Tải bản đầy đủ (.doc) (26 trang)

Sự ra đời và phát triển của xã hội học

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (277.58 KB, 26 trang )

Môn học Xã hội học đại cương GV. Nguyễn Nữ Nguyệt Anh
ĐH. Khoa học Xã hội và Nhân văn, TP.HCM
-------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------
VẤN ĐỀ 1
SỰ RA ĐỜI VÀ PHÁT TRIỂN CỦA XÃ HỘI HỌC
1.CÁC TIỀN ĐỀ CHO SỰ RA ĐỜI CỦA XÃ HỘI HỌC
1.1. Cuộc cách mạng chính trị - xã hội Pháp
Các sự kiện chính trị quan trọng nhất góp phần làm thay đổi căn bản thể chế chính trị, trật
tự xã hội và các thiết chế xã hội Châu Âu thế kỷ 18 là các cuộc cách mạng, nhất là đại cách
mạng Pháp năm 1789. Cuộc cách mạng này đã mở đầu cho thời kỳ tam rã của chế độ phong
kiến, nhà nước quân chủ và thay thế trật tự xã hội cũ bằng một trật tự xã hội mới với dự thống
trị về kinh tế và chính trị của giai cấp tư sản. Sự biến chuyển chính trị sâu sắc này làm cho các
mối quan hệ xã hội đã có từ lâu đời trong xã hội phong kiến thay đổi một cách căn cơ, kéo theo
sự thay đổi các chuẩn mực giá trị, niềm tin trong đời sống xã hội.
Các cuộc cách mạng cũng gây ra một sự xáo trộn trên mọi mặt trong đời sống xã hội
Pháp suốt thế kỷ 19, cảnh loạn ly nội chiến kéo dài triền miên, trật tự xã hội trên bình diện ý
thức và tổ chức cũ đã bị xóa bỏ nhưng trật tự mới với các chuẩn mực của nó chưa được thiết
lập một cách ổn định. Trước tình hình này, các nhà triết học, các nhà tư tưởng đương thời đã
tìm cách giải thích, miêu ta các hiện tượng xã hội, tìm cách đưa ra những mô hình xã hội mới
thay thế hoàn toàn xã hội cũ, thiết lập lại trật tự xã hội. Ngán ngẫm với cảnh hỗn độn, mất trật
trự, đa số các triết gia đương thời của Pháp không ủng hộ các cuộc cách mạng. Họ chủ trương
dùng ánh sáng khoa học và lý trí để giải quyết các xung đột và xây dựng một xã hội mới chứ
không nhất thiết phải tiến hành các cuộc cách mạng đẫm máu như đang xảy ra. Trong bối cảnh
đó August Comte đã phát minh ra một kho học mới đặt tên là “vậy lý xã hội” mà sau này ông
đổi tên thành “Xã hội học”. Ông là người đầu tiên sử dụng khái niệm này để chỉ một môn khoa
học xã hội xây dựng dựa trên thực nghiệm với mục đích nghiên cứu và giải quyết các vấn đề
xã hội đương thời và sử dụng môn khoa học này như một công cụ hữu hiệu nhằm thiết lập một
hình thái xã hội mới.
Như vậy xã hội học phát sinh đầu tiên ở Pháp trong một hoàn cảnh xã hội có rất nhiều
xáo trộn, biến đổi do các cuộc cách mạng tư sản tạo ra. Bên cạnh các cuộc cách mạng chính trị
này còn có cuộc cách mạng công nghiệp bắt đầu ở Anh cũng là tiền đề cho sự ra đời của xã


hội học.
1.2. Cuộc cách mạng công nghiệp
Vào nửa thế kỷ 18, cuộc cách mạng công nghiệp bắt đầu ở Anh sau đó lan sang các nước
khác ở Châu Âu và Bắc Mỹ. Cuộc cách mạng đã làm biến đổi đời sống xã hội nông nghiệp một
cách sâu sắc, làm xuất hiện nhiều hiện tượng và vấn đề xã hội mới. Quá trình công nghiệp hóa
đã đưa đến những thay đổi trên lĩnh vực kinh tế xã hội ở Châu Âu:
• Năm 1765 James Watt phát minhra máy hơi nước và sau đó là hàng loạt các phát
minh ra máy móc thay thế sức lao động của con người và súc vật, chính điều này đã
làm gia tăng sản lượng lên gấp hàng trăm lần.
• Cách nhà máy mọc lên một cách nhanh chóng thu hút lao động từ nông thôn, bỏ
làng quê ruộng vườn và các nghề thủ công truyền thống trong phạm vi gia đình của
1
Môn học Xã hội học đại cương GV. Nguyễn Nữ Nguyệt Anh
ĐH. Khoa học Xã hội và Nhân văn, TP.HCM
-------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------
họ để tới làm việc tập trung trong các khu công nghiệp, tạo ra các làn sóng di cư và
đô thị hóa. Đây cũng là nguyên nhân hình thành giai cấo công nhân.
• Trước cuộc cách mạng công nghiệp, con người chỉ trồng trọt và thu lượm nguyên
liệu nhưng chính nền kinh tế công nghiệp đã chuyển sang chế biến nguyên liệu
thành các sản phẩm bán được và từ đó tạo ra các thị trường hàng hóa.
• Trong nền sản xuất công nghiệp đã xuất hiện và diễn ra quá trình chuyên môn hóa.
Trong dây chuyền sản xuất, người lao động chỉ thực hiện một khâu nhỏ trong quá
trình sản xuất ra một sản phẩm hoàn chỉnh. Công nghiệp hóa đã làm cho sản lượng
tăng lên nhưng lại làm giảm mức độ kỷ năng của người lao động.
• Trong nền sản xuất công nghiệp, người công nhân đi vào nhà máy làm việc để có
lương, họ bán sức lao động cho những ông chủ tư bản để nuôi sống bản thân và gia
đình. Vấn đề bất công do phân phối nguồn lợi tức do công nghiệp hóa tạo ra giữa
giới chủ và công nhân đã hình thành nên mâu thuẫn giai cấp, tạo ra các phong trào
đấu tranh của giai cấp công nhân.
• Cuộc cách mạng công nghiệp đã ảnh hưởng và tác động sâu sắc lên đời sống xã

