng EU; (2) Thống nhất và nâng cao hiệu quả hoạt động của thị
trường; (3) Xây dựng Liên minh kinh tế và tiền tệ châu Âu với một đồng tiền chung,
điều chỉnh các chính sách kinh tế vĩ mô theo hướng ổn định hoá; (4) Chiến lược
nâng cao sức cạnh tranh của nền kinh tế, thúc đẩy bước chuyển sang nền kinh tế tri
thức; (5) Củng cố và hiện đại hoá mô hình xã hội châu Âu, chú trọng bảo vệ môi



6
trường; (6) Kiên trì định hướng xây dựng nền kinh tế mở cửa, củng cố và tăng
cường địa vị của EU trong các quan hệ kinh tế quốc tế.
Cho đến nay, EU đã có những thành công mang tính đột phá, như thực hiện
chiến lược xây dựng Thị trường nội địa, xây dựng Liên minh kinh tế tiền tệ châu Âu
(EMU) với đồng tiền chung Euro, cải cách khá căn bản các thị trường theo hướng tự
do hoá và cạnh tranh, điều chỉnh một bước mô hình nhà nước phúc lợi xã hội EU
hiện nay có những bước tiến vượt bậc so với EU trước đây một thập niên, xét về
mức độ liên kết kinh tế và tính năng động.
Sự lớn mạnh kinh tế qua quá trình nhất thể hoá và những bước tiến tới một
liên minh chính trị đã và đang đem lại cho EU một sức mạnh kinh tế và chính trị to
lớn trên thế giới. EU ngày càng đóng vai trò quan trọng hơn trong việc thúc đẩy sự
phát triển kinh tế toàn cầu. Vai trò kinh tế của EU trên trường quốc tế thể hiện ở
lĩnh vực thương mại và đầu tư quốc tế.
* Đối với lĩnh vực thương mại quốc tế:
Thương mại tự do là một trong những mục tiêu chủ yếu của EU. Với số dân
455 triệu người, EU đã tạo ra một thị trường quan trọng của thế giới, đẩy mạnh
thương mại giữa 25 nước thành viên và phụ thuộc nhiều vào thương mại quốc tế so
với Mỹ.
EU đã có những đóng góp không nhỏ đối với việc phát triển thương mại thế
giới. Khối lượng thương mại ngày càng tăng lên đáng kể so với 50 năm qua nhờ vào
việc tiếp tục loại bỏ các hàng rào thuế quan và phi thuế quan. Từ năm 1985-1996, tỷ
trọng thương mại trong GDP thế giới đã tăng 3 lần so với thập kỷ trước và tăng 2
lần so với những năm 60.
Kim ngạch xuất khẩu hàng hoá của EU giai đoạn từ 1997 đến nay luôn
chiếm từ 15-17% kim ngạch xuất khẩu hàng hoá toàn cầu, trong khi đó kim ngạch
xuất khẩu hàng hoá của Hoa Kỳ là 10-12%, Nhật Bản là 5-7%. Xuất khẩu dịch vụ
của EU chiếm 42-44% xuất khẩu dịch vụ toàn cầu, con số đó của Hoa Kỳ là khoảng
16-18%, của Nhật Bản là 4-6% [22].



7
Kim ngạch nhập khẩu hàng hoá và thương mại dịch vụ của EU cũng chiếm
một tỷ trọng đáng kể, từ 13-15% tổng kim ngạch nhập khẩu hàng hoá toàn cầu, Hoa
Kỳ là 17-19%, Nhật Bản là 5-7%. Nhập khẩu thương mại dịch vụ chiếm từ 42-44%
kim ngạch nhập khẩu thương mại dịch vụ toàn cầu, con số đó của Hoa Kỳ là 14-
16%, của Nhật Bản là 6-8% [22].

Nếu tính cả CEEC thì kim ngạch xuất khẩu hàng hoá và dịch vụ của EU25
sẽ gần 1800 tỷ USD, chiếm 22,6% tổng kim ngạch xuất khẩu hàng hoá và dịch vụ
của thế giới; kim ngạch nhập khẩu hàng hoá và dịch vụ của EU25 khoảng 1800 tỷ
USD, bằng 21,9% kim ngạch nhập khẩu hàng hoá và dịch vụ của toàn thế giới.
Với vai trò quan trọng như vậy trong thương mại quốc tế, EU có một danh
sách bạn hàng lớn mạnh. Đứng vị trí số 1 là Mỹ. Năm 2004, buôn bán giữa hai bên
đạt 391 tỷ Euro, chiếm 19,7% giá trị thương mại của EU, trong đó Mỹ chiếm 15,3%
kim ngạch nhập khẩu của EU, và 24,3% kim ngạch xuất khẩu của EU. Tiếp sau là
Trung Quốc- một bạn hàng lớn thứ hai của EU và ngược lại EU cũng là bạn hàng
đứng vị trí số hai của Trung Quốc. Năm 2004, kim ngạch giữa hai bên khoảng 175
tỷ Euro, chiếm 8,8% kim ngạch ngoại thương của EU [41] (xem bảng 1.1).
Bảng 1.1. Thƣơng mại hàng hoá của EU
(2004)
Các đối tác nhập khẩu chính của EU
Nhập khẩu hàng hoá của EU

