Tải bản đầy đủ (.pdf) (106 trang)

Cổ phần hóa các doanh nghiệp nhà nước ở Việt Nam - Thực trạng và giải pháp

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.1 MB, 106 trang )

TRƢỜNG ĐẠI HỌC NGOẠI THƢƠNG
KHOA KINH TẾVÀ KINH DOANH QUỐC TẾ
CHUYÊN NGÀNH KINH TẾ ĐỐI NGOẠI
***





KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP


Đề tài:
Cổ phần hoá các doanh nghiệp Nhà nƣớc
ở Việt Nam-Thực trạng và giải pháp

Sinh viên thực hiện : Kiều Thu Hằng
Lớp : Anh 5
Khoá : K 43
Giáo viên hướng dẫn :TS Trịnh Thị Thu Hƣơng


Hà Nội, tháng 05/2008


MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU 1
CHƢƠNG 1: NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ CỔ PHẦN HOÁ CÁC
DOANH NGHIỆP NHÀ NƢỚC Ở VIỆT NAM 4
I. Doanh nghiệp Nhà nƣớc và thực trạng hoạt động của doanh nghiệp
Nhà nƣớc ở Việt Nam 4


1. Khái niệm doanh nghiệp Nhà nước 4
2. Đặc điểm và vai trò của doanh nghiệp Nhà nước 6
2.1. Đặc điểm của doanh nghiệp Nhà nước 6
2.2. Vai trò của doanh nghiệp Nhà nước 8
3. Thực trạng hoạt động của các doanh nghiệp Nhà nước ở Việt Nam
hiện nay 10
3.1. Quá trình hình thành các doanh nghiệp Nhà nước ở Việt Nam 10
3.2. Thực trạng hoạt động của các doanh nghiệp Nhà nước ở Việt Nam 13
3.3. Những hạn chế và nguyên nhân của hạn chế 16
II. Một số vấn đề về Cổ phần hoá 19
1. Khái niệm, đặc trưng của Cổ phần hoá 19
1.1. Khái niệm Cổ phần hoá 19
1.2. Đặc trưng của Cổ phần hoá 20
2. Cơ cấu tổ chức của Công ty Cổ phần 22
3. Phân loại Cổ phần trong Công ty Cổ phần 22
3.1. Cổ phần phổ thông 22
3.2. Cổ phần phổ thông của cổ đông sáng lập 23
3.3. Cổ phần ưu đãi biểu quyết 23
3.4. Cổ phần ưu đãi cổ
tức 23
3.5. Cổ phần ưu đãi hoàn lại 23


III. Tính tất yếu của quá trình Cổ phần hoá các doanh nghiệp Nhà nƣớc
ở Việt
Nam 24
1. Tính tất yếu của quá trình Cổ phần hoá các doanh nghiệp Nhà nước
ở Việt Nam 24
2. Bản chất của Cổ phần hoá các doanh nghiệp Nhà nước ở Việt Nam 28
3. Vai trò của Cổ phần hoá các doanh nghiệp Nhà nước ở Việt

Nam 30
3.1. Cổ phần hoá góp phần xây dựng một Nhà nước mạnh 30
3.2. Cổ phần hoá góp phần tăng cường hiệu quả đầu tư của toàn xã
hội 31
3.3. Cổ phần hoá đối với sự tăng trưởng của đất
nước 31
3.4. Cổ phần hoá đối với đời sống kinh tế của người lao
động 33
3.5. Cổ phần hoá đối với vấn đề tham nhũng 33
4. Mục tiêu của Cổ phần hoá các Doanh nghiệp Nhà nước ở Việt
Nam 34
CHƢƠNG 2: THỰC TRẠNG QUÁ TRÌNH CỔ PHẦN HOÁ CÁC
DOANH NGHIỆP NHÀ NƢỚC Ở VIỆT NAM 37
I. Những chủ trƣơng, chính sách của Chính phủ về Cổ phần hoá các
doanh nghiệp Nhà nƣớc trong những năm qua 37
1. Giai đoạn thí điểm từ 1990 đến 1996 37
2. Giai đoạn mở rộng từ 6/1996 đến 6/1998 39
3. Giai đoạn chủ động từ 7/1998 đến 7/2002 40
4. Giai đoạn đẩy mạnh từ 8/2002 trở đi 41
II. Thực trạng quá trình Cổ phần hoá các doanh nghiệp Nhà nƣớc


ở Việt
Nam 45
1. Về số lượng 45
2. Về cơ cấu 47
3. Về chất lượng 49

III. Đánh giá thực trạng quá trình Cổ phần hoá các doanh nghiệp
Nhà nƣớc ở Việt Nam 50

1. Những thuận lợi và khó khăn trong quá trình Cổ phần hoá các
doanh nghiệp Nhà nước ở Việt Nam hiện
nay 50
1.1. Những thuận lợi 51
1.2. Những khó khăn 52
2. Những thành công đạt
được 55
3. Một số vấn đề tồn tại và nguyên nhân 59
3.1. Một số vấn đề tồn tại 59
3.2. Nguyên nhân 62
CHƢƠNG 3: MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM ĐẨY NHANH
TIẾN TRÌNH CỔ PHẦN HOÁ CÁC DOANH NGHIỆP NHÀ NƢỚC
Ở VIỆT NAM 67
I. Phƣơng hƣớng của Nhà
nƣớc 67
II. Một số giải pháp nhằm đẩy nhanh tiến trình Cổ phần hoá các
doanh nghiệp Nhà nƣớc ở Việt Nam trong những năm tiếp
theo 72
1. Quán triệt sâu sắc về chủ trương và chính sách Cổ phần hoá từ


Trung ương đến địa phương 72
2. Giải quyết vấn đề lao động việc làm tạo tiền đề cho thực hiện
thành công tiến trình Cổ phần hoá 73
3. Vấn đề xác định giá trị doanh nghiệp 75
4. Giải quyết các khoản nợ của doanh nghiệp Cổ phần hoá 78
5. Vấn đề chính sách đối với Cổ phần hoá doanh nghiệp Nhà
nước 79
6. Về chính sách ưu đãi đối với người lao động trong doanh nghiệp
Cổ phần hoá 80

7. Tăng cường tổ chức, chỉ đạo của Nhà nước đối với công tác
Cổ phần hoá 83
8. Tạo môi trường pháp lý đầy đủ, đồng bộ cho tổ chức và hoạt động
của Công ty Cổ phần 84
9. Giảm tỷ lệ Cổ phần của Nhà nước trong các doanh nghiệp Cổ phần 84
10. Một số giải pháp đối với vấn đề hậu Cổ phần hoá 85
10.1. Tiếp tục cải thiện môi trường hoạt động của doanh nghiệp Cổ phần 85
10.2. Nâng cao hiệu quả của bộ máy quản lý và điều hành của
doanh nghiệp Cổ
phần 87
10.3. Một số giải pháp đối với cổ đông trong doanh nghiệp Cổ phần 88
10.4. Xoá bỏ ưu đãi bất hợp lý với doanh nghiệp Nhà
nước 89
IV. Một số kiến nghị 89
1. Đối với cơ quan Chính phủ 89
2. Đối với doanh nghiệp 90
KẾT LUẬN 91
TÀI LIỆU THAM KHẢO 93