hội, làm chuyển dịch các thiết chế và tổ chức xã hội, làm thay đổi các giá trị chuẩn
mực trong đời sống xã hội. Cuộc cách mạng công nghiệp đã nâng cao mức sống nói
chung, tạo ra cho xã hội khối lượng hàng hóa gấp nhiều lần so với xã hội nông
nghiệp nhưng đồng thời cũng tạo ra nhiều hiện tượng, nhiều vấn đề xã hội mới như
sự phân hóa giàu nghèo ngày càng lớn, vấn đề bóc lột sức lao động của phụ nữ và
trẻ em, vấn đề phân công lao động, ... Có thể nói thế kỷ công nghiệp hóa cũng là thế
kỷ của các quy luật và các hình thái tổ chức quản lý mới.
Nói chung, một nền sản xuất mới nảy sinh từ cuộc cách mạng công nghiệp đã kéo theo vô
số các hiện tượng xã hội mới mẽ, đã lôi kéo sự chú ý của các nhà triết học, các nhà nghiên
cứu, đòi hỏi phải có một bộ môn khoa học giúp giải thích, giải quyết những vấn đề xã hội. Tất
cả những điều này đã góp phần hình thành bộ môn Xã hội học và thúc đẩy môn khoa học này
phát triển một cách nhanh chóng.
1.3. Sự phát triển của khoa học tự nhiên
Thế kỷ 19 cũng là thế kỷ phát triển mạnh mẽ của khoa học, đặc biệt là khoa học tự nhiên.
Những biến đổi cơ bản trong các lĩnh vực: vật lý, hóa học, sinh học và những ứng dụng của
các khoa học này, đặc biệt là của hóa học và sinh học đã gây ấn tượng lớn và có ý nghĩa nhiều
nhất vì mô hình của hai khoa học này đã được sử dụng như là những mô hình cho nhiều lý
thuyết xã hội học đầu tiên như: Saint – Simon, August Comte, trường phái E.Durkheim ở Pháp,
trường phái H.Senpcer ở Anh, ...
Cũng trong thời kỳ này thuyết tế bào được hình thành. Tế bào được quan niệm như là
một đơn vị cơ bản của cơ thể với hai cấp độ: mỗi tế bào có cuộc sống riêng và cuộc sống này
gắn liền với cuộc sống của cơ thể. Nhiều nhà xã hội học sau này mượn mô hình này để giải
thích sự vận hành của xã hội. Ngoài ra còn có thuyết Tiến hóa của Darwin là cơ sở cho sự xuất
hiện của lý thuyết tiến hóa xã hội. Theo lý thuyết tiến hóa xã hội, trong xã hội cũng như trong tự
nhiên, sự đấu tranh sinh tồn đã tuyển chọn các cá thể và giải thích sự tiến hóa xã hội.
Nói chung, những biến chuyển của các khoa học tự nhiên là cơ sở cho các khoa học xã
hội mới ra đời, tư tưởng của triết học giảm đi sự chi phối, khoa học lịch sử và kinh tế càng phát
triển. Sự phát triển của các khoa học tự nhiên mang tính thực chứng đã ảnh hưởng đến cách
nhìn nhận và giải thích các sự kiện xã hội. August Comte chính là người đã phát minh ra khái
niệm “Xã hội học” và ông muốn xây dựng nó như là một môn khoa học nghiên cứu các hiện

tượng xã hội trên cơ sở thực nghiệm chặt chẽ như khoa học tự nhiên.
2
Môn học Xã hội học đại cương GV. Nguyễn Nữ Nguyệt Anh
ĐH. Khoa học Xã hội và Nhân văn, TP.HCM
-------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------
1.4. Những biến đổi trên lĩnh vực tư tưởng
Các xã hội Châu Âu đã qua một thời kỳ lịch sử rất dài dưới chế độ quân chủ Ky Tô giáo
trong đó giáo hội La Mã kết hợp với nhà nước quân chủ điều khiển và kiểm soát toàn bộ các
hoạt động trong đời sống xã hội, kiểm soát mọi nguồn lực của cải vật chất, tinh thần, tri thức, tư
tưởng. Các nhà triết học, các nhà tư tưởng trong thời kỳ trung cổ có vai trò chủ yếu là phục vụ
cho việc ổn định trật tự xã hội trên bình diện ý thức hệ, giúp nhà nước và giáo hội kiểm soát về
mặt tư tưởng chính trị. Vào thời đó người ta quan niệm rằng trật tự xã hội đẳng cấp đã được ấn
định tuyệt đối do ý muốn của các thế lực siêu nhiên. Niềm tin vào thượng đế, vào thiên đàng,
vào sự cứu rỗi như là một chất xi măng gắn kết các cá nhân lại với nhau làm cho họ cùng chấp
nhận trật tự xã hội có sẵn, chấp nhận cuộc sống phó thác vào thượng đế. Tuy nhiên trong xã
hội thuần nhất đó vẫn hàm, chứa những mầm sống cách mạng, những tư tưởng mới, những
ánh sáng khoa học và khi sự kiểm soát xã hội trở nên lỏng lẽo, những ngọn lửa âm ỉ đó đã
bùng phát tạo ra các phong trào khai sáng, chống lại quyền bính của chế độ phong kiến, đưa
xã hội Châu Âu bước sang thời kỳ lịch sử mới.
Về mặt tư tưởng, mầm sống của những thay đổi có lẽ bắt nguồn từ cuộc cách mạng tôn
giáo do Luther khởi xướng vào năm 1517 trong bối cảnh đang có phong trào chống đối hàng
giáo sĩ của giáo hội. Khác với truyền thống của giáo hội, chủ thuyết của Luther cho phép các tín
hữu tự cắt nghĩa các văn bản kinh thánh mà không cần phụ thuộc vào hàng giáo sĩ – vốn là
những con người có quyền thay mặt cho giáo hội giảng dạy kinh thánh. Chủ thuyết này cùng
với những tiến bộ của khoa học vũ trụ đương thời như thuyết cvủa Ncolas Copernis cho rằng
trái đất không phải là trung tâm của vũ trụ mà chỉ là một trong nhiều hành tinh khác di chuyển
xung quanh mặt trời, lý hutyết này đã thổi vào xã hội Châu Âu một phong trào tự do tư tưởng,
mở đầu cho thời kỳ triết học khai sáng với những tên tuổi nổi tiếng như: F.Voltaire,
J.J.Rousseau, C.Montesquieu, ...
Châu Âu vào thế kỷ 19 có một sự bùng nổ những suy tư về những phương thức giải

