DƯỢC HỌC
HÀ THỦ Ô
Xuất xứ:
Khai Bảo Bản Thảo.
Tên gọi:
Vị thuốc này trong bản thảo không có, vì ông Hà thấy ban đêm dlây
quấn vào nhau như là giao hợp, họ Hà thấy vậy, đào rễ lấy củ ăn, nhờ thế mà
khỏe mạnh, sau đó ngươí ta bắt chước ăn cũng thấy có hiệu quả, nên lấy
người đầu tiên dùng nó mà gọi tên (Trung Quốc Dược Học Đại Từ Điển).
Tên khác:
Giao đằng, Dạ hợp, Địa tinh (Bản Truyện), Trần tri bạch (Khai Bảo
Bản Thảo), Đào liễu đằng (Nhật Hoa Tử Bản Thảo), Sơn nô, Sơn ca, Sơn bá
Sơn ông, Sơn tinh (Đồ Kinh Bản Thảo), Xích cát (Đẩu Môn), Mã can thạch,
Cửu chân đằng, Sang chửu (Bản Thảo Cương Mục), Hồng nội tiêu (Ngoại
Khoa Tinh Nghĩa), Giao hành, Dã miêu, Kim Hương Thảo (Hòa Hán Dược
Khảo), Chế thủ ô, Tiên Thủù Ô (Trung Quốc Dược Học Đại Từ Điển), Dây
sùng bò, Dây sữa bò, Hà thủ ô nam (Dược Liệu Việt Nam).
Tên khoa học:
Polygonum multiflorum Thunb. (Pteuropterus cordatus Turcz).
Họ khoa học:
Thuộc họ Rau Răm (Polygonaceae).
Mô tả:
Dây leo, sống nhiều năm. Thân rễ phồng thành củ. Thân quấn, mọc
xoắn vào nhau, mặt ngoài thân có màu xanh tía, nhẵn, có vân. Lá mọc so le,
có cuống dài. Phiến lá hình tim, dài 4 - 8cm, rộng 2,5 - 5cm, đầu nhọn, mép
nguyên hoặc hơi lượn sóng, cả hạị mặt đều nhẵn. Bẹ chìa mỏng, màu nâu
nhạt, ôm lấy thân. Hoa tự chùm nhiều nhánh. Hoa nhỏ, đường kính 2mm,
mọc cách xa nhau ở kẽ những lá bắc ngắn, mỏng. Bao hoa màu trắng, 8
nhụy (trong số đó có 3 nhụy hơi dài hơn). Bầu hoa có 3 cạnh, 3 vòi ngắn rời
nhau. Đầu nhụy hình mào gà rủ xuống. Quả 3 góc, nhẵn bóng, đựng trong
bao hoa còn lại, 3 bộ phận ngoài của bao hoa phát triển thành cánh rộng,
mỏng, nguyên.
Địa lý:
Mọc hoang nhiều ở Hoàng Liên Sơn, Sơn La, Lai Châu, Thanh Hóa,
Nghệ Tĩnh, Hà Tuyên, miền Bắc Việt Nam.
Thu hái, sơ chế:
Thu họach khoảng tháng 8, đào lấy củ, rửa sạch, cắt bỏ rễ con. Củ nhỏ
để nguyên, củ to bổ đôi, phơi hay sấy khô tới độ ẩm dưới 13o.
Phần dùng làm thuốc:
Rễ củ (Radix Polygoni multiflori). Loại rễ củ to đường kính trên 4 cm,
khô, vỏ nâu sẫm, cứng đỏ chắc, nhiều bột, ít xơ, không mốc mọt là tốt
Mô tả dược liệu:
Rễ để nguyên hay cắt thành từng miếng lớn nhỏ không đều nhau. Loại
nguyên hơi giống củ khoai lang lớn, mặt ngoài màu nâu đỏ có nhiều chỗ lồi
lõm, đặc sắc. Mặt cắt ngang để lộ lớp bần màu nâu đỏ, mô mềm, vỏ màu nâu
hồng có nhiều bột, giữa có gỗ hẹp, chất cứng, hơi nặng, không mùi, vị hơi
chát (Dược Tài Học).
Bào chế:
a) Rửa sạch, ngâm nước vo gạo một ngày đêm, rửa lại, đổ nước Đậu
đen vào ngập (Cứ lkg Hà thủ ô thì cho 100g đậu đen nấu với 2 lít nước cho
tới khi đậu đen nbừ nát) nấu cho tới khi gần cạn, nên đảo luôn cho chín đều).