1
LỜI MỞ ĐẦU
Trong tình hình hiện nay ở nước ta, vấn đề đổi mới, sắp xếp và phát triển
doanh nghiệp Nhà nước (DNNN) là một chủ trương lớn của Đảng và Nhà
nước. Chủ trương này đã được triển khai thực hiện trong gần 20 năm qua.
Mặc dù diễn biến của nó có những thăng trầm nhưng đã đem lại những kết
quả đáng ghi nhận. Việc sắp xếp DNNN được thực hiện bằng các giải pháp:

sáp nhập, hợp nhất, Cổ phần hoá (CPH), giao khoán, bán, cho thuê doanh
nghiệp, tổ chức lại các Tổng công ty và thành lập tập đoàn kinh tế. Trong tất
cả những giải pháp này, CPH DNNN được xem là một giải pháp cơ bản và
quan trọng nhất để cơ cấu lại DNNN.
CPH DNNN thực chất là quá trình chuyển đổi sở hữu về tư liệu sản xuất
trong DNNN, từ hình thức sở hữu Nhà nước sang hình thức sở hữu hỗn hợp,
bao gồm: sở hữu Nhà nước và sở hữu tư nhân. Một khi quan hệ sở hữu thay
đổi, người ta hy vọng rằng sẽ có sự thay đổi về mục tiêu, tổ chức hoạt động và
từ đó sẽ ảnh hưởng tích cực đến hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh của
doanh nghiệp, thực sự đạt được mục tiêu cải tổ lại doanh nghiệp.
Trong Điều 1 Nghị định 109/2007/NĐ-CP của Thủ tướng Chính phủ ban
hành ngày 26/6/2007 về chuyển doanh nghiệp 100% vốn Nhà nước thành
Công ty Cổ phần cũng quy định rõ về mục tiêu của quá trình CPH doanh
nghiệp 100% vốn Nhà nước tại Việt Nam như sau: "nâng cao năng lực tài
chính, đổi mới công nghệ, đổi mới phương thức quản lý nhằm nâng cao hiệu
quả và sức cạnh tranh của nền kinh tế; đảm bảo hài hoà lợi ích của Nhà nước,
doanh nghiệp, nhà đầu tư và người lao động trong doanh nghiệp; thực hiện
công khai, minh bạch theo nguyên tắc thị trường; khắc phục tình trạng CPH
khép kín trong nội bộ doanh nghiệp; gắn với phát triển thị trường vốn, thị
trường chứng khoán".
Tuy nhiên, trong thời gian qua, công tác CPH DNNN có đạt được những
mục tiêu đã đề ra hay không? CPH DNNN đã đem lại những gì và để lại

2
những vấn đề nan giải nào cho doanh nghiệp? Giải pháp nào để gỡ bỏ những
vướng mắc đó nhằm đẩy nhanh tiến trình CPH các DNNN, khắc phục các vấn
đề sau CPH của doanh nghiệp nhằm góp phần hoàn thiện và nâng cao hiệu
quả hoạt động của doanh nghiệp. Để giải đáp các câu hỏi vừa nêu, em chọn đề
tài: "Cổ phần hoá các doanh nghiệp Nhà nước ở Việt Nam-Thực trạng và
giải pháp" để nghiên cứu và viết khoá luận tốt nghiệp này.

Mục đích nghiên cứu của khoá luận này là nhằm:
- Phân tích thực trạng hoạt động của các DNNN để thấy rõ được tính cấp
bách của công tác CPH DNNN ở nước ta.
- Phản ánh thành tựu đạt được, những tồn tại vướng mắc của các doanh
nghiệp CPH và phân tích các nguyên nhân của những vướng mắc này.
- Đề xuất một số giải pháp nhằm đẩy nhanh tiến trình CPH các DNNN,
khắc phục các vấn đề sau CPH của doanh nghiệp nhằm góp phần hoàn thiện
và nâng cao hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp, đưa CPH DNNN trở lại
đúng mục tiêu ban đầu.
Nội dung bài khoá luận của em gồm 3 chương:
Chương 1: Những vấn đề chung về Cổ phần hoá các doanh nghiệp Nhà
nước ở Việt Nam.
Chương 2: Thực trạng quá trình Cổ phần hoá các doanh nghiệp Nhà
nước ở Việt Nam.
Chương 3: Một số giải pháp nhằm đẩy nhanh tiến trình Cổ phần hoá các
doanh nghiệp Nhà nước ở Việt Nam.

Qua bài khoá luận tốt nghiệp này, em xin gửi lời biết ơn chân thành tới
cô giáo TS. Trịnh Thị Thu Hương cùng các thầy cô trong khoa Kinh tế và
kinh doanh quốc tế đã hướng dẫn và giúp đỡ em hoàn thành bài khoá luận
này.

3
Tiếp theo, em xin gửi lời biết ơn chân thành tới gia đình và bạn bè đã tạo
điều kiện cho em hoàn tất bài khoá luận tốt nghiệp của mình.
Mặc dù em đã có rất nhiều cố gắng nhưng do có những hạn chế về trình
độ hiểu biết và thời gian nghiên cứu nên bài khoá luận tốt nghiệp của em
không thể tránh khỏi những thiếu sót. Em rất mong nhận được ý kiến đóng
góp của các thầy, các cô và các bạn.
Em xin trân trọng cảm ơn!

Hà Nội, ngày 15 tháng 6 năm 2008.
Người thực hiện

Kiều Thu Hằng


















4
CHƢƠNG 1: NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ CỔ PHẦN HOÁ
CÁC DOANH NGHIỆP NHÀ NƢỚC Ở VIỆT NAM
I. Doanh nghiệp Nhà nƣớc và thực trạng hoạt động của doanh nghiệp
Nhà nƣớc ở Việt Nam
1. Khái niệm doanh nghiệp Nhà nước
Theo Điều lệ xí nghiệp công nghiệp quốc doanh ban hành kèm theo Nghị
định 50/HĐBT ngày 22/3/1988 và Quy chế về thành lập, giải thể DNNN ban

