TRƢỜNG ĐẠI HỌC NGOẠI THƢƠNG
KHOA KINH TẾ VÀ KINH DOANH QUỐC TẾ
CHUYÊN NGÀNH KINH TẾ ĐỐI NGOẠI
o0o
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP
Đề tài:
NHỮNG BIẾN ĐỘNG KINH TẾ THẾ GIỚI
GIAI ĐOẠN 2007 – 2008 VÀ ẢNH HƢỞNG ĐẾN HOẠT ĐỘNG
KINH DOANH XUẤT NHẬP KHẨU CỦA VIỆT NAM
Sinh viên thực hiện : Nguyễn Thị Huyền Thƣơng
Lớp : Anh 10
Khóa : 44C
Giáo viên hƣớng dẫn : TS. Trịnh Thị Thu Hƣơng
Hà Nội, 05/ 2009
2
DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
ADB
Asian Development Bank - Ngân hàng Phát triển Châu Á
ASEAN
Association of South Eest Asia Nations - Hiệp hội các quốc
gia Đông Nam Á
BOJ
Bank of Japan - Ngân hàng Trung ương Nhật Bản
ECB
European Central Bank - Ngân hàng Trung ương Châu Âu
EU
European Uninon - Liên minh Châu Âu
EUR
Euro - đồng Euro
FAO
Food and Agriculture Organization - Tổ chức nông lương
liên hợp quốc
FDI
Foreign Direct Invesment - Đầu tư trực tiếp nước ngoài
FED
Federal Reserve System - Cục dự trữ liên bang Hoa Kỳ
GDP
Gross Domestic Product - Tổng sản phẩm quốc nội
IEA
International Energy Agency - Cơ quan năng lượng quốc tế
IMF
International Monetary Fund - Quỹ tiền tệ quốc tế
JPY
Japanese Yen - Yên Nhật
M&A
Mergers and Acquitions - Mua lại và sáp nhập
NDT
Nhân dân tệ
NHNN
Ngân hàng Nhà nước
NHTƯ
Ngân hàng Trung ương
OECD
Organisation for Economic Co-operation and Development
- Tổ chức Hợp tác và Phát triển Kinh tế
OPEC
Organization of Petroleum Exporting Countries - Tổ chức
các nước xuất khẩu dầu mỏ
UNCTAD
United Nations conference on Trade and Develọpment - Hội
nghị Liên hợp quốc về Thương mại và Phát triển
USD
United States Dollar - đô la Mỹ
VNĐ
Việt Nam Đồng
WTO
World Trade Organisation - Tổ chức thương mại thế giới
XNK
Xuất Nhập Khẩu
MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU 1
CHƢƠNG 1: NHỮNG BIẾN ĐỘNG KINH TẾ THẾ GIỚI GIAI ĐOẠN
2007 - 2008 4
I.TỔNG QUAN TÌNH HÌNH KINH TẾ THẾ GIỚI GIAI ĐOẠN 2007
- 2008 4
1.1Tình hình kinh tế thế giới giai đoạn 2007 - 2008 4
1.1.1. Tình hình chung 4
1.1.2. Những khó khăn, thách thức 10
1.2.Tình hình kinh tế ở một số quốc gia và khu vực 11
1.2.1. Kinh tế Mỹ 11
1.2.2. Kinh tế Nhật Bản 12
1.2.3. Khu vực EU 13
1.2.4. Các nền kinh tế đang nổi ở Châu Á 14
II.Những biến động kinh tế thế giới nổi bật giai đoạn 2007 - 2008 15
2.1.Biến động giá cả hàng hóa quốc tế 15
2.1.1. Giá thép 15
2.1.2. Giá gạo 17
2.1.3. Giá dầu 20
2.1.4. Giá vàng Error! Bookmark not defined.
2.2. Biến động thị trƣờng tài chính tiền tệ năm 2007 26
2.2.1. Cuộc khủng hoảng tài chính tín dụng ở Mỹ và Châu Âu 26
2.2.2. Diễn biến của một số đồng tiền 28
CHƢƠNG 2: ẢNH HƢỞNG CỦA NHỮNG BIẾN ĐỘNG KINH TẾ
THẾ GIỚI GIAI ĐOẠN 2007 – 2008 ĐẾN HOẠT ĐỘNG KINH DOANH
XUẤT NHẬP KHẨU CỦA VIỆT NAM 34
III.TỔNG QUAN HOẠT ĐỘNG VÀ CÁC NHÂN TỐ ẢNH HƢỞNG
ĐẾN HOẠT ĐỘNG KINH DOANH XUẤT NHẬP KHẨU CỦA VIỆT
NAM GIAI ĐOẠN 2007 – 2008 34
1.1. Tổng quan về hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu của Việt Nam
giai đoạn 2007 - 2008 34
1.2. Các nhân tố ảnh hƣởng đến hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu 37
II. ẢNH HƢỞNG CỦA NHỮNG BIẾN ĐỘNG KINH TẾ THẾ GIỚI
ĐẾN HOẠT ĐỘNG KINH DOANH XUẤT NHẬP KHẨU CỦA VIỆT
NAM GIAI ĐOẠN 2007 - 2008. 39
2.1. Ảnh hƣởng của biến động giá cả hàng hóa quốc tế đến hoạt động
kinh doanh xuất nhập khẩu tại Việt Nam 39
2.1.1 Ảnh hưởng của giá thép 39
2.1.2. Ảnh hưởng của giá gạo 44
2.1.3. Ảnh hưởng của giá dầu 52
2.2. Ảnh hƣởng của biến động thị trƣờng tài chính tiền tệ đến hoạt
động kinh doanh xuất nhập khẩu của Việt Nam 57
2.2.1. Ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng tài chính tín dụng ở Mỹ và
Châu Âu 61
CHƢƠNG 3: CÁC GIẢI PHÁP NHẰM ĐỐI PHÓ VỚI NHỮNG BIẾN
ĐỘNG KINH TẾ THẾ GIỚI GIAI ĐOẠN 2007 – 2008 ĐẾN HOẠT
ĐỘNG KINH DOANH XUẤT NHẬP KHẨU CỦA VIỆT NAM 64
I.DỰ BÁO BIẾN ĐỘNG KINH TẾ THẾ GIỚI NĂM 2009 64
1.1.Tình hình giá cả thế giới 64
1.1.1.Giá thép 64
1.1.2.Giá gạo 64
1.1.2.Giá dầu 65
1.1.2.Giá vàng Error! Bookmark not defined.