quyết những khủng hoảng kinh tế, xã hội và khoa học. Có những giải pháp hiện thực
(A.De.Tocqueville) nhưng cũng có những giải pháp không tưởng. Người ta thấy cần thiết phải
giải quyết các vấn đề xã hội một cách khoa học. Những cuộc cách mạng chính trị, những thay
đổi trên lĩnh vực kinh tế và lao động đã tạo ra những điều kiện làm hình thành và phát triển một
thế giới quan mới về các hiện tượng xã hội.
Kết luận:
Các cuộc cách mạng chính trị, kinh tế vào thế kỷ 18, 19 cùng với những tiến bộ vượt bậc
của khoa học kỹ thuật đã làm thay đổi tận gộc rễ các mối liên hệ truyền thống. Xã hội học đã
chính thức ra đời trong bối cảnh các nhà nghiên cứu tìm cách trả lời các câu hỏi căn bản: làm
thế nào để xã hội giữ được sự ổn định và có thể tồn tại? Trật tự chính trị được áp đặt như thế
nào? Giải thích thế nào đối với các vấn đề như tội phạm, bạo lực, ...? Từ những giải pháp cho
câu hỏi này, các hệ thống tư tưởng xã hội lớn đã hình thành và ngự trong suốt thế kỷ 19 & 20,
xoay xung quanh những trường phái chính như: lý thuyết xung đột, lý thuyết cơ cấu chức năng,
lý thuyết tương tác biểu tượng cùng rất nhiều trường phái xã hội học hiện đại khác./.
2. ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU CỦA XÃ HỘI HỌC
2.1. Định nghĩa: (sociology)
Xã hội học là một bộ môn khoa học nghiên cứu về xã hội con người, về cách ứng xử và
quan hệ của con người trong các nhóm, trong các tổ chức hình thành nên xã hội.
Định nghĩa ngắn gọn này còn khá mơ hồ, chưa cho phép ta phân biệt Xã hội học với các
môn khoa học khác như tâm lý học, dân tộc học, lịch sự, ..  Các nhà Xã hội học đã khắc phục
những khó khăn này bằng cách nêu lên những lĩnh vực cụ thể của hành vi xã hội, của ứng xử
xã hội mà họ quan tâm tìm hiểu như:
3
Môn học Xã hội học đại cương GV. Nguyễn Nữ Nguyệt Anh
ĐH. Khoa học Xã hội và Nhân văn, TP.HCM
-------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------
• Con người cư xử như thế nào trong gia đình, những vấn đề của gia đình trong quá
khứ, hiện tại và xu hướng thay đổi trong tương lai, …
• Tại sao lại có người giàu – người nghèo, …
• Tại sao lại có những người phạm tội, đặc điểm của những người phạm tội, …

2.2. Đối tượng nghiên cứu của Xã hội học:
Có hai khuynh hướng lớn về đối tượng nghiên cứu của Xã hội học:
2.2.1. Xã hội học nghiên cứu hành động xã hội (action sociale)
Theo Max Weber, XHH phải tập trung nghiên cứu hành động xã hội nhưng không phải
mọi hành động đều là hành động xã hội. Ông định nghĩa hành động xã hội là hành động có
quan tâm đến phản ứng của những người khác (ví dụ: mở cửa để người khác vào)
Mọi hành động xã hội đều gợi ra một đáp ứng (ví dụ: người được mở cửa cho vào có cử
chỉ cảm ơn), do đó nhà XHH phải nghiên cứu những hành động tương hỗ (những tương tác)
giữa người này và người kia. Hay nói cách khác, hành động xã hội là hành động phải có một ý
nghĩa với người khác, phải quan tâm người khác đã giải thích nó như thế nào và phản ứng ra
sao.
Từ quan niệm này, hành động xã hội không thể được phân tích riêng lẽ mà phải được
phân tích trong những mối tương tác xã hội, do đó nhà XHH cũng phải phân tích, nhận thức
được khoảng cách giữa những mục tiêu ban đầu và kết quả có được.
Phương pháp định tính được sử dụng nhiều trong nghiên cứu hành động xã hội. Phương
pháp này chủ yếu tìm hiểu những mối liên hệ logic giữa các hiện tượng xã hội bằng cách so
sánh những điểm giống nhau, khác nhau để tìm ra tính tương đồng về cơ cấu, chức năng của
các hành động.
2.2.2. Xã hội học nghiên cứu sự kiện xã hội: (faits sociaux)
• Khái niệm
Theo E.Durkheim, đối tượng nghiên cứu của xHH là các sự kiện xã hội. Khái niệm sự kiện
xã hội được hiểu với hai nghĩa cơ bản như sau:
Các sự kiện xã hội có tính “vật chất”: ví dụ: nhóm người, dân cư, tổ chức xã hội, thiết chế
xã hội với tất cả các đặc điểm về chất và lượng của nó.
Các sự kiện xã hội có tính “phi vật chất”: ví dụ: hệ thống giá trị, chuẩn mực, phong tục, tập
quán xã hội. Sự kiện phi vật chất bao gồn cả các sự kiện đạo đức, tức là các cách thức hành
động, suy nghĩ và trải nghiệm mà các cá nhân nhập tâm được khi cùng chung sống trong xã
hội.
Các nhà XHH theo khuynh hướng này thường sử dụng phương pháp nghiên cứu định
lượng để tìm hiểu các hiện tượng xã hội, vấn đề nghiên cứu được thao tác hóa thành những

