Tải bản đầy đủ (.pdf) (112 trang)

Quản lý rủi ro tín dụng tại ngân hàng VID Public - thực trạng và giải pháp

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (837.3 KB, 112 trang )


BỘ GIÁO DỤC ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC NGOẠI THƯƠNG


Nguyễn Quang Vinh












QUẢN LÝ RỦI RO TÍN DỤNG TẠI NGÂN HÀNG VID PUBLIC
THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP


LUẬN VĂN THẠC SỸ KINH TẾ
















Hà Nội - 2008

BỘ GIÁO DỤC ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC NGOẠI THƯƠNG


Nguyễn Quang Vinh








QUẢN LÝ RỦI RO TÍN DỤNG TẠI NGÂN HÀNG VID PUBLIC
THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP
Chuyên ngành : Kinh tế Thế giới và Quan hệ Kinh tế Quốc tế
Mã số : 60.31.07





LUẬN VĂN THẠC SỸ KINH TẾ




Người hướng dẫn khoa học:
TS. Vũ Thị Kim Oanh










Hà Nội - 2008
DANH MỤC CÁC KÝ HIỆU CÁC CHỮ VIẾT TẮT

K ý hiệu
Các chữ viết tắt
VIDPB Ngân hàng VID Public Bank
NHTM Ngân hàng Thương mại
NHTMCP Ngân hàng Thương mại Cổ phần
NHTMNN Ngân hàng Thương mại Nhà nước
NHNN Ngân hàng Nhà nước
TCTD Tổ chức Tín dụng
TBCN Tư bản chủ nghĩa
WTO Tổ chức Thương mại Thế giới


LỜI MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài :
Trong hoạt động kinh doanh Ngân hàng tại Việt Nam hiện nay, lợi
nhuận từ hoạt động tín dụng luôn chiếm tỷ trọng chủ yếu trong tổng thu nhập
của các Ngân hàng, khoản từ 60% đến 70%. Tuy nhiên, do nhiều nguyên
nhân khác nhau như hệ thống thông tin thiếu minh bạch và không đầy đủ,
trình độ quản trị rủi ro còn nhiều hạn chế, tính chuyên nghiệp của cán bộ tín
dụng chưa cao… mà hoạt động kinh doanh Ngân hàng nói chung, và hoạt
động tín dụng nói riêng, luôn tiềm ẩn những rủi ro cao, đặc biệt là ở các
nước có nền kinh tế mới nổi như Việt Nam.
Chính vì vậy, đảm bảo hạn chế rủi ro trong hoạt động cấp tín dụng
Ngân hàng, hướng đến các chuẩn mực quốc tế trong quản trị rủi ro và phù
hợp với môi trường hội nhập đang là một đòi hỏi cấp thiết đặt ra đối với các
Ngân hàng thương mại nói chung và Ngân hàng VID Public nói riêng.
Quản lý rủi ro tín dụng đã trở thành một vấn đề thu hút sự quan tâm
của toàn bộ Ban lãnh đạo Ngân hàng cũng như nó quyết định vấn đề sống
còn của Ngân hàng trong những năm tới. Với thực tế công tác gắn bó tại
Ngân hàng VID Public, chứng kiến sự biến động mạnh trên thị trường tài
chính ngân hàng sau hơn một năm Việt Nam chính thức trở thành thành viên
của Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO), tôi đã chọn “Quản lý rủi ro tín
dụng tại Ngân hàng VID Public- Thực trạng và giải pháp” làm đề tài luận
văn thạc sỹ kinh tế với mong muốn góp phần đẩy mạnh quản lý rủi ro tín
dụng nói riêng cũng như sự phát triển của Ngân hàng nói chung trong thời
gian tới.
2. Tình hình nghiên cứu
Thực tế cho đến hiện nay, việc nghiên cứu rủi ro tín dụng không phải là
vấn đề mới mà cũng đã có nhiều bài nghiên cứu, đánh giá nhiều khía cạnh
khác nhau, tại nhiều Ngân hàng Thương mại khác nhau, chẳng hạn như


2
“Phân tích tài chính doanh nghiệp- Công cụ hữu hiệu để phòng ngừa rủi ro
tín dụng” của Nguyễn Ngọc Anh, hay “Rủi ro tín dụng của hệ thống Ngân
hàng Thương mại Nhà nước Việt Nam- Cách tiếp cận từ tính chất sở hữu”
của TS. Phan Thị Thu Hà, hay là “Rủi ro trong hoạt động tín dụng Ngân
hàng-Nhìn từ góc độ đạo đức” của Lê Văn Hùng…Tuy nhiên, cho đến nay
chưa có một công trình nào nghiên cứu chuyên sâu về quản lý rủi ro tín dụng
tại Ngân hàng VID Public.
3. Nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài :
- Hệ thống hóa những vấn đề lý luận cơ bản về quản lý rủi ro tín dụng
trong các NHTM.
- Phân tích thực trạng quản lý rủi ro tín dụng của Ngân hàng VID
Public.
- Đề xuất một số giải pháp và kiến nghị nhằm tăng cường quản lý rủi
ro tín dụng tại Ngân hàngVID Public.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu :
Trọng tâm nghiên cứu của đề tài là quản lý rủi ro tín dụng tại Ngân
hàng VID Public ở tầm vi mô, dựa trên phân tích tình hình quản lý rủi ro tín
dụng chung tại các NHTM Việt Nam và thực tiến áp dụng tại Ngân hàng VID
Public, từ đó đề xuất những giải pháp tăng cường quản lý rủi ro tín dụng cho
VID Public.
5. Phương pháp nghiên cứu
Đề tài sử dụng các phương pháp đi từ cái chung đến cái riêng, khảo
sát, phân tích tổng hợp từ tình hình thực tế để từ đó đưa ra những nhận định,
ý kiến riêng của người nghiên cứu.
6. Nội dung và bố cục của đề tài
Ngoài lời mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, luận văn bao
gồm 3 chương:
- Chương 1 : Tổng quan về quản lý rủi ro tín dụng tại các Ngân hàng


3
Thương mại.
- Chương 2 : Thực trạng quản lý rủi ro tín dụng tại Ngân hàng VID
Public.
- Chương 3 : Một số giải pháp chủ yếu nhằm tăng cường quản lý rủi ro
tín dụng tại Ngân hàng VID Public.

