Tải bản đầy đủ (.pdf) (107 trang)

Chính sách, pháp luật cạnh tranh của các nước - bài học đối với Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (858.93 KB, 107 trang )


Bộ giáo dục và đào tạo
Tr-ờng Đại học Ngoại th-ơng Hà Nội

Hoàng Thị Ph-ơng Lan




chính sách, pháp luật cạnh tranh của
các n-ớc - Bài học đối với Việt Nam

Chuyên ngành: KTTG&QHKTQT
Mã số: 60.31.07



Luận văn thạc sỹ kinh tế





H Ni - 2008
Bộ giáo dục và đào tạo
Tr-ờng Đại học Ngoại th-ơng Hà Nội

Hoàng Thị Ph-ơng Lan







Chính sách, pháp luật cạnh tranh của
các n-ớc - Bài học đối với Việt Nam
Chuyên ngành: KTTG&QHKTQT
Mã số: 60.31.07

Luận văn thạc sỹ kinh tế






Ng-ời h-ớng dẫn khoa học: TS. Tăng Văn Nghĩa










H Ni - 2008
1
môc lôc
Danh mục các chữ viết tắt…………………………………………………………1

Lời mở đầu 2
Chương I: Tổng quan về cạnh tranh và chính sách, pháp luật cạnh tranh 5
1.1. Khái niệm cạnh tranh 5
1.1.1. Khái niệm cạnh tranh 5
1.1.2. Vai trò của cạnh tranh 6
1.1.3. Các hình thức biểu hiện của cạnh tranh 8
1.1.3.1. Căn cứ vào tính chất và mức độ can thiệp của công quyền vào đời
sống kinh tế 8
1.1.3.2. Căn cứ vào tính chất và mức độ biểu hiện 9
1.1.3.3. Căn cứ vào mục đích, tính chất của các phương thức cạnh tranh 11
1.2. Sự phát triển của lý thuyết cạnh tranh 12
1.2.1. Lý luận cạnh tranh cổ điển 12
1.2.1.1. Lý luận cạnh tranh của Adam Smith 12
1.2.1.2. Lý luận cạnh tranh của John Stuart Mill 15
1.2.1.3. Lý luận cạnh tranh của Karl Mark 16
1.2.1.4. Lý luận cạnh tranh của John Bates Clark 18
1.2.1.5. Lý luận cạnh tranh theo trường phái Chicago 20
1.2.2. Lý luận cạnh tranh hiện đại 23
1.2.2.1. Lý luận cạnh tranh hoàn hảo 23
1.2.2.2. Lý luận cạnh tranh của trường phái Áo 24
1.2.2.3. Lý luận cạnh tranh tổ chức ngành 26
1.2.2.4. Lý luận lợi thế cạnh tranh quốc gia 28
1.2.3. Những thay đổi của lý luận cạnh tranh trong điều kiện hiện nay 30
1.2.3.1. Những thay đổi của lý luận cạnh tranh trong bối cảnh của các xu thế
phát triển kinh tế thế giới ngày nay 30
1.2.3.2. Thay đổi từ cạnh tranh dựa vào lợi thế đến cạnh tranh dựa vào quy
chế 31
2
1.2.3.3. Thay đổi từ cạnh tranh đối kháng sang cạnh tranh hợp tác 32
1.3. Tổng quan về chính sách, pháp luật cạnh tranh 33

1.3.1. Khái niệm chính sách, pháp luật cạnh tranh 33
1.3.1.1. Khái niệm chính sách cạnh tranh 33
1.3.1.2. Khái niệm pháp luật cạnh tranh 35
1.3.2. Vai trò của chính sách, pháp luật cạnh tranh 36
1.3.3. Những yêu cầu đặt ra trong xây dựng chính sách, pháp luật cạnh tranh 38
Chương II: Thực trạng về chính sách, pháp luật cạnh tranh của các nước và
Việt Nam 40
2.1. Thực trạng về chính sách, pháp luật cạnh tranh của một số nước 40
2.1.1. Thực trạng về chính sách, pháp luật cạnh tranh của Pháp 40
2.1.2. Thực trạng về chính sách, pháp luật cạnh tranh của Canada 44
2.1.3. Thực trạng về chính sách, pháp luật cạnh tranh của Nhật Bản 48
2.2. Thực trạng về chính sách, pháp luật cạnh tranh của Việt Nam 54
2.2.1. Cạnh tranh trong lịch sử Việt Nam 54
2.2.1.1. Cạnh tranh trong giai đoạn trước năm 1986 54
2.2.1.2. Cạnh tranh trong giai đoạn từ năm 1986 - 2005 57
2.2.2. Thực trạng về chính sách, pháp luật cạnh tranh của Việt Nam hiện nay 62
2.2.2.1. Tổng quan về thực trạng chính sách, pháp luật cạnh tranh của Việt
Nam hiện nay 62
2.2.2.2. Những đổi mới trong chính sách, pháp luật cạnh tranh của Việt Nam
hiện nay 64
2.2.2.3. Những điểm hạn chế trong chính sách, pháp luật cạnh tranh của Việt
Nam hiện nay 68
2.3. Bài học đối với việc hoàn thiện chính sách, pháp luật cạnh tranh của Việt Nam
71
Chương III: Một số giải pháp hoàn thiện chính sách, pháp luật cạnh tranh của
Việt Nam 75
3.1. Yêu cầu phải hoàn thiện chính sách, pháp luật cạnh tranh của Việt Nam 75
3
3.2. Giải pháp hoàn thiện chính sách cạnh tranh của Việt Nam 76
3.2.1. Nâng cao nhận thức trong quá trình hoàn thiện chính sách cạnh tranh 77

3.2.2. Đảm bảo điều kiện cạnh tranh bình đẳng giữa các thành phần kinh tế trong
nước 78
3.2.3. Đảm bảo điều kiện cạnh tranh bình đẳng giữa các doanh nghiệp trên thị
trường Việt Nam 79
3.2.4. Tăng sự phù hợp giữa chính sách cạnh tranh của Việt Nam với các quy định
liên quan của WTO 81
3.3. Giải pháp hoàn thiện pháp luật cạnh tranh của Việt Nam 83
3.3.1. Hoàn thiện quy định kiểm soát hành vi hạn chế cạnh tranh 84
3.3.1.1. Về thỏa thuận hạn chế cạnh tranh 84
3.3.1.2. Về lạm dụng vị trí thống lĩnh thị trường, lạm dụng vị trí độc quyền 85
3.3.1.3. Về tập trung kinh tế 87
3.3.2. Đối với nhóm hành vi cạnh tranh không lành mạnh 90
3.3.3. Hoàn thiện các quy định nhằm tăng cường tính độc lập và hiệu quả của cơ
quan quản lý cạnh tranh 93
3.3.4. Hài hòa hóa pháp luật cạnh tranh với các quy định của WTO 95
Kết luận 100
Tài liệu tham khảo 1011

1
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT

Chữ viết tắt
Tiếng Anh
Tiếng Việt
AFTA
Asean Free Trade Area
Khu vực mậu dịch tự do Asean
FDI
Foreign Direct Investment
Đầu tư trực tiếp nước ngoài

GATT
General Agreement on Tariffs
and Trade
Hiệp định chung về thương mại
và thuế quan
IPO
Initial Public Offering
Phát hành lần đầu ra công
chúng
ODA
Official Development
Assistance
Hỗ trợ phát triển chính thức
SCM
Subsidies and Countervailing
Measures
Hiệp định trợ cấp và biện pháp
đối kháng
SOE
State Own Enterprise
Doanh nghiệp quốc doanh
TBT
Technical Barriers to Trade
Hiệp định các biện pháp hàng
rào kỹ thuật thương mại
WTO
World Trade Organization
Tổ chức thương mại thế giới