Các đối tác xuất khẩu chính của EU
Xuất khẩu hàng hoá của EU
Thứ tự
Các đối tác
Triệu Euro

%

Thứ tự
Các đối tác
Triệu Euro
%

Thế giới
1.027 .580
100,0


Thế giới
962.305
100,0
1
Hoa Kỳ
157.386
15,3

1
Hoa Kỳ
233.803
24,3
2
Trung Quốc
126.712
12,3

2

Thuỵ Sỹ
74.957
7,8
3
Nga
80.538
7,8

3
Trung Quỗc
48.033
5,0
4
Nhật Bản
73.505
7,2

4
Nga
45.662
4,7
5
Thuỵ Sỹ
61.398
6,0

5
Nhật Bản
43.053
4,5



8
Các sản
phẩm thô
khác
9.1%
Nông sản
7.7%
Năng
lượng
17.6%
Sản phẩm
chế tạo
65.6%
Nông sản
6.1%
Các sản
phẩm thô
khác
6.5%
Năng
lượng
2.9%
Sản phẩm
chế tạo
84.5%

Qua bảng 1.1 trên ta thấy, cơ cấu nhập khẩu của EU bao gồm: sản phẩm chế
tạo chiếm trên 65,6%, năng lượng 17,6%, nông sản 7,7%, các sản phẩm thô khác

chiếm 9,1% trong tổng kim ngạch nhập khẩu năm 2004. Các thị trường nhập khẩu
chính của EU là Hoa Kỳ, Trung Quốc, Nga, Nhật Bản, ASEAN. Một số mặt hàng
EU có nhu cầu nhập khẩu cao trong năm 2004 mà Việt Nam có lợi thế là giày dép
12,5 tỷ Euro, dệt may 69,7 tỷ Euro, nông sản 79,3 tỷ Euro và thủ công mỹ nghệ 13
tỷ Euro [41].
Chiếm tỷ trọng lớn trong thương mại toàn cầu và với vai trò nổi bật trong Tổ
chức Thương mại Thế giới (WTO), EU là một nhân tố quan trọng trong việc phát
triển thương mại thế giới.
* Đối với lĩnh vực đầu tư quốc tế:
EU không những là trung tâm thương mại lớn thứ hai thế giới sau Mỹ mà
còn là nơi đầu tư trực tiếp ra nước ngoài lớn nhất thế giới. Nguồn vốn FDI của EU
chiếm 45,7% tổng vốn FDI toàn cầu, trong khi đó của Mỹ và Nhật Bản là 27,1% và
6,7%.
Các nước châu Âu như Anh, Pháp, Đức, v.v tiến hành công nghiệp hoá,
hiện đại hoá nền kinh tế sớm nhất thế giới (từ thế kỷ thứ XVIII). Vì vậy, khi các
ngành công nghiệp phát triển mạnh và nền kinh tế đạt tới trình độ phát triển cao,
nguồn nguyên liệu đầu vào trở nên khan hiếm và giá nhân công tăng, để hạ giá
thành sản phẩm và tăng lợi nhuận họ đã tiến hành di chuyển các ngành công nghiệp


9
cạnh tranh kém (các ngành công nghiệp sử dụng nhiều nguyên vật liệu và lao động)
sang những nơi gần nguồn lao động và nhiều nguyên vật liệu, cụ thể là Mỹ, Nhật
Bản, v.v Chính vì thế, đầu tư nước ngoài đã ra đời. Chúng ta có thể khẳng định
rằng các nước châu Âu là những người đi tiên phong trong lĩnh vực đầu tư quốc tế
và cho đến tận bây giờ vẫn dẫn đầu trong lĩnh vực này.
Ngày nay, các nước thành viên EU15 đều là các nước công nghiệp có nền
kinh tế phát triển mạnh đang tập trung phát triển các ngành công nghiệp có hàm
lượng công nghệ cao, như điện tử tin học, viễn thông, công nghệ sinh học, v.v
FDI của EU tập trung chủ yếu ở các nước phát triển, cụ thể: Mỹ chiếm 39,7%, Nhật

Bản chiếm 32,1%, ASEAN chiếm 12,6% và 15,6% FDI còn lại của EU đầu tư vào
các nước thành viên mới của EU, Trung Cận Đông và châu Phi [17].