4
CHƢƠNG 1: TỔNG QUAN VỀ QUẢN LÝ RỦI RO TÍN
DỤNG TẠI CÁC NGÂN HÀNG THƢƠNG MẠI.
1.1 Ngân hàng thƣơng mại và hoạt động tín dụng.
1.1.1 Ngân hàng thương mại.
Cùng với sự ra đời và phát triển của phương thức sản xuất Tư bản chủ
nghĩa, những yêu cầu về hoạt động tiền tệ được đặt ra và đòi hỏi có một tổ
chức chuyên môn hoạt động trên lĩnh vực này. Vào thế kỷ XV, ngân hàng ra
đời nhằm thực hiện các chức năng phát hành giấy bạc vào lưu thông, nhận
tiền gửi của khách hàng, cho vay, đổi tiền, chuyển ngân và các dịch vụ tiền tệ
khác.
Cuối thế kỷ XIX, sản xuất và lưu thông hàng hoá phát triển kéo theo sự
phát triển về quy mô và phạm vi nghiệp vụ của các ngân hàng . Song trong
lưu thông có quá nhiều loại tiền do nhiều ngân hàng phát hành làm cản trở
việc lưu thông hàng hoá. Do vậy Nhà nước đã phải ban hành đạo luật chỉ cho
một số ngân hàng được phát hành tiền. Mỗi quốc gia chỉ có một hoặc một số
ngân hàng được phát hành tiền. Đó là các ngân hàng có tiềm lực và quy mô
lớn, gọi là các Ngân hàng Trung Ương. Còn các Ngân hàng không được phép
phát hành tiền gọi là các Ngân hàng thương mại.
Vào đầu thế kỷ XX, vấn đề đặt ra là các ngân hàng phát hành tiền thuộc
quyền sở hữu tư nhân, do đó sự điều tiết của nhà nước đối với các hoạt động
kinh tế vĩ mô trong tình hình kinh tế phát triển đã gặp không ít khó khăn. Tiếp
đến cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới 1929-1933 đã buộc các nước phải có

biện pháp hữu hiệu để duy trì việc phát triển kinh tế, do đó việc phân tách
chức năng của ngân hàng được thể hiện ở mức độ cao hơn: hình thành hệ
thống ngân hàng hai cấp:
- Ngân hàng Trung ương vừa làm chức năng phát hành vừa làm chức
năng quản lý nhà nước về tiền tệ, tín dụng ngân hàng.

5
- Ngân hàng kinh doanh (ngân hàng thương mại): Là trung gian tài
chính có giấy kinh doanh của chính phủ để cho vay tiền và mở các khoản tiền
gửi và chuyên về việc đưa người cho vay và người đi vay gặp nhau là trung
gian tài chính, thực hiện kinh doanh tiền tệ tín dụng và dịch vụ ngân hàng, có
vai trò quan trọng trong việc tập trung, thu hút các nguồn vốn nhàn rỗi để đầu
tư vào những đơn vị kinh tế làm ăn có lãi thuộc mọi thành phần kinh tế, thúc
đẩy tăng trưởng kinh tế.
Mặc dù có nhiều cách hiểu khác nhau về NHTM, nhưng chúng ta có
thể nhận thấy các NHTM đều có những điểm chung đó là việc nhận tiền ký
thác - tiền gửi không kỳ hạn và có kỳ hạn, để sử dụng vào các nghiệp vụ cho
vay, chiết khấu và các dịch vụ kinh doanh khác của chính Ngân hàng. Cùng
với sự phát triển của kinh tế thế giới, các NHTM cũng từng bước phát triển và
hoàn thiện bản thân, trở thành một hạt nhân thiết yếu trong hoạt động kinh tế
của mỗi quốc gia.
Trong suốt quá trình hình thành và hoạt động của mình, các NHTM
ngày càng thể hiện rõ vai trò đặc biệt quan trọng của mình trong việc thúc đẩy
sự phát triển của nền kinh tế. Các NHTM thực hiện các nghiệp vụ huy động
nguồn vốn nhàn rỗi trên thị trường, từ nguồn vốn đó tiến hành cho vay hỗ trợ
các cá nhân và doanh nghiệp trong hoạt động kinh doanh của mình để đạt
được hiệu quả kinh tế cao, góp phần thúc đẩy sự tiến bộ của kinh tế quốc gia.
Các hoạt động chính của NHTM bao gồm hoạt động huy động vốn, hoạt động
tín dụng và các hoạt động dịch vụ ngân hàng khác.
Huy động vốn là một hoạt động rất quan trọng trong đó các NHTM

bằng cách cung ứng những điều kiện thuận lợi và những phương thức dễ dàng
để nhận tiền gửi của các doanh nghiệp, cá nhân và các tổ chức tín dụng khác
dưới các hình thức tiền gửi không kỳ hạn, tiền gửi có kỳ hạn và các loại tiền
gửi khác. Đổi lại, các doanh nghiệp, cá nhân, các TCTD khác được nhận một
khoản tiền thưởng dưới danh nghĩa lãi suất trên tổng số tiền gửi, với mức độ

6
an toàn và có tính thanh khoản cao.
Ngoài ra, các NHTM còn huy động vốn dưới dạng phát hành các giấy
tờ có giá, vay vốn ngắn hạn của NHNN dưới hình thức tái cấp vốn, vay của
các TCTD khác Số tiền huy động được thông qua hình thức tiền gửi và phát
hành giấy tờ có giá luôn sẵn sàng đáp ứng nhu cầu vay vốn của các doanh
nghiệp và cá nhân.
Hoạt động tín dụng là một hoạt động quan trọng hàng đầu trong các
hoạt động kinh doanh của các NHTM, đồng thời cũng đem lại lợi nhuận cao
nhất cho các Ngân hàng. Các chi tiết cụ thể về hoạt động tín dụng của Ngân
hàng sẽ được đề cập chi tiết và cụ thể tại phần 1.1.2 của bài viết.
Các dịch vụ ngân hàng khác: Bên cạnh hoạt động huy động vốn và
hoạt động tín dụng nêu trên, các NHTM còn cung cấp các dịch vụ khác cho
các khách hàng, cụ thể như :
- Dịch vụ thanh toán : Việc đưa ra một cơ chế thanh toán, hay nói một
cách khác, sự vận động vốn là một nghiệp vụ quan trọng do các NHTM thực
hiện thông qua việc : mở tài khoản; cung ứng các phương tiện thanh toán;
thực hiện dịch vụ thanh toán trong nước cho khách hàng; thực hiện các dịch
vụ thu hộ và chi hộ; dịch vụ ngân quỹ thông qua mối quan hệ giữa ngân
hàng nước này là đại lý cho ngân hàng nước khác với công nghệ ngân hàng
hiện đại đã làm cho quá trình thanh toán quốc tế diễn ra nhanh chóng và thuận
lợi.
- Thực hiện việc góp vốn mua cổ phần của các TCTD khác hoặc của
các doanh nghiệp từ nguồn vốn điều lệ và quỹ dự trữ của mình.