Khi củ trở nên mềm, lấy ra, bỏ lõi (nếu có), xắt hoặc bào mỏng, rồi phơi
khô, còn nước đậu đen thì tẩm phơ'i cho hết, Nều đồ và phơi như thế cho
được 9 lần (củu chưng cửu sái) thì càng tốt. Khi đun nóng, đặt một cái vỉ ở
đáy dụng cụ để khỏi cháy khét (Trung Quốc Dược Học Đại Từ Điển).
b) Hoặc lấy Hà thủ ô đă cắt miếng, cho vào chậu, đổ rượu ngon vào
tẩm một đêm, (cứ 10kg Hà thủ ô thì dùng 2,5 lít rượu). Ngày hôm sau bỏ
vào nồi đồ 4 gíờ. Lấy ra phơi trong râm mát cho khô. Lại tẩm lại đồ 2 lần
nữa là được. Miếng Hà thủù ô sê có màu nâu đen (Trung Dược Đại Từ
Điển).
c) Hà thủ ô (có thể trộn thêm với Hà thủù ô trắng) 2 vị bằng nhau,
ngâm trong nước vo gạo 4 ngày đêm, thay nước vo gạo hàng ngày. Xong
vớt ra cạo vỏ bỏ đi lấy Dậu đen đăi sạch rồi cho vào chõ, cứ một lượt Hà thủ
ô thì một lớp Đậu đen. Đồ cho chín nhừ Đậu đen. Bỏ Đậu đen, lấy Hà thủ ô
phơi khô, phơi rồi đồ như vậy cho được 9 lần. Cuối cùng, lấy Hà thủ ô thái
mỏng hay bào phiến hoặc sấy khô hoặc tán bột (Trung Quốc Dược Học Đại
Từ Điển).
Bảo quản:
Để nơi khô râm.
Thành phần hóa học:
+ Có Lecithin 3,7%, các dẫn chất Oxymethylanthraquinone 1, 1-
1,8%, chủ yếu có Rheiphenol, Đại hoàng tố, Rhein Ngoài ra còn có chất
bột 45%, chất béo 3, 1%, chất vô cơ 4,5% (Trung Dược Học).
+ Emodin, Chrysophanol, Physcion, Rhein, Chrysophanol anthrone
(Hata K, và cộng sự – Tạp Chí Dược Học [Nhật Bản] 1975, 95 (2): 211).
+ Resveratrol, 2,3,5,4’ – Tetrahydroystilbene-2-O-b-D-
Glucopyranoside (Shigera Y, và cộng sự, C A, 1986, 105: 214090g).
+ 2,3,5,4’ – Tetrahydroystilbene-2-O-b-D-Glucopyranoside 2”-O-
Monogalloyl Ester, 2,3,5,4’ – Tetrahydroystilbene-2-O-b-D-
Glucopyranoside-3”-O-Monogalloyl Ester (Nonaka, G, và cộng sự,
Phytochemistry 1982, 21: 429).
+ Gallic acid, Catechin, Epicatechin, 3-O-Galloyl (-) –Catechin, 3-O-
Galoyl (-) –Epicatechin, 3-O-Galoyl-Procianidin B2, 3,3’-di-O-Galoyl-
Procyanidin B2 (Nonaka, G, và cộng sự, Phytochemistry 1982, 21: 429).
+ b-Sitosterol (Nghiêm Quý Mẫn, Thượng Hải Đệ Nhất y Học Viện
Học Báo 1981, (8): 123).
Tác dụng dược lý:
+ Hà thủ ô có tác dụng hạ Cholesterol máu, được chứng minh rõ trên
mô hình gây Cholesterol cao ở thỏ nhà, thuốc còn có tác dụng làm giảm hấp
thu Cholesterol của ruột thỏ, theo tác giả, thuốc có thành phần hữu hiệu kết
hợp với Cholesterol (Tư Liệu Tham Khảo Tân Y học (l) 5-6, 1972) (Trung
Dược Ứng Dụng Lâm Sàng).
Thuốc có tác dụng phòng chống và giảm nhẹ xơ cứng động mạch. Có
thể tác dụng giảm xơ cứng động mạch là do thuốc có thành phần Lecithin
(Tư Liệu Tham Khảo Tân Y học (l) 5-6, 1972).
+ Thuốc làm chậïm nhịp tim, làm tăng nhẹ lưu lượng máu động mạch
vành và bảo vệ được cơ tim thiếu máu (Trung Dược Học).
+ Thuốc có khả năng nâng cao sức chống lạnh của chuột nhắt. Hà thủ
ô trắng có tác dụng tăng cường miễn dịch (Trung Dược Học).
+ Thuốc giữ được tuyến ức của chuột nhắt gìa không bị teo mà giữ
được mức như lúc chuột còn non tác dụng này có ý nghĩa chống lão hóa
nhưng cơ chế còn cần nghiên cứu thêm (Hiện Đại Thực Dụng Trung Dược).
+ Thuốc có tác dụng nhuận trường do dẫn chất
Oxymethylanthraquinone làm tăng nhu động ruột (Trích Yếu Văn Kiện
Nghiên Cứu Trung Dược, Nhà xuất bản Khoa học xuất bản năm 1965, tr.
845-346).
+ Hà thủ ô sống tác dụng nhuận trường mạnh hơn Hà thủ ô chín (Hiện
Đại Thực Dụng Trung Dược).
6. Tác dụng kháng khuẩn và virut: Thuốc có tác dụng ức chế đối với
tnực khuẩn lao ở người và trực khuẩn lỵ Flexner (Trung Dược Học).
Thuốc có tác dụng ức chế virut cúm (Vi Sinh Vật Học Báo 8 (2) 164,
1960).
+ Glucozit Hà thủ ô trắng có tác dụng ức chế tế bào ung thư (Trung
Dược Học).
Tính vị:
+ Vị ngọt, tính ôn, không độc (Hà Thủ Ô Lục).
+ Vị đắng, tính sáp, hơi ôn, không độc (Khai Bảo Hùng Định Bản
Thảo).