chỉ báo, những biến số cụ thể, có thể đo lường được. Lúc này, nghiên cứu Xã hội học là nhằm
đi tìm những mối quan hệ giữa các biến số, tính quy luật của những biến số đó.
• Các đặc trưng cơ bản của sự kiện xã hội
- Tính khách quan: Sự kiện xã hội phải là những gì bên ngoài cá nhân, độc lập với ý
muốn chủ quan của cá nhân.
4
Môn học Xã hội học đại cương GV. Nguyễn Nữ Nguyệt Anh
ĐH. Khoa học Xã hội và Nhân văn, TP.HCM
-------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------
- Tính phổ biến: Các sự kiện xã hội bao giờ cũng là sự kiện chung, phổ biến đối với nhiều
cá nhân. Nghĩa là sự kiện xã hội là cái được cộng đồng xã hội cùng chia sẻ, chấp nhận,
coi chúng là của mình; sự kiện xã hội là phổ biến đối với mọi thành viên trong xã hội.
- Tính cưỡng chế: Sự kiện xã hội bao giờ cũng có sức mạnh kiểm soát, thậm chí là hạn
chế, gây áp lực đối với hành động và hành vi của cá nhân. Các điều khoản luật là ví dụ
rất rõ về đặc trưng này của sự kiện xã hội. Qua đó thấy rằng E.D coi XH có vai trò nhất
định đối với đời sống con người.
3. MỘT SỐ NHÀ XÃ HỘI HỌC TIÊN PHONG
3.1. Auguste Comte (1798 – 1857)
3.1.1. Vài nét về tiểu sử
August Comte sinh năm 1798 tại Montpellier miền Nam nước Pháp trong một gia đình
công giáo theo xu hướng quân chủ. Ông sớm có tư tưởng tự do và cách mạng.
Năm 16 tuổi ông đậu vào trường đại học Bách khoa nhưng vì là một trong những trung
tâm cách mạng nên trường Bách khoa phải đóng cửa và ông bị trả về nhà như những sinh viên
khác.
Năm 19 tuổi, ông đã gặp gỡ và làm thư ký cho Saint – Simon, trong thời gian này ông
chịu ảnh hưởng trực tiếp của Saint – Simon – khi nhà triết học này đang hình thành một trường
phái triết học – xã hội – công nghiệp mới. Comte đã cộng tác với Saint – Simon trong việc xây
dựng khái niệm cho công trình này, đặc biệt ông đã cùng Saint – Simon viết chung một số tác
phẩm mà Simon là người đứng tên. Điều này đã dẫn đến sự cãi vã tranh giành bản quyền giữa
hai người và kết cục là August Comte đã cắt đứt quan hệ với Saint - Simon vào năm 1824 và

đây cũng là lý do mà Comte phủ nhận hoàn toàn ảnh hưởng của Simon đối với ông.
Năm 1830, ông cho xuất bản cuốn thứ nhất của bộ các bài giảng về triết học duy thực
chứng, sau đó là 2 công trình: Chuyên luận sơ cấp về hình học giải tích và Chuyên luận triết
học về thiên văn học bình dân.
Năm 1847, ông tuyên bố thành lập “tôn giáo nhân loại” , trong giáo hội này khoa học xã
hội được xem là những tín điều, các nhà bác học thay chỗ cho các linh mục, ông cũng đề cao
yếu tố tình yêu, tình liên đới trong giáo hội mới này.
Năm 1857, ông qua đời do căn bệnh ung thư bao tử.
3.1.2. Tư tưởng xã hội học của August Comte
August Comte đã để lại cho đời một gia tài khá đồ sộ và có giá trị trên nhiều lĩnh vực khoa
học như toán học, vật lý học, thiên văn học, ... Ông là người đã khai sinh trực tiếp ra khái niệm
“xã hội học”. (Trong tiếng La tinh, từ societas có nghĩa là xã hội, trong tiếng Hy Lạp, từ logos có
nghĩa là luận lý  sociologic: Xã hội học)
• Xã hội học kế thừa các khoa học tự nhiên
August Comte sắp xếp các khoa học theo thứ tự như sau: toán học, thiên văn học, vật lý
học, hóa học (nghiên cứu về trái đất hoặc vũ trụ), sinh vật học, xã hội học (nghiên cứu về con
người hoặc xã hội)
Theo ông xã hội học kế thừa các môn khoa học tự nhiên có tính thực nghiệm ra đời trước
nên xã hội học đương nhiên phải là môn khoa học có tính thực nghiệm, tính tổng hợp cao. Đối
tượng nghiên cứu của xã hội học là con người bị uốn nắn và chi phối bởi lịch sử, là các hiện
tượng xã hội phức tạp liên quan đến toàn bộ đời sống xã hội.
5
Môn học Xã hội học đại cương GV. Nguyễn Nữ Nguyệt Anh
ĐH. Khoa học Xã hội và Nhân văn, TP.HCM
-------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------
Theo quan điểm của ông thì không thể giải thích các hiện tượng bằng cách đi từ cá nhân
mà phải đi từ cái toàn thể (xã hội) để hiểu những bộ phận. Do đó nhiệm vụ của nhà xã hội học
là phải nêu ra các quy luật xã hội.
• Cơ cấu của Xã hội học: August Comte chia xã hội học ra thành hai mảng là tĩnh học
xã hội và động học xã hội