- Kinh doanh ngoại hối và vàng.
- Uỷ thác và nhận uỷ thác, làm đại lý trong các lĩnh vực liên quan đến
hoạt động ngân hàng; kinh doanh, cung ứng dịch vụ bảo hiểm, dịch vụ tư vấn
tài chính tiền tệ cho khách hàng, dịch vụ bảo quản hiện vật quý, giấy tờ có
giá, cho thuê tủ két, cầm đồ và các dịch vụ khác

7
1.1.2 Hoạt động tín dụng
Chức năng cơ bản của NHTM là mở rộng tín dụng từ nguồn vốn huy
động được, đối với các khách hàng tin cậy. Ngay từ khi mới bắt đầu, những
người tổ chức các NHTM đã luôn tìm kiếm các cơ hội để thực hiện cho vay
và đầu tư, hưởng lợi nhuận từ chênh lệch lãi suất cho vay và lãi suất huy động
(lãi suất tiền gửi) sau khi trừ đi các chi phí. Họ coi đó là chức năng quan trọng
nhất của mình.
C.Mác đã viết “cái mà người chủ ngân hàng kinh doanh là bản thân tín
dụng”. Ông cũng đã viết “Bản thân chế độ tín dụng, một mặt là một hình thái
nội tại của phương thức sản xuất TBCN, mặt khác là một động lực thúc đẩy
phương thức sản xuất TBCN tiến lên hình thái cao hơn, tột cùng có thể của
nó…” và
“Chế độ tín dụng ngân hàng đẩy nhanh tốc độ phát triển của lực lượng
sản xuất vật chất và sự hình thành thị trường thế giới; đẩy hai yếu tố đó phát
triển đến một mức độ cao nhất định, với tư cách là cơ sở vật chất của một
hình thái sản xuất mới…”
[8]

Tín dụng ngân hàng có ý nghĩa quan trọng đối với toàn bộ nền kinh tế,
nó đã tài trợ cho các hoạt động công nghiệp, nông nghiệp, thương nghiệp,
dịch vụ, xuất nhập khẩu của đất nước; đã cung cấp những sản phẩm đường
vòng cho nhu cầu dân sinh và phát triển đất nước thông qua quá trình từ sản
xuất đến lưu thông.

Như vậy, trong việc tạo ra khả năng tín dụng, các NHTM đã và đang
thực hiện chức năng xã hội đặc biệt của mình, làm cho sản phẩm xã hội tăng
lên, vốn đầu tư được mở rộng và từ đó, đời sống dân chúng được cải thiện.
Sở dĩ tín dụng ngân hàng có thể đóng được vai trò quan trọng của
mình là do nó được hình thành và phát triển như một quy luật tất yếu khách
quan của nền kinh tế.
Hoạt động tín dụng là một nghiệp vụ hàng đầu, có ý nghĩa quan trọng,

8
quyết định đối với sự tồn tại và phát triển của một ngân hàng, song nó không
chỉ đơn giản và giới hạn ảnh hưởng trong phạm vi một ngân hàng, một ngành,
một địa phương một thời điểm hay một giai đoạn mà còn ảnh hưởng tới chất
lượng, hiệu quả, năng suất lao động xã hội, ảnh hưởng tới bước tiến của cả
một nền kinh tế, của một phương thức sản xuất, của một giai đoạn phát triển
xã hội, của trình độ hoà nhập vào cộng đồng kinh tế thế giới hiện đại.
Nhận thức đầy đủ đúng đắn vai trò của tín dụng đòi hỏi con người sử
dụng nó phải biết tôn trọng, đối xử với nó như một khoa học kinh tế thực sự.
Cho nên dù ở bất cứ một thời kỳ nào, bối cảnh nào thì yêu cầu cơ bản của tín
dụng ngân hàng vẫn phải là hiện thực, khả thi và hiệu quả. Hiện thực tức là
hoạt động tín dụng phải dựa trên tình hình thực tế của nền kinh tế, mục đích,
nhu cầu và tiềm lực thực tế của khách hàng. Khả thi có nghĩa là có khả năng
thực hiện khoản vay, tức khoản vay phải phù hợp với định hướng cho vay của
Ngân hàng, khách hàng vay phải có đủ khả năng trả nợ đúng hạn, hay tài sản
đảm bảo có đủ giá trị đảm bảo cho khoản vay… Đồng thời, bên cạnh hỗ trợ
tài chính cho khách hàng, khoản vay cũng cần đem lại lợi nhuận nhất định
cho Ngân hàng, hạn chế những rủi ro có thể phát sinh, góp phần thúc đẩy sự
phát triển của kinh tế-xã hội. Đây chính là yêu cầu về tính hiệu quả của tín
dụng.
Trải qua nhiều phương thức sản xuất khác nhau các nhà kinh tế học đã
đúc kết hoạt động tín dụng - với đúng nghĩa như C.Mác đã chỉ ra - phải tuân

theo các nguyên tắc căn bản chung nhất:
- Vốn vay phải được sử dụng đúng mục đích có hiệu quả;
- Vốn vay phải được đảm bảo bằng giá trị vật tư hàng hoá tương
đương;
- Vốn vay phải được hoàn trả đủ cả gốc và lãi đúng kỳ hạn cam kết.
Ba nguyên tắc tín dụng trên đây hình thành như một quy luật phát triển
nội tại của hoạt động tín dụng, là quy định bất khả vi phạm, là mối quan hệ

9
không thể tách rời trong kinh doanh tín dụng. Thực tế cho thấy rằng một khi
chỉ một trong ba nguyên tắc bị coi nhẹ thì sớm muộn cũng dẫn đến quan hệ
tín dụng bị phá vỡ, tín dụng sẽ mất dần đi vai trò và tác dụng của mình và trở
thành vật cản kìm hãm hoặc đẩy lùi sự phát triển của nền kinh tế.
Cho nên, khi nói đến vai trò “bà đỡ” của tín dụng ngân hàng đối với
tiến trình phát triển kinh tế là nói đến loại hình tín dụng đúng nghĩa, tuân thủ
nghiêm ngặt cả ba nguyên tắc tín dụng trên đây và có chất lượng cao. Chất
lượng của tín dụng không phải là một khái niệm mơ hồ, trừu tượng. Nó được
thể hiện thông qua kết quả của quá trình tuân thủ ba nguyên tắc này và cuối
cùng chất lượng tín dụng được phản ánh đúng như vai trò quan trọng của tín
dụng đã được đề cập ở trên, vào sự phát đạt của từng tổ chức kinh tế trong xã
hội nói riêng, vào tốc độ tăng trưởng của nền kinh tế và vào tiến bộ xã hội
trong từng thời kỳ nói chung.
Qua tìm hiểu chức năng nghiệp vụ và quá trình thực hiện nghiệp vụ của
NHTM, ta thấy rõ vai trò trung gian của ngân hàng và mối quan hệ tách biệt
giữa người cho vay tiền và người đi vay tiền: khi Ngân hàng phát ra một
khoản tiền vay, số vốn đó nằm ngoài tầm kiểm soát của Ngân hàng, nên sự
vận động của nó như thế nào Ngân hàng rất khó theo dõi. Khả năng rủi ro
chính là ở đây. Xét về mặt chủ quan, việc chọn lựa khách hàng cho vay là rất
quan trọng đối với Ngân hàng vì nếu tìm hiểu không kỹ lưỡng về khách hàng
thì Ngân hàng có thể chuốc lấy tai hoạ cho mình khi những đồng tiền ra đi mà