1.2.Thị trƣờng tài chính tiền tệ 66
1.2.1. Cuộc khủng hoảng tài chính – tín dụng ở Mỹ và Châu Âu 66
1.2.2. Diễn biến một số đồng tiền 66
2. CÁC GIẢI PHÁP NHẰM ĐỐI PHÓ VỚI NHỮNG BIẾN ĐỘNG
KINH TẾ THẾ GIỚI GIAI ĐOẠN 2007 – 2008 ĐẾN HOẠT ĐỘNG
KINH DOANH XUẤT NHẬP KHẨU CỦA VIỆT NAM 67
2.1. Giải pháp vĩ mô 67
2.1.1. Giải pháp đối phó với biến động giá cả hàng hóa quốc tế 67
2.1.2. Giải pháp đối phó với biến động trên thị trường tài chính tiền tệ . 70
2.2.Giải pháp từ phía doanh nghiệp xuất nhập khẩu 75
2.2.1. Giải pháp đối phó với biến động giá cả hàng hóa quốc tế 75
2.2.2. Giải pháp đối phó với biến động trên thị trường tiền tệ 77
KẾT LUẬN 82
TÀI LIỆU THAM KHẢO 84
DANH MỤC BẢNG VÀ BIỂU ĐỒ
STT
Tên bảng, biểu
Trang
Bảng 1
Tốc độ tăng trưởng kinh tế
4
Bảng 2
Tốc độ tăng trưởng trong lĩnh vực thương mại
6
Bảng 3
Tỷ lệ lạm phỏt năm ở Mỹ năm 2007 và 2008
12
Bảng 4
Tỷ giá USD/EUR năm 2007 và 2008
28
Biểu đồ 1
Giá gạo thô kỳ hạn tại Chicago, Mỹ năm 2008
18
Biểu đồ 2
Giá dầu thế giới tháng 1/2007 – 4/2008
21
Biểu đồ 3
Giá dầu thế giới tính từ ngày 3/12/2007 đến ngày
15/12/2008 dựa trên giá dầu kỳ hạn đóng cửa tại thị
trường New York
22
Biểu đồ 4
Diễn biến của EUR so USD
29
Biểu đồ 5
Diễn biến tỷ giá USD/EUR năm 2008
30
Biểu đồ 6
Đồ thị diễn biến đồng EUR so với 1 JPY năm 2008
31
Biểu đồ 7
Tỷ giá đồng JPY so với 1 USD năm 2007
32
Biểu đồ 8
Diễn biến đồng JPY so với 1USD năm 2008
33
Biểu đồ 9
Diễn biến lượng nhập khẩu thép năm 2007 và 10
tháng đầu năm 2008
43
Biểu đồ 10
Kim ngạch xuất khẩu gạo của Việt Nam đi các thị
trường giai đoạn 2007-2008 (%)
48
Biểu đồ 11
Top 10 thị trường nhập khẩu gạo lớn nhất của Việt
Nam năm 2008
50
Biểu đồ 12
Sản lượng xuất khẩu dầu thô của Việt Nam năm
2008
55
Biểu đồ 13
Giá trị xuất khẩu dầu thô của Việt Nam năm 2008
56
1
LỜI MỞ ĐẦU
Giai đoạn 2007 - 2008 đã khép lại với những thăng trầm trong bức
tranh kinh tế toàn cầu, các nền kinh tế trên thế giới đã phải đối mặt với hàng
loạt khó khăn và thách thức. Thế giới đã được chứng kiến diễn biến giá cả
hàng hóa leo thang và sụt giảm vượt xa mọi dự đoán. Cuộc khủng hoảng
lương thực, cuộc khủng hoảng tài chính tín dụng, sự xuống dốc của thị trường
chứng khoán và biến động trong hoạt động đầu tư quốc tế càng tô đậm thêm
nét “bi tráng” của nền kinh tế toàn cầu giai đoạn này. Suy thoái kinh tế, tình
trạng thất nghiệp, lạm phát gia tăng, tình trạng thiếu thanh khoản, cũng như sự
sụp đổ của hệ thống ngân hàng quốc tế đã buộc nhiều nước phải thực hiện
những hành động cứu vãn nền kinh tế quyết liệt chưa từng có. Tất cả những
điều đó đã làm nên một giai đoạn 2007 - 2008 đầy biến động và căng thẳng
đối với nền kinh tế thế giới nói chung và kinh tế các quốc gia nói riêng.
Trong tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế, đặc biệt, khi nước ta đã trở
thành thành viên chính thức của Tổ chức Thương mại quốc tế WTO, nền
kinh tế Việt Nam cũng trở thành một “mắt xích” trong nền kinh tế toàn cầu.
Chính vì vậy, một sự chuyển mình của nền kinh tế thế giới cũng có thể có
những ảnh hưởng to lớn đến nền kinh tế nước ta. Để phản ứng tốt với các biến
động kinh tế, cần nghiên cứu các sự kiện đó, phân tích, đánh giá các ảnh
hưởng một cách cụ thể, chi tiết, dự báo được các sự kiện tương lai để đưa ra
các giải pháp hữu ích. Xuất phát từ cách tiếp cận đó, người viết đã chọn đề tài
“Những biến động kinh tế thế giới giai đoạn 2007- 2008 và ảnh hưởng đến
hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu của Việt Nam” làm đề tài khóa luận
tốt nghiệp vì nhận thức được việc nghiên cứu đề tài này là cần thiết và có tính
thực tiễn cao.
2
Khóa luận “Những biến động kinh tế thế giới giai đoạn 2007 – 2008
và ảnh hưởng đến hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu của Việt Nam”
tập trung nghiên cứu các vấn đề sau:
- Tổng quan kinh tế thế giới năm giai đoạn 2007 - 2008 và các biến động
kinh tế thế giới nổi bật trong giai đoạn này.
- Phân tích, đánh giá ảnh hưởng của từng biến động kinh tế thế giới đến
hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu của nước ta giai đoạn 2007 –
2008.
Trên cơ sở những nghiên cứu, phân tích đó, người viết đưa ra các gợi ý
giải pháp của Nhà nước cũng như của các doanh nghiệp xuất nhập khẩu nhằm
tận dụng những tác động tích cực và hạn chế các tác động tiêu cực của các
biến động kinh tế trong thời gian tới.
Khóa luận chọn các biến động kinh tế thế giới giai đoạn 2007 - 2008
làm đối tượng nghiên cứu.
Phạm vi nghiên cứu:
+ Về mặt nội dung: Nghiên cứu diễn biến các sự kiện kinh tế thế giới
nổi bật giai đoạn 2007 - 2008 và phân tích các ảnh hưởng của nó tới hoạt
động kinh doanh xuất nhập khẩu của Việt Nam.
+ Về mặt không gian: Nghiên cứu tổng quan kinh tế thế giới trên nhiều
lĩnh vực chính như thương mại, thị trường tài chính tiền tệ, rồi đi sâu vào các
sự kiện nổi bật. Đánh giá tác động của các sự kiện này đến hoạt động kinh
doanh xuất khẩu của Việt Nam giai đoạn 2007 - 2008.
+ Về mặt thời gian: Nghiên cứu những biến động kinh tế thế giới nổi
bật và ảnh hưởng của nó tới hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu của Việt
Nam trong giai đoạn 2007 - 2008.
3
Khóa luận sử dụng phương pháp duy vật biện chứng và duy vật lịch sử
của chủ nghĩa Mác - Lênin làm phương pháp nghiên cứu chủ đạo, bên cạnh
việc sử dụng các phương pháp hệ thống, thống kê, so sánh, phân tích và tổng
hợp để nghiên cứu các nội dung cụ thể.
Kết cấu của đề tài:
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung
của khóa luận gồm 3 chương:
Chương 1: Những biến động kinh tế thế giới giai đoạn 2007 - 2008.
Chương 2: Ảnh hưởng của những biến động kinh tế thế giới giai đoạn
2007 - 2008 đến hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu của Việt Nam.