+ Dùng sống khí hàn, tính liễm, có độc. Chế bằng cách nấu chín
(thục) thì khí ôn, không độc (Bản Thảo Hội Ngôn). + Vị đắng, ngọt, tính
sáp, hơi ôn (Trung Dược Học).
+ Vị đắng, ngọt, chát, tính ấm (Lâm Sàng Thường Dụng Trung Dược
Thủ Sách).
Quy kinh:
+ Vào kinh túc quyết âm, thiếu âm (Bản Thảo Cương Mục).
+ Vào kinh túc thiếu dương đởm kinh, thủ thiếu dương tam tiêu kinh,
thủ thiếu âm tâm kinh, túc thiếu âm thận kinh (Bản Thảo Kinh Giải).
+ Vào 3 kinh Tỳ, Phế, Thận (Bản Thảo Tái Tân).+ Vào kinh Can,
Thận (Trung Dược Học).
+ Vào kinh Can và Thận (Lâm Sàng Thường Dụng Trung Dược Thủ
Sách).
Tác dụng:
+ Ích can, liễm huyết, tư âm, triệt hư ngược, chỉ thận tả (Dược Phẩm
Hóa Nghĩa).
+ Bổ phế hư, chỉ thổ huyết (Bản Thảo Tái Tân).
+ Bổ ích tinh huyết (Chế Thủ ô), dùng sống có tác dụng giải độc, triệt
ngược, nhuận tràng, thông tiện (Trung Dược Học).
+ Tư âm cường tráng (Trung Dược Ứng Dụng Lâm Sàng).
+ Bổ huyết, cố tinh,. dư'ỡng can, nhuận trường, đồng thời có tác dụng
tri sốt rét (Lâm Sàng Thường Dụng Trung Dược Thủ Sách).
Chủ trị:
+ Trị ngũ trĩ, bệnh ở lưng gối, làm mạnh gân lực, ích tinh tủy, tráng
khí, làm đen tóc, kéo dài tuổi thọ, trị bệnh phụ nữ sau sanh, xích bạch đới, lỵ
lâu ngày không khỏi (Hà Thủ Ô Lục).
+ Uống lâu dễ có con, trị bệnh ở bụng, các chứng lãnh khí truờng
phong (Nhật Hoa Tử Bản Thảo).
+ Trị trúng phong, đầu thống, hành tý, hạc tất phong, động kinh,
hoàng đản (Bản Thảo Thuật).
+ Trị chứng tinh huyết hư, sốt rét lâu ngày, ung sang độc, chứng loa
lịch, chứng táo bón (Trung Dược Học).
+ Trị di tinh, đới hạ, lưng gối đau ê ẩm, râu tóc bạc sớm, gan viêm
mãn tính, suy nhược thần kinh (Trung Dược Học).
Liều lượng: 12g-40g. Bổ huyết nên dùng Chế thủ ô, thông tiện nên
dùng Sinh thủ ô.
Kiêng kỵ.
+ Kỵ các loại huyết, cá có vảy, Tỏi, Hành, Cải, đồ sắt thép (Bản Thảo
Kinh Giải).
+ Hợp với Địa hoàng, có thể phục được Châu sa (Bản Thảo Kinh
Giải).
+ Người có thực tà, đờm thấp nặng: kiêng dùng (Đông Dược Học
Thiết Yếu).
Đơn thuốc kinh nghiệm:
+ Trị phong cùì, dùng Hà thủ ô củ lớn, loại có hoa văn mới tốt, l cân,
ngâm vơi nước vo gạo một đêm, cửu chưng cửu sái, Hồ ma 160g, cửu chưng
cửu sái, rồi tán bột, mỗi lần. Uống 8g với rượu, ngày 2 lần (Thánh Huệ
phương).
+ Trị tiêu ra máu không cầm: dùng Hà thủ ô 80g, tán bột, uống với
nước cơm trước khi ăn, mỗi lần 8g (Thánh Huệ phương).
+ Trị tràng nhạc ở cổ đã vớ hoặc chưa vớ, chạy xuống tới ngực trước,:
Dùng Hà thủ ô rửa sạch nhai sống hàng ngày, đồng thời lấy lá gĩa rồi đắp lên
nhiều lần thì khỏi, bài này có thể uống lâu ngày làm sống lâu và râu tóc đen
(Đẩu Môn phướng).
+ Uống hoặc ăn Hà thủ ô có tác dụng tư bổ, 'Hà Thủ Ô Hoàn" chuyên
mạnh gân cốt, đầy tinh tủy, bổ khí huyết, uống lâu đen râu tóc, mạnh sinh lý,
có nhiều con cái, nhẹ người, sống lâu. Dùng Hà thủ ô, lấy dao bằng đồng cắt
lát, nếu khô thì ngâm vơi nước vo gạo cho mềm để cắt, Ngưu tất (bỏ mầm
non) 1-3 cân, xắt lát, lắy 1 đấu Đậu đen rửa sạch, dùng gỗ hoặc tre đan làm
giá, cứ bỏ một lớp đậu, một lớp Hà thủ ô và Ngưu tất, sắp nhiều lớp cho tới
khi hết, chưng nấu cho tới khi đậu chín, lấy ra, bỏ đậu đi, phơi khô, làm như
thế cho được 3 lần rồi tán bột, lấy Đại táo chưng rồi trộn thuốc làm viên
bằng hạt ngô đồng lớn, mỗi lần uống từ 30 - 50 viên với rượu ấm lúc còn
bụng đói (Hòa Tễ Cục phương).