- Tĩnh học xã hội: Theo ông tĩnh học xã hội là một bộ phận của xã hội học, nó nghiên cứu
những hệ thống, những thiết chế xã hội đã tồn tại sẵn, thường trực và ổn định. Ngoài ra
nó còn nghiên cứu các hình thức tổ chức, các liên kết xã hội, các thỏa thuận đã tồn tại ở
trạng thái “tĩnh” trong các hình thái xã hội, những gì làm cho xã hội luôn nằm trong một
trạng thái cân bằng ổn định. Nguyên tắc căn bản trong tĩnh học xã hội là nguyên tắc
đồng nhất xã hội, tức là các hiện tượng xã hội đều gắn bó hữu cơ mật thiết với nhau,
tác động lẫn nhau. Một cấu trúc xã hội bất kỳ nào đó sẽ nằm trong tổng thể hệ thống
cấu trúc khác. Do đó khi nghiên cứu một hiện tượng xã hội không thể tách rời riêng biệt
mà phải tìm hiểu nó trong sự liên hệ với các hiện tượng xã hội khác.
- Động học xã hội: Động học xã hội nghiên cứu những biến chuyển, những động thái của
xã hội, của nhân loại trong quá trình lịch sử. Hay nói cách khác, động học xã hội là lĩnh
vực nghiên cứu các quy luật biến đổi xã hội trong quá trình lịch sử của nó.
- Quan hệ giữa tĩnh học xã hội và động học xã hội là quan hệ giữa mặt động và mặt tĩnh,
giữa cái trật tự và cái tiến bộ. Hai mặt này luôn luôn tồn tại trong một xã hội và trở thành
đề tài tranh luận từ thời của August Comte cho đến nay.
• Quy luật 3 giai đoạn
August Comte đưa ra quy luật 3 giai đoạn để giải thích sự phát triển của lịch sử xã hội.
Theo quy luật này, lịch sử xã hội và lịch sử trí tuệ của loài người phát triển qua ba giai đoạn:
- Giai đoạn thần học: Đây là giai đoạn con người giải thích các hiện tượng tự nhiên hay
xã hội bằng những lối giải thích mang tính siêu nhiên. Đây được xem là giai đoạn “trẻ
con” trong quá trình tiến hóa tư tưởng của loài người tương ứng với xã hội đẳng cấp và
quân sự thời trung cổ.
- Giai đoạn siêu hình: Giai đọan siêu hình là giai đoạn của các tư tưởng triết học Ánh
sáng. Đây là giai đoạn mà A.Comte cho rằng các tác nhân siêu tự nhiên đã được thay
thế bởi các lực lượng trừu tượng. Giai đoạn này tiến bộ hơn so với giai đoạn trước
nhưng tư tưởng vẫn còn lệ thuộc vào các khái niệm triết học trừu tượng và phổ quát.
Đây được coi là gạch nối giữa giai đoạn thần học và thực nghiệm. A.Comte gọi giai
đoạn này là “vị thành niên” trong lộ trình phát triển tư tưởng của con người.
- Giai đoạn thực chứng: Đây là giai đoạn con người từ bỏ việc đi tìm những nguyên nhân
của sự vật để quan sát những sự kiện với sự hỗ trợ của toán học, đã đưa ra các quy

luật giữa các hiện tượng. Đây là giai đoạn mà nhà nghiên cứu trở về với các sự kiện.
Với thí nghiệm, với thực tiễn. Tinh thần thực nghiệm đòi hỏi phải cọ sát các giả thuyết
với thê giới thực. A.Comte gọi giai đoạn này là giai đoạn “trưởng thành” trong lịch sử
phát triển tư tưởng. Tư duy thực nghiệm ứng với thời hiện đại, thời của tổ chức xã hội
dựa trên công nghiệp, dựa trên sản xuất.
• Các phương pháp nghiên cứu
- Phương pháp thực chứng: Theo A.Comte, xã hội học ra đời từ các khoa học tự nhiên đi
trước nên nó sở đắc toàn bộ phương pháp nghiên cứu của các khoa học đó như quan
sát, thí nghiệm, vận dụng phép logic, phân loại, so sánh. Phương pháp này đã được
A.Comte sử dụng để tìm ra quy luật 3 giai đoạn trong sự phát triển của các hệ thống xã
hội cũng như sự tiến hóa của tư tưởng con người.
6
Môn học Xã hội học đại cương GV. Nguyễn Nữ Nguyệt Anh
ĐH. Khoa học Xã hội và Nhân văn, TP.HCM
-------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------
- Phương pháp quan sát: Là quá trình và cách thức mà nhà nghiên cứu thâu thập thông
tin, chứng cứ nhằm chứng minh cho lập luận khoa học của mình chứ không triết lý
suông.
- Phương pháp thí nghiệm: A.Comte chủ trương sử dụng thí nghiệm để nghiên cứu xã
hội. Tuy nhiên hiện tượng xã hội khó có thể thí nghiệm trong phòng thí nghiệm như các
khoa học tự nhiên nhưng vẫn có thể thí nghiệm trong bối cảnh tự nhiên. Thí nghiệm ở
đây được hiểu là tìm ra các điều kiện tác động vào hiện tượng nghiên cứu để xem xét
chúng.
- Phương pháp so sánh: Với phương pháp này có thể so sánh xã hội quá khứ với xã hội
hiện tại. So sánh các hình thức xã hội khác nhau để tìm ra những điểm giống và lhác
nhau, từ đó có thể hiểu được tổ chức và quá trình phát triển của các xã hội.
- Phương pháp lịch sử: Đây là phương pháp quan trọng nhất, mới mẻ nhất mà các nhà
khoa học khác không có. Phương pháp này giúp tìm hiểu các xã hội bằng cách tìm hiểu
các yếu tố cấu thành, sự hình thành, vận động và biến chuyển của xã hội từ đó có thể
hiểu được những gì đã xảy ra trong quá khứ nhằm tìm ra các quy luật vận động của xã