Chương 3: Các giải pháp nhằm đối phó với những biến động kinh tế
thế giới giai đoạn 2007 - 2008 đến hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu của
Việt Nam.
Do điều kiện và khả năng có hạn nên khóa luận chắc chắn sẽ không
tránh khỏi những thiếu sót, tác giả rất mong nhận được ý kiến đóng góp của
các thầy, cô giáo để khóa luận này được hoàn chỉnh hơn.
Qua đây, tác giả cũng xin gửi lời cảm ơn chân thành sự nhiệt tình
hướng dẫn và đóng góp ý kiến của cô giáo - TS. Trịnh Thị Thu Hương để có
thể hoàn thiện khóa luận này. Đồng thời gửi lời cảm ơn tới các cán bộ công
nhân viên Thư viện Quốc gia Hà Nội và Thư viện trường Đại học Ngoại
Thương đã cung cấp rất nhiều số liệu và tài liệu quan trọng được sử dụng
trong đề tài .
Sinh viên thực hiện
Nguyễn Thị Huyền Thƣơng
4
CHƢƠNG 1
NHỮNG BIẾN ĐỘNG KINH TẾ THẾ GIỚI GIAI ĐOẠN 2007 - 2008
I. TỔNG QUAN TÌNH HÌNH KINH TẾ THẾ GIỚI GIAI ĐOẠN
2007 - 2008
1. Tình hình kinh tế thế giới giai đoạn 2007 - 2008
Trong bối cảnh chung của nền kinh tế toàn cầu khi bước sang thiên
niên kỉ mới, giai đoạn 2007 - 2008 thực sự là cột mốc quan trọng, đánh dấu
những biến động sâu sắc. Giai đoạn này đã ghi nhận những thành quả đạt
được rất đáng khích lệ. Song cũng đặt ra bài toán hóc búa cho các nhà hoạch
định chính sách kinh tế trong việc thực thi những biện pháp nhằm vượt qua dư
chấn của cơn bão khủng hoảng và giảm nhẹ đà suy thoái.
1.1. Tình hình chung
Tăng trƣởng kinh tế:
Bảng 1: Tốc độ tăng trƣởng kinh tế
(Đơn vị: %)
Năm
2006
2007
2008
Thế giới
5,1
5,0
3,4
Các nền kinh tế phát triển
3,2
2,6
1,0
Khu vực Châu Âu
2,8
2,6
1,0
Các nền kinh tế đang nổi và đang phát triển
7,9
8,0
6,3
Châu Phi
6,1
6,1
5,2
Các nước đang phát triển ở Châu Á
9,8
10,0
7,8
Khu vực Trung Đông
5,7
6,0
6,1
Nguồn: IMF (2009), “World Economic Outlook Update: Global
Economic Slump Challenges Policies”, p.6 [56]
5
Theo bảng số liệu trên, năm 2007, tốc độ tăng trưởng kinh tế toàn cầu
đã có dấu hiệu chậm lại nhưng vẫn tiếp tục duy trì ở mức cao, đạt 5% (năm
2006 là 5,1%). Đây là năm thứ năm liên tiếp kinh tế thế giới có mức tăng
trưởng khả quan, đánh dấu giai đoạn tăng trưởng mạnh mẽ và bền vững nhất
kể từ đầu thập niên 70 [46].
Bước sang năm 2008, cuộc khủng hoảng kinh tế mà tâm chấn của cơn
suy thoái là kinh tế Mỹ, đã lan rộng toàn cầu, kéo theo sự sụp đổ đồng loạt
của nhiều định chế tài chính. Các nền kinh tế lớn đã phải đối mặt với hàng
loạt khó khăn và thách thức. Tăng trưởng kinh tế toàn cầu giảm còn 3,4%; so
với năm 2007, mức tăng trưởng đã giảm xuống con số kỉ lục: 1,6%.
Bảng số liệu đã phản ánh rõ nét sự sụt giảm trong mức tăng trưởng của
hầu hết các khu vực kinh tế trên thế giới. Tốc độ tăng trưởng kinh tế của các
nền kinh tế phát triển đạt 2,6% và đạt 1,0% năm 2008, đánh dấu giai đoạn
phát triển không mấy khả quan của các quốc gia trụ cột này. Khu vực Châu
Âu cũng đã trải qua một giai đoạn khó khăn và chỉ đạt mức tăng trưởng 1,0%
trong năm 2008 (năm 2007 là 2,6%).
Trong những „„mảng màu xám xịt‟‟ của bức tranh kinh tế thế giới giai
đoạn 2007 - 2008, các nền kinh tế mới nổi và đang phát triển ngày càng khẳng
định được vị thế và dần trở thành động lực chính của tăng trưởng kinh tế toàn
cầu. Tại khu vực Trung Đông, mức tăng trưởng đã tăng thêm 0,1% trong năm
2008, đạt 6,1% (năm 2007 là 6,0 %). Các quốc gia đang phát triển khác ở
Châu Á cũng đạt mức tăng trưởng khả quan: 10% trong năm 2007, giảm nhẹ
còn 7,8% năm 2008, góp phần giảm nhẹ ảnh hưởng của việc tăng trưởng yếu
ở Mỹ và Châu Âu.
6
Lĩnh vực thƣơng mại:
Bảng 2: Tốc độ tăng trƣởng trong lĩnh vực thƣơng mại
(Đơn vị: %)
Năm
2006
2007
2008
Tăng trưởng thương mại thế giới (hàng hóa
và dịch vụ)
9,3
7,2
4,1
Nhập khẩu
Các nền kinh tế phát triển
7,5
4,5
1,5
Các nền kinh tế đang nổi và đang phát triển
14,7
14,2
10,4
Xuất khẩu
Các nền kinh tế phát triển
8,4
5,9
3,1
Các nền kinh tế đang nổi và đang phát triển
11,0
9,5
5,6
Nguồn: IMF (2009), “World Economic Outlook Update: Global
Economic Slump Challenges Policies”, p.6 [56]
Số liệu ở bảng 2 đã cho thấy tốc độ tăng trưởng thương mại quốc tế
giai đoạn 2007 - 2008 giảm đáng kể so với năm trước: năm 2007 tốc độ tăng
trưởng đạt 7,2% và năm 2008 chỉ đạt 4,1%, giảm hơn một nửa so với năm
2006 (9,3%). Mức tăng trưởng trong hoạt động nhập khẩu tại các nước phát
triển năm 2007 đạt 4,5%, giảm 3% so với năm 2006 (7,5%), sụt giảm kỉ lục
và chỉ đạt 1,5% năm 2008 do chi tiêu dùng giảm mạnh. Các quốc gia đang nổi
và đang phát triển vẫn đạt mức tăng trưởng hai con số: năm 2007 đạt 14,2%
và năm 2008 là 10,4%.
Do sự tăng mạnh của giá cả hầu hết các loại hàng hóa và sự khó khăn
của nền kinh tế, mức tăng trưởng xuất khẩu giai đoạn này giảm mạnh so với
năm 2006. Tăng trưởng trong hoạt động xuất khẩu tại các quốc gia phát triển
từ mức 8,4% năm 2006 đã giảm còn 5,9% năm 2007, năm 2008 chỉ đạt con số
7
khiêm tốn: 3,1% do các nền kinh tế lớn lâm vào khủng hoảng và suy thoái.