hành kèm Nghị định 388/HĐBT ngày 20/11/1991 thì DNNN là doanh nghiệp
do Nhà nước trực tiếp thành lập, tổ chức quản lý và điều hành hoạt động
nhằm thực hiện các mục tiêu kinh tế-xã hội của Nhà nước. Việc thành lập các
DNNN do cơ quan Nhà nước đề nghị và trình cơ quan có thẩm quyền ra quyết
định thành lập. Như vậy, việc xác định DNNN phải dựa trên tiêu chí sở hữu
100% vốn Nhà nước và thể hiện sự can thiệp trực tiếp và toàn diện của Nhà
nước vào hoạt động của doanh nghiệp.
Theo Luật DNNN năm 1995 thì DNNN là tổ chức kinh tế do Nhà nước
đầu tư vốn, thành lập và tổ chức quản lý, hoạt động kinh doanh hoặc hoạt
động công ích, nhằm thực hiện các mục tiêu kinh tế-xã hội do Nhà nước giao.
Theo đó, DNNN có tư cách pháp nhân, có các quyền và nghĩa vụ dân sự, tự
chịu trách nhiệm về toàn bộ hoạt động kinh doanh trong phạm vi số vốn do
doanh nghiệp quản lý. Nhìn chung, việc xác định DNNN ở đây giống như đã
quy định trong các văn bản pháp lý nêu trên. Điểm khác biệt và tiến bộ là ở
chỗ Luật này đã xác định rõ tư cách pháp nhân và trách nhiệm pháp lý hữu
hạn của DNNN.
Theo tinh thần của Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ IX và Hội nghị Ban
chấp hành Trung ương lần thứ 3 khoá IX thì quan niệm về DNNN có đổi mới
và được phát triển thêm một bước quan trọng. Theo đó, DNNN không chỉ do
Nhà nước nắm giữ 100% vốn mà còn bao gồm cả doanh nghiệp do Nhà nước
chiếm Cổ phần chi phối. Ngoài ra, DNNN không nhất thiết do Nhà nước trực

5
tiếp thành lập và quản lý toàn bộ hoạt động của doanh nghiệp mà Nhà nước
chỉ quản lý và tổ chức thực hiện các quyền của chủ sở hữu đối với DNNN
trong phần vốn góp của mình. Quán triệt tư tưởng đó, Điều 1 Luật DNNN
năm 2003 quy định: "DNNN là tổ chức kinh tế do Nhà nước sở hữu toàn bộ
vốn điều lệ hoặc có Cổ phần, vốn góp chi phối, được tổ chức dưới hình thức
Công ty Nhà nước, Công ty Cổ phần, Công ty trách nhiệm hữu hạn". Trong
đó, Công ty Nhà nước giữ quyền chi phối doanh nghiệp khác là Công ty sở

hữu toàn bộ vốn điều lệ hoặc có Cổ phần, vốn góp chiếm trên 50% vốn điều
lệ của doanh nghiệp khác, giữ quyền chi phối đối với doanh nghiệp đó. Và
quyền chi phối đối với doanh nghiệp là quyền định đoạt đối với điều lệ hoạt
động, việc bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức các chức danh quản lý chủ chốt,
việc tổ chức quản lý và các quyết định quản lý quan trọng khác của doanh
nghiệp đó (Điều 3, khoản 7, 8 Luật DNNN năm 2003).
Trên quan điểm kế thừa và đổi mới Luật DNNN năm 2003, Điều 4,
khoản 22 và khoản 1 Luật Doanh nghiệp năm 2005 quy định: "DNNN là tổ
chức kinh tế có tên riêng, có tài sản, có trụ sở giao dịch ổn định, được đăng ký
kinh doanh theo quy định của pháp luật nhằm mục đích thực hiện các hoạt
động kinh doanh trong đó Nhà nước sở hữu trên 50% vốn điều lệ." Như vậy,
đối tượng doanh nghiệp thuộc diện DNNN đã được mở rộng ra, trong mọi
trường hợp, dù doanh nghiệp được hình thành dưới bất kỳ hình thức nào, chỉ
cần có trên 50% vốn điều lệ thuộc sở hữu Nhà nước sẽ được coi là DNNN.
Đặc biệt, điểm mới ở đây là sự giải phóng về mặt quản lý của Nhà nước đối
với doanh nghiệp khi loại bỏ điều kiện về "Cổ phần vốn góp chi phối" và "giữ
quyền chi phối" đối với doanh nghiệp.
Như vậy, khái niệm DNNN ở Việt Nam chỉ dựa trên cơ sở phần vốn điều
lệ Nhà nước nắm giữ. Tuy nhiên, do đặc thù nền kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta, tỷ lệ này vẫn còn khá cao (50%) so với các
nước khác trên thế giới.

6

2. Đặc điểm và vai trò của doanh nghiệp Nhà nước
2.1. Đặc điểm của doanh nghiệp Nhà nước
DNNN có các đặc điểm chính như sau:
Thứ nhất, DNNN là loại hình doanh nghiệp dựa trên sở hữu Nhà nước về
tư liệu sản xuất. Do đó, DNNN khác các loại hình doanh nghiệp khác ở chỗ:
- Vì vốn của doanh nghiệp hầu hết đều thuộc sở hữu của Nhà nước nên

DNNN, dù là doanh nghiệp có chức năng kinh doanh hay hoạt động công ích
thì trong bất kỳ hoàn cảnh nào, vẫn luôn chú trọng hiệu quả kinh tế-xã hội. Do
đó, sự có mặt của DNNN là lực lượng vật chất quan trọng đảm bảo tính ổn
định của nền kinh tế, chống lại mọi hành vi cơ hội, chạy theo lợi nhuận bằng
bất cứ giá nào của các loại doanh nghiệp thuộc thành phần kinh tế tư nhân.
- Do DNNN là của Nhà nước nên lợi nhuận sẽ do Nhà nước sử dụng. Do
đó, nhiều nước còn giao cho DNNN những lĩnh vực có lợi nhuận cao với ý đồ
giữ cho Nhà nước những khoản lợi nhuận lớn này để giải quyết những vấn đề
xã hội nảy sinh trong nền kinh tế thị trường.
- Trên thực tế, còn có nhiều lĩnh vực đòi hỏi đầu tư lớn, hiệu quả kinh tế
không cao nhưng lại cần thiết cho sự ổn định kinh tế-xã hội, các doanh nghiệp
tư nhân không muốn và không thể đầu tư, chỉ có DNNN, vì lợi ích chung,
không lấy lợi nhuận làm mục tiêu tối hậu, mới đảm nhiệm.
Do vậy, trong những lĩnh vực quan trọng, huyết mạch của nền kinh tế,
DNNN phải có mặt và đóng vai trò then chốt như Nghị quyết Trung ương 3
khoá IX đã khẳng định. Đây cũng là lý do mà ở hầu hết các nước trên thế
giới, ít hay nhiều đều tồn tại DNNN.
Thứ hai, DNNN có tính khó minh bạch.
DNNN là loại hình dựa trên sở hữu Nhà nước. Vì vậy, cùng một lúc phải
giải quyết nhiều mối quan hệ phức tạp: quan hệ giữa chủ thể sở hữu (ở đây là
Nhà nước) với chủ thể sử dụng (ở đây là doanh nghiệp) và người lao động