1.1.2.2. Triển vọng kinh tế EU 20 năm đầu thế kỷ XXI
Hiện nay, có các đánh giá rất khác nhau về tương lai của EU trong hai thập
niên đầu thế kỷ XXI. Một số đánh giá cho rằng, EU đang ở trong tình thế khủng
hoảng, mắc phải nhiều căn bệnh kinh niên và không bền vững về dài hạn, do vậy
EU đứng trước một tương lai ảm đạm. Song theo một số đánh giá khác, EU đang
trong tiến trình điều chỉnh các mặt mất cân đối. Martin Hufner, nhà kinh tế chính
của Ngân hàng Hypo Vereins (Đức) nói “châu Âu là khu vực năng động nhất thế
giới trong thập niên 1990”. Kết luận logic rút ra từ đây là, tại sao thế kỷ XXI lại
không phải là thế kỷ của châu Âu?
Trong những năm đầu khi mở rộng, các nhà lãnh đạo EU không tham vọng
nhiều trong việc cải thiện tình trạng kinh tế trì trệ của họ, vì các thành viên cũ phải
tập trung nguồn lực để cải cách thể chế của Liên minh vốn đang rất quan liêu và
cồng kềnh, cho phù hợp với một Liên minh gồm 25 hoặc 30 thành viên. Hơn nữa,
các thành viên cũ phải tập trung nhiều nguồn lực để hỗ trợ cho các thành viên mới,
để cải cách cơ cấu kinh tế của các thành viên mới cho đồng nhất với cơ cấu kinh tế
của thành viên cũ, để nâng mức sống của cộng đồng dân cư khu vực các thành viên
mới do mức GDP đầu người trung bình ở các thành viên mới chỉ bằng 24% mức


10
GDP đầu người trung bình ở các thành viên cũ. Tuy nhiên, khi lượng người tiêu
dùng tăng lên, thị trường được mở rộng sẽ kích thích kinh tế phát triển. Việc châu
Âu liên minh lại với nhau sẽ đưa đến một châu lục mạnh hơn và ổn định hơn, bổ
sung cho nhau về nhiều lĩnh vực như thị trường tiêu thụ sản phẩm, lao động, đầu tư,
v.v , như vậy có thể giúp châu Âu tận dụng được những lợi thế trong một thị
trường nội địa thống nhất. Sau thời gian từ 7-10 năm, khi thể chế chính trị của EU
ổn định, các thành viên mới hoà nhập hoàn toàn vào EU, sẽ là lúc EU trở thành một

thực thể và một trung tâm kinh tế lớn nhất thế giới với sức mua của gần nửa tỷ
người tiêu dùng. Một thị trường lớn như vậy sẽ tạo điều kiện thúc đẩy đầu tư và tạo
thêm nhiều việc làm cho công dân trong khối, tăng cường sự thịnh vượng cho cả
thành viên cũ và mới. Khi vai trò, vị trí của EU trong nền kinh tế trên thế giới được
tăng cường và cải thiện hơn thì sẽ tác động rất lớn đến chính trị, an ninh, thương
mại và các lĩnh vực quản lý toàn cầu khác của EU trên trường quốc tế [7].
Trên thực tế, triển vọng phát triển kinh tế của EU trong hai thập niên đầu thế
kỷ XXI phụ thuộc vào nhiều nhân tố, trong đó nhân tố nổi bật là tiến trình cải cách
kinh tế tại EU. Triển vọng kinh tế EU không thể tách rời triển vọng kinh tế toàn cầu,
tuy nhiên, tiến trình cải cách kinh tế của EU là nhân tố chính quy định triển vọng
EU sẽ là khán giả hay diễn viên chính của cuộc chơi kinh tế toàn cầu.
Có thể thấy rằng trong hai thập kỷ đầu của thế kỷ XXI, nền kinh tế EU sẽ
tiếp tục xu hướng dịch chuyển sang nền kinh tế tri thức, phát triển bền vững, hội
nhập sâu hơn vào nền kinh tế toàn cầu. Phát triển khoa học công nghệ, phát triển
nguồn nhân lực sẽ là các động lực chính của kinh tế EU. Nhà nước vẫn có vai trò
quan trọng trong phát triển kinh tế, song phương thức tác động trong nhiều trường
hợp được điều chỉnh theo hướng “thân thiện hơn với thị trường”. Đổi mới nền quản
lý công (cấp EU cũng như cấp quốc gia) đã và đang được điều chỉnh theo hướng
trong sáng hơn, minh bạch hơn, hiệu quả hơn. Tính “xã hội” vẫn là một đặc trưng
của mô hình châu Âu, tuy nhiên, các chế độ phúc lợi xã hội ở EU sẽ dần dần được
cải cách và hiện đại hoá theo hướng gắn chặt hơn với thành quả kinh tế và định