2

LỜI MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài:
Sau hơn 20 năm đổi mới nền kinh tế, Việt Nam đã ký các hiệp định hợp tác
kinh tế - thương mại với EU (năm 1995), tham gia ASEAN (1995) và Khu vực mậu
dịch tự do AFTA của ASEAN (2001), tham gia APEC (1998), Hiệp định thương
mại song phương Việt Nam - Hoa Kỳ có hiệu lực (2001).
Ngày 11/1/2007, Việt Nam trở thành thành viên đầy đủ của WTO - tổ chức
thương mại lớn nhất toàn cầu hiện nay. Điều này trở thành cột mốc quan trọng đánh
dấu sự hội nhập sâu hơn, rộng hơn, mạnh mẽ hơn của nền kinh tế Việt Nam vào nền
kinh tế thế giới. Mặt khác, đây cũng là một thử thách to lớn vì sức ép cạnh tranh đối
với doanh nghiệp và nền kinh tế sẽ trở nên gay gắt hơn.
Tại kỳ họp thứ 6, Quốc hội khó XI ngày 3/12/2004 đã thông qua Luật Cạnh
tranh, bắt đầu có hiệu lực từ ngày 1/7/2005. Với 6 chương, 123 điều khoản, Luật
Cạnh tranh là một trong những văn bản luật đồ sộ và có tầm quan trọng đặc biệt
trong việc định hướng cho nền kinh tế thị trường đang hình thành. Luật Cạnh tranh
đi vào cuộc sống sẽ góp phần làm cho thị trường ngày càng lành mạnh hơn; những
hành vi độc quyền trong kinh doanh gây hậu quả tiêu cực trên thị trường, cộng đồng
và người tiêu dùng sẽ bị hạn chế. Như vậy, một chính sách, pháp luật cạnh tranh
phù hợp sẽ giúp các doanh nghiệp Việt Nam tham gia vào nền kinh tế toàn cầu
thành công hơn, từ đó, đưa vị thế của nền kinh tế lên một tầm cao mới.
2. Tình hình nghiên cứu:
Đã có nhiều sách tham khảo, công trình nghiên cứu về chính sách, pháp luật
cạnh tranh của Việt Nam, như: sách tham khảo “Tiến tới xây dựng pháp luật về
cạnh tranh trong điều kiện chuyển sang nền kinh tế thị trường ở Việt Nam” của
Nguyễn Như Phát và Bùi Nguyên Khánh, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội 2001;
“Cạnh tranh và xây dựng pháp luật cạnh tranh ở Việt Nam”, chủ biên Nguyễn Như
Phát/Trần Đình Hảo, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội 2001; “Pháp luật về kiểm soát
độc quyền và chống cạnh tranh không lành mạnh ở Việt Nam”, Đặng Vũ Huân,
3
Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội 2004. Các đề tài nghiên cứu khoa học như: “Cơ sở

khoa học và thực tiễn cho việc xây dựng chính sách cạnh tranh trong nền kinh tế
Việt Nam”, KS Lê Viết Thái, Viện nghiên cứu quản lý kinh tế trung ương (CIEM)
đề tài cấp bộ (Bộ Kế hoạch và đầu tư), năm 1998; “Cơ sở khoa học xác định mức
độ hạn chế cạnh tranh của các thỏa thuận và các tiêu chí cho phép miễn trừ trong
Luật cạnh tranh”, CN Trịnh Thị Thanh Thủy, Bộ Thương mại, năm 2004…
Sau khi Luật Cạnh tranh được ban hành và có hiệu lực, một số sách về Luật
Cạnh tranh cũng đã được xuất bản như: “Bình luận khoa học Luật Cạnh tranh”, Lê
Hoàng Oanh, Nxb Chính trị quốc gia, 2005; “Pháp luật cạnh tranh tại Việt Nam”,
TS. Lê Danh Vĩnh, Hoàng Xuân Bắc, ThS. Nguyễn Ngọc Sơn, Nxb Tư pháp, Hà
Nội 2006.
Ngoài ra còn có rất nhiều bài báo đóng góp cho việc xây dựng và hoàn thiện
chính sách, pháp luật cạnh tranh của Việt Nam được đăng trên các tạp chí Nhà nước
và pháp luật, Nghiên cứu kinh tế…
3. Mục đích nghiên cứu:
Mục đích nghiên cứu của đề tài là:
- Làm rõ những vấn đề lý luận về cạnh tranh từ cổ điển đến hiện đại
- Phân tích hệ thống chính sách, pháp luật cạnh tranh của các nước
- Đánh giá về thực trạng thực thi chính sách, pháp luật cạnh tranh của Việt
Nam; tìm ra giải pháp hoàn thiện tính hiệu quả, phù hợp giữa chính sách và pháp
luật cạnh tranh với tình hình phát triển của nền kinh tế.
4. Nhiệm vụ nghiên cứu:
Đánh giá được thực trạng của chính sách và pháp luật cạnh tranh của Việt
Nam, trên cơ sở kết hợp với những phân tích về những thành công đã đạt được của
chính sách, pháp luật cạnh tranh của một số nước đưa ra những giải pháp hoàn thiện
chính sách, pháp luật cạnh tranh của Việt Nam.
5. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu:
4
Đối tượng nghiên cứu: các lý thuyết cổ điển và hiện đại về cạnh tranh, chính
sách, pháp luật cạnh tranh của một số nước và Việt Nam bao gồm nội dung của luật
cạnh tranh và kinh nghiệm thực thi luật cạnh tranh của các nước.

Phạm vi nghiên cứu: các hành vi cạnh tranh giữa các chủ thể kinh doanh trên
lãnh thổ Việt Nam, chính sách, pháp luật cạnh tranh của Việt Nam và một số nước
trên thế giới.
6. Phương pháp nghiên cứu:
Đề tài sử dụng tổng hợp các phương pháp nghiên cứu khác nhau như phương
pháp thu thập, tổng hợp, phân tích dữ liệu trên cơ sở định lượng và định tính,
phương pháp trích dẫn…
Đề tài cũng sử dụng những số liệu thống kê được lấy từ các nguồn trong và
ngoài nước, thu thập từ các trang web, tài liệu hội thảo…
7. Kết cấu của luận văn:
Kết cấu của luận văn ngoài phần mở đầu và kết luận, nội dung chính được chia
thành 3 chương:
Chương 1: Tổng quan về cạnh tranh và chính sách, pháp luật cạnh tranh
Chương 2: Thực trạng về chính sách và pháp luật cạnh tranh của một số nước
và Việt Nam
Chương 3: Một số giải pháp hoàn thiện chính sách, pháp luật cạnh tranh của
Việt Nam
5
ch-ơng i: tổng quan về cạnh tranh và chính sách,
pháp luật cạnh tranh
1.1. Khỏi nim cnh tranh
1.1.1. Khỏi nim cnh tranh
Cnh tranh l hnh ng ganh ua, u tranh chng li cỏc cỏ nhõn hay cỏc
nhúm, cỏc loi vỡ mc ớch ginh c s tn ti, sng cũn, ginh c li nhun,
a v, s kiờu hónh, cỏc phn thng hay nhng th khỏc
[19]
. Cnh tranh c hiu
l hin tng t nhiờn, l mõu thun quan h gia cỏc cỏ th cú chung mt mụi
trng sng v mt iu kin no ú m cỏc cỏ th cựng quan tõm.
Thut ng cnh tranh c s dng trong nhiu lnh vc khỏc nhau nh kinh