hội. Với phương pháp này ông đã tìm ra quy luật 3 giai đoạn như chúng ta đã thấy ở
trên.
Kết luận:
August Comte là người có rất nhiều đóng góp to lớn cho sự khởi đầu của ngành xã hội
học. Ông là người đầu tiên vạch ra nhu cầu nảy sinh một khoa học mới và là người đầu tiên
đưa ra thuật ngữ xã hội học, ông cũng chỉ ra bản chất của khoa học xã hội nói chung và bản
chất của xã hội học nói riêng. Theo ông xã hội học có nhiệm vụ nghiên cứu sự vận động phát
triển của xã hội loài người, đưa ra lời giải thích đối với những diễn biến của xã hội để góp phần
vào việc xác lập trật tự, ổn định xã hội.
Ông có công đầu trong việc tách xã hội học ra khỏi triết học tư biện, giáo điều. Các
phương pháp nghiên cứu xã hội học mà August Comte đưa ra là một bước nhảy lớn, cho đến
nay những phương pháp này vẫn còn nguyên giá trị của nó, nó là nền móng vững chắc cho sự
phát triển của bộ môn khoa học này.
Từ quan niệm cơ cấu của xã hội học gồm tĩnh học xã hội và động học xã hội, ông đã
vạch ra hai lĩnh vực nội dung nghiên cứu cơ bản là nghiên cứu cấu trúc xã hội và nghiên cứu
quá trình xã hội. Các nội dung này luôn là mối quan tâm nghiên cứu hàng đầu của các lý thuyết
xã hội học trước đây và hiện nay.
Tuy nhiên A.Comte cũng có một số khuyết điểm như là: Ông rơi vào chủ nghĩa giáo điều
khi xếp loại thức bậc của các khoa học tự nhiên. Tính giáo điều thể hiện rõ hơn nữa khi ông
khẳng định rằng con người vốn có bản chất giống nhau và tất cả các xã hội đều có quy luật
phát triển giống nhau trong khi cáa đề tài nghiên cứu của ông chỉ giới hạn trong phạm vi các xã
hội Tây Âu.
3.2. Karl Marx (1818 – 1883):
3.2.1. Vài nét về tiểu sử
Karl Marx sinh năm 1818 tại Treves, Đức, trong một gia đình trường giả gốc Do Thái theo
đạo Tin lành nhưng không mấy sùng đạo. Marx học phổ thông tại Treves sau đó theo học đại
học tại Bonn và Berlia. Ông là tiến sĩ của cả hai ngành Luật và Triết học.
Năm 1841, ông bắt đầu làm nghề báo và làm chủ bút tờ RheinesheZeitung nhưng vì
những tư tưởng cách mạng của ông mà tờ báo này phải đóng cửa vào năm 1843, sau đó ông tị
nạn sang Pháp.

7
Môn học Xã hội học đại cương GV. Nguyễn Nữ Nguyệt Anh
ĐH. Khoa học Xã hội và Nhân văn, TP.HCM
-------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------
Năm 1843, ông lấy Jenny Von Wesphler – một phụ nữ đẹp, có học thức. Bà đã ủng hộ,
nâng đỡ và theo Marx trong suốt cuộc đời hoạt động và nghiên cứu đầy chông gai của chồng.
Ở Pháp ông gặp một người đồng hương là Friedrich Engels, con trai của một ông chủ nhà
máy dệt giàu có người Đức, hai người đã trở thành bạn tâm giao, đã sát cánh bên nhau trong
mặt trận tư tưởng cũng như trên mặt trận đấu tranh cách mạng.
Năm 1848, Marx và Engels viết “Tuyên ngôn Đảng Cộng Sản”. Ông đã tham gia tổ chức và
lãnh đạo các hoạt động nhằm đấu tranh xóa bỏ chế độ người bóc lột người, hướng tới xây
dựng xã hội cộng sản chủ nghĩa.
Năm 1849, sau một thời gian chạy trốn từ nước này sang nước khác vì bị trục xuất khỏi Pháp,
Marx và gia đình đã định cư tại LonDon. Nhờ có sự giúp đỡ của Engels và hai bên nội ngoại thì
gia đình Marx mới từ từ ổn định và ông lại tiếp tục nghiên cứu, viết lách.
Năm 1881, vợ Marx qua đời, hai năm sau vì đau yếu Marx cũng từ trần ngày 14/03/1883 tại
London.
Những tác phẩm chính:
 Vấn đề người Do thái (1843) và phê bình triết học hữu khuynh của Heghen (1843)
 Thánh gia (1845): viết chung với Engels
 Hệ tư tưởng Đức (1847)
 Lao động hưởng lương và tư bản (1847) : viết chung với Engels
 Sự khốn cùng của Triết học (1847)
 Tuyên ngôn về Đảng cộng sản (1848) : viết chung với Engels
 Góp phần phê phán kinh tế học chính trị (1859)
 Bộ tư bản luận (gồm nhiều tập)
Tư tưởng xã hội của Karl Marx:
1. Chủ nghĩa duy vật lịch sử và phương pháp luận xã hội học:
CNDV lịch sử là một phạm trù chứa đựng những lý luận và phương pháp luận về Xã hội học
của Marx mà các nhà XHH marxit gọi là XHH đại cương. Vì vậy mặc dù Marx không tự xem