11
hướng vào nâng cao tiềm năng kinh tế. Nền kinh tế EU vẫn sẽ là một trong những
nền kinh tế đi đầu trên thế giới xét từ khía cạnh thân thiện với môi trường.
Mặc dù đưa ra nhiều kịch bản khác nhau, song hiện nay, phần lớn các dự báo
nhận định khá tập trung rằng, trong hai thập niên đầu thế kỷ XXI, kinh tế EU sẽ
tăng trưởng bằng hoặc cao hơn chút ít so với thập kỷ 1990. EU sẽ không xảy ra thụt
lùi hoặc trì trệ như Nhật Bản trong thập niên 1990, chủ yếu do các nền kinh tế và

các xã hội EU mở cửa hơn. Tuy nhiên, xét bối cảnh cạnh trạnh toàn cầu hiện nay,
với tiến bộ nhanh của đổi mới và R&D, có thể nói, cho đến năm 2020, EU khó có
thể vượt Mỹ về tiềm lực và hiệu năng kinh tế, về tiến bộ công nghệ.
Mặc dù vậy, thông qua các cải cách kinh tế và tăng cường liên kết kinh tế và
chính trị, có nhiều khả năng EU sẽ có ảnh hưởng ngày càng lớn trong nền kinh tế
toàn cầu. Có thể nói, vị thế quốc tế của EU sẽ được nâng cao do có các nhân tố
thuận lợi chính sau:
- Với tư cách là một trong ba trung tâm kinh tế mạnh nhất và có trình độ phát
triển của thế giới hiện nay, EU đã có sự chuẩn bị để có thể tác động nhất định đến
tiến triển của kinh tế thế giới và có khả năng góp phần khuôn định nó. Các cải cách
được EU thực hiện trong hai thập niên qua nhằm vào mục tiêu chiến lược tham
vọng là nâng cao ảnh hưởng đến luật chơi toàn cầu.
- Quy mô kinh tế và trình độ phát triển của khoa học- công nghệ vẫn là nhân
tố quan trọng quy định vị thế của một quốc gia. Nhiều nước trong EU đã có tốc độ
phát triển rất cao trong những năm 1990. Các nước Bắc Âu hiện đang đứng đầu thế
giới trong bảng xếp hạng toàn cầu về năng lực cạnh tranh do Diễn đàn kinh tế thế
giới thực hiện. Đây cũng là thế mạnh của EU.
- Về mô hình liên kết kinh tế khu vực, chủ nghĩa khu vực đang nổi lên mạnh
mẽ, là câu trả lời, đồng thời là sự bổ sung, cho xu thế toàn cầu hoá kinh tế được tổ
chức kém, gây nhiều tác động xấu đến các quốc gia. EU hiện nay đang đi đầu về
mặt này và có thể cung cấp các kinh nghiệm cho các khu vực khác.
- Về quan hệ kinh tế quốc tế, mô hình thương mại quốc tế có quản lý của EU
phù hợp nhất định với lợi ích của nhiều nước đang phát triển. Với các thoả thuận


12
song phương EU ký với các nước đang phát triển, các nước đang phát triển có điều
kiện chuẩn bị nhất định cho hội nhập kinh tế quốc tế.
- Về văn hoá: trong khi “lò luyện” Mỹ bị chi phối bởi văn hoá Ănglô-xắc
xông, EU đang trở thành xã hội đa văn hoá thực sự. EU đã học được cách đối phó

với những khác biệt văn hoá, cách vượt qua những rạn nứt lịch sử, và cách dùng
hợp tác để xoa dịu sự thù địch. Các kỹ năng này cung cấp giải pháp đối với bất ổn
định văn hoá-xã hội đang nổi lên hiện nay do quá trình toàn cầu hoá, cũng như có
thể cung cấp kinh nghiệm về giữ gìn bản sắc văn hoá.
- Về bảo vệ môi trường: Các giá trị thân thiết môi trường của châu Âu hiện
nay có thể coi là ưu việt.
- Về chính trị quốc tế: Sự phát triển của EU sẽ góp phần định hình cục diện
đa cực của nền kinh tế và chính trị thế giới. Chủ nghĩa đa phương mà EU theo đuổi
có lợi cho hoà bình thế giới.
Nếu thực hiện thành công, cải cách sẽ đem lại xung lực mới cho nền kinh tế
EU, từ đó sẽ góp phần xây dựng EU thành một cực phát triển vững mạnh của thế
giới, đủ sức đương đầu với các siêu cường Mỹ và Nhật Bản, xây dựng nền kinh tế
thế giới đa cực. Nhiều nhà nghiên cứu cho rằng, nếu mọi việc trôi chảy, châu Âu sẽ
đóng vai trò hoàn toàn khác trên thế giới trong khoảng 50 năm tới.