+ Mạnh gân cốt, đầy tinh tủy, bổ khí huyết, uống lâu đen râu tóc,
mạnh sinh lý, có nhiều con cái, nhẹ người, sống lâu: dùng Hà thủ ô trắng và
Hà thủ ô đỏ mỗi thứ nửa cân, cạo bỏ vỏ, phơi âm can, lấy cối chầy đá tán
bột, uống mỗi buổi sáng 4g với giấm (Trịnh Nham Sơn Trung Thừa
phương).
+ Mạnh gân cốt, đầy tinh tủy, bổ khí huyết, uống lâu đen râu tóc,
mạnh sinh lý, có nhiều con cái, nhẹ người, sống lâu: dùng Hà thủ ô đỏ và
Hà thủ ô trắêng mỗi thứ một nửa, loại củ thật lớn, chọn vào tháng 8, lấy dao
tre cạo bỏ vỏ, xắt lát, ngâm một đêm với nươc vo gạo, đem phơi nắng cho
khô, lấy sữa bà mẹ đẻ con trai khỏe mạnh tẩm vào rồi phơi khô 3 lần như
thế, bỏ vào cối đá gĩa thành bột, trộn với mật ong vào Táo nhục làm thành
viên to bằng hạt ngô đồng, mỗi lần uống 20 viên, sau 10 ngày thêm 10 viên,
tới 100 viên thì được, uống với rượu nóng lúc đói. Có bài không dùng sữa
người (Tích Thiện Đường phương).
+ Mạnh gân cốt, đầy tinh tủy, bổ khí huyết, uống lâu đen râu tóc,
mạnh sinh lý, có nhiều con cái, nhẹ người, sống lâu: dùng Hà thủ ô đực, cái
(đỏ, trắng) mỗi thứ nửa cân, chia làm 4 phần, một phần ngâm với nước
Đương quy, một phần ngâm với nước Sinh địa, một phần ngâm với nước
Hạn liên thảo, một phần ngâm với sữa người. Sau 3 ngày lấy ra, pbơi nắng
riêng ra, sấy trên ngói cho khô, bỏ vào cối đá gĩa thành bột, chưng nhục Đại
táo cho nhuyễn, làm viên to bằng hạt ngô đồng lớn, mỗi lần uống 40 viên lúc
đói (Bút Phong Tạp Hứng).
+ Ấm tinh huyết đen râu tóc đẹp nhan sác, sống lâu dùng Hà thủ ô,
Cam cúc hoa, Câu kỷtử, Địa hoàng, Ngưu tất, Thiên môn đông, Xích phục
linh., Bạch phục linh, Tang thầm, Nam chúc tử (Bút Phong Tạp Hứng).
+ Trị vết thương chảy máu, dùng bột Hà thủ ô xức vào, cầm ngay (Bút
Phong Tạp Hứng).
+ Khoan khoái gân xương, tổn thương do chấn thương: dùng Hà thủ
ô 10 cân, đậu Đen sống nửa cân. Tất cả nấu chín, Tạo giáp 1 cân đốt tồn
tính. Khiên ngưu 400g, sao, tán bột, Bạc hà 400g, Mộc hương, Ngưu tất mỗi
thứ 200g, Xuyên ô đầu mao (ngâm nước sôi) 80g, tán bột. Tất cả trộn với
rượu thành viên to bằng hạt ngô đồng lớn, lần uống 30 viên với nước trà
(Vĩnh Loại Kiềm phương).
+ Mồ hôi tự chảy không cầm: dùng bột Hà thủ ô trộn nước miếng đắp
giữa rốn (Tập Giản phương)
+ Trị trẻ nhỏ lưng rùa (qui bối): lấy nước tiểu Rùa trộn với bột Hà thủ
ô dán vào các đốt xương gù lên, lâu ngày thì bớt (Trung Quốc Dược Học Đại
Từ Điển).
+ Trị trong da có cảm giác đau như không biết đau ở nơi nào: dùng
Hà thủ ô tán bột, trộn nước cốt gừng thành cao đắp vào, rồi chườm nóng bên
ngoài (Kinh Nghiệm Phương - Trung Quốc Dược Học Đaị Từ Điển).
+ Trị tà sốt rét nhập vào âm phận lâu ngày không hết: dùng Hà thủ ô,
Ngưu tất, Miết giáp, Quất hồng, Thanh bì, nếu khí ở biểu đã hư, tỳ vị đã yếu,
thì thêm Nhân sâm 12- 20g, phế nhiệt thì bỏ Nhân sâm mà thế Đương quy
vào (Trung Quốc Dược Học Đại Từ Điển).
+ Trị các loại phong ở đầu mặt, phong cùi: Hà thủ ô, Thích tật lê, Cam
cúc hoa, Thiên môn đông, Hồ ma nhân, Tất diệp, Bạch chỉ, Kinh giới tuệ,
Khổ sâm, Địa hoàng, Bách bộ (Trung Dược Học).