không trở về. Còn về mặt khách quan, mọi rủi ro đối với khách hàng trong
kinh doanh đều là rủi ro của Ngân hàng, bởi vốn kinh doanh của khách hàng
là một phần vốn vay từ Ngân hàng. Trong khi đó, nguồn vốn để Ngân hàng
đem đi cho vay chủ yếu lấy từ tiền huy động được, tức là phần lớn số tiền để
cho vay không thuộc sở hữu của Ngân hàng. Ngân hàng phải có trách nhiệm
bảo quản, gìn giữ và làm sinh lợi số tiền huy động đó. Vì vậy, trong hoạt động
kinh doanh của mình, NHTM sẽ phải đối mặt với rủi ro từ nhiều phía: rủi ro

10
từ các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh hoặc các cá nhân đi vay, rủi ro từ
phía người gửi tiền và rủi ro từ phía các ngân hàng thương mại khác. Đó là
còn chưa kể đến những rủi ro riêng có khác của hoạt động kinh doanh ngân
hàng.
1.2 Rủi ro tín dụng và nguyên nhân dẫn đến rủi ro tín dụng.
1.2.1 Rủi ro trong hoạt động kinh doanh Ngân hàng và phân loại.
Theo quan niệm truyền thống, rủi ro là những sự kiện xảy ra có thể làm
cho mất mát tài sản hay làm phát sinh một khoản nợ. Tuy nhiên, theo quan
điểm về rủi ro theo quan niệm hiện đại bao hàm nghĩa rộng hơn và không chỉ
tính đến rủi ro tài chính mà còn bao gồm cả những rủi ro liên quan đến các
mục tiêu hoạt động và mục tiêu chiến lược. Theo đó, rủi ro là khả năng những
sự kiện chưa chắc chắn trong tương lai sẽ làm cho chủ thể không đạt được
những mục tiêu chiến lược và mục tiêu hoạt động, cũng như chi phí cơ hội
của việc làm mất những cơ hội thị trường.
Trong nền kinh tế thị trường, kinh doanh và rủi ro là hai cặp phạm trù
cặp đôi. Kinh tế thị trường làm đa dạng hóa các thành phần kinh tế, bình đẳng
hóa các hoạt động của các thành phần này và thúc đẩy cạnh tranh lẫn nhau.
Rủi ro-tuy là sự bất trắc gây thiệt hại mất mát, là sự bất trắc cụ thể liên quan
đến một biến cố không mong đợi, song lại là hiện tượng đồng hành cùng với
các hoạt động kinh doanh trong cơ chế thị trường, trong quá trình cạnh tranh.
Rủi ro xuất hiện ở những điểm yếu, kém hiệu quả, mất cân đối trong quá trình

phát triển kinh tế. Rủi ro vừa là nguyên nhân, vừa là hậu quả của những hoạt
động kinh tế không có hiệu quả. Nó tạo tiền đề cho quá trình đào thải tự nhiên
các doanh nghiệp yếu kém, thúc đẩy sự chấn chỉnh, sự thích nghi của các
doanh nghiệp, tạo xu hướng phát triển ổn định và có hiệu quả cho nền kinh tế.
Trong điều kiện kinh tế thị trường, hoạt động kinh doanh của các ngân
hàng thương mại (NHTM) cũng không nằm ngoài sự tác động trên. Thậm chí
với hoạt động ngân hàng hầu như không có loại nghiệp vụ nào, không có loại

11
dịch vụ nào của ngân hàng là không có rủi ro. Bởi lẽ, ngân hàng thương mại
được coi là một tổ chức kinh doanh tiền tệ, mà hoạt động chủ yếu là nhận tiền
gửi từ khách hàng với trách nhiệm hoàn trả, sử dụng số tiền này để cho vay,
thực hiện các dịch vụ ngân hàng và kinh doanh chứng khoán. Với các đặc
trưng cơ bản như vậy, hoạt động kinh doanh ngân hàng chịu ảnh hưởng của
nhiều yếu tố, như môi trường kinh tế xã hội, pháp lý, cơ chế chính sách vĩ mô,
vi mô… Do vậy, hoạt động ngân hàng chứa đựng những tiềm ẩn rủi ro lớn.
Hay nói cách khác, kinh doanh ngân hàng chính là chấp nhận rủi ro đổi lại có
lợi nhuận.
Trong hoạt động kinh doanh Ngân hàng, rủi ro có thể được chia thành
nhiều loại, trong đó có thể chia thành các loại như sau:
[20]
- Rủi ro lãi suất :
Rủi ro lãi suất thể hiện rủi ro tiềm tàng của một Ngân hàng do các biến
động về lãi suất gây ra.
- Rủi ro thanh khoản:
Rủi ro thanh khoản phát sinh chủ yếu từ xu hướng của các Ngân hàng
trong việc huy động vốn ngắn hạn và cho vay dài hạn.
- Rủi ro giá cả:
Rủi ro giá cả là loại rủi ro về việc giá trị các tài sản của một Ngân hàng
có thể biến động. Rủi ro này xuất hiện trong tất cả các chủng loại tài sản từ

bất động sản và thiết bị cho đến các tài sản mang tính thị trường như cổ phiếu
và trái phiếu.
- Rủi ro ngoại hối :
Rủi ro ngoại hối phát sinh khi có sự chênh lệch về kỳ hạn và về loại
tiền tệ của các khoản ngoại hối nắm giữ, và vì thế làm cho Ngân hàng có thể
phải gánh chịu thua lỗ khi tỷ giá ngoại hối biến động. Rủi ro này áp dụng với
cả các thị trường giao dịch tương lai và quyền chọn cũng như với thị trường
giao ngay.