1.2. CHÍNH SÁCH THƢƠNG MẠI CỦA EU
1.2.1. Chính sách thƣơng mại trong nội khối EU
Chính sách thương mại nội khối tập trung vào việc xây dựng và vận hành thị
trường chung châu Âu nhằm xoá bỏ việc kiểm soát biên giới lãnh thổ quốc gia, biên
giới hải quan (xoá bỏ hàng rào thuế quan và phi thuế quan), cho tự do lưu thông
hàng hoá lao động, dịch vụ và vốn, điều hoà các chính sách kinh tế và xã hội của
các nước thành viên.
Thị trường chung châu Âu dựa trên nền tảng của việc tự do di chuyển 4 yếu
tố cơ bản: hàng hoá, sức lao động, dịch vụ và vốn.



13
1.2.1.1 Tự do lưu thông hàng hoá và dịch vụ
*Tự do lưu thông hàng hoá

Theo Điều khoản 9-37, Hiệp ước về Liên minh châu Âu, để hàng hoá được tự
do lưu thông trong thị trường chung, các nước thành viên EU đều nhất trí áp dụng
những biện pháp sau đây:
(1) Xoá bỏ hoàn toàn mọi loại thuế đánh vào hàng hoá xuất nhập khẩu giữa các
nước thành viên.
(2) Xoá bỏ hạn ngạch áp dụng trong thương mại nội khối
(3) Xoá bỏ tất cả các biện pháp tương tự hạn chế về số lượng (các biện pháp hạn
chế dưới mọi hình thức là các quy chế và quy định về cấu thành sản phẩm,
đóng gói tiêu chuẩn công nghiệp và an toàn kỹ thuật).
(4) Xoá bỏ tất cả các rào cản về thuế giữa các nước thành viên
Để thực hiện được biện pháp thứ ba, EU phải vận dụng hai nguyên tắc: điều
hoà và công nhận lẫn nhau. Nguyên tắc điều hoà có nghĩa là sự kết hợp các nguyên
tắc quốc gia theo một chuẩn mực thống nhất. Nguyên tắc công nhận lẫn nhau có
nghĩa là một nước thành viên này chấp nhận tiêu chuẩn của một nước khác tiêu
chuẩn đó đáp ứng được tiêu chuẩn tối thiểu nhất định về an toàn và sức khoẻ do
Liên minh châu Âu đề ra. Theo quy định của Uỷ ban châu Âu năm 1996, đối với
việc thực hiện biện pháp thứ tư, EU trực tiếp xoá bỏ các rào cản về thuế giữa các
thành viên, thực chất là việc đổi mới thủ tục thu thuế; chuyển các chức năng kiểm
soát thuế từ biên giới tới các hãng.
* Tự do lưu chuyển dịch vụ: Theo Điều khoản 59-66, Hiệp ước Liên minh
châu Âu, việc lưu chuyển dịch vụ có thể được thực hiện theo những cách sau:
(1) Tự do cung cấp dịch vụ
(2) Tự do hưởng các dịch vụ
(3) Tự do chuyển tiền bằng điện tín
(4) Công nhận lẫn nhau các văn bằng



14
1.2.1.2. Tự do đi lại và cư trú trên toàn lãnh thổ EU

Để đảm bảo việc tự do đi lại và cư trú của công dân trong lãnh thổ EU, các
nước thành viên đều nhất trí đảm bảo các quyền sau cho công dân của họ.
(1) Tự do đi lại về mặt địa lý
(2) Tự do di chuyển vì nghề nghiệp
(3) Nhất thể hoá về xã hội
(4) Tự do cư trú (Điều 48-58 Hiệp ước về Liên minh Châu Âu)

1.2.1.3. Tự do lưu chuyển vốn
Trong một thời gian dài, thương mại tự do về hàng hoá và dịch vụ sẽ không
thể duy trì được nếu vốn không được lưu chuyển tự do và được chuyển tới nơi nó
được sử dụng một cách hiệu quả nhất. Di chuyển tự do về vốn được đề cập tới trong
Điều khoản 67-70, Hiệp ước Liên minh châu Âu.
Để thực hiện được việc tự do lưu chuyển vốn trong nội bộ khối, EU đã áp
dụng các chính sách chủ yếu như:
- Tháo dỡ tất cả các hạn chế về ngoại hối
- Thống nhất luật pháp và các nguyên tắc quản lý thị trường vốn của các nước
thành viên
- Thanh toán tự do có thể được thực hiện bằng bất cứ đồng tiền quốc gia của
một nước thành viên nào.
Tất cả các biện pháp để xây dựng một thị trường chung châu Âu nói trên bảo
đảm tạo ra các cơ hội kinh doanh thương mại như nhau cho mọi người trong thị
trường chung và ngăn ngừa cạnh tranh không bình đẳng. Thị trường chung sẽ không
thể vận hành một cách suôn sẻ nếu như không thống nhất các điều kiện cạnh tranh
áp dụng. Vì mục đích này, các nước EU đều nhất trí tạo ra một hệ thống bảo hộ sự
cạnh tranh tự do trên.