mình là một nhà XHH nhưng các nhà nghiên cứu trên khắp thế giới đều coi Marx là một nhà
XHH vĩ đại của mọi thời đại, là người đặt nền móng vững chắc cho sự phát triển XHH hiện đại.
Luận điểm gốc của CNDVLS cho rằng: “sản xuất và trao đổi sản phẩm của sản xuất là cở sở
của mọi chế độ xã hội, trong mỗi xã hội có sự phân phối sản phẩm và cùng với sự phân phối đó
là sự phân chhia xã hội thành giai cấp dựa trên tình hình: sản xuất ra cái gì, sả xuất bằng cách
nào, sản phẩm của sản xuất đó được trao đổi như thế nào? Do đó cần tìm ra những nguyên
nhân cuối cùng (chứ không phải những nguyên nhân trung gian) của tất cả những biến đổi xã
hội và nhữung đảo lộn chính trị không phải trong đầu óc com người mà là trong kinh tế của thời
đại tương ứng.
Tóm lại, xuất phát điểm của CNDVLS là việc phân tích các quá trình lịch sử xã hội từ góc độ
hoạt động vật chất của con người, từ góc độ cơ sở kinh tế của xã hội.
CNDVLS xem xét xã hội với tư cách là cấu trúc xã hội, hệ thống xã hội. Xã hội được hiểu là một
chình thể gồm các bộ phận tác động qua lại với nhau như: các giai cấp, các thiết chế, các
chuẩn mực giá trị, ... Khi nghiên cứu cơ cấu xã hội của xã hội TBCN, ông đặc biệt chú trọng tới
cơ cấu giai cấp và chỉ ra rằng xã hội TBCN gồm hai giai cấp đối kháng nhau: giai cấp tư sản và
giai cấp vô sản
8
Môn học Xã hội học đại cương GV. Nguyễn Nữ Nguyệt Anh
ĐH. Khoa học Xã hội và Nhân văn, TP.HCM
-------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------
Việc vận dụng CNDVLS với tư cách là cơ sở lý luận và phương pháp luận trong XHH đòi hỏi
XHH phải tập trung vào phân tích mối quan hệ giữa con người với xã hội. Đồng thời phải chỉ ra
được nguồn gốc biến đổi xã hội diễn ra trong lòng xã hội chứ không phải tìm kiếm các yếu tố
bên ngoài xã hội.
Khi phân tích, nghiên cứu các hiện tượng xã hội ta không thể dùng các công cụ của khoa học
tự nhiên mà phải phát huy sức mạnh của trí tuệ, của tư duy trừu tượng, phải sử dụng thuật
ngữ, khái niệm, phạm trù khoa học.
2. Quan niệm về bản chất con người:
Lý luận của Marx chỉ ra rằng bản chất của xã hội và con người bắt nguồn từ quá trình hoạt
động sản xuất, từ trong hoạt động làm ra của cải vật chất, tức là từ trong lao động. Bản chất đó

thể hiện qua một số điểm cơ bản sau:
Một là, bản chất con người được quy định bởi hoạt động sản xuất ra của cải vật chất. Lao động
không chỉ là nguồn gốc của mọi của cải trong xã hội mà hơn thế nữa lao động tạo ra con người,
tạo ra nhân cách. Luận điểm này có ý nghĩa rất quan trọng, đó là cần phân tích sự nảy sinh và
diễn biến mối quan hệ giữa con người với con người, giữa con người với xã hội trong việc sản
xuất ra các phương tiện để sinh tồn và phát triển.
Hai là, trình độ phát triển của xã hội phụ thuộc vào trình độ tổ chức lao động sản xuất của con
người để đáp ứng nhu cầu tồn tại và phát triển của con người. Marx nhấn mạnh rằng sản xuất
và tiêu dùng là hai mặt của một quá trình sống. Ông chỉ ra rằng sự phân công lao động trong
các xã hội có giai cấp không cho phép con người tự do biểu hiện và phát triển các năng lực của
mình. Ông chỉ rõ: trong nền sản xuất công nghiệp, người công nhân trở thành một vật phụ
thuộc đơn giản của máy móc. Cách phân tích này của ông có ý nghĩa rất lớn đối với xã hội học
hiện đại, nhất là đối với xã hội học lao động, xã hội học công nghiệp và xã hội học kinh tế.
Ba là, nhân tố quyết định lịch sử xã hội loài người là sản xuất và tái sản xuất ra đời sống trực
tiếp. Do đó trình độ phát triển của xã hội do trình độ phát triển của lao động và do trình độ phát
triển của gia đình quyết định.
3. Phân tầng xã hội:
Lý luận của Marx vạch rõ tính giai cấp của xã hội và tính bất bình đẳng trong quan hệ xã hội.
Chính chế độ sở hữu tư nhân về tư liệu sản xuất đã sinh ra cấu trúc phân tầng xã hội, có hai
tầng bậc chủ yếu là: giai cấp sở hữu tư liệu sản xuất chiếm vị trí thống trị, bóc lột người khác và
giai cấp không nắm trong tay tư liệu sản xuất.
Trong cấu trúc xã hội, quan hệ giữa hai giai cấp này mang tính chất bất bình đẳng sâu sắc về
kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội. Nói ngắn gọn đó là mối quan hệ giữa kẻ áp bức và những
người bị áp bức. Trong xã hội TBCN, giai cấp tư sản là những ông chủ nắm trong tay tư liệu
sản xuất và sử dụng lao động làm thuê, giai cấp vô sản là những người công nhân làm thuê, vì
không có tư liệu sản xuất nên phải bán sừc lao động để kiếm sống.
Qua cách phân tích này của Marx có thể rút ra hai ý tưởng vô cùng quan trọng. Một là, về mặt
lý luận và thực tiễn của CNCs cần phải xóa bỏ và thay thế chế độ sở hữu tư nhân bằng chế độ
sở hữu xã hội (toàn dân và tập thể). Hai là, khi nghiên cứu lý luận và thực nghiệm XHH cần
phải tập trung phân tích cấu trúc xã hội để chỉ ra ai là người có lợi, ai là người bị thiệt từ cách tổ