12
- Rủi ro hoạt động:
Rủi ro hoạt động bao gồm toàn bộ các rủi ro mà có thể phát sinh từ
cách thức mà một Ngân hàng điều hành các hoạt động của mình. Chẳng hạn
như cán bộ tham ô, việc cấu trúc hạn mức không phù hợp trong lĩnh vực kinh
doanh nguồn vốn, quản lý kém các quy trình tín dụng, thiếu các kế hoạch khôi
phục kinh doanh trong trường hợp xảy ra thảm họa…
- Rủi ro pháp lý:
Rủi ro pháp lý thường tác động đến Ngân hàng theo hai cách:
+ Các khách hàng và những người khác có thể khởi kiện Ngân hàng.
Lý do việc khởi kiện có thể phát sinh từ quá trình hoạt động kinh doanh bình
thường, ví dụ việc Ngân hàng từ chối cấp hạn mức cho vay mà theo khách
hàng là vô lý. Tuy nhiên, các trường hợp có thể phát sinh từ các lý do tách
biệt khỏi hoạt động kinh doanh Ngân hàng, ví dụ việc tài trợ cho những khách
hàng gây ô nhiễm môit trường có thể làm Ngân hàng bị các bên thứ ba kiện
cáo.
+ Khi các thu xếp pháp lý của một ngân hàng, ví dụ các hợp đồng cho
vay và tài sản đảm bảo tiêu chuẩn của Ngân hàng có vấn đề.
- Rủi ro chiến lược:
Rủi ro chiến lược phát sinh từ các thay đổi trong môi trường hoạt động
của Ngân hàng trên phạm vi rộng hơn về mặt kinh doanh và tài chính. Ví dụ

như việc gia tăng hoạt động Ngân hàng qua Internet và điện thoại đã buộc các
Ngân hàng kinh doanh theo phương thức truyền thống với mạng lưới chi
nhánh lớn và tốn kém phải xem xét lại cách tiếp cận chiến lược của mình.
- Rủi ro uy tín:
Rủi ro uy tín có thể phát sinh theo nhiều cách liên quan đến cách hành
xử của các ngân hàng trong quan hệ kinh doanh, tín dụng và các quan hệ xã
hội khác… có gây ảnh hưởng đến uy tín, hình ảnh của Ngân hàng trên thị
trường.

13
- Rủi ro công nghệ thông tin:
Rủi ro công nghệ thông tin phát sinh từ những yếu kém trong các hệ
thống thông tin của một Ngân hàng. Rủi ro này có thể phát sinh từ việc trục
trặc phần cứng, chương trình bị lỗi, hệ thống điều hành không đủ mạnh hay
hệ thống dự phòng tồi…
- Rủi ro tín dụng:
Rủi ro tín dụng là loại rủi ro được các nhà quản trị Ngân hàng quan tâm
nhất trong các loại rủi ro trong kinh doanh Ngân hàng. Bài viết xin phép được
đề cập kỹ hơn về loại rủi ro này trong phần tiếp theo dưới đây. [8]
1.2.2 Rủi ro tín dụng.
Theo quan điểm của nhà kinh tế học Joel Bessis trong cuốn “Risk
Management in Banking” (Nhà xuất bản John Wiley& Sons, Mỹ - 2002) thì
rủi ro tín dụng được hiểu là những tổn thất do khách hàng không trả được nợ
hoặc sự giảm sút chất lượng tín dụng của những khoản vay.
Theo Quy định về phân loại nợ, trích lập và sử dụng dự phòng để xử lý
rủi ro tín dụng trong hoạt động ngân hàng của tổ chức tín dụng được ban hành
theo Quyết định số 493/2005/QĐ-NHNN ngày 22/4/2005 của Thống đốc
Ngân hàng Nhà nước, “Rủi ro tín dụng trong hoạt động ngân hàng của tổ chức
tín dụng” được coi là khả năng xảy ra tổn thất trong hoạt động ngân hàng của
tổ chức tín dụng do khách hàng không thực hiện hoặc không có khả năng thực

hiện nghĩa vụ của mình theo cam kết”.
Từ các khái niệm trên đây, ta có thể phân rủi ro tín dụng thành các loại
sau:
Rủi ro đọng vốn: Đó là rủi ro tín dụng khi người vay sai hẹn (default)
trong thực hiện nghĩa vụ trả nợ theo hợp đồng, bao gồm vốn gốc và/ hoặc lãi
vay. Sự sai hẹn này là do trễ hạn (Delayed payment). Trong trường hợp này,
Ngân hàng vẫn thu hồi được vốn cho vay và lãi vay, tuy nhiên không được
đúng hạn theo các cam kết đã ký trong Hợp đồng tín dụng. Chính vì vậy,

14
Ngân hàng sẽ phải đối mặt với nguy cơ bị chiếm dụng về vốn vay trong thời
hạn lâu hơn dự định, gây ra tình trạng đọng vốn và vòng quay vốn cho vay
của Ngân hàng cũng theo đó mà bị ảnh hưởng.
Rủi ro mất vốn: Đó là rủi ro tín dụng khi người vay sai hẹn (default)
trong thực hiện nghĩa vụ trả nợ theo hợp đồng , bao gồm vốn gốc và/ hoặc lãi
vay. Sự sai hẹn này là do không thanh toán (non-payment). Trong trường hợp
này, Ngân hàng có khả năng không thu hồi được vốn vay và lãi vay từ phía
khách hàng. Chính vì thế mà nguồn vốn cho vay ra sẽ không thu hồi được, từ
đó, Ngân hàng phải đối mặt với khả năng mất vốn, lảm giảm sút nguồn vốn
cho vay lẫn cản trở vòng quay vốn cho vay của Ngân hàng.
Tóm lại, rủi ro tín dụng, theo khái niệm cơ bản nhất, là khả năng khách
hàng nhận khoản vốn vay không thực hiện hoặc thực hiện không đầy đủ nghĩa
vụ đối với Ngân hàng gây tổn thất cho Ngân hàng, đó là khả năng khách hàng
không trả, không trả đầy đủ, đúng hạn cả gốc và lãi vay cho Ngân hàng.
1.2.3 Nguyên nhân dẫn đến rủi ro tín dụng
Qua nghiên cứu tổng hợp và thống kê, các nguyên nhân chủ yếu gây
nên rủi ro tín dụng của ngân hàng bao gồm:

1.2.3.1 Sự điều khiển của cơ chế thị trường
Cơ chế thị trường, với các quy luật cạnh tranh, quy luật cung cầu, quy

luật giá cả là bàn tay vô hình điều khiển mọi hoạt động của các doanh
nghiệp và quyết định sự sống còn của các doanh nghiệp.
NHTM là một doanh nghiệp. Ngân hàng muốn tồn tại và phát triển thì
phải hoạt động sinh lời. Bởi vậy, cũng như tất cả các doanh nghiệp sản xuất
và kinh doanh khác, muốn tồn tại và phát triển, ngân hàng phải giải quyết
được các mâu thuẫn nảy sinh trong quá trình kinh doanh : mâu thuẫn về giá cả
(lãi suất), về mức cung cầu của vốn, về các sản phẩm dịch vụ cung ứng cho
khách hàng Trong quá trình giải quyết mâu thuẫn, các ngân hàng cạnh
tranh nhau quyết liệt và tất yếu có ngân hàng thắng lợi và có ngân hàng chịu