15
1.2.2. Chính sách thƣơng mại quốc tế của EU

Trong sự phát triển kinh tế của EU, thương mại quốc tế đóng một vai trò hết
sức quan trọng. Nó đã đem lại sự tăng trưởng kinh tế và tạo ra việc làm trong các
ngành sản xuất, nghiên cứu, bảo hiểm, ngân hàng và rất nhiều ngành khác. Tự do
hoá thương mại là một trong những mục tiêu chủ yếu của EU. Với dân số 455 triệu
người, EU trở thành một trong ba trung tâm kinh tế, thương mại lớn nhất thế giới
với cả hai ý nghĩa: vừa là thị trường nhập khẩu và tiêu thụ hàng hoá và dịch vụ, vừa
là nhà xuất khẩu hàng hoá và thiết bị công nghệ nguồn quan trọng của thế giới. Do
vậy, chính sách phát triển thương mại quốc tế của EU giúp định hướng các hoạt
động thương mại nhằm phục vụ mục tiêu chiến lược phát triển kinh tế của EU.
Tất cả các nước thành viên EU cùng áp dụng một chính sách ngoại thương
chung đối với các nước ngoài khối. Uỷ ban Châu Âu (EC) là người đại diện duy
nhất cho Liên minh châu Âu trong việc đàm phán, ký kết các Hiệp định thương mại
và dàn xếp tranh chấp trong lĩnh vực này.

1.2.2.1. Chính sách thương mại chung của EU (Common Commercial Policy-
CCP)
* Sự ra đời, mục tiêu của CCP
Chính sách thương mại chung của EU cùng với chính sách tiền tệ chung có
lẽ là chính sách thành công và hiệu quả nhất của EU, cho phép EU có một tiếng nói
chung trong diễn đàn toàn cầu và nâng cao sức mạnh của mình trong các cuộc
thương lượng và tranh chấp thương mại. Tháng 7 năm 1968, 8 tháng trước khi hạn
cuối cùng đề ra trong Hiệp ước Rome năm 1957, Liên minh thuế quan của EEC bắt
đầu có hiệu lực. Các loại thuế quan còn lại đối với thương mại bên trong Cộng đồng
được bãi bỏ và một Biểu thuế quan ngoại khối chung (CET) được thay thế các loại
thuế quan quốc gia trong hoạt động thương mại với thế giới bên ngoài (RoW). Kể từ
đó, CCP và công cụ chủ yếu của nó (CET) đã cùng phát triển với yêu cầu thay đổi
của EU và đóng góp to lớn vào việc làm cho EU trở thành một đối tác thương mại
hàng đầu thế giới.



16
Hiệp ước Rome bao gồm việc thành lập chính sách thương mại chung CCP
và Biểu thuế quan ngoại khối chung CET (Mục VII Điều 110-113, hiện nay là Mục
XI Điều 131-134). Mục tiêu đầu tiên của CCP là đảm bảo đối xử giống nhau của
các quốc gia thành viên EC trong quan hệ thương mại với quốc gia thứ ba. Giống
như bất kì chính sách thương mại nào, Điều khoản 113 (133) của Hiệp ước này quy
định rõ không chỉ sử dụng thuế quan mà còn áp dụng một cách đồng bộ các công cụ
chính sách thương mại khác như các biện pháp tự do hoá, bảo vệ chống lại các
trường hợp vi phạm luật, chính sách xuất khẩu, chống phá giá và các biện pháp
chống trợ giá. Nó cũng quy định việc đàm phán và thông qua các thoả thuận thương
mại với quốc gia thứ ba.
* Các thoả thuận quốc tế của EU
EU đã tạo ra một mạng lưới quan trọng và chặt chẽ các thoả thuận quốc tế
được thể chế hoá cả song phương và đang tăng mạnh các thoả thuận giữa hai khu
vực. Chính sách đa phương của EU đi kèm với các ưu tiên. Trên thực tế, EU đã thể
hiện cả công khai và không công khai việc cho phép nguyên tắc phân biệt trong
thương mại, tức là tạo quan hệ ưu đãi với một danh sách dài các quốc gia và ưu đãi
cuối cùng là trở thành thành viên đầy đủ của nhóm này. Có các loại thoả thuận mà
EU ký kết với quốc gia thứ ba như:
(a) các thoả thuận hợp tác, tức là các nhượng bộ về thương mại ngoài Quy
chế tối huệ quốc MFN.
(b) các thoả thuận ưu đãi (cũng được gọi là thoả thuận hợp tác và thương
mại) là các thoả thuận có thể bao gồm những nhượng bộ qua lại, đặc biệt là khi liên
quan tới lợi ích của Hoa Kỳ trong một số thị trường nhất định để tránh việc bị phản
đối và phân biệt trở lại trong khuôn khổ GATT/ WTO.
(c) các thoả thuận liên kết, thường được ký kết với các quốc gia muốn trở thành
thành viên EU, dành quyền thâm nhập tự do thị trường EC đối với các sản phẩm công
nghiệp và những nhượng bộ thuận lợi hơn đối với nông sản.
Dường như rất nhiều hạn chế mà lịch sử và vị trí địa lý đặt ra đối với sự lựa
chọn của EU. Các chính sách theo đuổi thật khó nếu không muốn nói là không thể