+ Trị kiết lỵ ra toàn máu dùng các loại thuốc không có hiệu quả, dùng
Hà thủ ô, Kim ngân hoa, Địa du, Tê giác, Thảo thạch tàm, Sơn đậu căn,
Hoàng liên, Thược dược, Can cát, Thăng ma, Cam thảo, Hoạt thạch (Trung
Dược Học).
+ Trị ‘Cốt nhuyễn phong’, lưng gối đau nhức, đi đứng không được,
ngứa toàn thân: đùng Hà thủ ô củ lớn mà có hoa văn 1 cân, Ngưu tất 1 cân,
với một thăng rượu ngon, ngâm 1 đêm rồi phơi nắng cho khô (khi dùng Hà
thủ ô đừng dùng vật có chất sắt thép), luyện mật làm viên, uống lúc đói
trước khi ăn, mỗi lần 30 - 50 viên với rượu. Có thể trị được thêm chứng
phong đàm hoặc sốt rét lâu ngày không lành (Kinh Nghiệm Phương).
+ ‘Thất Bảo Mỹ Nhiệm Đơn’ là bài thuốc trứ danh có Hà thủ ô, dùng
để bổ thận khí, đen râu tóc, sống lâu khỏe mạnh (theo Thiệu Tiết Ứng),
dùng Hà thủ ô vừa loại trắêng, vừa loại đỏ, mỗi thứ 1 cân, Ngưu tất 320g
(trước tiên ngâm Hà thủ ô với nước vo gạo 1 ngày đêm, rồi lấy dao tre cạo
bỏ vỏ ngoài xắt thành lát lớn, lấy đậu Đen rải một lớp rồi sau đó bỏ một lớp
Hà thủ ô lên, lại tới lớp Ngưu tất, Cứ như thế mà rải thuốc ở trên đậu. Nấu
cho chín, bỏ đậu đi chỉ lấy thuốc phơi khô. Nấu phơi như thế cho được 7 lần,
xong bỏ đậu Đen đi, Phá cố chỉ nửa cân (ngâm rửa rượu rồi sao với Hắc chi
ma (Mè đen) cho tới khi nào hết nghe nổ lốp bốp là được), lấy Bạch phục
linh nửa cân, tẩm sữa trâu phơi nắng rồi chưng, Thỏ ty tử nửa cân ngâm
rượu 1 đêm, rửa rồi phơi khô, chưng như thế cho được hai lần, Câu kỷ tử
nửa cân (bỏ núm khô ở sau). Tất cả tán bột, trộn với mật làm viên, to bằng
bạt Long nhãn lớn, ngày uống 3 viên, nhai lúc bụng đói với rượu nóng hoặc
nước cơm, nước muối nhạt. Khi chế không được dùng đồ bằng sắt, thiếc
(Trung Quốc Dược Học Đại Từ Điển).
+ Trị chứng huyết hư, cơ thể suy nhược, có triệu chứng lưng gối nhức
mỏi, váng đầu, hoa mắt, tóc bạc sớm, di tinh, huyết trắng nhiều, dùng: Hà
thủ ô 20g, Thỏ ty tử 12g, Đương qui 12g, Ngưu tất 12g, Bổ cốt chỉ 12g, tán
bột mịn, luyện hoàn vớỉ mật ong. Mỗi ìần uống 8-12g, ngày 2 lần với nước
sôi nguội hoặc nước muối nhạt (Hà Thủ Ô Hoàn - Sổ Tay Lâm Sàng Trung
Dược).
+ Trị mất ngủ do huyết hư, dùng bài: Chế Hà thủ ô, Bắc sa sâm, Qui
bản, Long cốt, Bạch thược mỗi thứ 12g, sắc uống (Sổ Tay Lâm Sàng Trung
Dược).
+ Trị thận yếu, đau lưng mỏi gối, di tinh nặng hoăïc băng lậu, đái hạ,
sinh dục yếu, dùng bài: Thất Bảo Mỹ Nhiệm Đơn của Thiệu Ứng Tiết: Chế
Thủ ô 20g, Bạch phục linh, Ngưu tất, Đương qui, Thỏ ti tử, Phá cố chỉ, mỗi
thứ 12g, luyện mật làm hoàn, mỗi lần 12g, ngày 2 lần (Sổ Tay Lâm Sàng
Trung Dược).
+ Trị Lipit huyết cao, xơ cứng động mạch, huyết áp cao, bệnh động
mạch vành: có tác dụng làm giảm hoặc hết triệu chứng, ổn định bệnh, làm
tăng sức, thường hợp với Ngân hạnh diệp, Câu đằng (Trung Dược Ứng
Dụng Lâm Sàng).
+ Có công trình nghiên cứu dùng viên Hà Thủ Ô (mỗi viên nang
0,25g, gồm thuốc sống 0,81, trong đó 30% bột Hà thủ ô, 70% cao nước chế
thành), mỗi lần uống 5-6 viên (có người uống 8 -10 viên), ngày 3 lần, dùng
thuốc liên tục trong 2-12 tuần, lâu nhất 14 tháng, trị 178 ca Cholesterol máu
cao. Kết quả tốt 38,2%, tiến bộ 23,6%, tỷ lệ kết quả 61,8%. Cholesterol máu
giảm bình quân 39mg%, trong đó 32% bệnh nhân giảm xuống mức bình
thường, đối với bệnh nhân vừa và cao, kết quả tốt (Bệnh Viện Nhân Dân
Thượng Hải Số 8 Trực Thuộc Y Học Viện Thượng Hải Số 2: ‘Theo Dõi
Lâm Sàng Chứng Cholesterol Cao Điều Trị Bằng Viên Hà Thủ Ô’, báo
Công Nghiệp Y Dược 1974, 6: l).