t, thng mi, lut, chớnh tr, sinh thỏi, th thao Trong lnh vc kinh t, cnh
tranh l hot ng tranh ua gia nhng ngi sn xut hng hoỏ, cỏc thng nhõn,
cỏc nh kinh doanh trong nn kinh t th trng, b chi phi bi quan h cung - cu,
nhm ginh cỏc iu kin sn xut, tiờu th v th trng cú li nht. Cnh tranh l
ng lc thỳc y s phỏt trin kinh t, l c s quan trng bo m cho t do kinh
doanh hp phỏp v mang li li ớch thit thc cho xó hi v ngi tiờu dựng.
Hin nay, cú rt nhiu quan im, cỏch nhỡn nhn khỏc nhau, tuy nhiờn, tt c
u cú mt im chung l cụng nhn cnh tranh l ng lc phỏt trin, lm lnh
mnh húa cỏc hot ng th trng, bờn cnh ú, cnh tranh cng kộo theo nhng
nh hng tiờu cc do cnh tranh tt yu phi dn n cú s thng thua. Nh vy,
cnh tranh ch xut hin khi trờn th trng cú ớt nht hai ch th, hai nh cung cp
khỏc nhau, chớnh vỡ vy, cnh tranh l sn phm riờng cú ca kinh t th trng, l
linh hn v l ng lc cho s phỏt trin ca th trng
[17, trang 10]
.
Bn cht ca cnh tranh: cnh tranh cú bn cht kinh t v bn cht xó hi. V
bn cht kinh t, cnh tranh l s tranh ua gia nh sn xut. Mc ớch khi tham
gia kinh doanh ca cỏc nh Sn xut l li nhun, li nhun l ng lc gia nhp th
trng, ng thi l thc o s thnh cụng ca nh sn xut. Li nhun nh sn
6
xuất có được tỷ lệ thuận với sự hài lòng, thỏa mãn mà họ mang lại cho người tiêu
dùng, khách hàng, đối tác của mình. Người sản xuất phải tìm mọi cách để làm ra
sản phẩm có chất lượng hơn, đẹp hơn, có chi phí sản xuất rẻ hơn, có tỷ lệ tri thức
khoa học, công nghệ cao hơn để đáp ứng thị hiếu của người tiêu dùng. Cạnh tranh
làm cho nhà sản xuất năng động, nhạy bén hơn, nắm bắt tốt hơn nhu cầu của người
tiêu dùng, thường xuyên cải tiến kỹ thuật, áp dụng những tiến bộ, các nghiên cứu
thành công mới nhất vào trong sản xuất, hoàn thiện cách thức tổ chức trong sản
xuất, trong quản lý sản xuất để nâng cao năng xuất, chất lượng và hiệu quả kinh tế.
Về bản chất xã hội, cạnh tranh chỉ xuất hiện khi nền kinh tế thực hiện được
các điều kiện: i) công nhận sự tồn tại của nhiều thành phần kinh tế với các hình thức

sở hữu khác nhau. Cạnh tranh chỉ trở thành động lực phát triển khi các doanh
nghiệp đến từ các thành phần kinh tế khác nhau có sự khác biệt về chủ sở hữu vốn,
đường lối kinh doanh… nhưng cùng chung mục đích là tìm kiếm lợi ích kinh tế; ii)
cạnh tranh chỉ xuất hiện và tồn tại khi có sự tôn trọng quyền tự do kinh doanh trên
thị trường của doanh nghiệp. Sự độc lập, tự chủ, tự do trong các hoạt động của
doanh nghiệp sẽ phát huy tối đa khả năng, sức sáng tạo của doanh nghiệp, là bàn
đạp để doanh nghiệp đưa ra những đối sách hiệu quả, phù hợp để có thể thành công
trên thị trường. Tuy nhiên, nếu để quyền tự do của doanh nghiệp quá lớn sẽ tạo ra
những hậu quả tiêu cực cho nền kinh tế như những hành vi cạnh tranh không lành
mạnh nên cần phải có hệ thống chính sách, pháp luật cạnh tranh để một mặt khuyến
khích khả năng sáng tạo, mặt khác phải kiềm chế được những hành vi mang tính thủ
đoạn nhằm tiêu diệt đối thủ của doanh nghiệp.
1.1.2. Vai trò của cạnh tranh
Cạnh tranh làm thỏa mãn nhu cầu của người tiêu dùng
Ba câu hỏi lớn mà các nhà sản xuất phải tìm được câu trả lời trước khi tham
gia thị trường là sản xuất cái gì, sản xuất cho ai và sản xuất như thế nào. Đáp án cho
ba câu hỏi này thực chất chính là người tiêu dùng: người tiêu dùng đang cần gì, số
lượng bao nhiêu, yêu cầu như thế nào. Người tiêu dùng được xem là đối tác của
7
doanh nghiệp, nếu có sự hợp tác thì doanh nghiệp thành công và ngược lại. Chính vì
vậy, doanh nghiệp phải tìm mọi cách để cho đối tác của mình hài lòng như nâng cao
chất lượng, giảm giá thành, tăng các dịch vụ kèm theo… Người tiêu dùng luôn được
lựa chọn giữa nhiều doanh nghiệp cung cấp sản phẩm khác nhau nên họ sẽ quyết
định đến với doanh nghiệp nào mà nhu cầu của họ được thỏa mãn tốt nhất và phù
hợp với khả năng tài chính của họ. Các doanh nghiệp còn muốn làm hài lòng người
tiêu dùng hơn nữa nhằm tạo sự trung thành lâu dài của người tiêu dùng với doanh
nghiệp, đảm bảo sự tăng trưởng dài hạn cho doanh nghiệp.
Cạnh tranh đảm bảo sử dụng các nguồn lực sản xuất một cách hiệu quả
Để có thể thành công trong cạnh tranh, các doanh nghiệp đều tìm cách hạ giá
thành, giảm chi phí sản xuất. Để có thể giảm được chi phí sản xuất, các doanh

nghiệp buộc phải sử dụng hợp lý và tiết kiệm các nguồn lực sản xuất. Điều này
khiến cho các nguồn lực sản xuất như vốn, lao động, tài nguyên thiên nhiên được
khai thác và sử dụng hiệu quả hơn. Hiện nay, các doanh nghiệp đã thực hiện hoạch
định nguồn lực sản xuất như một cách để tăng tính hiệu quả trong sử dụng nguồn
lực sản xuất, từ đó nâng cao khả năng cạnh tranh cho doanh nghiệp.
Đây cũng là cơ sở để cùng với việc ứng dụng các tiến bộ khoa học kỹ thuật
(được trình bày ở phần dưới) theo xu hướng thân thiện với môi trường, cạnh tranh
đóng vai trò gián tiếp trong bảo vệ tài nguyên thiên nhiên, bảo vệ môi trường.
Cạnh tranh thúc đẩy việc ứng dụng các tiến bộ khoa học kỹ thuật
Hai cuộc cách mạng khoa học công nghệ lần 1 và 2 diễn ra đã cho thấy vai trò
quan trọng của việc ứng dụng khoa học kỹ thuật trong sản xuất, kinh doanh. Khoa
học kỹ thuật giúp nâng cao năng suất lao động, nâng cao chất lượng sản phẩm, giảm
chi phí sản xuất nhằm đáp ứng tốt hơn nhu cầu của khách hàng. Sự cạnh tranh giữa
các doanh nghiệp ngày nay còn là cuộc tranh đua trong ứng dụng các thành tựu, tiến
bộ của khoa học kỹ thuật vào sản xuất kinh doanh. Muốn chiến thắng trong cạnh
tranh, các doanh nghiệp không có sự lựa chọn nào khác là phải bắt kịp với những
thay đổi của khoa học kỹ thuật hiện đại.
8
Cạnh tranh đặt ra yêu cầu liên tục đổi mới trong sản xuất, kinh doanh
Liên tục đổi mới, liên tục cải tiến là sự đảm bảo cho sự thành công của doanh
nghiệp trong cạnh tranh trên thị trường sẽ kéo dài được bao lâu. Quá trình liên tục
đổi mới một mặt khiến cho doanh nghiệp không bị lâm vào tình trạng thụt lùi, lạc
hậu, mặt khác, theo kinh nghiệm của những doanh nghiệp thành công trên thị
trường, trọng tâm của việc cải tiến liên tục còn là nhắm vào việc xác định các
nguyên nhân tiềm tàng của các hoạt động không tạo ra giá trị tăng thêm và loại bỏ
chúng bằng cách cải tiến quy trình sản xuất, kinh doanh.
Điều kiện để cạnh tranh hình thành là nền kinh tế thị trường, và trong nền kinh
tế thị trường, khả năng sáng tạo của các chủ thể kinh doanh luôn được coi trọng.
Những sáng tạo không mệt mỏi của con người chính là quá trình liên tục đổi mới
nhằm tạo chỗ đứng vững chắc cho doanh nghiệp trong quá trình cạnh tranh.