7
(cùng một lúc đóng hai vai trò: chủ thể sở hữu lao động và chủ tập thể xí
nghiệp) trên các mặt trách nhiệm và lợi ích kinh tế, trong đó quan trọng nhất
là lợi ích kinh tế.
Xử lý mối quan hệ này rất khó khăn và phức tạp. Tình trạng bộ phận
quản lý doanh nghiệp (mà trực tiếp là Giám đốc) bỏ qua quyền lợi của bản
thân doanh nghiệp và Nhà nước vì lợi ích của cá nhân trong các DNNN
thường xuyên diễn ra. Trong trường hợp Giám đốc có tâm, có tài, muốn làm

cho doanh nghiệp hoạt động hiệu quả thì lại bị những ràng buộc của cơ chế
chung cản trở. Kết quả là DNNN thường không có hiệu quả kinh tế cao. Hạn
chế này xuất phát từ tính chất của sở hữu mà ngay các doanh nghiệp quốc
doanh của các nước tư bản cũng thường gặp phải. Rõ ràng là, việc minh bạch
hoá hoạt động của DNNN chính là vấn đề lâu nay luôn làm đau đầu các nhà
hoạch định chiến lược.
Thứ ba, DNNN hoạt động kém hiệu quả.
Nhìn chung, hoạt động của DNNN thường không có hiệu quả cao. Các
nguyên nhân gây nên tình trạng này là: DNNN thường phải đảm nhận kinh
doanh trên những khu vực ít lãi, phải đáp ứng những nhu cầu xã hội mà các
doanh nghiệp tư nhân không chịu đảm nhận. Hơn nữa, sở hữu Nhà nước
thuần tuý làm cho cơ chế quản lý DNNN trở thành vấn đề phức tạp, rất khó để
có thể thu lợi nhuận cao xuất phát từ khó khăn trong việc giải quyết mối quan
hệ giữa quyền sở hữu và quyền sử dụng.
Thứ tư, hệ thống các DNNN bao trùm quá rộng do lịch sử để lại.
Hệ thống DNNN ở nước ta được xây dựng lâu dài và theo quan niệm cũ,
là một hệ thống rộng khắp từ trung ương đến địa phương, quản lý một lượng
lao động rất lớn, một nguồn vốn lớn và những điều kiện thuận lợi nhưng hiệu
quả được coi là thấp.
Từ các đặc điểm trên của DNNN có thể kết luận: trong nền kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa, phải có mặt DNNN với vai trò then chốt

8
nhưng vai trò then chốt của DNNN phải thể hiện ở mặt chất chứ không phải
mặt lượng. Do đó, việc sắp xếp lại DNNN trong nền kinh tế nhiều thành phần
ở nước ta hiện nay là vấn đề bức xúc.
2.2. Vai trò của doanh nghiệp Nhà nước
DNNN tồn tại như là một tất yếu khách quan có tính phổ biến, không
phân biệt đó là phương thức sản xuất xã hội chủ nghĩa hay phương thức sản
xuất tư bản chủ nghĩa, nó có mặt ở hầu hết các quốc gia trên thế giới. Bởi

DNNN có vai trò quan trọng trong việc phát triển nền kinh tế quốc dân:
Thứ nhất, DNNN đóng góp vào tăng trưởng đất nước (chiếm tỷ trọng lớn
trong GDP), thu hút vốn, tạo việc làm và thực hiện các chính sách xã hội.
Ngoài ra, trong nền kinh tế nhiều thành phần định hướng xã hội chủ nghĩa ở
Việt Nam, các DNNN còn đảm bảo các điều kiện cơ sở hạ tầng, dịch vụ xã
hội ngày một tốt hơn; cung ứng hàng hoá, vật tư, năng lượng chủ yếu cho nền
kinh tế quốc dân như: điện, sắt thép, xi măng, phân bón, xăng dầu, giấy viết.
Đồng thời, là lực lượng chủ lực thực hiện các chính sách xã hội thông qua các
doanh nghiệp công ích. DNNN là động lực thúc đẩy phân bố lại nguồn lực,
nhất là nguồn vốn và nguồn nhân lực theo hướng công nghiệp hoá tạo tiền đề
cho việc hình thành các trung tâm kinh tế, văn hoá, đô thị mới [18].
Thứ hai, DNNN giữ vai trò quan trọng chi phối những ngành, lĩnh vực và
sản phẩm then chốt của nền kinh tế. DNNN bảo đảm hầu hết các yêu cầu về
sản phẩm và dịch vụ công ích (các hàng công nghiệp và tiêu dùng, tư liệu sản
xuất, ), các điều kiện giao thông, điện, nước, thông tin, vật tư, hàng hoá cho
xuất khẩu và thị trường trong nước. Do đó, DNNN là lực lượng nòng cốt
trong tăng trưởng, xuất khẩu, bảo đảm các sản phẩm quan trọng của nền kinh
tế và đóng góp cho ngân sách Nhà nước; góp phần quan trọng bảo đảm các
cân đối lớn và ổn định kinh tế vĩ mô [18].
Thứ ba, các DNNN là điểm tựa và công cụ quan trọng của Nhà nước
trong việc điều tiết vĩ mô, khắc phục những khuyết tật của kinh tế thị trường.

9
DNNN là lực lượng xung kích để Nhà nước bổ sung vào thị trường
những hàng hoá và dịch vụ cần thiết. Nhà nước sử dụng và phát huy vai trò
xung kích của DNNN khi nào là lúc cần thiết? Đó là khi phải đảm nhận
những ngành, lĩnh vực ở những địa bàn khó khăn có ý nghĩa chính trị, quốc
phòng và kinh tế-xã hội mà khu vực tư nhân không làm được hoặc không
muốn làm, thực hiện sự bảo đảm cân bằng về phát triển theo vùng, địa bàn.
Chức năng này được các DNNN thực hiện thông qua việc cung cấp những

hàng hoá và dịch vụ theo chủ trương, kế hoạch của Nhà nước để nhằm vào
các khoảng trống của thị trường. Sự tham gia của DNNN sẽ có thể đem lại tác
dụng tốt và tạo ra niềm tin cho khu vực tư nhân và toàn xã hội.
Trong việc điều tiết vĩ mô nền kinh tế, Nhà nước phải sử dụng các biện
pháp vĩ mô như: chính sách tài chính, chính sách thuế, chính sách tiền tệ. Mặt
khác, Nhà nước cũng phải dựa vào DNNN để khởi động, phục hồi kinh tế
hoặc kìm hãm lạm phát. Thí dụ, khi kinh tế thị trường vật vờ, uể oải, Nhà
nước sẽ áp dụng các chính sách và biện pháp vĩ mô nhằm kích thích nhu cầu.
Nhưng do lãi suất ít hoặc thu hồi vốn chậm, nói chung các doanh nghiệp
không muốn đầu tư. Do vậy, Nhà nước phải dựa vào các DNNN để tăng nhu
cầu đầu tư, từ đó thúc đẩy tăng nhu cầu [49].
Thứ tư, DNNN là những cơ sở quan trọng nhất trong việc đầu tư, ứng
dụng những tiến bộ khoa học và công nghệ; thực hiện hiện đại hoá đất nước.
Điều đó thể hiện trước hết bởi sự cất cánh kinh tế của mỗi quốc gia không thể
thiếu các ngành hạ tầng và không thể không xây dựng các công trình hạ tầng,
mà việc xây dựng này thường đòi hỏi những khoản đầu tư lớn, rủi ro cao, thu
hồi vốn chậm, hiệu quả xã hội rộng lớn. Do vậy, những doanh nghiệp bình
thường không đủ sức làm và cũng không muốn làm. Hơn nữa, trong sự phát
triển kinh tế ngày nay, khoa học-kỹ thuật đóng vai trò then chốt. Các DNNN
mới có cơ sở vật chất kỹ thuật và nguồn lực để có khả năng chuyển hoá thành
tựu khoa học-kỹ thuật thành lực lượng sản xuất hiện thực. Trong điều kiện