+ Trị huyết áp cao: Chế Thủ ô, Sinh địa, Huyền sâm, Sinh bạch thược,
Nữ trinh tử, Hạn liên thảo, Sa Uyển tật lê, Hy thiêm thảo, Tang ký sinh,
Hoài ngưu tất, mỗi thứ 12g, sắc nước uống (Hà Thủ Ô Hợp Tể - Sổ Tay Lâm
Sàng Trung Dược).
+ Trị sốt rét lâu ngày, phần âm bị tổn thương khó lành, dùng:
. Hà thủ ô 40g, Sài hồ 12g, đậu đen 20g, sắc nước phơi sương l đêm,
sáng hầm lên uống nóng (Sổ Tay Lâm Sàng Trung Dược).
. Hà thủ ô (chế) 16g, Đảng sâm, Đương qui, Trần bì, Ổi khương, mỗi
thứ 12g, sắc ụống (Hà Nhân Ẩm - Sổ Tay Lâm Sàng Trung Dược).
+ Trị táo bón do huyết hư, tân dịch hao tổn: Hà thủ ô 20-40g, sắc nước
uống (Sổ Tay Lâm Sàng Trung Dược).
+ Trị suy nhược thần kinh, mất ngủ: Thường phối hợp với các vị: Từ
thạch, Đơn sâm, Ngũ vị tủ, Toan táo nhân, Xuyên khung (lượng nhỏ) có kết
quả (Trung Dược Ứng Dụng Lâm Sàng).
+ Có tác giả dùng dịch tiêm Hà thủ ô 20% tiêm bắp mỗi lần 4ml, ngày
1 lần, 20-30 ngày là một liệu trình; trường hợp nặng chích 1 ngày 2 lần, cách
nhật, liệu trình 15-20 ngày, nghỉ 15-20 ngày, ngủ khá hơn thì chích ngày 1
lần hoặc uống Hà thủ ô mỗi lần 5-7 viên (0,5g/viên), ngày 3 lần; trường hợp
uống lâu dài, ngày 2 lần sáng và tối; truờng hợp bệnh nhẹ hoặc bệnh giảm,
mỗi tốt uống 6-10 viên trước lúc ngủ. Uống và chích thay đổi dùng. Đã trị
141 ca, khỏi lâm sàng 53,9%, tiến bộ tốt 44,7%, tỉ lệ có kết quả 98,6%, theo
tác giả tốt hơn loại thuốc ngủ Bromure và Meprobamate (Bệnh Viện 201
Giải Phóng Quân, ‘Phân Tích Lâm Sàng 141 Ca Mất Ngủ Trị Bằng Hà Thủ
Ô’, Thông Tin Trung Thảo Dược 1974, 5: 38).
+ Trị ho gà: Hà thủ ô 6- 12g, Cam thảo 1,5-3g, mỗi ngày 1 thang, sắc,
chia 4-6 lần uống, có người uống xong tiêu chảy nhẹ, dùng Kha tử hoặc Anh
túc xác (cho cầm lại). Đã trị 35 ca khỏi 19 ca, cơ bản khỏi 8 ca, tiến bộ 4 ca,
không kết quả 1 ca (Vương Khởi Minh, ‘Báo Cáo Về Kết Quả Bước Đầu
Điều Trị Ho Gà Bằng Hà Thủ Ô’, Trung Y Giang Tô Tạp Chí 1965, 3: 10).
+ Trị sốt rét: Hà thủ ô 18-25g, Cam thảo 1,5-3g, trẻ em giảm lượng,
sắc đặc sau 2 giờ, chia 3 lần uống trước bữa ăn. Trị 17 ca kết quả đều tốt
(Vương Khởi Minh, ‘Báo Cáo 17 Ca Sốt Rét Điều Trị Bằng Hà Thủ Ô’,
Quảng Đông Y Học Học Báo 1964, 4: 31).
+ Trị tóc bạc: Chế thủ ô, Thục địa hoàng mỗi thứ 30g, Đương qui 15g,
ngâm vào 1 lít rượu trắng 10-15 ngày sau, dùng mỗi lần 15-30ml, uống liên
tục cho đến có kết qủa. Điều trị 86 ca (20 ca bạc từng đám, 16 ca rải rác
bệnh kéo dài từ l đến 10 năm, kết quả khỏi 24 ca, tiến bộ 8 ca, tỷ lệ kết quả
88,9% (Triệu Hồng Bân, ‘Rượu Hà Thủ Oâ Trị Tóc Bạc’, Sơn Đông Trung
Y Tạp Chí 1983, 4: 41).