Tại các quốc gia đang nổi và đang phát triển, năm 2007 mức tăng trưởng xuất
khẩu đạt 9,5% và năm 2008 giảm xuống còn 5,6%, xấp xỉ một nửa mức tăng
trưởng trong hoạt động xuất khẩu của năm 2006 (11%).
Sở dĩ có sự sụt giảm trong mức tăng trưởng của cả hoạt động kinh
doanh xuất khẩu và nhập khẩu ở tất cả các nền kinh tế giai đoạn này là do ảnh
hưởng từ các biến động kinh tế thế giới đã tác động tiêu cực lên cán cân xuất
nhập khẩu của mỗi quốc gia. Qua các số liệu trên có thể thấy rằng, tốc độ tăng
trưởng về xuất và nhập khẩu của các quốc gia đang phát triển và các thị
trường đang nổi luôn cao hơn nhóm các nước phát triển, và có tác động chi
phối lớn tới thực trạng thương mại thế giới trong những năm gần đây.
Hợp tác quốc tế:
Các nền kinh tế trong tiến trình hội nhập quốc tế, xu thế chủ đạo là việc
ngày càng nhiều quốc gia tiến hành ký kết các FTA song phương, song song
với xu thế liên kết mang tính khu vực và đa phương vẫn tiếp tục được củng
cố. Việc Hội nghị thượng đỉnh EU thông qua "Điều ước Lisbon" nhằm thay
thế "Điều ước hiến pháp EU", đã chứng tỏ việc EU đang tăng mạnh sức ảnh
hưởng trên vũ đài kinh tế quốc tế.
Trên thế giới, sự hội tụ của một số tổ chức khu vực ngày càng tăng. Hội
nghị thượng đỉnh liên minh Châu Phi thông qua "Tuyên ngôn Accra", nhấn
mạnh ý nghĩa to lớn của việc đẩy nhanh tiến trình nhất thể hóa chính trị, kinh
tế lục địa Châu Phi. Khu vực ASEAN trong những năm gần đây được đánh
giá là khu vực kinh tế phát triển năng động và có nhiều khởi sắc. Các quốc gia
trong khu vực đã ký kết hiến chương ASEAN và quyết định đẩy nhanh 5 năm
tiến trình thành lập Cộng đồng kinh tế ASEAN (2015) đã tạo nên nguồn sinh
khí mới thúc đẩy hợp tác trong nội khối [38].
Lĩnh vực đầu tƣ:
Theo số liệu từ “Báo cáo đầu tư thế giới 2008: Các công ty xuyên quốc
8
gia và những thách thức về hạ tầng cơ sở” của UNCTAD công bố tại Giơnevơ
ngày 24/9/2008, sau 4 năm tăng liên tiếp, nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước
ngoài (FDI) toàn cầu năm 2007 tiếp tục tăng 30%, lên đến 1.833 tỷ USD,
nhiều hơn con số kỷ lục đã được lập năm 2000 (1400 tỷ USD) khoảng hơn
400 tỷ USD, bất chấp cuộc khủng hoảng tài chính và tín dụng bắt đầu xảy ra
nửa cuối năm [58].
Luồng vốn FDI tới các nước phát triển trong năm 2007 tăng 17% đạt
hơn 1000 tỷ USD, tăng gấp ba lần so với năm 2003, tuy nhiên vẫn thấp hơn
mức đỉnh năm 2000. Mỹ tiếp tục là quốc gia thu hút nhiều FDI nhất thế giới,
ước đạt khoảng 193 tỷ USD. 25 quốc gia thành viên EU thu hút 40% tổng
luồng vốn FDI toàn cầu trong năm 2007. Còn tại Nhật Bản, các luồng vốn
thuần mà nước này tiếp nhận trong năm 2007 tăng gần 29 tỷ USD. Trong số
các nền kinh tế đang phát triển và quá độ, 3 nước và vùng lãnh thổ nhận được
nhiều FDI nhất là Trung Quốc, Liên bang Nga và Hồng Kông. Luồng vốn
FDI đổ vào Trung Quốc, vốn là quốc gia tiếp nhận FDI nhiều nhất trong các
nước đang phát triển, đã giảm nhẹ từ 69 tỷ USD năm 2006 xuống 67 tỷ USD
năm 2007, song FDI vào Đặc khu hành chính Hồng Kông lại tăng từ 43 tỷ
USD lên 54 tỷ USD. Trong khi đó, FDI đổ vào Nga tăng 70% lên 50 tỷ USD,
nhờ ngành công nghiệp năng lượng đang phát triển mạnh [1].
Tuy nhiên, do sự giảm sút của nền kinh tế toàn cầu, hoạt động FDI bắt
đầu chững lại trong năm 2008. Trong nửa đầu năm 2008, giá trị các vụ M&A
thấp hơn nửa cuối năm ngoái 29%. UNCTAD ước tính, FDI toàn cầu trong
năm 2008 đạt khoảng 1.600 tỷ USD, giảm 10% so với năm 2007 [1].
Xu hướng đầu tư ra nước ngoài nhằm tận dụng nguồn tài nguyên tại các
nước tiếp nhận đầu tư ngày càng phổ biến ở các nền kinh tế đang phát triển và
đang chuyển đổi ngày càng trở nên phổ biến. Bên cạnh đó, mặc dù chịu tác
động của cuộc khủng hoảng tài chính, các thị trường đang nổi tiếp tục trở
thành điểm đến hấp dẫn cho các nhà đầu tư trong việc đa dạng hóa đầu tư vào
9
cơ sở hạ tầng và thị trường chứng khoán.
Lĩnh vực lao động:
Trong năm 2007, mặc dù tăng trưởng chậm lại, lĩnh vực việc làm vẫn
chuyển biến thuận lợi. Lực lượng lao động tham gia vào thương mại quốc tế
ngày càng được mở rộng với đội ngũ nhân công dồi dào từ các nền kinh tế
đang nổi và đang phát triển. Theo OECD số lượng việc làm ở các nền kinh tế
thuộc tổ chức này đã tăng 1,5%, khu vực EU tăng 1,6%; Mỹ tăng 1,1%; và
Nhật Bản tăng 0,4%. Với sự gia tăng khá cao số lượng việc làm, năm 2007 tỷ
lệ thất nghiệp ở các nền kinh tế phát triển đã giảm và đạt mức trung bình là
5,4%. Tỉ lệ thất nghiệp cao nhất là ở khu vực Trung Đông (11,8%) và Bắc Phi
(10,9%). Tại các nước công nghiệp phát triển ở Châu Âu và Bắc Mỹ, tỉ lệ thất
nghiệp năm 2007 là 6,2% [26].
Bước sang năm 2008, chịu tác động tiêu cực từ các biến động kinh tế,
bức tranh việc làm trên thế giới trở nên vô cùng ảm đạm. Theo số liệu trong
báo cáo “Những xu hướng lao động toàn cầu” (The global employment
trends) của Văn phòng Lao động Quốc tế ILO năm 2009, tỉ lệ thất nghiệp cao
nhất (10,3%) năm 2008 là ở Bắc Phi, tiếp đến là khu vực Trung Đông: 9,4%.