10
kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam, vai trò DNNN
còn thể hiện ở việc định hướng, dẫn dắt và mở đường cho các thành phần
kinh tế khác, giữ vững vị trí then chốt, đi đầu ứng dụng tiến bộ khoa học và
công nghệ; nêu gương về năng suất, chất lượng, hiệu quả kinh tế-xã hội và
chấp hành pháp luật. Ngoài ra, DNNN tham gia vào một số ngành có lợi thế
cạnh tranh, có khả năng tăng thu ngân sách lớn. Đối với Việt Nam trong giai
đoạn hiện nay, vai trò này vẫn còn phát huy tác dụng trong điều kiện tiềm lực

của tài chính công chưa đủ mạnh [40].
3. Thực trạng hoạt động của các doanh nghiệp Nhà nước ở Việt Nam hiện
nay
3.1. Quá trình hình thành các doanh nghiệp Nhà nước ở Việt Nam
Các DNNN ở Việt Nam được hình thành từ năm 1954 ở miền Bắc, từ
năm 1975 ở miền Nam và từ nhiều nguồn gốc khác nhau. Nhìn chung, quy
mô của các DNNN nhỏ bé, cơ cấu phân tán được biểu hiện qua số lượng lao
động và mức độ tích luỹ vốn. Năm 1992, cả nước có 2/3 tổng số doanh
nghiệp có số lượng lao động dưới 200 người, lao động trong DNNN chiếm từ
5-6% tổng số lao động xã hội [23].
Mặt khác, DNNN đa số là sử dụng các công nghệ lạc hậu (trừ một số ít
ngành). Vì vậy, khi chuyển sang kinh tế thị trường, các DNNN không được
bao cấp mọi mặt như trước nữa, đã thế lại bị các thành phần kinh tế khác cạnh
tranh quyết liệt, nên nhiều doanh nghiệp không trụ nổi, buộc phải phá sản
hoặc giải thể; đặc biệt, trong những năm gần đây, chúng ta đã tiến hành cải
cách DNNN. Do đó, mặc dù số lượng DNNN đã giảm từ 12.084 năm 1992
xuống còn khoảng 1.900 vào tháng 12/2007 (nếu loại trừ 300/400 nông, lâm
trường quốc doanh thì cả nước còn khoảng 1.500 DNNN hoạt động sản xuất-
kinh doanh) nhưng để chuyển đổi sở hữu những doanh nghiệp này thì không
đơn giản vì nguồn vốn Nhà nước tập trung rất nhiều tại các Tổng công ty, tập
đoàn kinh tế (khoảng 86% tổng vốn Nhà nước đầu tư vào doanh nghiệp). Như

11
vậy, DNNN vẫn đóng vai trò quan trọng trong nhiều ngành kinh tế, nhất là
ngành quan trọng đòi hỏi vốn đầu tư lớn, công nghệ cao và ngành cung ứng
dịch vụ công cộng. Đồng thời, DNNN vẫn là thành phần kinh tế đóng góp chủ
yếu cho ngân sách Nhà nước. Cùng với sự phát triển của kinh tế thị trường,
các DNNN được sắp xếp, củng cố lại cơ cấu dẫn đến được hoạt động có hiệu
quả hơn [21].
Thời kỳ 1991-1995, tốc độ tăng trưởng GDP bình quân của DNNN là

11,7% trong khi nền kinh tế là 8,2%, bằng 1,5% tốc độ tăng trưởng bình quân
chung của nền kinh tế; tỷ trọng GDP của DNNN tăng từ 33,3% lên 39,6% so
với GDP của cả nước. Thu nhập ngân sách Nhà nước tăng bình quân
50,4%/năm. Trong năm 1995, các DNNN nộp ngân sách là 14.980 tỷ đồng,
tăng 7,7 lần so với năm 1990 và tăng 33% tổng thu về thuế của ngân sách Nhà
nước [23].
Tính chung trong giai đoạn 2001-2005, doanh thu của DNNN chỉ tăng
9,1%/năm, trong đó năm 2005 chỉ tăng 7,2% so với năm 2004, tức là chỉ cao
hơn tốc độ tăng giá tiêu dùng một chút. Theo Báo cáo của Kiểm toán Nhà
nước về kết quả hoạt động của các DNNN năm 2005 cho thấy, có 76,5%
doanh nghiệp có lãi với tỷ suất lợi nhuận trên doanh thu bình quân là 19,2%,
chỉ có 19,5% số doanh nghiệp thua lỗ, 8,8% số doanh nghiệp hoà vốn. Tổng
số lỗ năm 2005 của các DNNN là 1.919 tỷ đồng. Tổng số lỗ luỹ kế tính đến
cuối năm 2005 là 6.549 tỷ đồng, tuy có giảm 8,7% so với năm trước nhưng lại
tăng 20% so với năm 2000. Dẫu được hưởng hầu hết mọi ưu ái nhưng trong
năm 2005, nộp ngân sách của các DNNN chỉ tăng có 49%, trong khi đó, con
số này của các doanh nghiệp ngoài quốc doanh là 137% [33].
Vốn đầu tư của khu vực kinh tế Nhà nước luôn chiếm tỷ lệ cao trong
tổng đầu tư xã hội (theo thứ tự từ năm 2000 đến năm 2006 là: 51,9%; 59,8%;
57,3%; 52,9%; 48,1%; 47,1% và 46,2%) nhưng tỷ lệ đóng góp vào GDP