15
rủi ro thất bại. Lịch sử ngân hàng đã ghi lại nhiều trường hợp ngân hàng phá
sản và các cuộc khủng hoảng ngân hàng : Từ năm 1930 đến 1933, làn sóng
phá sản ngân hàng đã tràn từ Áo, Đức, Anh sang Mỹ; riêng ở Mỹ có 9.096
ngân hàng phải ngừng hoạt động; Sự đổ bể của hàng loạt các ngân hàng như
NH Bankhaus Herstatt của Đức (1974), ngân hàng quốc gia Franklin - ngân
hàng đứng thứ 12 của Mỹ (1974), bài học đắt giá của NH Baring, một ngân
hàng có tên tuổi ra đời từ 1762 bị đổ vỡ vào năm 1995, và gần đây cơn ác
mộng Daiwa chi nhánh của ngân hàng Nhật bản tại New York - thua lỗ tới
1,1 tỷ USD đã cho ta thấy sự khắt khe đến mức nào của nền kinh tế thị
trường.
[4]

Một mặt, trong mối quan hệ với khách hàng, khi ngân hàng đóng vai
chủ nợ, dùng nguồn vốn huy động được đem cho các doanh nghiệp và cá
nhân cần vốn vay. Thực tế cho thấy trong điều kiện kinh tế thị trường, các
doanh nghiệp là khách hàng vay vốn và giao dịch với ngân hàng cũng thường
gặp phải những rủi ro nhất định mà hậu quả là sự phá sản của doanh nghiệp
không còn là hiện tượng riêng có của một nền kinh tế ổn định hay không ổn
định, hoặc của một nước phát triển hay đang phát triển. Tất nhiên ở đây còn

có yếu tố liên quan tới Năng lực tài chính, Năng lực điều hành, Năng lực xử
lý thông tin và nghiệp vụ trong quá trình sản xuất và kinh doanh của các chủ
thể tham gia hoạt động kinh tế. Nền kinh tế là một “cơ thể sống”. Sự rủi ro
vỡ nợ của một hay một số khách hàng trong một ngành nào đó có thể ảnh
hưởng lớn đến các ngành có liên quan.
Mặt khác, trong mối quan hệ với khách hàng- khi ngân hàng đóng vai
trò đi vay (nhận tiền gửi) - ngân hàng cũng cần phải tôn trọng quy luật cạnh
tranh. Hiện nay người gửi tiền không đơn thuần gửi tiền nhằm bảo quản tiền
mà là để sinh lời. Họ đã có độ nhậy cảm rất cao với thị trường và cạnh tranh
cho phép họ lựa chọn hình thức, nơi gửi tiền sao cho có lợi nhất. Ảnh hưởng
của nhóm khách hàng này đối với ngân hàng là rất lớn, thậm chí gây phá sản

16
ngân hàng.
Với sự phát triển của khoa học kỹ thuật và điện tử tin học, với việc
quốc tế hoá các thị trường tài chính, công nghệ ngân hàng càng phát triển
ngày một tinh vi và hiện đại. Hơn nữa, với việc đa dạng hoá các sản phẩm và
dịch vụ ngân hàng và đa năng hoá các tổ chức trung gian tài chính, thị trường
tài chính tiền tệ ngày càng sôi động và cạnh tranh ngày càng trở nên gay gắt.
Để tồn tại và phát triển, buộc lòng các NHTM phải tìm mọi cách để đứng
vững trong cuộc cạnh tranh khốc liệt này.
1.2.3.2 Môi trường kinh tế
Môi trường kinh tế có ảnh hưởng đến sức mạnh tài chính của người đi
vay và thiệt hại hay thành công đối với người cho vay. Sự hưng thịnh hay suy
thoái của chu kỳ kinh doanh cũng ảnh hưởng tới lợi nhuận của người vay và
do vậy tạo nên niềm vui hay gây nên nỗi lo lắng cho người đi vay tiền. Trong
giai đoạn kinh tế hưng thịnh, người vay hoạt động tốt do lợi nhuận thu được
tương đối cao, nhưng trong giai đoạn khủng hoảng khả năng hoàn trả của
người đi vay bị giảm sút. Tuỳ vào mức độ nghiêm trọng của khủng hoảng và
trường độ của nó mà việc ảnh hưởng lên các cá nhân và các doanh nghiệp sản

xuất lưu thông cũng như lên khả năng thanh toán các khoản nợ của họ ở mức
khác nhau : Mức độ khủng hoảng càng cao, sức mua của người tiêu dùng
càng giảm sút gây ra hiện tượng hàng hoá bán ra và lợi nhuận của doanh
nghiệp lưu thông cũng giảm theo, đồng thời lượng tồn kho của các doanh
nghiệp sản xuất cũng vì thế mà tăng một cách miễn cưỡng gây ảnh hưởng tới
lợi nhuận của họ.
Như chúng ta đã biết, chính phủ dùng các chính sách kinh tế vĩ mô như:
chính sách tài khoá, tiền tệ, thu nhập, kinh tế đối ngoại cùng các công cụ
của hệ thống chính sách này tác động vào tổng sản phẩm quốc dân, việc làm,
lạm phát, tỉ giá hối đoái nhằm giảm bớt những giao động của chu kỳ kinh
doanh trong mỗi thời kỳ .

17
Qua nghiên cứu phân tích và thực tế cho thấy rằng bất kỳ sự thay đổi
nào trong chính sách kinh tế vĩ mô đều dẫn đến sự thay đổi của lãi suất, tỉ giá
hối đoái, điều kiện mở rộng hay thu hẹp tín dụng Đây là những nhân tố gây
nên tính bấp bênh trong kinh doanh tiền tệ, ảnh hưởng trực tiếp tới hoạt động
của NHTM.
Thực ra, sử dụng hệ thống chính sách này là việc kết hợp giữa bàn tay
hữu hình của chính phủ với bàn tay vô hình của thị trường. Quá trình thực
hiện sự kết hợp này có lúc rất nhịp nhàng và hữu hiệu song cũng có lúc đã
làm gia tăng tính bấp bênh và rủi ro vốn có của hình thức hoạt động kinh
doanh tiền tệ. Thực tế đã chứng minh rằng sự thành bại của việc điều hành
chính sách kinh tế vĩ mô, trong khuôn khổ định hướng phát triển kinh tế quốc
gia, phụ thuộc rất nhiều vào thực tiễn điều chỉnh của từng giai đoạn đối với
hoạt động của nền kinh tế nói chung và hệ thống tài chính ngân hàng nói
riêng. Vấn đề tế nhị là giải quyết trên nguyên tắc đảm bảo lợi ích cho toàn bộ
nền kinh tế, song có lúc không tránh khỏi là đưa các NHTM vào tình trạng bị
động. Và rủi ro, tổn thất đối với các NHTM cũng là điều không tránh khỏi.
Lạm phát cũng có ảnh hưởng bất lợi đến công việc kinh doanh : giá cả