Tỉ lệ thất nghiệp thấp nhất trong năm 2008 là ở khu vực Đông Nam Á (3,8%).
Tại các nước phát triển tỉ lệ tăng trưởng của các chỗ làm mới ở mức độ âm,
tức là số chỗ làm mới được tạo ra ít hơn số những chỗ làm vừa bị xoá bỏ.
Trong khu vực sử dụng đồng Euro, theo số liệu của hãng Eurostat, tỉ lệ thất
nghiệp trong tháng 12/2008 đã lên tới 8% (17,91 triệu người), cao nhất kể từ
tháng 11/2006 [38].
Các chuyên gia cho rằng, nguyên nhân chính của tình trạng thất nghiệp
giai đoạn này là những đợt cắt giảm nhân công liên tiếp từ các tập đoàn, hãng
sản xuất với số lượng lớn.
Lĩnh vực khoa học công nghệ:
Giai đoạn 2007 - 2008 đã chứng kiến nhiều phát minh sáng chế được
10
ứng dụng trong các lĩnh vực công nghệ cao, tin học, công nghệ sinh học, công
nghệ vật liệu mới và y học. Lĩnh vực khoa học công nghệ ngày càng được các
quốc gia chú trọng, đầu tư cho cho nghiên cứu và triển khai (R&D) tăng
mạnh. Xu thế đầu tư, phát triển mới các trung tâm R&D (trước đây chỉ tập
trung ở các quốc gia phát triển như Mỹ, Nhật Bản, EU ) tại nhiều nước đang
phát triển và các thị trường đang nổi như Trung Quốc, Ấn Độ… của các công
ty đa quốc gia đang trở nên phổ biến. Các quốc gia đang phát triển đang có cơ
hội tiếp cận và ứng dụng các phát minh, sáng chế, công nghệ mới từ các quốc
gia phát triển thông qua sự chuyển giao công nghệ từ hoạt động FDI.
1.2. Những khó khăn, thách thức
Quý IV năm 2007 và đặc biệt là năm 2008, nền kinh tế thế giới đã phải
đối mặt với hàng loạt những khó khăn và thách thức. Những biến động kinh tế
đã tác động tiêu cực lên mọi mặt của nền kinh tế toàn cầu. Ảnh hưởng dễ
nhận thấy nhất là thương mại toàn cầu sụt giảm, thị trường bất động sản và thị
trường chứng khoán thế giới sụt giảm mạnh. Mặt khác, cuộc khủng hoảng
trên thị trường tài chính tín dụng cũng đã “tàn phá” cả ngành công nghiệp ô
tô, hàng không, du lịch,… đưa hàng loạt “đại gia” rơi vào tình trạng phá sản.
Theo đó, tỷ lệ thất nghiệp cũng tăng cao. Hiện tượng giá cả các mặt hàng tăng
cao đột biến và tốc độ tăng trưởng cao, luồng vốn đổ vào lớn tại nhiều khu
vực… đã khiến lạm phát gia tăng tại nhiều khu vực trên thế giới. Trong khi đó
nhiều biện phát kiềm chế lạm phát ở các nước đang phát triển tỏ ra không
hiệu quả. Tình trạng mất cân đối toàn cầu tiếp tục gây ra nhiều mối lo ngại.
Ngày 30/7/2008 đánh dấu sự thất bại của Vòng đàm phán Doha sau gần
7 năm theo đuổi (khởi động từ tháng 11/2001). Hội nghị đã đạt được sự đồng
thuận về 18 trong số 20 vấn đề, song bất đồng về mục 19 là cơ chế bảo vệ đặc
biệt (SSM) cho nông dân nghèo. Ngoài ra, Mỹ và EU cũng bất đồng với các
nền kinh tế đang nổi về vấn đề cắt giảm thuế hàng công nghiệp. Với thất bại
này, các nước nghèo sẽ ít có cơ hội tiếp cận thị trường nông nghiệp của các
11
nền kinh tế lớn, trong khi các nước giàu vẫn khó khăn trong việc mở rộng thị
trường xuất khẩu hàng sản xuất đến các quốc gia đang phát triển.
Giai đoạn này cũng chứng kiến hàng loạt khó khăn và thách thức mà
lĩnh vực tài chính toàn cầu phải đối mặt. Cuộc khủng hoảng tài chính tín dụng
ở Mỹ đã gia tốc thành khủng hoảng toàn cầu và “bóng đen của đám mây
khủng hoảng” đang bao phủ lên bức tranh kinh tế thế giới. Khủng hoảng tài
chính cũng đặt ra bài toán khó cho các NHTƯ nhiều nước phải thắt chặt chính
sách tiền tệ để kiểm soát lạm phát và giảm thâm hụt ngân sách.
2. Tình hình kinh tế ở một số quốc gia và khu vực
2.1. Kinh tế Mỹ
Nền kinh tế số một thế giới đã trải qua một giai đoạn được đánh giá là
đen tối nhất trong nhiều thập niên qua. Tốc độ tăng trưởng kinh tế từ mức
2,8% năm 2006 giảm còn 2,0% năm 2007 và năm 2008 chỉ đạt 1,1% [56].
Trong năm 2007, GDP của Mỹ đạt gần 13.900 tỷ USD, tăng 886 tỷ
USD so với năm 2006 (13.014 tỷ USD). Xuất khẩu tăng 12,3%, đạt 1,48 tỷ
USD, nhập khẩu tăng 5,6%, đạt 2,13 tỷ USD. Thâm hụt ngân sách giảm
mạnh, chỉ ở mức 163 tỷ USD so với mức 248,2 tỷ USD năm 2006 và chỉ xấp
xỉ 1/2 năm 2005 (318 tỷ USD). Theo số liệu của Bộ Thương mại Mỹ, kinh tế
Mỹ năm 2007 chỉ tăng trưởng 0,6% vào quý I, phục hồi vào quý II (3,8%),
quý III (4,9%) và tụt dốc mạnh vào quý IV (0,6%) [51].
Năm 2008, sự giảm tốc mạnh của nền kinh tế đã gia tốc thành cuộc
khủng hoảng tài chính tồi tệ nhất từ thời kì đại suy thoái 1929 – 1933. Tình
trạng rối loạn trong thị trường tín dụng đã dẫn tới chao đảo trên các thị trường
chứng khoán ở Mỹ, chỉ số Down Jones liên tục giảm điểm. Chính phủ Liên
bang đã phải chi hàng tỷ USD (700 tỷ USD tính đến tháng 12/2008) và hàng
loạt gói cứu trợ để giải cứu nền kinh tế “trong cơn hấp hối”. Đầu năm đến
tháng 9/2008 Fed đã 8 lần cắt giảm lãi suất, lãi suất cơ bản từ mức 5,25% chỉ
còn 0,25% nhằm kích thích đầu tư và tiêu dùng cá nhân. Chi tiêu dùng và hoạt
12
động xuất nhập khẩu đều giảm mạnh, quý IV xuất khẩu hàng hóa và dịch vụ
giảm 23,6%, do chi tiêu dùng giảm mạnh nên nhập khẩu cũng giảm tới
17,5%. Tổng số các vụ phá sản tăng 30% (năm tài khóa 2007 là 775.344 vụ)
lên mức 1,04 triệu vụ và số lượng doanh nghiệp phá sản tăng 49% trong năm
tài khóa 2008. Theo đó, tỷ lệ thất nghiệp tính tới 6/12/2008 đã lên tới 6,7%,
mức cao nhất trong vòng 15 năm qua [27]. Lạm phát năm 2007 ở mức thấp:
2,8%, giảm so với mức 3,24% năm 2006 tuy nhiên đã tăng trở lại vào năm
2008: 3,8% khi nền kinh tế Mỹ lâm vào khủng hoảng [59].