12
không cân xứng, chỉ ở mức 37-39% và tạo công ăn việc làm cho hơn 30% số
lao động [44].
Theo kết quả điều tra doanh nghiệp năm 2006 của Tổng cục Thống kê,
số lượng DNNN liên tục giảm, hiện chỉ còn chiếm 3,61%. DNNN vẫn là khu
vực thu hút khá đông lao động (chiếm 32,69%), tập trung nguồn vốn lớn nhất
(chiếm 54,06%), có lợi nhuận cao (chiếm 41,19%), đóng góp nhiều nhất vào
ngân sách Nhà nước (chiếm 40,76%). Kết quả này đã phản ánh đúng thực
trạng DNNN hiện nay: tích tụ về vốn, thành lập tập đoàn mạnh, làm ăn hiệu

quả hơn [40].
Nhưng thực tế, các DNNN vẫn rất khó khăn, hiệu quả kinh doanh còn
thấp, công tác xử lý nợ và giám sát tài chính hạn chế. Sự đóng góp của
DNNN cho ngân sách chưa tương xứng với phần đầu tư của Nhà nước cho
nó, cũng như với tiềm lực của DNNN; tình trạng mất mát và thất thoát vốn
đang diễn ra hết sức nghiêm trọng; việc quản lý các doanh nghiệp còn nhiều
yếu kém, Doanh thu từ DNNN hai năm 2004, 2005 liên tiếp không đạt dự
toán mà một trong những nguyên nhân lớn nhất là hiệu quả sản xuất kinh
doanh của doanh nghiệp thấp, tình hình làm ăn thua lỗ kéo dài triền miên và
chỉ hoạt động cầm chừng. Có 4/19 doanh nghiệp (chiếm 21%) được kiểm
toán trong năm 2004 lỗ 124 tỷ đồng; có 11/19 doanh nghiệp (chiếm 58%) có
lỗ luỹ kế đến ngày 31/12/2004 lên tới 1.058 tỷ đồng. Tỷ suất lợi nhuận trước
thuế của các doanh nghiệp được kiểm toán là rất thấp, chỉ đạt từ 0,18% đến
0,8%. Các doanh nghiệp này chỉ sử dụng 50% hiệu suất tài sản nhưng lại có
tổng nợ đọng về thuế lên tới 4.300 tỷ đồng trong khi vẫn tiếp tục được Nhà
nước bảo lãnh các khoản vay trong và ngoài nước với khối lượng rất lớn. Tình
trạng thiếu hiệu quả của nhiều DNNN, đến lượt nó làm tăng mức độ rủi ro và
kéo tụt hiệu quả kinh doanh cũng như khả năng sinh lời của các chủ nợ là
khối ngân hàng thương mại quốc doanh. Việc giải thể Tổng công ty Da-Giầy,
sự xuống cấp nghiêm trọng của Tổng công ty Thuỷ sản, Tổng công ty Tằm-

13
Tơ, Tổng công ty Chăn nuôi và hàng loạt các vụ tham nhũng bị phát hiện tại
hầu khắp các DNNN lớn là những tín hiệu rõ ràng về sự thiếu hiệu quả trên
[33].
Theo xếp loại DNNN của Bộ Tài chính, trong tổng số DNNN được xếp
hạng thì chỉ có 44,4% xếp loại A, 39,5% xếp loại B, 16,1% xếp loại C. Số
doanh nghiệp kinh doanh thua lỗ chiếm 19,5%, với tổng số lỗ của các DNNN
phát sinh năm 2005 là 1.919 tỷ đồng; tổng số lỗ luỹ kế tính đến cuối năm
2005 là 654 tỷ đồng [31].

Theo Báo cáo của Ban Đổi mới DNNN, đến hết tháng 9/2006, cả nước
đã có 105 tập đoàn và Tổng công ty; đến hết tháng 12/2007, cả nước có
khoảng 1.900 DNNN. Dự kiến đến cuối năm 2010, cả nước còn 554 doanh
nghiệp 100% vốn Nhà nước, trong đó có 26 tập đoàn, Tổng công ty quy mô
lớn. Đó là chưa kể đến những doanh nghiệp đã được CPH nhưng Nhà nước
vẫn nắm giữ trên 51% vẫn được hoạt động theo cơ chế DNNN. Qua hơn 20
năm đổi mới, mặc dù liên tục tăng trưởng về mặt quy mô nhưng những nhược
điểm của hệ thống DNNN thì vẫn còn nguyên [42].
3.2. Thực trạng hoạt động của các doanh nghiệp Nhà nước ở Việt Nam
Sự phát triển của DNNN ở Việt Nam bắt đầu từ những Xí nghiệp Nhà
nước được thành lập sau Cách mạng tháng 8 năm 1945 bằng con đường quốc
hữu hoá. Tuy nhiên, trong giai đoạn 1945-1960, số lượng các DNNN còn hạn
chế. Sự phát triển DNNN ồ ạt về số lượng diễn ra sau khi đất nước thống
nhất. Năm 1992, cả nước có 12.084 DNNN; vào tháng 12/2007, con số này
giảm xuống còn khoảng 1.900. Tuy số lượng DNNN đã giảm song con số này
vẫn là lớn đối với nền kinh tế nước ta hiện nay [34].
Hiện nay, so với tổng số doanh nghiệp của cả nước đang hoạt động, số
lượng DNNN chiếm 3,6%; 32,7% tổng số lao động; gần 50% tổng số vốn;
51,1% giá trị tài sản cố định và 40% doanh thu, [39].

14
Không những lớn hơn về quy mô, DNNN còn rất mạnh nhờ có vị trí đắc
địa, diện tích rộng, thương hiệu được tồn tại trong nhiều năm, và quan trọng
hơn, còn có các bộ, ngành, tỉnh, thành phố "chủ quản" đứng đằng sau. Một số
DNNN có lợi thế kinh doanh, được hưởng nhiều chính sách đặc biệt đã có kết
quả và hiệu quả khá cao.
Song, nhìn chung khối DNNN chưa thật mạnh, thậm chí còn nhiều doanh
nghiệp yếu. Nhận xét về DNNN, tất cả mọi ý kiến đều thừa nhận rằng: có
tiềm lực lớn, được ưu đãi nhiều, đầu tư lớn từ phía Nhà nước nhưng hiệu quả
kinh doanh thấp, năng lực cạnh tranh kém [39].

Theo số liệu thống kê, đến nay cả nước còn khoảng 1.900 DNNN, đang
nắm giữ 20% tổng vốn đầu tư toàn xã hội, gần 50% tổng vốn đầu tư của Nhà
nước, 70% tổng vốn vay các ngân hàng nước ngoài và gần 60% tổng lượng
vốn tín dụng của các ngân hàng thương mại Nhà nước, Thế nhưng hàng
năm, khối DNNN mới chỉ đóng góp 40% thu nhập trong GDP của cả nước
[39].
Về kết quả và hiệu quả sản xuất kinh doanh, trừ những DNNN có lợi thế
kinh doanh, được hưởng nhiều chính sách đặc biệt là có kết quả và hiệu quả
cao, còn lại nhìn chung là thấp, chưa tương xứng với vị trí và sự đầu tư của
ngân sách. Tính đến đầu năm 2008, nước ta vẫn còn trên 600 DNNN hoạt
động sản xuất-kinh doanh từ hoà tới lỗ. Trên 430 DNNN bị xếp loại C (chủ
yếu do chỉ tiêu lợi nhuận thực hiện và tỷ suất lợi nhuận trên vốn đạt thấp),
trong đó có một số Tổng công ty ngành giao thông với số vốn luỹ kế và nợ
lên đến hàng ngàn tỷ đồng, gấp hàng chục lần số vốn bình quân một DNNN.
Theo Bộ Tài chính, tổng tài sản của DNNN đạt 747,4 nghìn tỷ đồng. Trong
tổng tài sản "đo đếm được" thì nợ phải thu chiếm 22,2%, số nợ đến hạn lên
đến 449,2 nghìn tỷ đồng. Hệ số nợ phải trả tính trên vốn Nhà nước của không
ít DNNN, đặc biệt là những doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực xây dựng
công trình giao thông rất cao, lên tới 5 lần, thậm chí có đơn vị lên tới 30-35