nguyên vật liệu, năng lượng, lao động tăng làm cho các cá nhân và doanh
nghiệp khó khăn về tài chính dẫn đến nhu cầu tín dụng tăng. Và không giống
như lợi tức, nợ không giảm trong các giai đoạn suy thoái. Nó cố định về số
lượng. Nợ không thay đổi tương ứng với sức mua của đồng tiền, vì vậy đã trở
nên gánh nặng đối với người đi vay , kết quả là không trả được nợ.
Thiểu phát cũng có ảnh hưởng bất lợi đến công việc kinh doanh: chỉ số
tăng giá thấp hơn so với lãi suất cho vay làm cho các doanh nghiệp cầm
chừng trong vay vốn phát triển sản xuất làm cho tốc độ tăng trưởng tín dụng
chậm, hoạt động ngân hàng chững lại, thâm hụt cán cân vãng lai; giá trị sản
xuất công nghiệp, mức lưu chuyển hàng hoá, thu ngân sách, đầu tư xây dựng
cơ bản giảm gây nên tình trạng kinh tế trì trệ, các doanh nghiệp không có cơ

18
hội để hoạt động sản xuất kinh doanh thu lợi nhuận, trong khi đó vẫn phải duy
trì các chi phí cố định và phải hoàn trả vốn và lãi vay phục vụ cho các chu kỳ
kinh doanh trước đó, kết quả lại là không trả được nợ
1.2.3.3 Môi trường pháp lý
Môi trường pháp lý trong kinh doanh là tổng hợp các yếu tố pháp lý có
tác động đến hoạt động kinh doanh bao gồm hệ thống pháp luật, hệ thống các
biện pháp bảo đảm cho pháp luật được thực thi và sự chấp hành nghiêm chỉnh
pháp luật của các chủ thể tham gia hoạt động kinh doanh và các ngành có
liên quan.
Hoạt động kinh doanh luôn chịu sự tác động của 3 yếu tố tạo thành
môi trường pháp lý nói trên. Các yếu tố này có quan hệ đan xen và tác động
đến hoạt động kinh doanh một cách tổng hợp chứ không riêng rẽ, hay nói một
cách khác chúng mang tính đồng bộ cao. Nếu các yếu tố này tách rời nhau sẽ
không tồn tại một môi trường pháp lý đồng bộ và khi đó sự tác động riêng lẻ
của một hay hai yếu tố sẽ tạo nên một nội dung khác, một ảnh hưởng khác,
thậm chí gây nên ách tắc hoặc những thua lỗ không đáng có hoặc tạo những
kẽ hở cho kẻ xấu lợi dụng. Ví dụ, nếu thiếu yếu tố chấp hành pháp luật thì hệ

thống pháp luật và các văn bản hướng dẫn trở nên một hành lang pháp lý vắng
vẻ thuần tuý không có tác dụng.
Sự đồng bộ ở đây bao gồm : sự đồng bộ giữa hệ thống pháp luật và các
văn bản dưới luật cũng như các văn bản hướng dẫn thực hiện các luật; sự
đồng bộ giữa các ngành, các cấp liên quan trong quá trình thực thi pháp luật
và các văn bản hướng dẫn; sự đồng bộ (hoặc phù hợp) giữa hệ thống pháp
luật với những biến đổi trong đời sống kinh tế xã hội;
Với những điều kiện kinh tế xã hội nhất định có một hệ thống luật pháp
tương ứng. Nền kinh tế thị trường đòi hỏi các yếu tố pháp lý phải rất rõ ràng
và chặt chẽ, đảm bảo cho hoạt động kinh doanh - đặc biệt là hoạt động kinh
doanh tiền tệ, tín dụng - đi theo một quỹ đạo nhất định nhằm hạn chế rủi ro.

19
Trong giai đoạn đầu chuyển sang cơ chế mới “Hơn 8000 cơ sở kinh
doanh tiền tệ ngoài hệ thống ngân hàng quốc doanh đang buổi “ăn nên làm
ra” thì đùng một cái, hàng loạt vỡ nợ, đe doạ phá sản Hẳn là có nhiều
nguyên nhân, song, một nguyên nhân cơ bản là do chưa chuẩn bị được môi
trường pháp lý thích ứng với môi trường kinh tế. Nói các khác, hoạt động
kinh tế bị hụt hẫng do thiếu các “luật chơi”. Nhận định này đã cho ta thấy
mức độ quan trọng của môi trường pháp lý đối với hoạt động ngân hàng.
Cùng với môi trường kinh tế, môi trường pháp lý tạo nên môi trường
cho vay của các ngân hàng thương mại. Môi trường cho vay có thể ảnh hưởng
tích cực hay tiêu cực, có thể hạn chế hay làm tăng thêm rủi ro đối với hoạt
động kinh doanh tín dụng của các ngân hàng thương mại.
1.2.3.4 Các nguyên nhân xuất phát từ phía người cho vay
- Nguyên nhân đầu tiên thuộc về Ngân hàng phải kể đến là việc không
chấp hành nghiêm túc chế độ tín dụng và điều kiện cho vay theo qui định của
pháp luật hiện hành như qui định về cho vay đối với một khách hàng không
vượt quá 15% vốn tự có, hoặc tập trung vốn quá lớn vào một số khách hàng
nhất định. Tuy nhiên, trong thực tế thì rất nhiều Ngân hàng đã làm trái qui

định này, dẫn đến khi các doanh nghiệp thua lỗ thì Ngân hàng cũng chịu rủi
ro rất lớn.
- Chính sách và qui trình cho vay còn lỏng lẻo, Ngân hàng chưa chú
trọng đi sâu vào phân tích khách hàng để tính toán điều kiện và khả năng trả
nợ; hoặc phương pháp phân tích và xem xét còn hạn chế, chưa chính xác.
- Kỹ thuật cấp tín dụng chưa hiện đại, chưa đa dạng: việc xác định hạn
mức tín dụng cho khách hàng còn quá đơn giản, thời hạn không phù hợp, chủ
yếu là tín dụng trực tiếp, sản phẩm tín dụng nghèo nàn….
- Thiếu thông tin về khách hàng hay thiếu các thông tin tín dụng tin
cậy, chính xác và kịp thời để các Ngân hàng có thể xem xét, phân tích trước
khi cấp tín dụng cho doanh nghiệp.