1.1.3. Các hình thức biểu hiện của cạnh tranh
Trên thị trường có nhiều hình thức biểu hiện khác nhau của cạnh tranh, góc độ
nghiên cứu khác nhau thì có các hình thức biểu hiện khác nhau. Các hình thức biểu
hiện của cạnh tranh được phân loại dựa trên 3 căn cứ sau:
1.1.3.1. Căn cứ vào tính chất và mức độ can thiệp của công quyền vào đời
sống kinh tế
Cạnh tranh tự do
Cạnh tranh tự do là hình thái thị trường thoái khỏi mọi sự can thiệp của nhà
nước. Hình thái cạnh tranh tự do ra đời cùng phương thức sản xuất tư bản thế kỷ
XIX đầu thế kỷ XX, theo đó, giá cả được hình thành dưới sự chi phối của quan hệ
cung cầu và của các thế lực thị trường. Cạnh tranh tự do đưa ra mô hình cạnh tranh
mà ở đó các chủ thể tham gia hoàn toàn chủ động trong xây dựng và thực hiện các
chiến lược, kế hoạch kinh doanh của mình. Mô hình cạnh tranh tự do ra đời cùng
với học thuyết “bàn tay vô hình” của Adam Smith. Đây là thời kỳ không có “bàn
tay hữu hình”, nhà nước và pháp luật được xem là kẻ thù của cạnh tranh, khuyết tật
của thị trường được bùng phát và gây ảnh hưởng xấu đến đời sống xã hội.
9
Ngày nay, do sự khác biệt về quyền lợi, chủ sở hữu giữa các thành phần kinh
tế đòi hỏi phải có sự cân bằng, hài hòa lợi ích giữa các chủ thể tham gia hoạt động
thị trường, đảm bảo sự phát triển ổn định, bền vững nên sự tự do của các doanh
nghiệp bị giới hạn bằng các quy định pháp luật. Cạnh tranh tự do được thay thế
bằng cạnh tranh có sự điều tiết của nhà nước.
Cạnh tranh có sự điều tiết của nhà nước
Cạnh tranh có sự điều tiết của nhà nước là hình thức cạnh tranh có sự can thiệp
của nhà nước thông qua các chính sách và công cụ pháp luật nhằm điều tiết các
quan hệ cạnh tranh theo xu hướng phát triển trật tự, công bằng và lành mạnh.
Cạnh tranh tự do đã gây ra tình trạng các nguồn lực sản xuất bị khai thác tràn
lan, lãng phí; các hành vi lừa gạt, trục lợi… của các chủ thể tham gia thị trường.
“Bàn tay vô hình” chỉ có vai trò điều tiết khi mối quan hệ giữa các chủ thể là bình
đẳng và lành mạnh, trong khi thực tế để có được và duy trì được mối quan hệ này là

điều không thể, chính vì vậy, cần phải có “bàn tay hữu hình” của nhà nước - bộ máy
quyền lực tối cao để khắc phục và sửa chữa những khuyết tật của nền kinh tế.
1.1.3.2. Căn cứ vào tính chất và mức độ biểu hiện
Cạnh tranh hoàn hảo
Cạnh tranh hoàn hảo là hình thức cạnh tranh mà quyết định của người mua và
người bán không làm ảnh hưởng đến giá cả của thị trường. Trên thị trường cạnh
tranh hoàn hảo, giá cả của sản phẩm được hình thành hoàn toàn dựa trên quan hệ
cung cầu, quy luật giá trị, không có sự chi phối, can thiệp của bất cứ quyền lực nào.
Cạnh tranh hoàn hảo chỉ tồn tại được khi có đủ các điều kiện sau: i) mỗi doanh
nghiệp trong ngành chỉ chiếm một thị phần đủ nhỏ sao cho không can thiệp được
đến sự biến động của giá cả; ii) sản phẩm tham gia trên thị trường phải đồng nhất vì
nếu có sự khác biệt trong các sản phẩm sẽ tạo ra quyền lực cho doanh nghiệp ở các
mức độ khác nhau; iii) các yếu tố đầu vào của quy trình sản xuất được lưu thông tự
do và các doanh nghiệp có cơ hội như nhau trong tiếp cận các yếu tố đầu vào; iv)
thông tin trên thị trường là hoàn hảo, các chủ thể tham gia thị trường có nhận thức
10
đầy đủ, kiến thức hoàn hảo về giá hiện tại, giá tương lai, chi phí và những cơ hội
kinh tế; v) không có sự tồn tại của bất cứ rào cản gia nhập thị trường nào, thị trường
cạnh tranh hoàn hảo cho phép sự gia nhập thị trường một cách tự do đối với tất cả
các doanh nghiệp tiềm năng.
Trong mô hình cạnh tranh hoàn hảo, các quan hệ thị trường tồn tại trong trạng
thái tĩnh. Tuy nhiên, trên thực tế mối quan hệ qua lại giữa các chủ thể, sự biến động
không ngừng của các yếu tố, cũng như việc trang bị một “kiến thức hoàn hảo” cho
các chủ thể tham gia thị trường là điều không thể nên cạnh tranh hoàn hảo là hình
thức cạnh tranh chỉ tồn tại trên lý thuyết.
Cạnh tranh không hoàn hảo
Cạnh tranh không hoàn hảo là hình thức cạnh tranh trái ngược với cạnh tranh
hoàn hảo, trong đó, các chủ thể có đủ sức mạnh thị trường có thể chi phối giá cả các
sản phẩm của mình trên thị trường. Cạnh tranh hoàn hảo có hai loại: độc quyền
nhóm và cạnh tranh mang tính độc quyền.