Bảng 3: Tỷ lệ lạm phát ở Mỹ năm 2007 và 2008
Năm
T1
T2
T3
T4
T5
T6
T7
T8
T9
T10
T11
T12
TB
2007
2,1
2,4
2,8
2,6
2,7
2,7
2,4
2,0
2,8
3,5
4,3
4,1
2,8
2008
4,3
4,0
4,0
3,9
4,2
5,0
5,6
5,4
4,9
3,7
1,1
0,1
3,8
Nguồn: www.usinflationcalculator.com [59]
2.2. Kinh tế Nhật Bản
Nhật Bản - nền kinh tế lớn thứ hai thế giới đã tăng trưởng chậm lại
trong năm 2007 nhưng vẫn tiếp tục tạo nên pha tăng trưởng kinh tế dài nhất
của nước này kể từ sau thế chiến lần thứ II, với mức tăng trưởng 2,1% (năm
2006 là 2,4%). Do nền kinh tế chìm vào suy thoái nên năm 2008 Nhật Bản đạt
mức tăng trưởng âm: - 0,3%, một mức sụt giảm kỉ lục [56].
Theo số liệu sơ bộ do văn phòng nội các Nhật Bản công bố, nền kinh tế
lớn thứ hai thế giới trong quý IV/2007 đã đạt mức tăng trưởng 3,7%, sau khi
tăng 1,1% trong quý III, chủ yếu nhờ đầu tư doanh nghiệp tăng mạnh ở mức
2,9% và xuất khẩu ròng lớn do nhu cầu rất mạnh từ Châu Á và Châu Âu. Chi
tiêu tiêu dùng, chiếm khoảng 55% tổng sản phẩm trong nước của Nhật Bản,
tăng 0,2%. Trong cùng kỳ, xuất khẩu và nhập khẩu của Nhật Bản tăng lần
13
lượt 2,9% và 0,5% [47].
Ngày 17/11/ 2008 Nhật Bản chính thức thông báo suy thoái. Xuất khẩu
trong tháng 11/2008 đã giảm 26,7% so với cùng kỳ năm ngoái, do nhu cầu
của tiêu dùng thế giới giảm. Xuất khẩu sang thị trường Trung Quốc - đối tác
thương mại lớn nhất của Nhật Bản, giảm 25%, mạnh nhất trong vòng 13 năm
qua. Ngoài sự sụt giảm nhu cầu tiêu dùng, các nhà xuất khẩu của Nhật Bản
còn chịu áp lực từ sự lên giá mạnh của đồng JPY. Từ đầu năm tới nay, đồng
tiền này đã tăng giá 25% so với USD, do giới đầu tư Nhật Bản ồ ạt rút vốn về
nước vì e ngại khủng hoảng ở các thị trường bên ngoài. Hậu quả của việc khu
vực kinh doanh suy thoái là tỷ lệ thất nghiệp tăng cao. Bộ Nội vụ Nhật Bản
ngày 26/12 cho biết, tỷ lệ thất nghiệp trong tháng 11/2008 là 3,9% (2,56 triệu
người), nhiều hơn 0,2% so với tháng 10/2008. Hàng loạt biện pháp kích thích
kinh tế được nội các Nhật Bản thông qua, trong đó có chi ngân sách quốc gia
12.000 tỷ Yên (126 tỷ USD), tương đương khoảng 2% GDP. Nhằm hỗ trợ
phục hồi kinh tế, NHTƯ Nhật Bản (BOJ) đã hạ lãi suất cơ bản đồng Yên của
nước này từ mức 0,3% về mức 0,1%. Chính phủ Nhật tuyên bố sẽ mua vào
khoảng 20.000 tỷ JPY (223 tỷ USD), trị giá cổ phiếu do các ngân hàng nắm
giữ để giúp các ngân hàng có thêm tiền mặt [48].
2.3. Khu vực EU
Năm 2007, khu vực EU vẫn đạt mức tăng trưởng khá cao: 3,1%, trong
đó tăng trưởng của một số nền kinh tế chủ chốt vẫn được duy trì: Anh tăng
trưởng 3,0%, Đức tăng trưởng 2,5%, Pháp: 2,2%, và Ý là 1,5% [56]. Tỷ lệ
thất nghiệp giảm xuống còn 7%, mức thấp nhất kể từ năm 2001. Đồng EUR
lên giá so với USD có ảnh hưởng nhất định tới tình hình xuất khẩu và sản
xuất công nghiệp, nhưng tổng cầu nội địa vẫn tăng 2,1%, với mức thặng dư
thương mại là 191,4 tỷ USD (năm 2006: 119,4 tỷ USD). Lạm phát cơ bản ở
khu vực duy trì ổn định, dưới 2% trong năm 2007 [4].
Khu vực EU đã trải qua một năm 2008 khó khăn với mức tăng trưởng
14
chỉ đạt 1,3%. Cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu đã tác động mạnh nhất tới
EU khi làn sóng ngân hàng phá sản lan từ Mỹ sang Anh, Bỉ và phần còn lại
của khu vực. Mức tăng truởng của các nền kinh tế lớn trong khu vực sụt giảm
mạnh: Anh: 0,7%, giảm 2,3% sau 1 năm, Pháp là 0,8%, thậm chí Ý đạt mức
tăng trưởng âm: - 0,6% [56]. Khủng hoảng tài chính đã khiến hàng loạt ngân
hàng tại khu vực lâm vào cảnh vỡ nợ, các nền kinh tế rơi vào suy thoái như
Tây Ban Nha, Đức v.v Ngày 11 và 12/12/2008 EU đã nhất trí thông qua gói
kế hoạch trị giá 200 tỉ EUR (tương đương gần 260 tỉ USD) với các mục tiêu
kích thích tiêu dùng và thúc đẩy tăng trưởng kinh tế toàn khối [44].
2.4. Các nền kinh tế đang nổi ở Châu Á
Các nền kinh tế đang nổi ở Châu Á vẫn duy trì tốc độ tăng trưởng cao
trong năm 2007 và 2008. Nổi bật là ba quốc gia: Trung Quốc, Ấn Độ và Nga.