20
- Một nguyên nhân nữa không kém phần quan trọng đó là năng lực và
phẩm chất của đội ngũ cán bộ tín dụng Ngân hàng và vấn đề quản lý sử dụng
đãi ngộ của cán bộ ngân hàng. Đây là một nhân tố rất quan trọng, quyết định
đến chất lượng hoạt động tín dụng của một Ngân hàng. Các cán bộ tín dụng
có thể mang lại lợi nhuận cao cho ngân hàng, nhưng cũng có thể đem đến
những rủi ro cực lớn cho ngân hàng, thậm chí có thể làm phá sản toàn hệ
thống ngân hàng.
1.2.3.5 Nguyên nhân từ phía người đi vay vốn:
Các nguyên nhân dẫn đến việc khách hàng vay vốn không trả được nợ
cho Ngân hàng có thể là do những nguyên nhân nội tại xuất phát từ phía bản
thân người vay vốn như vốn tự có tham gia sản xuất kinh doanh chưa đủ cho
nhu cầu tham gia sản xuất-kinh doanh; năng lực điều hành quản lý còn hạn
chế, thiếu thông tin thị trường và các đối tác, bạn hàng làm ảnh hưởng đến kế
hoạch sản xuất kinh doanh, công nghệ sản xuất chưa cao đủ để tạo ra các sản
phẩm mang tính cạnh tranh cao, thậm chí cũng còn phải kể đến nguyên nhân
tư cách-phẩm chất (không ít khách hàng để đạt được mục tiêu vay vốn của
mình đã giả tạo hồ sơ, hợp đồng mua bán vòng vo nhằm vay vốn ngân hàng),

thiếu thiện chí trong việc trả nợ vay Ngân hàng ngay từ khi xin vay vốn….
1.2.3.6 Thông tin không đầy đủ
Trong quá trình hoạt động, ngân hàng thực hiện nghiệp vụ Nợ và Có -
chuyển vốn từ người gửi tiền sang người đi vay tiền - Toàn bộ giao dịch này
sẽ suôn sẻ nếu các bên tham gia đều có những thông tin và hiểu biết đầy đủ về
nhau. Song một thực tế còn tồn tại là: một bên thường không biết tất cả những
gì cần biết về phía bên kia và “Sự không cân bằng về thông tin mà mỗi bên có
được như vậy được gọi là thông tin không đầy đủ”. Việc thiếu thông tin trong
các giao dịch này sẽ đưa đến “Sự chọn lựa đối nghịch” và “Rủi ro đạo đức”.
Chọn lựa đối nghịch xảy ra trước khi diễn ra giao dịch. Bản chất vấn đề
là thay vì lựa chọn những người trả được nợ để cho vay, nhà ngân hàng - mặc

21
dù không mong muốn - song vì thông tin không đầy đủ - đã chọn người tích
cực vay nhất để cho vay, nhưng lại là người có khả năng tạo ra kết cục không
trả được nợ, gây rủi ro cho ngân hàng.
Thông tin không đầy đủ có thể sẽ dẫn đến rủi ro về đạo đức sau khi
giao dịch. Đó là hiện tượng người vay do thiếu đạo đức, thực hiện những hoạt
động trái với cam kết sau khi nhận được khoản tiền vay, đưa đến việc khó có
thể hoàn trả món vay, gây rủi ro cho ngân hàng .
Thông tin không đầy đủ trên thị trường tài chính dẫn tới sự lựa chọn
đối nghịch và rủi ro đạo đức đã đặt các ngân hàng trước nguy cơ rủi ro cao.
Muốn hoạt động kinh doanh có hiệu quả, thu được lợi nhuận, tránh tình trạng
kinh doanh thua lỗ, nợ khê đọng dẫn đến phá sản, các ngân hàng phải thật tỉnh
táo để có những nguồn thông tin đầy đủ nhằm vượt qua được sự Chọn lựa đối
nghịch và Rủi ro về đạo đức.
1.2.3.7 Nguyên nhân bất khả kháng
Các thiệt hại đôi khi nảy sinh từ nguyên nhân thiên tai như bão lụt, hạn
hán, hoả hoạn và động đất.
Những thay đổi về nhu cầu của người tiêu dùng hoặc về kỹ thuật một

ngành công nghiệp có thể làm sụp đổ cả cơ đồ của một hãng kinh doanh và
đặt người đi vay từng làm ăn có lãi vào thế thua lỗ.
Một cuộc đình công kéo dài, việc giảm giá để cạnh tranh hoặc việc mất
một người quản lý giỏi có thể làm thiệt hại nghiêm trọng đến khả năng chi trả
tiền vay của người đi vay.
Trong điều kiện kinh tế mở cửa dưới nhiều hình thức và phương diện,
những biến động lớn về kinh tế chính trị trên thế giới có ảnh hưởng tới các
quan hệ kinh tế đối ngoại của một nước mà biểu hiện là cán cân thanh toán, tỉ
giá hối đoái biến động đưa đến sự biến động của giá cả hàng hoá xuất nhập
khẩu, lãi suất, mức cầu tiền tệ Đây là những nhân tố ảnh hưởng trực tiếp tới
hoạt động của các NHTM, gây nên rủi ro, đe doạ sự an toàn trong hoạt động

22
của các NHTM.
1.3 Quản lý rủi ro tín dụng và các nguyên tắc trong quản lý rủi ro
tín dụng.
1.3.1 Khái niệm quản lý rủi ro tín dụng
Một cách khái quát, quản lý rủi ro tín dụng là một quá trình do Hội
đồng quản trị, Ban quản lý và các cán bộ có liên quan khác trong Ngân hàng
thiết lập và áp dụng trong suốt quá trình hoạt động tín dụng nhằm xác định,
đo lường, đánh giá những rủi ro tín dụng có khả năng xảy ra, để từ đó đưa ra
các giải pháp ngăn ngừa, giảm thiểu các rủi ro này, đồng thời kiểm tra và
giám sát quá trình thực hiện các giải pháp đề ra. Nói một cách khác, quản lý
rủi ro tín dụng bao gồm một hệ thống các biện pháp mà các nhà quản trị Ngân
hàng đặt ra nhằm ngăn ngừa, hạn chế tối đa các rủi ro có thể phát sinh và khắc
phục những hậu quả của chúng trong suốt quá trình hoạt động tín dụng tại
Ngân hàng. [24]
Các biện pháp quản lý rủi ro tín dụng chủ yếu bao gồm:
- Xây dựng hệ thống các quy định, chính sách tín dụng
- Xây dựng quy trình tín dụng chặt chẽ.

- Đánh giá, xếp hạng các rủi ro tín dụng.
- Theo dõi, kiểm tra, kiểm soát hoạt động tín dụng.
- Khai thác thông tin tín dụng.
- Xử lý nợ xấu.
Đó là những biện pháp quản lý rủi ro tín dụng nói chung mà các
NHTM Việt Nam hiện đang áp dụng. Tuy nhiên, tùy thuộc vào cơ cấu tổ
chức, mục tiêu và định hướng khác nhau mà từng Ngân hàng có thể áp dụng
một cách linh hoạt những cách thức, biện pháp của riêng mình trong suốt quá
trình hoạt động tín dụng.
1.3.2 Vai trò của quản lý rủi ro tín dụng
Trong hoạt động kinh doanh ngân hàng, hoạt động tín dụng thực sự

×