+ Trị tổn thương thần kinh quay: Hà thủ ô 30g, sắc, chia uống sáng và
chiều, liệu trình 1 tháng. Theo dõi 14 ca, tỷ lệ khỏi 86,7% (Truyền Bằng
Liêu, ‘Báo Cáo 14 Ca Tổn Thương Thần Kinh Quay Trị Bằng Hà Thủ Ô’,
Trung Hoa Trung Y Cốt Thương Khoa Tạp Chí 1988, l: 34).
+ Trị can huyết bất túc, huyết áp hơi cao, đầu đau, chóng mặt, tay
chân tê: Hà thủ ô (chế), Sinh địa, Huyền sâm, Bạch thược (sống), Nữ trinh
tử, Hạn liên thảo, Sa uyển tặt lê, Hy thiêm thảo, Tang ký sinh, Hoài ngưu tất
mỗi thứ 12g, Sắc uống (Hà Thủù Ô Tễ - Sổ Tay Lâm Sàng Trung Dược).
+ Ngoài ra còn có báo cáo dùng Hà thủ ô trị mề đay, lở nhọt (Trung
Dược Ứng Dụng Lâm Sàng). Trị nốt ruồi (Trung Dược Học), tinh trùng yếu
(Sổ Tay Lâm Sàng Trung Dược).
+ Ngoài ra, theo báo cáo, chỉ dùng một vị Hà thủ ô sắc uống thường
xuyên có thể trị chứng tinh loãng, tinh ít (Sổ Tay Lâm Sàng Trung Dược).
+ Kết bợp với Tang ký sinh, Nữ trinh tử trị chứng động mạch xơ
cứng, huyết áp cao nơi người lớn tuổi (Sổ Tay Lâm Sàng Trung Dược).
Tham khảo:
+ Thủ ô trắng vào phần khí, Thủ ô đỏ vào phần huyết, thuốc khí ôn, vị
đắng, sáp, đắng bổ thận, ôn bổ can, thu liễm tinh khí, dưỡng huyết ích can,
cố tinh, ích thận, kiện cân cốt, làm đen râu tóc, là vị thuốc tư bổ tốt (Bản
Thảo Cương Mục).
+ Hà thủ ô sống tính phát tán, trị sốt rét nóng lạnh, các chứng ung thư
bối sang đều dùng được. Dùng tươi sắc uống có tác dụng thông tiện, tác
dụng không khác Nhục thung dung (Bản Kinh Phùng Nguyên).
+ Hà thủ ô nhập vào can để ích huyết, khu phong, kiêm bổ thận là
thuốc tuấn bổ chân âm tiên thiên, thuốc cũng cần cho điều bổ dinh huyết
của hậu thiên, thuốc dưỡng tinh thần, điều bổ nguyên khí (Bản Thảo Cầu
Chân).
+ Hà thủ ô dùng trị sốt rét và lỵ lâu ngày cái hay của Hà thủ ô là vào
kinh thiếu dương, khí rất mạnh, mạnh nên triệt được ngược tà. Vị của thuốc
rất sáp, sáp nên chặn được ngược tà, nếu bệnh chưa hết, cho thêm Sài, Linh,
Quất, Bán. Nếu đã khỏi nên thêm Sâm, Truật, Kỳ, Quy, cho thêm 1, 2 thang
(Thần Nông Bản Thảo Kinh Độc).
+ Hà thủ ô bổ âm mà không trệ, không hàn, cường dương mà không
táo, không. nhiệt. Bẩm thụ khí xung hòa, được khí thuần túy của trời đất.
Ngày xưa có một ông gìa họ Hà thấy cái dây ban đêm quấn lại với nhau, ông
đào lấy củ để uống, râu tóc xanh trở lại hết, cho nên gọi là Thủ ô, sau đó
ông ấy rất cường dương, sinh nhiều con trai, đổi tên là ‘Năng tự’, từ đó ta
biết được tính bổ âm mà bổ ích cho tạng thận của Thủ ô. Thục địa và Thủ ô
đều là ' thuốc bổ âm, nhưng Thục địa bẩm thụ khí của giữa mùa đông để
sinh ra, nấu và phơi cho tới màu đen thì chuyên vào thận mà tư nhuận cho
chân thủy của ‘Thiên nhất’ sinh ra, lại bổ cả Can là vì tư nhuận cho thận mà
liên cập tới, Thủ ô bẩm thụ khí mùa xuân để sinh, lại do phong mộc hóa ra,
thông với Can, là dương ở trong âm được cho nên chuyên đi về kinh Can mà
có tác dụng ích huyết, trừ phong, bổ can thận, cũng nhân vì bổ Can mà tác
dụng đến. Một bên là thuốc bổ mạnh cho chân âm tiên thiên cho nên có công
năng cứu ngay được bệnh nguy do cô dương lấn lên dữ quá. Một bên thì cần
dùng để bổ cho vinh huyết hậu thiên, là thuốc uống thường để nuôi khỏe tinh
thần, trừ bệnh tật, điều nguyên khí. Chân âm của tiên thiên và hậu thiên
không giống nhau, thì công hiệu cũng có hoặc chậm hoặc nhanh, hoặc nhẹ
hoặc nặng rất khác nhau. Huống nữa, gọi tên là 'Dạ hợp', và 'Năng tự" thì
trong bổ huyết lại có cả bổ dương, không phải như Địa hoàng công năng chỉ
chuyên về tư nhuận cho thủy, khí bạc mà vị hậu, là vị thuốc trọng trọc ở
trong loại thuốc trọng trọc, có tác dụng cứng mạnh gân xương mà thôi. Đó là
ý kiến tâm đắc của tiên sư Phùng thị mà người xưa chưa từng phân tích,
ngườỉ bây giờ dùng chung để bổ âm thì chẳng bền lắm hay sao? (Dược
Phẩm Vậng Yếu).