Năm 2007, nền kinh tế Trung Quốc tiếp tục duy trì đà tăng trưởng cao
nhất trong năm năm trở lại đây: 11,9%, Ấn Độ: 9,3 %, Nga tiếp tục tăng
trưởng cao với mức tăng trưởng 8,1%, tăng 1,7 % so với năm 2006 (6,4%)
[56]. Năm 2007 GDP Trung Quốc đạt 3.280 tỷ NDT (481 tỷ USD), xếp thứ 4
thế giới, tổng kim ngạch thương mại đạt 2,175 ngàn tỷ USD, tăng 25,7 % so
với năm 2006; thặng dư thương mại là 262,2 tỷ USD, tăng 47,7% so với năm
2006 (177,5 tỷ USD)[30]. Ấn Độ vẫn tiếp tục mức tăng trưởng kinh tế thần kì
với GDP đạt 1.171 tỷ USD. Nga có dự trữ ngoại hối đạt 441,3 tỷ USD (xếp
thứ 3 thế giới sau Trung Quốc và Nhật Bản). Trong 9 tháng đầu năm 2007,
kim ngạch thương mại Nga đạt 379,6 tỷ USD, tăng 20,3% so với cùng kỳ năm
2006. Theo số liệu của Cục Thống kê Liên bang Nga, tính đến ngày
1/10/2007, FDI vào Nga đạt 197,8 tỷ USD, tăng 52,2% so với năm 2006 [30].
Năm 2008, sự phát triển của kinh tế Trung Quốc vẫn được đánh giá là
khả quan nhất với tốc độ tăng trưởng kinh tế đạt 9%, Ấn Độ là 7,3% và Nga
chỉ đạt: 6,2% [56]. Tuy nhiên, các nền kinh tế vẫn không thể miễn dịch khỏi
15
“hệ lụy” của cơn bão khủng hoảng toàn cầu, do động lực chính của tăng
trưởng kinh tế là đầu tư và xuất khẩu ròng giảm mạnh vào những tháng cuối
năm. Kim ngạch xuất khẩu của Trung Quốc tháng 11/2008 chỉ đạt 114,99 tỷ
USD, giảm 2,2% so với cùng kỳ năm ngoái. Kim ngạch xuất khẩu của Ấn Độ
tháng 11/2008 đạt 12,8 tỷ USD, giảm 12,3% so với mức 14,6 tỷ USD của
tháng 10/2008 và giảm 6,84% so với mức 13,74 tỷ USD của tháng 9/2008
[14]. Hiện tượng giá dầu sụt giảm mạnh cùng với đó là nhu cầu xây dựng đi
xuống vào quý IV/2008 đã ảnh hưởng nghiêm trọng tới hai mặt hàng xuất
khẩu chiến lược của Nga là dầu mỏ và kim loại, đồng rúp liên tục trượt giá đã
đẩy kinh tế Nga rơi vào suy thoái. Áp lực Lạm phát gia tăng do giá các loại
hàng hóa tăng cao, lạm phát theo chỉ số giá bán buôn (WPI) tại Ấn Độ ngày
8/11/2008 ở mức 8,9%, lạm phát tại Nga tháng 7/2008 đạt mức 14%, cao gần
gấp đôi so với mức 7,5% năm 2007. Chính phủ Ấn Độ đã chi gói cứu trợ trị
giá 10 tỷ USD và Chính phủ Trung Quốc đã phải thông qua gói kích cầu trị
giá 4.000 tỷ NDT (586 tỷ USD) nhằm kích thích tiêu dùng nội địa và giảm
nhẹ sự phụ thuộc của nền kinh tế vào xuất khẩu [14].
II. Những biến động kinh tế thế giới nổi bật giai đoạn 2007 - 2008
1. Biến động giá cả hàng hóa quốc tế
Giai đoạn 2007 - 2008 thế giới đã được chứng kiến sự biến động giá cả
khó dự đoán của các loại hàng hóa trên quy mô toàn cầu. Sự bùng nổ, tăng
cao kỷ lục và sụt giảm nhanh của giá cả các mặt hàng gần đây lại tiềm ẩn
nhiều điểm bất thường so với những chu kỳ tăng giá trước đó, vượt xa mọi dự
đoán của các nhà kinh tế.
1.2. Giá thép
Trong đà tăng chung của các loại hàng hóa, giá thép trên thị trường thế
giới đã tăng gần gấp đôi kể từ đầu năm trong giai đoạn này. Giá mặt hàng
phôi thép, sản phẩm bán thành phẩm để chế tạo thép dài đã tăng hơn 40% trên
16
sở giao dịch LME thời điểm bắt đầu giao dịch hợp đồng kỳ hạn [14]. Kể từ
đầu năm 2007 đến tháng 8 năm 2008 mặt hàng thép trên thị trường thế giới
liên tục tăng.
Nguyên nhân đẩy giá thép tăng cao là do giá nguyên liệu thô leo thang
và nhu cầu tăng mạnh trên thế giới đặc biệt nhu cầu tiêu thụ thép từ Trung
Quốc - nước tiêu thụ thép lớn nhất thế giới liên tục tăng nhanh là nguyên nhân
chính khiến giá thép tăng mạnh.
Bảy tháng đầu năm 2008, giá thép trên thị trường thế giới liên tiếp tăng
mạnh. Theo số liệu của MEPS, cơ quan chuyên dự báo về thị trường thép của
Anh, giá thép thế giới tại Sở giao dịch Kim loại Luân Đôn (LME) cuối tháng
6 năm nay ở mức 1.200 USD/tấn, tăng so với 691 USD/tấn cách đó đúng 1
năm. Giá phôi thép thời điểm này cũng đã tăng hơn 40% và liên tục trong
quý III, giữ ở mức trung bình trên 1.000 USD/tấn [32].
Nguyên nhân là do giá nguyên liệu thô như quặng sắt, dầu mỏ, than
đá… tăng cao, đẩy chi phí sản xuất lên. Bên cạnh đó, nguồn cung hạn chế do
các nhà sản xuất sử dụng chiến thuật giữ lợi nhuận cao bằng cách duy trì
nguồn cung thấp trong khi triển vọng nhu cầu giảm. Ngoài ra, hoạt động tái
thiết lại các cơ sở hạ tầng bị tàn phá mạnh mẽ sau vụ động đất tại tỉnh Tứ
Xuyên của Trung Quốc - nước tiêu thụ nhiều thép nhất thế giới – đã ngốn một
khối lượng thép lớn cùng với sự suy yếu của đồng USD cũng là những lý do
đẩy giá thép tăng cao trên thị trường.
Cuối quý III và Quý IV/2008: Giá thép trên thị trường thế giới giảm
mạnh. Giá thép xây dựng, loại thép được giao dịch chủ yếu trong hợp đồng
dài hạn, giảm mạnh. Dẫn đầu về sự sụt giảm này là thị trường Châu Á với
mức sụt giảm 20% tại Trung Quốc và 12,5% tại Nhật Bản. Giá thép phế liệu,
loại thép được dùng làm nguyên liệu thô cũng giảm mạnh, sau khi tăng 80%
trong năm 2007. Tại Trung Quốc, nước tiêu thụ thép lớn nhất thế giới, trong
tháng 9/2008 giá bình quân các loại sắt, thép là: 5.670 NDT/tấn (khoảng 835
17
USD/tấn), giảm 5,9% so với tháng 8/2008 [32].
Nguyên nhân của sự sụt giảm này là do dự trữ thép ở các quốc gia đạt
mức cao khiến nhu cầu giảm do giá liên tục tăng ở các tháng trước và kinh tế
toàn cầu đi xuống khiến cho các lĩnh vực tiêu thụ nhiều thép như đầu tư, xây
dựng, bất động sản và công nghiệp ô tô đều sụt giảm mạnh. Sự sụt giảm của
ngành ôtô khi hoạt động kinh doanh của hầu hết các hãng và tập đoàn sản
xuất xe hơi hàng đầu thế giới giảm mạnh và ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng
trên thị trường tài chính tiền tệ đã đẩy các “ đại gia xe hơi ” vào tình trạng làm
ăn thua lỗ, thậm chí đứng trên bờ vực phá sản đã tác động lớn đến thị trường
và giá thép thế giới.