17
để có thể đảm bảo cả tính hiệu quả và sự gắn kết nội bộ. Những tính toán chủ yếu
khiến EC và hiện nay là EU thực hiện các thoả thuận ưu đãi này và quyết định nội
dung thực tế của nó là mức độ phát triển của hoạt động thương mại với các đối tác
liên quan và khả năng trở thành thành viên trong tương lai. Trong trường hợp hai
nội dung này không trùng hợp thì thoả thuận ưu đãi sẽ bao gồm sự nhượng bộ lẫn
nhau, do đó được coi là giai đoạn chuẩn bị quyền thành viên đầy đủ. Nếu không
thoả thuận sẽ hạn chế hơn và không có sự nhượng bộ qua lại.
Hầu hết thương mại của EU thực hiện theo các thoả thuận đặc biệt được Uỷ
ban châu Âu điều phối. Theo đó, khi Liên minh thuế quan và Chính sách thương
mại chung được thực hiện thì Uỷ ban có nhiệm vụ đàm phán về mức thuế quan với
các quốc gia thứ ba và nhiệm vụ này được Uỷ ban châu Âu thực hiện với đầy đủ
quyền tự chủ đối với chính phủ các quốc gia thành viên. Tuy nhiên, dù hầu hết việc
lập các chính sách thương mại là do các thể chế của Cộng đồng (Điều 113 và GD1)
giống như đối với chính sách nông nghiệp chung (CAP). Song thực tế, việc các
chính sách quốc gia vẫn có tác động nhất định đã gây ra các vấn đề nghiêm trọng về
điều phối. Chỉ đến thoả thuận Nizza (Tháng 12/2000), Điều khoản 113 này mới
được thay đổi và thẩm quyền đối ngoại của Cộng đồng được mở rộng sang hầu hết
các hoạt động thương mại dịch vụ và các khía cạnh thương mại của quyền sở hữu trí
tuệ. Các lĩnh vực còn lại là dịch vụ, văn hoá, y tế và giáo dục vẫn thuộc thẩm quyền
của chính phủ các nước. Do vậy, thẩm quyền của chính sách thương mại hoàn toàn do
Uỷ ban quản lý trên cơ sở các chỉ thị của Hội đồng. Trên thực tế, Hội đồng châu Âu có
thẩm quyền thông qua các thoả thuận quốc tế theo đa số xác định.
* Đặc điểm chính của CCP
Những đặc điểm chính của CCP- “cốt lõi của quan hệ kinh tế đối ngoại “của
EU- là tính phức tạp bẩm sinh và chủ nghĩa ưu đãi. Đặc tính đầu tiên hình thành từ
việc tập hợp một cách không có trật tự các thoả ước thương mại quốc gia cũng như
khu vực, dựa trên những thoả hiệp không bao giờ chấm dứt cần có nhằm khắc phục

những khác biệt giữa lợi ích quốc gia và lợi ích của cộng đồng, thường liên quan tới
quá khứ thực dân của các thành viên EU. Đặc điểm thứ hai thể hiện rất rõ ràng khi