Cạnh tranh mang tính độc quyền là hình thức cạnh tranh sản phẩm, trong đó
mỗi doanh nghiệp đều có mức độ độc quyền nhất định do họ có sản phẩm riêng có
của mình. Mức độ độc quyền phụ thuộc vào khả năng tạo sự khác biệt giữa sản
phẩm của mình so với sản phẩm của các doanh nghiệp khác. Hình thức cạnh tranh
này tồn tại nhiều trong các sản phẩm như hóa mỹ phẩm, ô tô, may mặc…
Độc quyền nhóm là hình thức cạnh tranh xuất hiện trong một số ngành chỉ có
một số ít nhà sản xuất và các nhà sản xuất đều nhận thức được rằng giá cả sản phẩm
của mình không chỉ phụ thuộc vào sản lượng của mình mà còn phụ thuộc vào hoạt
động của các đối thủ cạnh tranh trong ngành đó. Độc quyền nhóm hình thành trong
các lĩnh vực sản xuất ô tô, xi măng, thép, caosu…
Về độc quyền, là hiện tượng tồn tại khi chỉ có một doanh nghiệp duy nhất kinh
doanh hoặc tiêu thụ sản phẩm trên thị trường mà không có sự thay thế của các sản
phẩm hoặc các chủ thể kinh doanh khác. Doanh nghiệp độc quyền có thể là độc
quyền nguồn cung (độc quyền bán) hoặc độc quyền nguồn cầu (độc quyền mua)
trên thị trường. Độc quyền được hình thành từ nhiều nguyên nhân khác nhau bao
11
gồm: i) từ quá trình cạnh tranh. Kết quả của quá trình cạnh tranh là sự tích lũy lợi
nhuận và các nguồn lực thị trường vào doanh nghiệp chiến thắng, bên cạnh đó là sự
ra đi của các doanh nghiệp thất bại đã hình thành nên doanh nghiệp độc quyền; ii)
từ yêu cầu về công nghệ sản xuất sản phẩm. Có những sản phẩm đòi hỏi số vốn lớn
và trình độ công nghệ cao, trong khi chỉ có một số nhà sản xuất mới đáp ứng được
yêu cầu nên khi tiến hành đầu tư họ đã tạo được thế độc quyền; iii) từ sự tồn tại của
các rào cản thị trường. Chính sách bảo hộ của nhà nước, sự trung thành của khách
hàng, doanh nghiệp có lợi thế chi phí tuyệt đối… đều là những rào cản làm hạn chế
các doanh nghiệp khác gia nhập thị trường; iv) từ sự tích tụ tập trung kinh tế. Tập
trung kinh tế diễn ra thông qua hoạt động mua lại, sáp nhập, liên doanh, hợp nhất
doanh nghiệp.
Độc quyền có vai trò thúc đẩy sự tích tụ và tập trung các nguồn lực, phát triển
về khoa học kỹ thuật; tuy nhiên độc quyền sẽ thủ tiêu cạnh tranh và gây ra những
tác động tiêu cực như người tiêu dùng bị thiệt hại, gây ra lãng phí cho xã hội do chi

phí doanh nghiệp bỏ ra để củng cố và giữ vững vị trí độc quyền bằng mọi giá, bóp
méo chi phí sản xuất, tạo ra sức ỳ cho chính bản thân doanh nghiệp độc quyền…
1.1.3.3. Căn cứ vào mục đích, tính chất của các phương thức cạnh tranh
Cạnh tranh lành mạnh là hình thức cạnh tranh trong sáng, cạnh tranh bằng
tiềm năng vốn có của doanh nghiệp, phù hợp với các chuẩn mực đạo đức kinh
doanh. Cạnh tranh lành mạnh mang lại lợi ích cho người tiêu dùng thông qua nâng
cao chất lượng sản phẩm, giá thành hợp lý; mang lại lợi ích cho xã hội thông qua
phát triển khoa học kỹ thuật, sử dụng hợp lý và tiết kiệm các nguồn lực sản xuất…
Cạnh tranh không lành mạnh là hình thức cạnh tranh trái ngược với cạnh
tranh lành mạnh, trong đó, các doanh nghiệp cạnh tranh bằng các hành vi không phù
hợp với chuẩn mực đạo đức kinh doanh, vô tình hoặc cố ý gây thiệt hại cho đối thủ
cạnh tranh hoặc bạn hàng. Một trong các điều kiện để cạnh tranh tồn tại là tôn trọng
quyền tự do của các chủ thể tham gia thị trường nên đây là lý do để các chủ thể có
thể có những hành vi cạnh tranh không lành mạnh, chính vì vậy, cần phải có pháp
luật cạnh tranh để hạn chế, xử lý các hành vi cạnh tranh không lành mạnh.
12
1.2. Sự phát triển của lý thuyết cạnh tranh
1.2.1. Lý luận cạnh tranh cổ điển
Cuối thế kỷ XVII, với sự phát triển mạnh mẽ của lực lượng sản xuất, phương
thức sản xuất tư bản chủ nghĩa càng khẳng định được vị trí trong nền kinh tế thế
giới. Các công trường thủ công tư bản chủ nghĩa ra đời ngày càng nhiều trong cả
lĩnh vực nông nghiệp và công nghiệp. Việc gia tăng của cải khiến cho những giải
thích của phái trọng thương về nguồn gốc của cải không còn đủ sức thuyết phục,
thực tế đòi hỏi phải có sự thay đổi quan điểm lý luận. Chủ nghĩa trọng thương ra đời
vào thế kỷ XV và tan rã vào cuối thế kỷ XVII, tư tưởng kinh tế nổi bật của chủ
nghĩa trọng thương là cho rằng của cải của một quốc gia chỉ có thể tăng lên bằng
con đường ngoại thương và nhiệm vụ của ngoại thương là phải xuất siêu.
Sự phát triển của giai cấp tư sản sản xuất đòi hỏi phải có quan điểm kinh tế
cho mình để bảo vệ quyền lợi của giai cấp mình, đồng thời thể hiện tính ưu việt của
chủ nghĩa tư bản so với phương thức sản xuất phong kiến. Trường phái tư sản cổ

điển ra đời đã đáp ứng được yêu cầu đó, đại diện cho trường phái này là chủ nghĩa
tự do kinh tế cổ điển.
Chủ nghĩa tự do kinh tế cổ điển xuất hiện chủ yếu ở Anh và Pháp, là hai nước
tư bản chủ nghĩa phát triển nhất ở thế kỷ XIX ở châu Âu. Nhưng sự phát triển của
chủ nghĩa tự do kinh tế cổ điển thực sự phát triển vào cuối thế kỷ XVIII dưới bàn
tay của Adam Smith và sau đó là các học giả tiêu biểu khác của trường phái cổ điển
đã tổng hợp thành lý luận hoàn chỉnh, trong đó có những lý luận về cạnh tranh.
1.2.1.1. Lý luận cạnh tranh của Adam Smith
Adam Smith sinh năm 1723 tại Kirkcaldy, Scotland. Năm 14 tuổi ông đã vào
học đại học ở trường đại học Glasgow, chuyên ngành triết học đạo đức, sau này ông
trở thành giáo sư triết học tại chính ngôi trường này. Tác phẩm đầu tiên của ông là
“Lý thuyết về những xúc cảm đạo đức“ xuất bản năm 1759. Tuy nhiên, tác phẩm
mang lại cho ông sự nổi tiếng và giàu có là cuốn “Của cải của các dân tộc“ được
xuất bản năm 1776. Ngược lại với cuốn “Lý thuyết về những xúc cảm đạo đức“,
13
“Của cải của các dân tộc“ giả định rằng con người hành động theo lợi ích cá nhân,
với lập luận rằng một cá nhân hành động vì bản thân sẽ đóng góp tốt cho cộng
đồng
[13, trang 56, 57]
. Adam Smith cũng là người đầu tiên nhìn thấy lợi ích từ việc có
cạnh tranh nhiều hơn và ủng hộ các chính sách thúc đẩy cạnh tranh. Điều này đòi
hỏi nhà nước giảm bớt sự can thiệp vào nền kinh tế, cũng như những hành động
ngăn chặn khuynh hướng và tình trạng độc quyền.
Adam Smith chủ trương tự do cạnh tranh. Ông cho rằng, cạnh tranh có thể
phối hợp với kinh tế một cách nhịp nhàng, có lợi cho xã hội. Cạnh tranh trong quá
trình của cải của quốc gia tăng lên chủ yếu diễn ra thông qua thị trường và giá cả,
do đó, cạnh tranh có quan hệ chặt chẽ với cơ chế thị trường. Với quan điểm lấy chủ
nghĩa cá nhân làm cơ sở, Smith nhận định rằng, trong tự do cạnh tranh, các cá nhân
chèn ép nhau khiến cho mỗi cá nhân phải thực hiện công việc của mình một cách tốt
nhất, cố gắng ở mức độ cao nhất. Cạnh tranh có thể khơi dậy nỗ lực chủ quan của