15
lần, chẳng những làm cho khả năng thanh toán nợ kém mà còn dẫn đến rủi ro.
Theo số liệu của Ngân hàng Phát triển Việt Nam, năm 2007, các dự án xây
dựng công trình giao thông phải trả nợ 1.416 tỷ đồng vốn vay tín dụng đầu tư
phát triển của Nhà nước (cả gốc, lãi đến hạn hoặc được khoanh đã đến hạn trả
nợ) [33].
Bộ Tài chính nhận định, hiện nay, do Nhà nước chưa có cơ chế giám sát
chặt chẽ hoạt động này nên có nhiều Công ty Nhà nước huy động vốn quá lớn
dư nợ phải trả cao gấp nhiều lần vốn chủ sở hữu, dẫn đến khả năng thanh toán
không đảm bảo, ảnh hưởng đến an ninh tài chính. Số liệu mới nhất cho biết,

trong số 70 tập đoàn, Tổng công ty thì có 30 đơn vị có hệ số nợ phải trả trên
vốn vượt trên 3 lần, thậm chí nhiều doanh nghiệp vượt trên 20 lần như: Tổng
công ty Xây dựng công trình giao thông 5 gấp 42 lần, Tổng công ty Xây dựng
công trình giao thông 1 gấp 22,5 lần, Tổng công ty Lắp máy Việt Nam gấp
21,5 lần, Tập đoàn công nghiệp Tàu thuỷ Việt Nam gấp 21,8 lần, [33].
Hiện các DNNN vẫn nắm giữ 51,1% tài sản cố định quốc gia nhưng, trên
thực tế, các DNNN chỉ sản xuất ra chưa tới 40% GDP, đóng góp 30% thu
ngân sách về thuế và chỉ tạo ra việc làm cho 3,6% lực lượng lao động [35].
Trên con đường tiến lên chủ nghĩa xã hội, xây dựng một nền kinh tế thị
trường thì DNNN có vị trí quan trọng trong vai trò chủ đạo của kinh tế Nhà
nước:
- DNNN phải chi phối được sự phát triển trong các lĩnh vực kinh tế có ý
nghĩa quan trọng đối với sự phát triển ổn định của nền kinh tế đất nước.
- DNNN phải là động lực cho sự phát triển của các doanh nghiệp khác
thông qua hiệu quả hoạt động cao trên nền công nghệ sản xuất hiện đại và hệ
thống quản lý tiên tiến.
- DNNN là nguồn lực vật chất chủ yếu của Nhà nước. DNNN phải tạo ra
được sự đóng góp quyết định cho ngân sách Nhà nước. Dựa vào những đóng
góp chính của DNNN và thông qua việc sở hữu các doanh nghiệp, Nhà nước

16
xã hội chủ nghĩa có trong tay tiềm lực kinh tế vững mạnh để thực hiện sứ
mệnh của mình.
- DNNN là mẫu mực trong việc giải quyết các chính sách xã hội như:
việc làm, trợ cấp xã hội. Trong thực tiễn của đất nước ta trước đây, DNNN có
vai trò quan trọng trong việc giải quyết các vấn đề xã hội. Nhiều chính sách
xã hội được thực hiện tốt thông qua các DNNN.
Từ sự mâu thuẫn giữa vai trò của DNNN và thực trạng hoạt động sản
xuất-kinh doanh của DNNN như đã nêu ở trên thì nước ta muốn thực hiện
được mục tiêu phát triển kinh tế-chính trị-xã hội, nâng vị thế của Việt Nam

trên trường quốc tế, chúng ta cần phải tiến hành cơ chế quản lý mới học hỏi
kinh nghiệm của các nước đi trước về công tác đổi mới DNNN. Chính vì vậy,
việc làm cấp thiết nhất của nước ta hiện nay để tiến hành đổi mới DNNN là
CPH DNNN.
3.3. Những hạn chế và nguyên nhân của hạn chế
3.3.1. Những hạn chế
Bên cạnh những kết quả đạt được thì DNNN còn có một số hạn chế sau:
Thứ nhất, quy mô DNNN vẫn chưa lớn, còn nhiều doanh nghiệp hoạt
động trong một số ngành, lĩnh vực mà Nhà nước không cần chi phối. Không ít
tỉnh, thành phố chưa kiên quyết trong CPH, còn để nhiều DNNN hoạt động
kinh doanh. Số lượng doanh nghiệp tham gia nhiệm vụ cung cấp sản phẩm,
dịch vụ công ích còn nhiều, đặc biệt là khối an ninh, quốc phòng. Nhiều đơn
vị tỷ trọng cung cấp sản phẩm, dịch vụ công ích thấp, tỷ trọng hoạt động sản
xuất-kinh doanh lớn nhưng vẫn tiếp tục duy trì DNNN [42].
Hơn nữa, trình độ công nghệ của DNNN còn lạc hậu; một số doanh
nghiệp còn sử dụng công nghệ cũ, tiêu hao nhiên liệu, năng lượng cao. Nhiều
tài sản cố định của các DNNN đã lạc hậu từ 10 đến 30 năm, trong đó có
không ít tài sản chờ thanh lý. Nhiều máy móc, thiết bị tuy được đầu tư hiện
đại nhưng không huy động hết công suất (nhiều doanh nghiệp có hiệu suất sử

17
dụng tài sản cố định chỉ đạt 50-60%) hoặc tổng vốn đầu tư lớn dẫn đến chi phí
khấu hao, chi phí lãi vay trong giá thành sản phẩm cao. Nhiều DNNN năng
suất lao động và hiệu quả hoạt động còn thấp, sức cạnh tranh chưa đáp ứng
yêu cầu của hội nhập kinh tế quốc tế; còn khoảng 15% số doanh nghiệp làm
ăn thua lỗ [39].
Thứ hai, kết quả sản xuất, kinh doanh của DNNN nói chung và Tổng
công ty Nhà nước nói riêng chưa tương xứng với đầu tư của Nhà nước. Tỷ lệ
nợ trên vốn của DNNN còn quá cao, một số Công ty có số nợ phải trả gấp
năm lần vốn Nhà nước tại Công ty, có Công ty vay gấp hơn 20 lần vốn, dẫn