1.2. Giá gạo
Theo số liệu của Tổ chức Nông lương Liên hợp quốc (FAO), giá gạo
thế giới liên tục tăng cao trong giai đoạn 2007 - 2008. Trung bình, giá gạo
tăng 16% trong 10 tháng đầu năm 2007 so với cùng kỳ năm 2006. Giá tăng
chủ yếu đối với gạo tấm và gạo thơm. Gạo A1 của Thái Lan đã tăng 23% từ
tháng 9 đến tháng 12/07. Các loại gạo khác cũng tăng đáng kể, chẳng hạn như
gạo 100% B của Thái tăng 13% lên 376 USD/tấn. Vào thời điểm trước đây 1
năm (tháng 12/06), giá loại gạo này chỉ được chào ở mức 311 USD/tấn [52].
Giá gạo xuất khẩu của Mỹ cũng tăng cao. Các loại gạo hạt dài đều có
xu hướng tăng giá sau khi Mỹ tuyên bố sản lượng giảm 3% trong năm 2007.
Giá gạo N.2 4% tăng 18% từ 430 USD/tấn tháng 9/2007 lên 506 USD/tấn
tháng 12/2007. Giá gạo của Ấn Độ, Pakistan và Việt Nam đều tăng kể từ
tháng 9/2007, phản ánh tác động của các biện pháp hạn chế xuất khẩu trong
bối cảnh nguồn cung khan hiếm mặc dù vào những tháng cuối năm, gạo của
vụ thu hoạch được đưa ra thị trường. Gạo 25% tấm là loại gạo xuất khẩu phổ
biến của các nước, được chào bán ở mức 342 USD/tấn, tăng 14-15% so với
tháng 9/2007 [36].
Giá gạo thế giới năm 2008 đã tăng gần 62%, lên mức trung bình 607
18
USD/tấn so với mức trung bình 376USD/tấn năm 2007. Trong đó vào các
tháng 4 và tháng 5 giá gạo đã tăng lên gần gấp 3 lần do tác động từ cơn sốt
lương thực thế giới [45].
Biểu đồ 1: Giá gạo thô kỳ hạn tại Chicago, Mỹ năm 2008
Đơn vị: USD/cwt
Giá gạo thô kỳ hạn tại Chicago, Mỹ năm 2008
Nguồn: Agroviet
0
5
10
15
20
25
1/15/2008
2/15/2008
3/15/2008
4/15/2008
5/15/2008
6/15/2008
7/15/2008
8/15/2008
9/15/2008
10/15/2008
11/15/2008
12/15/2008
Ngày
USD/cwt
Nguồn: Báo cáo lúa gạo năm 2008, Trang tin xúc tiến thƣơng mại - Bộ
Nông Nghiệp và Phát triển nông thôn
Nhìn vào biểu đồ trên ta có thể thấy giá gạo thế giới liên tục biến động
và tăng cao nhất vào giữa tháng 4/2008 và đầu tháng 5/2008. Trong các tháng
đầu năm 2008, giá gạo kỳ hạn trên thị trường Chicago liên tiếp thiết lập các
mức cao lịch sử, trong bối cảnh nguồn cung gạo thế giới khan hiếm, cộng
thêm những động thái nhằm hạn chế thương mại gạo của một số Chính phủ đã
càng làm tăng thêm nỗi lo ngại về tình trạng an ninh lương thực. Giá gạo kỳ
hạn gần nhất trên thị trường Chicago đạt mức cao kỷ lục 22,58 USD/cwt vào
ngày 23/4/2008, trong khi đầu năm chỉ là 14,62 USD/cwt. Giá cả nhiên liệu
và lương thực leo thang đã đẩy giá gạo lên cao và nguồn cung bị đóng băng
do các quốc gia xuất khẩu lo ngại vấn đề an ninh lương thực đã đẩy giá gạo
liên tục tăng. Cuối tháng 5 đến tháng 6/2008 do cơn sốt giá lương thực “nguội
19
dần”, và thông tin về vụ mùa bội thu từ các nước xuất khẩu gạo lớn trên trên
thế giới như Việt Nam, Thái Lan, … đã đẩy giá gạo giảm dần. Tuy nhiên mức
giá gạo trên thị trường vẫn cao hơn mức giá của 4 tháng đầu năm 2008. Trong
các tháng 7/2008, đặc biệt trong tháng 8/2008 giá gạo liên tục giảm trong các
phiên giao dịch trong tháng và giảm về mức giá tương đương tháng 3/2008 do
nguồn cung dồi dào từ các nước xuất khẩu. Giá gạo bắt đầu hồi phục đợt tăng
giá của mình vào tháng giữa tháng 9 và tháng 10, đưa giá gạo về mức cao như
giá cả vào tháng 5. Nguyên nhân là do giá giảm nên các nước xuất khẩu chỉ
xuất khẩu cầm chừng.
Bên cạnh đó, ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng tài chính tín dụng ở Mỹ
và châu Âu đã lan rộng toàn cầu khiến nhu cầu chi tiêu dùng giảm, ba tháng
cuối năm giá gạo liên tục giảm so với các tháng trước. Tháng 9/2008, giá gạo
trắng 100% loại B của Thái Lan, loại gạo được coi là chuẩn của thế giới đã
giảm gần 30% so với mức kỷ lục 1.080 USD/tấn thiết lập vào tháng 4/2008,
đạt mức 735 USD/tấn. Cuối tháng 10/2008, giá gạo 100% loại B giảm chỉ còn
580 USD/tấn và đánh dấu lần đầu tiên trong 7 tháng qua giá rớt xuống dưới
ngưỡng 600 USD/tấn do nhu cầu mua gạo của khách hàng nước ngoài giảm
dần. Đến giữa tháng 11, giá gạo loại này đã giảm còn 530 USD/tấn và giảm
thêm 10 USD/tấn xuống còn 520 USD/tấn vào ngày 17/12/2008. Giá gạo đã
giảm đáng kể từ tháng 7/2008, nhưng vẫn cao so với mức trước khi diễn ra
khủng hoảng, chỉ số giá gạo của FAO trong tháng 12/2008 cao hơn 28% so
với năm 2005, và cao hơn 61% so với năm 2000 [36]. Mức giá gạo trong các
ngày giữa tháng 11/2008 và các ngày đầu tháng 12/2008 chưa đến
15USD/cwt. Mức giá vào tháng 12/2008 khôi phục nhẹ do nguồn cung không
còn dồi dào như vào vụ hè thu (tháng 6/2008) và nhu cầu về lương thực tăng.
Cũng theo Tổ chức nông lương Liên Hợp Quốc FAO, có nhiều yếu tố
“nâng đỡ” và đẩy giá gạo thế giới tăng cao trong giai đoạn 2007 - 2008, bao
gồm thời tiết, cán cân cung cầu, giá dầu và nhu cầu sử dụng năng lượng sinh