+ Hà thủ ô dùng lâu ngày khiến người ta có con, trị tất cả các chứng ở
bụng đã bệnh lâu ngày, chứng lãnh khí trường phong (tiêu ra máu) (Đại
Minh Nhật Hoa Chư Gia Bản Thảo).
+ Hà thủ ô có tác dụng tả can phong (Thang Dịch Bản Thảo).
+ Hà thủ ô sách ghi là vốn vị đắng, chát, hơi ấm, đồn rằng vị ngọt khí
ấm, vào kinh Túc quyết âm kiêm vào kinh Túc thiếu âm nên là thuốc thượng
phẩm để bổ huyết, khu phong. Có 2 loại thư (cái) và hùng (đực), qua đêm thì
giao với nhau, có hiện tượng âm dương giao hợp, nên làm cho người ta có
con, mà can chủ huyết, thận chú tàng tinh, bổ 2 kinh này thì tinh huyết thịnh
vượng. Tóc là chất thừa của huyết nên nó làm đen tóc, nó chủ trị về chứng
loa lịch (tràng nhạc), khi can đởm uất kết thì sinh nội nhiệt, dinh khí ủng tắt
ngược ở trong, bèn phát ra bệnh. Mười một tạng phủ đều quyết đinh bởi nội
đờm, can và đởm là biểu lý với nhau, là kinh thuộc Thiếu dương. Không thể
ra vào, khí huyết đều ít, là sở chủ của phong mộc, hành đởm khí, bổ can
huyết thì chứng loa lich tự tiêu mất vậy. Điều hòa dinh khí thì tiêu dược nbọt
sưng. Trị phong tiên tri huyết, huyết hoạt thì phong tán, nên chữa được nhọt
phong ở đầu mặt. Chứng trường tích gây ra trĩ, trĩ là do thấp nhiệt rót xuống
dưới làm tổn thương phần huyết mà không thể tiết ra được, thì dồn về hậu
môn, làm cho phần cơ nhục tại chỗ lồi ra thành các dạng, phong thì thắng
thấp, thấp nhiệt giải được thì nhọt trĩ tự bằng ph'ẳg trở lại. Tâm huyết hư thì
nội nhiệt, nhiệt từ tâm dao (lay động), dao động thì gây đau, bổ khí huyết thì
nhiệt giải được, nhiệt đã giải thì trừ đau được. Bổ khí huyết thì tóc đen, sắc
mặt tươi đẹp, dùng lâu ngày thì bổ gân cốt, ích tinh khí, sống lâu mà không
gìa đều bởi công bổ can thận, ích tinh huyết. Cũng trị chứng đàn bà sản hậu
và các chứng đới hạ, phụ nữ lấy huyết làm chủ, kinh nguyệt thông suốt là
bởi Quyết âm, đới hạ vốn bởi huyết hư mà kiêm thấp nhiệt, hành thấp, ích
huyết thì ắt trừ bệnh được (Bản Thảo Kinh Sơ).
+ Hà thủ ô các sách đều cho rằng Hà thủ ô có tác dụng tư thận, bổ
thủy, đen tóc, nhẹ người, rất được khen thưởng, công hiệu gần giống như
Địa hoàng. Chỉ với hiện tượng mà biện luận rất rõ ràng rằng Thủ ô vị đắng,
chát, tính hơi ấm, về âm phận thì không nê trệ lắm, về dương phận thì không
táo lắm, được bẩm khí trung hòa của trời đất. Thục đia, Thủ ô dù đều bổ âm,
một thứ là thuốc bổ chân âm của tiên thiên, nên công của nó cứu được cái
nguy của cô dương bùng lên, một thứ cần điều bổ dinh huyết của hậu thiên,
uống lâu dài là thuốc bổ dưỡùng tinh thần, hết bệnh, điều hòa nguyên khí.
Âm của tiên thiên và hậu thiên khác nhau, nặng nhẹ hoãn cấp về công hiệu
cũng khác nhau rất nhiều, huống chi gọi là Dạ hợp, lại tên là Năng tự, thì
trong bổ huyết, còn có sức hóa dương, không như công của Đia hoàng
chuyên tư thủy, khí bạc vị hậu, là chất trọc trong trọc. Tác dụng về mạnh
xương bổ tủy chăng, cách nói này rất thất thiệt, tiên hiền chưa có phong cho
nó tác dụng này, không nên bỏ qua. Lấy củ lớn như nắm tay 5 cánh là tốt,
loại đã 300 năm thì lớn như cây gậy, dùng nó rồi sẽ thọ như thần đất, có 2
loại: đỏ thuộc đực, trắng thuộc cái, hễ dùng nên lấy l/2 trắng l/2 đỏ, ngâm
với nước vo gạo, cạo vỏ và thái phiến bằng lưỡi dao tre, dùng đậu Đen trộn