18
tính toán rằng chỉ ít quốc gia thực tế được hưởng biểu thuế quan MFN do thái độ ít
quan tâm của các nhà lập chính sách EU đối với các mục tiêu về không phân biệt
đối xử. Đây là một trong hai nguyên tắc chính mà GATT/ WTO sau này dựa vào để
tạo lập khuôn khổ thể chế quốc tế duy nhất đối với thương mại đa phương kể từ
những năm 1950 và là nền tảng ngay cả cho việc tạo lập EU.
Ngoài ra chính sách thương mại của EU còn bị ảnh hưởng bởi:
(1) Sự tăng cường thực thi một cách hoàn thiện hơn hoặc tốt hơn các tham vọng
hội nhập cụ thể, tức là sự xoá bỏ hoàn toàn các hạn ngạch quốc gia, mở cửa
hoàn toàn thị trường EU cho các quốc gia thành viên.
(2) Sự mở rộng phạm vi thương mại- kết quả của việc dỡ bỏ các rào cản điều
tiết bên trong EU bằng cách tiếp cận để xuất khẩu nông sản vào thị trường
của các nước thành viên mới nhiều khi khó khăn hơn (như sang Anh) và
nhiều lúc lại dễ dàng hơn (Áo, Phần Lan và Thuỵ Điển). Đồng thời các lần
mở rộng khác nhau đã góp phần làm giảm bớt mức độ quan trọng của các
chính sách thương mại do nó đã nội địa hoá những hoạt động thương mại
trước kia là hoạt động ngoại thương và làm tăng cường về chiều sâu của các
hoạt động này.
Sự ra đời và phát triển của EU được ngầm gắn với điều khoản 24 của GATT,
điều khoản quy định về các thoả ước khu vực. Để được chấp nhận, một thoả ước
khu vực- tức là bất cứ một thoả thuận ưu đãi nào bao gồm các loại kế hoạch hội
nhập - đều phải:
(a) Không làm tăng mức độ bảo hộ đặt ra với các quốc gia thứ ba
(b) Trên thực tế các nội dung của nó phải bao gồm tất cả các loại hàng hoá
(c) Thời kì chuyển đổi không được kéo dài, thực tế là không qua 10 năm
Như vậy, mặc dù Uỷ ban châu Âu và chính phủ các nước thành viên luôn giữ

cho chính sách thương mại EU tuân thủ chặt chẽ các nguyên tắc GATT/WTO
nhưng những nghi ngờ sâu sắc vẫn tồn tại do nguyên tắc không phân biệt đối xử
thường xuyên bị vi phạm trong quan hệ của họ với nhiều quốc gia chậm phát triển.
Hiển nhiên, việc nhượng bộ trong các ưu đãi này đã gây ra sự phân biệt chống lại cả


19
các quốc gia thứ ba và thậm chí là sự phân biệt chống lại cả các quốc gia được ưu
đãi khi mức độ ưu đãi thay đổi. Do đó, vai trò của EU thể hiện một nhân tố quan
trọng trọng cuộc tranh cãi đang diễn ra giữa chủ nghĩa khu vực và chủ nghĩa đa
phương. Trên thực tế, có thể dễ dàng chỉ ra rằng chủ nghĩa khu vực châu Âu làm
tăng nhanh quá trình tự do hoá đa phương. Điều khó hơn là phải điều chỉnh để chủ
nghĩa ưu đãi Cộng đồng có thể hoà hợp với chủ nghĩa đa phương. Do vậy, đó là tất
cả những cuộc bút chiến mà chính sách thương mại EU gây ra trong diễn đàn
GATT/WTO.
Các nguyên tắc của Chính sách thương mại chung CCP phát huy hiệu lực
thông qua các công cụ chính sách thương mại. Các công cụ này là hàng rào thuế
quan, các ưu đãi thuế quan và nhiều loại hàng rào phi thuế quan khác nhau (NTB-
Non-tariff barrier) như hạn ngạch, các hạn chế xuất khẩu tự nguyện, trợ cấp xuất
khẩu, các nguyên tắc mua hàng công cộng, các quy định về dịch vụ, các điều khoản
phòng vệ, các biện pháp chống phá giá và thuế chống độc quyền. Đối với các công
cụ sau này, EU cũng tuân theo nhiều bộ luật ứng xử khác nhau như đã đề ra trong
các cuộc đàm phán GATT tiếp theo. Rào thuế quan đã được giảm bớt đáng kể, đặc
biệt là đối với các mặt hàng sản xuất và điều này cũng được thực hiện đối với hạn
ngạch hàng dệt may và các sản phẩm ở nông thôn vốn đã bị GATT/WTO nghiêm
cấm từ trước.
* Chính sách thương mại của EU được chia làm hai loại: chính sách
thương mại tự trị và chính sách thương mại dựa trên cơ sở các hiệp định. Nói
cách khác, trong quan hệ quốc tế, EU cho phép xác lập các quan hệ thương mại với
các nước ngoài khối theo những hình thức sau:

(1) Các hiệp định liên kết (Association Agreements) cho phép bạn hàng thâm
nhập miễn thuế vào thị trường EU cho phần lớn sản phẩm chế biến sau một thời kì
quá độ nhất định. Hiệp định này tạo ra một khu vực mậu dịch tự do thực sự hoặc
một dạng liên minh thuế quan. Do đó, đây thường là hình thức hiệp định để ký với
các nước thành viên tương lai của EU.

×