chức xã hội và cơ cấu xã hội hiện có. Hay nói một cách khác, những chủ đề nghiên cứu cơ bản
của xã hội học hiện đại là cấu trúc xã hội, phân tầng xã hội, bất bình đẳng xã hội.
4. Lý thuyết hình thái kinh tế – xã hội:
CNDVLS cho rằng sự phát triển trên toàn thế giới là sự tha thế kế tiếp các hình thái kinh tế – xã
hội mà thực chất là các phương pháp sản xuất.
Hình thái KT – XH là một phạm trù của CNDVLS được sử dụng để chỉ XH ở từng giai đoạn
nhất định với quan hệ sản xuất phù hợp với lực lượng sản xuất, với kiến trúc thượng tầng gồn
9
Môn học Xã hội học đại cương GV. Nguyễn Nữ Nguyệt Anh
ĐH. Khoa học Xã hội và Nhân văn, TP.HCM
-------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------
tư tưởng, chính trị, pháp quyền, tôn giáo, và các yếu tố khác dựng trên cơ sở hạ tầng giồm các
quan hệ sản xuất tạo thành cơ cấu kinh tế xã hội.
Tư liệu sản xuất bao gồm tất cả những gì của thế giới bên ngoài được đưa vào sử dụng để sản
xuất ra của cải vật chất nhằm duy trì cuộc sống của con người. Tuy nhiên trong lịch sử xã hội
chỉ có một nhóm người hay một giai cấp nắm giữ trong tay TLSX. Chính chế độ sở hữu tư nhân
về tư liệu sản xuất là cơ sở phân chia giai cấp, điều này quy định tính chất của quan hệ sản
xuất (quan hệ giữa con người với con người trong quá trình sản xuất). Quan hệ sản xuất có thể
trở thành mối quan hệ cơ bản trong xã hội được hợp pháp hóa và thiết chế hóa thông qua hệ
thống chính trị, luật pháp, tư tưởng, văn hóa.
Phương thức sản xuất là sự thống nhất giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất, nó quy
định và chi phối hệ thống các quan hệ xã hội. Trong xã hội có giai cấp, quan hệ sản xuất luôn
luôn là quan hệ bất bình đẳng, luôn có mâu thuẫn, đối kháng. Các quan hệ đó là nguồn nguồn
gốc và là động lực thúc đẩy sự biến đổi xã hội.
Kết luận:
Khác với August Comte và Herbert Spencer, Karl Marx tập trung nghiên cứu vai trò của mâu
thuẫn trong biến chuyển xã hội. Ông cho rằng các hình thái kinh tế – xã hội mới được hình
thành từ mâu thuẫn và xung đột trong các hình thái kinh tế – xã hội cũ. Marx đã phê bình gắt
gao chủ nghĩa tư bản và tiên đoán nó sẽ bị thay thế bởi CNXH. Không có một nhà XHH tiền
phong nào có ảnh hưởng sâu rộng đối với bộ môn khoa học mới này như là Marx. Ông chưa

bao giờ tự nhận mình là một nhà XHH , ông tự nhận là đã có bàn đến những vấn đề XHH
nhưng những công trình của ông còn bao trùm lên những lĩnh vực khác như triết học, kinh tế
học, lý thuyết chính trị, ... Lý thuyết của ông về biến chuyển xã hội có tính chất khoa học vì nó
dựa trên những xung đột giữa những giai cấp lớn trong xã hội. Ông cho rằng chính quyền sở
hữu tư nhân về tư liệu sản xuất đã đem lại bất bình đẳng về kinh tế và chính trị./.
3. Herbert Spencer (1820 – 1903):
Vài nét về tiểu sử:
Herbert Spencer là 1 nhà triết học, nhà Xã hội học người Anh. Ông là người theo chủ nghĩa tiến
hóa, là người tìm cách vận dụng những quy luật tiến hóa sinh học vào lĩnh vực lịch sử và xã
hội. Với ông, xã hội xuất hiện như một cơ thể sinh học, tiến hóa từ hình thức đơn giản sang
hình thức phức tạp thông qua sự khác biệt hóa và chuyên môn hóa các chức năng, các bộ
phận khác trong xã hội. Lý thuyết của Spencer có ảnh hưởng rất lớn đối với lịch sử XHH Anh
và trường phái XHH cơ cấu chức năng.
Ông sinh năm 1820 tại Derby, Anh. Cha là giáo viên và gia đình ông theo đạo Tin Lành. Từ nhỏ
đến năm 13 tuổi ông tự học ở nhà với cha và người cậu ruột làm mục sư đạo Tin Lành. Ông có
những kiến thức về toán học, khoa học tự nhiên và rất quan tâm nghiên cứu khoa học xã hội.
Từ năm 17 tuổi ông đã làm việc như một kỹ sư cho ngành đường sắt nhưng từ năm 20 tuổi ông
quay qua làm báo và viết về chính trị. Thời gian đầu ông ủng hộ những quan điểm tiến bộ như
quốc hữu hóa đất đai, chủ nghĩa tự do trong nền kinh tế, vị trí và vai trò của phụ nữ trong xã
hội, ... nhưng sau này ông đã từ bỏ những quan điểm trên.
Năm 1851, ông viết cuốn “Tĩnh học xã hội”, thuật ngữ này ông chịu ảnh hưởng của August
Comte. Trong cuốn sách này ông nghiên cứu trật tự xã hội.
Năm 1853, người cậu làm mục sư của ông qua đời để lại cho ông một gia tài đủ để ông viết
lách mà không phải tìm một công việc kiếm tiền.
Tình hình chính trị xã hội ở Anh thế kỷ 19 có nhiều biến động gay gắt. Anh là nước đầu tiên
công nghiệp hóa, xã hội nước Anh đã kế thừa tất cả những yếu tố tích cực của thời kỳ đầu phát
triển công nghiệp và CNTB. Bối cảnh kinh tế, chính trị, xã hội cùng với môi trường khoa học
10

×