đến độ rủi ro cao, khả năng thanh toán nợ thấp. Việc xử lý các tồn tại về tài
chính còn chậm do nhiều nguyên nhân nhưng chưa được khắc phục [35].
Thứ ba, các mô hình tổ chức quản lý mới triển khai còn chậm. Nhiều
DNNN và doanh nghiệp CPH chưa có điều kiện thay đổi cơ bản quản trị
Công ty một phần do Nhà nước vẫn tiếp tục nắm giữ tỷ lệ Cổ phần lớn trong
các doanh nghiệp CPH. Một số Tổng công ty Nhà nước chưa phát huy được
vai trò chi phối trong ngành, lĩnh vực hoạt động. Một số Công ty hoạt động
còn kém hiệu quả. Ở nhiều Tổng công ty, giữa Chủ tịch Hội đồng quản trị và
Tổng giám đốc chưa có sự thống nhất trong quản lý, điều hành doanh nghiệp.
Bên cạnh đó, cơ chế quản lý DNNN còn nhiều bất cập từ quyền tự chủ tuyển
chọn nhân sự, điều hành doanh nghiệp, đến tài chính, giá cả, tiền lương,
[42].
Thứ tư, việc chuyển giao quyền đại diện chủ sở hữu vốn về Tổng công ty
Đầu tư và kinh doanh vốn Nhà nước còn chậm. Một số địa phương vì để tránh
việc chuyển giao, đã chuyển phần vốn Nhà nước tại các doanh nghiệp này cho
các doanh nghiệp khác quản lý [42].
3.3.2. Nguyên nhân của hạn chế
Khu vực kinh tế Nhà nước được sinh ra và trưởng thành trong cơ chế kế
hoạch hoá tập trung, quan liêu bao cấp kéo dài hàng chục năm với các chính

18
sách giao nộp cấp phát. Các DNNN hoạt động trong điều kiện vốn được Nhà
nước cấp, vật tư được nhập theo chỉ tiêu, sản phẩm được giao nộp theo kế
hoạch được sắp đặt trước. Các điều kiện vật chất được Nhà nước cân đối theo
chỉ tiêu định mức. Doanh nghiệp chỉ đơn thuần là đơn vị sản xuất hàng hoá
theo những kế hoạch của cấp trên làm mất đi tính tự chủ và khả năng cạnh
tranh. Bởi vậy, tính chủ động sáng tạo của một đơn vị kinh doanh không được
thực hiện nên khi chuyển sang nền kinh tế thị trường, khu vực kinh tế Nhà
nước đó bộc lộ ra tất cả những hạn chế về hiệu quả sản xuất kinh doanh của
các doanh nghiệp, cơ cấu bộ máy yéu kém và không đồng bộ trong việc thích

ứng với thị trường. Cụ thể là:
Thứ nhất, các DNNN đã từ lâu không được đặt trong môi trường cạnh
tranh, hoạt động sản xuất-kinh doanh không gắn với thị trường, do đó chậm
đổi mới công nghệ và nâng cao chất lượng sản phẩm. Trong nền kinh tế khó
khăn vừa do kinh tế vừa do lịch sử, những sản phẩm các doanh nghiệp này
làm ra đều buộc xã hội phải chấp nhận mặc dù chất lượng thấp, kiểu dáng
xấu. Mặt khác, do cơ chế bao cấp bù lỗ tràn lan làm cho hạch toán kinh tế
trong các doanh nghiệp chỉ là hình thức sản xuất không tính chi phí, hiện
tượng lãi giả lỗ thật và chạy theo thành tích một cách phi hiệu quả hết sức phổ
biến. Điều tất yếu xẩy ra là trình độ tổ chức quản lý, trình độ công nghệ tiến
chậm và khoảng cách so với thế giới ngày càng xa [33].
Thứ hai, do sử dụng nguyên vật liệu cao hơn định mức, lãng phí trong
quá trình sản xuất, sản phẩm hư hỏng nhiều, chi phí tiền lương tăng và do nhu
cầu mở rộng sản xuất nên nhiều đơn vị có vốn vay chiếm tới 90% tổng vốn,
dẫn đến chi phí khấu hao, chi phí trả tiền lãi vay chiếm tỷ trọng lớn trong giá
thành sản phẩm [33].
Thứ ba, tổ chức bộ máy DNNN không phù hợp do quan niệm về sở hữu
đối với doanh nghiệp không rõ ràng, không có sự phân biệt đầy đủ về quyền
sở hữu Nhà nước và quyền quản lý kinh doanh của Giám đốc và tập thể người

19
lao động. Tình trạng làm chủ tập thể chung chung, thực chất là “vô chủ” diễn
ra phổ biến ở các doanh nghiệp [35].
Thứ tư, việc phân phối thực ra không được thực hiện theo nguyên tắc
phân phối theo lao động mà chủ yếu nhằm phục vụ cho chính sách xã hội
mang nặng tính bình quân chủ nghĩa, không tạo được động lực kích thích
người lao động trong DNNN nhằm nâng cao hiệu quả công tác, năng suất lao
động. Thêm vào đó, đội ngũ cán bộ với kiến thức và trình độ chưa đáp ứng
được yêu cầu của nền kinh tế thị trường, thiếu sự năng động và mạo hiểm
trong kinh doanh [42].

Tựu trung lại có thể thấy tình trạng kém hiệu quả của khu vực kinh tế
Nhà nước về cơ bản là do còn tồn tại cơ chế kế hoạch hoá tập trung, quan
liêu, bao cấp trong mấy chục năm qua. Trước đây do điều kiện lịch sử của
cuộc kháng chiến chống Mỹ, nền kinh tế được quản lý như vậy sẽ đảm bảo
huy động ở mức cao nhất mọi tiềm lực cho kháng chiến thắng lợi mà không
cần tính đến hiệu quả. Tuy nhiên khi đất nước đã chuyển sang thời kỳ hoà
bình xây dựng nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần theo định hướng xã hội
chủ nghĩa có sự lãnh đạo của Đảng và sự quản lý của Nhà nước đồng thời
nước ta đang đi trên con đường hội nhập kinh tế quốc tế thì việc chậm đổi
mới tư duy, chậm đổi mới hành động sẽ kìm hãm sự phát triển của lực lượng
sản xuất và đẩy nền kinh tế rơi vào khủng hoảng.
Hiện nay, đất nước ta chuyển sang giai đoạn mới, vấn đề làm sao để đẩy
mạnh tốc độ phát triển kinh tế và nâng cao đời sống nhân dân là nhiệm vụ
quan trọng hàng đầu. Ngay từ năm 1990, để nâng cao hiệu quả của các
DNNN, Đảng ta chủ trương thí điểm chuyển một số DNNN thành Công ty Cổ
phần nhằm tạo thêm động lực mới trong công tác quản lý doanh nghiệp; mặt
khác, nâng cao chất lượng hoạt động của những DNNN, huy động thêm vốn
cho yêu cầu đầu tư phát triển và điều chỉnh cơ cấu DNNN để có sức cạnh
tranh khi mở cửa rộng, sâu hơn.

×