mỗi người, từ đó, của cải tăng lên. Quan điểm của Adam Smith về vai trò của cạnh
tranh được thể hiện trên các khía cạnh sau
[3, trang 73, 74, 75]
:
- Cạnh tranh có thể khiến cho cung cầu cân bằng nhau. Trong điều kiện cạnh
tranh, nhiều nhà sản xuất phải cạnh tranh với nhau nên họ phải thường xuyên quan
tâm đến những biến động của cầu, bên cạnh đó, còn phải đánh giá sự biến động của
cung tùy theo sự biến động của tình hình cầu, từ đó phán đoán chính xác số lượng
các loại hàng hóa có thể thích ứng với những thay đổi của cung cầu, của cạnh tranh.
- Cạnh tranh thúc đẩy lao động và điều tiết việc phân phối yếu tố tư bản một
cách hợp lý. Cạnh tranh kích thích nhiệt tình lao động, kích thích người lao động
nắm vững và thành thạo các kỹ năng, kỹ xảo, nâng cao năng lực làm việc. Việc
tuyển chọn lao động khiến cho các chủ thể phải cạnh tranh với nhau làm cho tiền
lương có xu hướng tăng lên hoặc giảm xuống, tự do di chuyển sức lao động giữa
các ngành. Về tư bản, do cạnh tranh các nhà tư bản theo đuổi lợi nhuận khiến cho tư
bản chảy vào ngành có lợi nhuận nhiều nhất.
- Cạnh tranh có lợi cho xã hội. Cạnh tranh giữa các ngành khiến cho tiền
lương và lợi nhuận có xu hướng tiến tới quyền lợi ngang bằng và tài nguyên xã hội
14
được phân phối một cách hợp lý. Cạnh tranh trong ngành luôn gay gắt khiến cho xu
hướng đẩy giá tăng ít đi, đồng thời chất lượng sản phẩm cũng tăng lên tương ứng.
Adam Smith cũng phản đối tình trạng độc quyền. Quan điểm này được thể
hiện rõ trong những lập luận của ông nhằm phản đối quan điểm sử dụng thuế quan
bảo hộ để bảo vệ ngành non trẻ
[13, trang 61]
. Quan điểm này cho rằng, khi một nước
phát triển sản xuất một ngành mới, các doanh nghiệp trong nước phải nhận được sự
bảo hộ cho tới khi có kinh nghiệm đầy đủ. Smith cho rằng bảo hộ ngành non trẻ có
thể tạo ra tình trạng độc quyền và làm sai lệch nguồn vốn khan hiếm chảy vào
ngành độc quyền này. Với quan điểm độc quyền là kẻ thù của tự do thương mại, của

việc mở rộng thị trường và là kẻ thù của tăng trưởng kinh tế nhanh, Smith chỉ ra 4
hậu quả của độc quyền: i) dẫn tới giá cao hơn đối với người tiêu dùng, khi số lượng
doanh nghiệp càng ít và quy mô càng lớn thì họ dễ hợp lực với nhau để tăng giá; ii)
là kẻ thù với quản lý tốt, trong khi cạnh tranh buộc các nhà quản lý phải sắp xếp
công việc hiệu quả và tìm ra cách cải tiến cách quản lý thì độc quyền triệt tiêu
những tác động này; iii) doanh nghiệp độc quyền có khả năng tạo áp lực với nhà
nước để ủng hộ vị trí độc quyền của họ hơn là các doanh nghiệp cạnh tranh, điều
này có thể dẫn tới hậu quả là các bộ luật tồi, mang tính áp đặt có thể được thông
qua; iv) dẫn tới phân bổ sai nguồn lực, các nhà độc quyền có thể đặt giá cao để hoạt
động sản xuất phát triển, nguồn lực sẽ chảy vào ngành độc quyền không phải xuất
phát từ nhu cầu của thị trường, của xã hội mà chỉ vì do tình trạng độc quyền
[13, trang
61]
.
Smith có cái nhìn lạc quan về chủ nghĩa tư bản tự do cạnh tranh theo nghĩa nó
nâng cao mức sống và làm cho mọi người giàu có lên, nhưng ông đã không nhìn
thấy mặt trái của tăng trưởng kinh tế là thất nghiệp, ô nhiễm, sự gia tăng khoảng
cách giàu nghèo Tuy nhiên, những phân tích về tác động tích cực của cạnh tranh
và sự điều tiết của thị trường trong sự vận hành kinh tế vẫn có giá trị lý luận lớn cho
đến thời đại ngày nay.
15
1.2.1.2. Lý luận cạnh tranh của John Stuart Mill
John Stuart Mill sinh năm 1806 tại London, là một nhân vật chuyển tiếp quan
trọng trong kinh tế học. Mặc dù ông được xem là một phần của trường phái cổ điển
nhưng trên những phương diện khác, ông là bậc tiền bối quan trọng của trường phái
biên bắt đầu nổi lên vào cuối thế kỷ XIX
[13, trang 106]
.
Với rất nhiều tác phẩm như “Hệ thống logic“ (1843), “Các nguyên lý của Kinh
tế chính trị học“ (1848), “Bàn về tự do“ (1859), “Chủ nghĩa công lợi“ (1863) , Mill

đã có nhiều cống hiến quan trọng cho kinh tế học. Một vài trong số những đóng góp
này đã mở rộng và hoàn thiện phân tích kinh tế cổ điển, những đóng góp khác mở ra
những lối đi mới bằng phân tích các hiện tượng kinh tế như là những mối quan hệ
so sánh và sự đánh đổi. Mill cũng có những đóng góp trong phạm vi rộng mà ở đó
kinh tế học và triết học đan xen nhau. Những đóng góp này giải thích nền tảng triết
học của kinh tế học, và bắt đầu đưa ra những lý lẽ chứng minh cho tự do cá nhân và
hạn chế sự can thiệp của nhà nước vào các vấn đề kinh tế và xã hội.
Về cạnh tranh, Mill đã bổ sung lý luận cạnh tranh của Adam Smith, ông cho
rằng, có thể cạnh tranh không phải là sự kích thích tốt nhất như mong muốn, nhưng
là sự kích thích cần thiết và đến bao giờ những tiến bộ mới không cần dựa vào cạnh
tranh nữa thì chưa ai đoán được. Nếu Smith ủng hộ cạnh tranh, ủng hộ chủ nghĩa tự
do cạnh tranh thì trong lý luận về tự do của Mill, tự do không chỉ là mấu chốt trong
chính trị học và đạo đức học - tự do theo nghĩa hẹp, mà còn là tự do xã hội - tự do
theo nghĩa rộng. Chủ nghĩa tự do của Mill xây dựng theo nguyên tắc của chủ nghĩa
công lợi, ông đưa mọi vấn đề liên quan đến phạm trù đạo đức như theo đuổi lợi ích
cá nhân, thỏa mãn dục vọng vào phạm trù công lợi và tôn là nguyên tắc đạo đức
cao nhất, cuối cùng của đời người
[3, trang 78, 79, 80]
.
Về tự do kinh tế, Mill cho rằng, trao đổi mua bán có thể làm cho hàng hóa vừa
tốt vừa rẻ nên cần phải bảo vệ tự do giao dịch. Để ngăn ngừa, lừa đảo trong thương
mại, cần phải có sự quản lý chung, tuy nhiên, nên để các chủ thể kinh doanh tự xử
lý công việc của mình, không nên kiểm soát hành vi kinh tế. Ông cho rằng, khi theo
16
đuổi mục tiêu cá nhân hợp pháp, bao giờ cũng có người thành công, kẻ thất bại; và
nếu cuộc chơi là công bằng thì kẻ thất bại phải thừa nhận thực tế.
Mill cho rằng, vừa phải khuyến khích mọi người theo đuổi tự do của bản thân
mình, vừa phải tiến hành sự can thiệp chung để bảo vệ chính nghĩa xã hội. Mill coi
trọng việc chính phủ không can thiệp vào tự do cá nhân. Ông đưa ra ba sự can thiệp
của chính phủ sẽ bị phản đối: i) can thiệp vào những việc mà lẽ ra để cá nhân làm

thì tốt hơn chính phủ làm; ii) làm những việc tuy để cá nhân làm thì chưa hẳn đã tốt
bằng giao cho quan chức chính phủ làm, nhưng nếu xét về tinh thần cá nhân thì để
họ làm những việc ấy thì có thể tăng cường năng lực chủ động, rèn luyện năng lực
phán đoán của họ; iii) làm những việc không cần thiết để gia tăng quyền lực, có khả
năng xảy ra tai họa, đây là trường hợp dễ bị phản đối nhất.
Trong tác phẩm “Bàn về tự do“, Mill đã một lần nữa lập luận về quan điểm tự
do của ông là thị trường tự do là tốt đẹp, chủ yếu bởi vì nó cho phép mỗi cá nhân
phát triển tối đa, trong khi đó, trước ông, Adam Smith ủng hộ thị trường tự do vì nó
tối đa hóa đời sống vật chất.
1.2.1.3. Lý luận cạnh tranh của Karl Mark
Karl Mark sinh năm 1818 trong một gia đình trung lưu Do thái ở Trier, Đức.
Sau khi tốt nghiệp đại học, ông đã say sưa nghiên cứu triết học, đặc biệt là triết học
Hegel. Trong 33 năm cuối đời thì ông lại dành hết thời gian cho kinh tế học. Những
nghiên cứu của ông chủ yếu về sự vận hành của nền kinh tế tư bản chủ nghĩa và
phân tích những vấn đề nảy sinh trong chủ nghĩa tư bản
[13, trang 114]
.
Karl Mark không có lý luận cạnh tranh riêng mà quan điểm về cạnh tranh của
ông được thể hiện xuyên suốt trong lý luận về giá trị, tư bản, giá trị thặng dư. Theo
ông, sự ra đời và tồn tại của cạnh tranh phải dựa vào hai điều kiện là phân công xã
hội và chủ thể lợi ích đa nguyên. Trong đó, phân công xã hội là sản phẩm tất yếu
của sự phát triển của xã hội loài người tới một giai đoạn nhất định, có phân công xã
hội thì có trao đổi, thị trường và có cạnh tranh. Sự tồn tại chủ thể lợi ích đa nguyên
quyết định mỗi chủ thể có lợi ích kinh tế riêng, việc theo đuổi lợi ích riêng ấy tạo
nên động lực cạnh tranh. Cạnh tranh gây ra sự tác động qua lại lẫn nhau giữa những
17
nhà tư bản có lợi ích riêng, từ đó điều tiết sự phân phối tư bản và các tài nguyên
kinh tế - xã hội giữa các ngành sản xuất khác nhau, làm cho giá cả dao động, thúc
đẩy phát triển kỹ thuật sản xuất, thay đổi kết cấu tổ chức kinh tế, thúc đẩy lực lượng
sản xuất phát triển và nền kinh tế - xã hội tăng trưởng.

Trọng tâm trong nghiên cứu về cạnh tranh của K. Mark là cạnh tranh giữa
những người sản xuất và cạnh tranh giữa người sản xuất và người tiêu dùng. Trên
cơ sở đó, ông chỉ ra ba góc độ cạnh tranh: cạnh tranh giá thành thông qua nâng cao
năng suất lao động giữa các nhà tư bản nhằm thu được giá trị thặng dư siêu ngạch;
cạnh tranh chất lượng thông qua nâng cao giá trị sử dụng hàng hóa, cải thiện chất
lượng hàng hóa để thực hiện được giá trị hàng hóa; cạnh tranh giữa các ngành thông
qua việc gia tăng tính lưu động của tư bản nhằm chia nhau giá trị thặng dư. Ba góc
độ cạnh tranh này diễn ra xoay quanh sự quyết định của giá trị, sự thực hiện giá trị,
phân phối giá trị thặng dư, và tạo nên nội dung cơ bản trong lý luận cạnh tranh của
K. Mark. Lý luận cạnh tranh của ông bao gồm chủ yếu các mặt sau
[3, trang 90, 91, 92, 93]
:
- Quy luật cạnh tranh tác động cùng với quy luật giá trị thặng dư. Cạnh tranh
trong nền kinh tế hàng hóa lấy quy luật giá trị làm tiền đề. Quy luật giá trị điều tiết
sự phân phối các yếu tố sản xuất, kích thích lực lượng sản xuất phát triển, đào thải
sự lạc hậu và dựa trên tiền đề công bằng, ngang giá trong trao đổi hàng hóa. Khi
trao đổi không ngang giá thì quan hệ kinh tế bị bóp méo, quy luật giá trị không phát
huy được tác dụng, cạnh tranh không phải là cạnh tranh năng suất sản xuất mà là
cạnh tranh cá lớn nuốt cá bé. Như vậy, quy luật cạnh tranh do quy luật giá trị thặng
dư thúc đẩy, lấy quy luật giá trị làm trục quay, tác động vào các mặt của đời sống
kinh tế - xã hội.
- Cạnh tranh là sức mạnh thúc đẩy gia tăng giá trị thặng dư tương đối. Sản
xuất giá trị thặng dư tương đối bằng cách rút ngắn thời gian lao động xã hội tất yếu
trên tiền đề nâng cao năng suất lao động xã hội. Việc nâng cao năng suất lao động
xã hội được thực hiện thông qua việc các doanh nghiệp theo đuổi giá trị thặng dư
siêu ngạch. Do đó, cạnh tranh diễn ra tự do hơn, triệt để hơn, những hiện tượng
mạnh thắng yếu thua diễn ra nổi bật hơn.
18
- Cạnh tranh thúc đẩy sự lưu động các yếu tố sản xuất và phân phối lại tài
nguyên. Để thắng trong cạnh tranh, nhà tư bản phải đầu tư để mở rộng sản xuất, áp

dụng kỹ thuật mới, giảm chi phí xản xuất, nâng cao năng suất lao động. Năng suất
lao động lại do trình độ kỹ thuật sản xuất, quy mô sản xuất và mức độ mở rộng Sản
xuất kinh doanh quyết định. Kết quả làm cho tư bản, sức lao động không ngừng di
chuyển từ ngành này (ngành có lợi nhuận thấp) sang ngành khác (ngành có lợi
nhuận cao), cạnh tranh cũng phát triển từ cạnh tranh trong nội bộ ngành sang cạnh
tranh giữa các ngành. Cạnh tranh càng phát triển, các loại tài nguyên kinh tế xã hội
càng không ngừng được phân phối lại, không ngừng điều chỉnh và tối ưu hóa kết
cấu ngành, kết cấu lao động, từ đó thúc đẩy tập trung sản xuất và tích lũy tư bản.
- Cạnh tranh là cơ chế điều tiết việc phân phối lợi nhuận. Sự phân chia giá trị
thặng dư giữa các nhà tư bản chịu tác động bởi cơ chế cạnh tranh, tác dụng của cơ
chế cạnh tranh lại chịu ảnh hưởng bởi sự bình quân hóa lợi nhuận. Quá trình bình
quân hóa lợi nhuận cũng là quá trình cạnh tranh trong nội bộ ngành và cạnh tranh
giữa các nhà tư bản chia nhau và chiếm hữu giá trị thặng dư.
Lý luận cạnh tranh của Karl Mark được nghiên cứu trong thời kỳ chủ nghĩa tư
bản cạnh tranh tự do. Chính vì vậy, cạnh tranh tư bản chủ nghĩa gắn chặt với tình
trạng sản xuất vô chính phủ. Do bối cảnh lịch sử nên nghiên cứu của Karl Mark vẫn
có những hạn chế nhất định. Ông dường như đã đánh giá thấp tính linh động của hệ
thống tư bản và khả năng thay đổi nhằm cứu vãn chính bản thân nó. Ông cũng đánh
giá thấp khả năng một chính phủ dân chủ xuất hiện từ cuộc xung đột giữa tư bản và
lao động, và đưa ra những chính sách nhằm xoa dịu những khía cạnh nghiệt ngã, đôi
khi thối nát của chủ nghĩa tư bản. Dù vậy, Karl Mark cùng với Adam Smith và John
Maynard Keynes vẫn được coi là 3 nhân vật vĩ đại nhất trong lịch sử kinh tế học.
1.2.1.4. Lý luận cạnh tranh của John Bates Clark
John Bates Clark sinh năm 1847 tại Provindence, Rhode Island. Trong thời
gian giảng dạy kinh tế học tại Đại học Columbia, ông đã tham gia thành lập Hiệp
hội Kinh tế Mỹ, hiện nay là tổ chức lớn nhất và danh giá nhất trên thế giới, sau này
ông cũng trở thành chủ tịch của Hiệp hội. Clark là một trong số những người phát
19
hiện ra một cách độc lập ý niệm lợi ích biên và năng suất biên vào cuối thế kỷ XIX.
Ông cũng nghiên cứu tác động của những hãng độc quyền lớn và những công đoàn

lao động có sức mạnh lớn đối với nền kinh tế Mỹ, ông lập luận rằng khi những
quyền lực kinh tế đó còn tồn tại thì chúng cần bị hạn chế
[13, trang 169]
.
Đóng góp quan trọng của Clark vào kinh tế học là việc phát triển “Lý thuyết
phân phối theo năng suất biên“ nhằm giải thích những nguyên lý quyết định thu
nhập mà những người khác nhau có thể nhận được, và do vậy là những nguyên lý
ảnh hưởng đến phân phối thu nhập trong nền kinh tế. Ngoài ra, ông còn có những
nghiên cứu quan trọng về cạnh tranh và độc quyền.
Clark cho rằng, cạnh tranh là một lực lượng tích cực trong nền kinh tế vì nó có
xu hướng bảo đảm rằng mọi người thu được phần phân chia công bằng, hay giá trị
phần đóng góp biên của họ vào sản xuất. Trong điều kiện cạnh tranh, nếu người chủ
trả cho công nhân ít hơn sản phẩm biên của họ thì công nhân sẽ đi tìm người chủ
khác. Người công nhân đó rất có thể tìm được một công việc vì các hãng khác có lợi
từ việc thuê người đó. Hãng đó sẽ thu được lợi nhuận gia tăng cộng với sản phẩm
biên của công nhân. Tuy nhiên, trong hoàn cảnh không có cạnh tranh trong việc
tuyển dụng giữa các hãng thì công nhân sẽ bị hạn chế về khả năng lựa chọn và phải
chấp nhận mức tiền công do ông chủ đưa ra.
Cách phân tích trên cho thấy bất cứ điều gì cản trở cạnh tranh đều không tốt và
đáng bị phản đối. Điều này bao gồm cả việc liên đoàn đe dọa đình công và sử dụng
mối đe dọa đó để đòi mức lương cao hơn sản phẩm biên của công nhân. Tuy nhiên,
những cản trở cạnh tranh cũng có thể do các hãng sản xuất gây ra, từ đó, Clark bắt
đầu nghiên cứu độc quyền, một dạng khác của cạnh tranh không hoàn hảo và những
thông lệ kinh doanh cản trở cạnh tranh.
Clark cho rằng độc quyền và độc quyền nhóm là những hiện tượng tự nhiên,
các hãng lớn với sức mạnh độc quyền chưa bao giờ thực sự là vấn đề vì tiềm năng
cạnh tranh của nó. Nếu một hãng thu được siêu lợi nhuận hoặc lợi nhuận độc quyền
thì các hãng khác sẽ nhanh chóng ra nhập ngành để tìm kiếm phần lợi nhuận cao
này. Ngoài ra, ông cũng lập luận rằng, các hãng sản xuất lớn lạm dụng sức mạnh
20

độc quyền thì người tiêu dùng và liên đoàn lao động sẽ cố gắng dùng luật pháp và
tòa án để đòi giảm giá và phá vỡ tình trạng độc quyền. Tuy nhiên, ông cũng nhận ra
rằng trong quá trình độc quyền, một vài nhà sản xuất có thể đặt mức giá của họ thấp
hơn chi phí sản xuất. Đây là một trong những hành động nhằm đẩy đối thủ cạnh
tranh ra khỏi ngành và tiến tới thâu tóm sức mạnh độc quyền và thu được lợi nhuận
cao hơn trong tương lai. Khi việc làm này được tiến hành trong nước thì được gọi là
“đặt giá thôn tính“, khi do một hãng sản xuất nước ngoài thực hiện thì được gọi là
“bán phá giá“. Để giải quyết vấn đề này cần phải ngăn chặn các phương pháp cạnh
tranh không công bằng.
Một chủ đề xuyên suốt nghiên cứu kinh tế học của J. B. Clark là tầm quan
trọng của cạnh tranh giữa các hãng. Ông cho rằng cạnh tranh là cần thiết để bảo
đảm rằng mọi người đều được trả phần mà họ đóng góp trong quá trình sản xuất và
rằng chúng ta đều có phần phân phối thu nhập công bằng; cạnh tranh cũng là cần
thiết để kiềm chế các hãng lớn lạm dụng sức mạnh kinh tế của họ.
Mặc dù những thành tựu của Clark chưa đưa ông lên ngang hàng với các nhà
kinh tế trường phái cận biên châu Âu, nhưng ông vẫn là nhà kinh tế học Mỹ xuất
sắc nhất cuối thế kỷ XIX - đầu thế kỷ XX. Châu Âu là trung tâm của tư tưởng kinh
tế trong thời đại Clark sống và làm việc, nhưng Clark vẫn là người đứng đầu các
nhà kinh tế học tiêu biểu của Mỹ mà sau này đã trở lên rất hùng hậu.
1.2.1.5. Lý luận cạnh tranh theo trường phái Chicago
Hoa Kỳ bắt đầu thực hiện việc kiểm soát tập trung kinh tế từ hơn 100 năm
nay. Hoa Kỳ l
Hoa Kỳ
(anti trust: kiểm soát, khống chế độc quyền và phá bỏ cản trở cạnh tranh).
Sau Chiến tranh thế giới thứ II, tư tưởng chống Trust đã mau chóng phổ biến
sang Anh, Pháp và các nước bại trận. Đạo luật Sherman của Mỹ năm 1890, và một

×