Tải bản đầy đủ (.doc) (81 trang)

Một số Giải pháp nhằm tăng cường công tác XK lao động ở VN.

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (414.18 KB, 81 trang )

MỤC LỤC
1
LỜI NÓI ĐẦU
Trong những năm qua, thế giới đã chứng kiến sự phục hồi của các nước bị
khủng hoảng tài chính giai đoạn 1997 – 1998. Nền kinh tế thế giới đang trên đà
phát triển mạnh mẽ. Tuy nhiên, tình trạng thất nghiệp trên toàn cầu vẫn còn tràn
lan tạo ra sức ép mạnh mẽ về lao động và việc làm, do đó di cư lao động quốc tế
tiếp tục trở thành thành tố quan trọng trong thời gian tới. Nắm bắt được đặc điểm
vận động của thị trường lao động quốc tế, trong thời gian qua Việt Nam đã đưa ra
những chính sách, giải pháp cụ thể để mở rộng thêm một số thị trường lao động
mới. Đặc biệt xuất khẩu lao động và chuyên gia được Đảng và nhà nước ta xác
định là một lĩnh vực kinh tế đối ngoại quan trọng, một bộ phận của chính sách giải
quyết việc làm được Quốc Hội đưa vào chỉ tiêu kế hoạch hàng năm. Việc mở rộng
thị trường xuất khẩu lao động là hướng phát triển kinh tế phù hợp với lộ trình hội
nhập mở cửa, góp phần giải quyết việc làm cho người lao động trong nước. Xuất
khẩu lao động đã góp phần xóa đói giảm nghèo và thu thêm ngoại tệ (xấp xỉ 1.6tỷ
USD/năm) cho gần nửa triệu lao động, bao gồm cả lao động kỹ thuật và lao động
giản đơn hiện đang ở 40 nước và vùng lãnh thổ. Trong những năm qua xuất khẩu
lao động đã gia tăng mạnh và đã góp phần tích cực vào chiến lược giải quyết việc
làm, tăng thu nhập, tạo sự ổn định và phát triển đất nước. Tuy nhiên, yêu cầu về
xuất khẩu lao động ngày càng khắt khe về trình độ lao động, kỹ năng tay nghề, về
kỹ luật lao động và ngoại ngữ, nhất là đối với công việc trong các công xưởng,
nhà máy. Hiện lao động của nước ta ra nước ngoài cơ bản đáp ứng yêu cầu của
doanh nghiệp nước sở tại tuy nhiên tay nghề, trình độ còn hạn chế, gây khó khăn
khi thâm nhập vào thị trường lao động của các nước có nền kinh tế phát triển.Vậy
chúng ta phải làm gì để cho lao động Việt Nam ngày càng đứng vững và khẳng
định được thương hiệu trên thương trường lao động quốc tế. Để giải quyết tốt vấn
đề trên không hề dễ dàng.Chúng ta đòi hỏi sự nhập cuộc của những nhà quản lý
,các doanh nghiệp cũng như những người lao động đang quan tâm tới XKLĐ…
Trên cơ sở đó chúng tôi đi tới xây dựng đề tài:
“Một số giải pháp nhằm tăng cường công tác xuất khẩu lao động ở Việt


Nam”.
Đề tài được hình thành dựa trên nhiều tài liệu tham khảo cùng với tư liệu
của Bộ Lao Động Thương Binh và Xã Hội, các doanh nghiệp xuất khẩu lao động ở
việt Nam, những đánh giá của một số chuyên gia về thực tế vấn đề xuất khẩu lao
động đang diễn ra trong những năm gần đây. Đề tài cung cấp một số thông tin về
2
quan điểm về xuất khẩu lao động, thực trạng và đặc biệt là một số biện pháp tăng
cường công tác xuất khẩu lao động ở Việt Nam.
Với mục tiêu trên đề tài được xây dựng với các nội dung chính như sau:
Chương 1 – Một số vấn đề lý luận về xuất khẩu lao động ở Việt Nam.
Chương 2 – Tổng quan về tình hình xuất khẩu lao động ở Việt Nam.
Chương 3 – Một số giải pháp nhằm tăng cường công tác xuất khẩu lao động
ở Việt Nam.
Nội dung của 3 chương trên được thể hiện bằng các hình thức diễn giải,
phân tích kết hợp với các số liệu thống kê và các ví dụ thực tế để làm rõ vấn đề.
Phương pháp nghiên cứu của chúng tôi là phương pháp thống kê, phân tích và đi
đến tổng hợp.
3
CHƯƠNG 1 – MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ
XUẤT KHẨU LAO ĐỘNG Ở VIỆT NAM
1.1 – Vai trò của xuất khẩu lao động.
1.1.1 – Khái niệm về xuất khẩu lao động.
Trong thời đại toàn cầu hóa kinh tế và kinh tế thị trường mở rộng, các dòng
di chuyển lao động qua biên giới phức tạp và ngày càng mang đậm chất toàn cầu
hóa. Theo cách đánh giá của tổ chức di dân quốc tế (IOM) có khoảng 185 triệu
người, tức gần 3% dân số thế giới đang ở ngoài lãnh thổ quốc gia mình, trong số
đố có 85 triệu người di chuyển vì mục đích làm việc (Theo tạp chí lao động và xã
hội số 319). Tuy tất cả những người di chuyển qua biên giới để làm việc đều được
coi là lao động, nhưng căn cứ vào danh nghĩa và tính chất thì việc di chuyển theo
những con đường chính thức và hợp pháp có 3 dạng chính sau:

Dạng thứ nhất là xuất khẩu lao động. Đây là dạng di chuyển lao động từ
một nước này sang nước khác theo sự thu xếp chính thức giữa hai quốc gia để
tham gia vào thị trường lao động ở nước đó căn cứ để quyết định số lao động,
ngành nghề, thậm chí giới tính, độ tuổi... là từ nhu cầu về thị trường lao động của
các nước đến. Lao động Việt Nam đang làm việc tại Malaysia, Đài Loan, Hàn
Quốc... thuộc đối tượng này. Những người này làm việc có thời hạn và về nguyên
tắc sẽ trở về nước sau khi hết hạn hợp đồng. Trong nhiều năm nữa, về cơ bản, Việt
Nam vẫn tiếp tục là nước xuất khẩu lao động chứ chưa là nước nhập khẩu lao
động.
Dạng thứ hai là di chuyển lao động tự do trong một thị trường lao động
thống nhất của một khối nước. Để có được thị trường thống nhất thì cần phải có sự
nhất thể hoá về không gian kinh tế giữa các nước. Quá trình nhất thể hóa này cần
thực hiện qua 5 bước. Thứ nhất là các nước trong khối dành cho nhau ưu đãi
thương mại, thứ hai là xây dựng một khu vực mậu dịch tự do, thứ ba là tiến hành
liên minh hải quan, thứ tư là thành lập thị trường chung và cuối cùng là thành lập
liên minh kinh tế. Hiện nay, EU là khối duy nhất đã đạt được mức độ nhất thể hóa
kinh tế đến bước thứ tư là thành lập thị trường chung, nghĩa là tất cả các thị trường
4
bao gồm cả thị trường lao động của các nước thành viên đã trở thành thị trường
chung, thống nhất, được điều chỉnh bởi một hệ thống luật pháp chung áp dụng cho
toàn khối. Di chuyển lao động dạng này chỉ có trong nội khối kinh tế nào đó, còn
trong WTO không có cam kết nào liên quan tới dạng di chuyển lao động này. Như
vậy, dù Việt Nam đã gia nhập WTO thì loại di chuyển theo kiểu này vẫn là tương
lai xa.
Dạng thứ ba là di chuyển thể nhân để thực hiện thương mại dịch vụ. Đây là
một trong những cam kết bắt buộc khi gia nhập WTO, vấn đề không phải là có hay
không có cam kết đối với loại di chuyển thể nhân mà là mức độ cam kết “mở” của
ta là bao nhiêu và theo lộ trình nào? Đây chính là câu chuyện nóng nhất liên quan
tới di chuyển lao động giữa ta và tây trong các năm tiếp theo. Vấn đề khó nhất có
lẽ là làm thế nào phân biệt được ai là diện xuất khẩu lao động và ai là diện di

chuyển thể nhân? Đó chính là công việc của những nhà làm chính sách. Một đối
tượng được điều chỉnh bởi “luật chơi” về lao động còn đối tượng kia được điều
chỉnh bởi “luật chơi” về thương mại. Hai đối tượng này không thể nhập làm một
vì mục đích, tính chất, cương vị di chuyển qua biên giới quốc gia của họ là khác
nhau, nên cũng không thể có một “luật chơi” chung cho cả hai đối tượng trên. Vì
vậy khi bàn về xuất khẩu lao động cần lưu ý phân biệt hai hiện tượng di chuyển
này.
Quan điểm về xuất khẩu lao động ở những nước khác nhau cũng có những
nét riêng. Với Việt Nam, xuất khẩu lao động xét về mặt kinh tế là một loại hình
dịch vụ cung cấp loại hàng hóa đặc biệt đó là sức lao động. Nó chứa đựng đầy đủ
tính chất, yêu cầu của loại hàng hóa đặc biệt đó là hoạt động của con người, tổng
hòa các mối quan hệ xã hội. Giá cả của sức lao động này phụ thuộc vào chất lượng
của lao động trước hết là các yếu tố về trình độ chuyên môn, tay nghề được đào
tạo, mức độ giao tiếp về ngôn ngữ, văn hóa, phẩm chất của cá nhân như tính cần
cù, kỹ năng, tinh xảo, khéo léo...và khả năng hội nhập, giao lưu với các nền văn
hóa, tôn giáo khác. Bên cạnh đó, giá cả của sức lao động còn phụ thuộc vào nhu
cầu của nước nhập khẩu lao động. Xuất khẩu lao động về mặt chính trị là tiến
hành hợp tác góp phần hỗ trợ, xây dựng, phát triển kinh tế - xã hội của nước nhập
khẩu lao động. Khác với các loại hình hàng hóa dịch vụ khác,đối với người đi xuất
5
khẩu lao động, ngoài yếu tố cơ bản về phẩm chất cá nhân, trình độ chuyên môn,
trình độ văn hóa, ngoại ngữ, thì khả năng hòa đồng cũng hết sức quan trọng để
đảm bảo cho tương lai của người lao động Việt Nam ở nước ngoài. Bởi vậy, người
lao động cần phải thực sự tôn trọng luật pháp và hòa hợp tốt với cộng đồng dân cư
nước sở tại. Điều đó sẽ bảo đảm cho vị trí cá nhân được khẳng định, được quý
mến, góp phần nâng cao uy tín, vị thế quốc gia, góp phần củng cố, tăng cường tình
hữu nghị, đoàn kết, thân thiện cộng đồng quốc tế giữa hai nước.
Xuất khẩu lao động là một hoạt động hết sức nhạy cảm vì nó liên quan trực
tiếp đến con người. Cho nên vấn đề về xuất khẩu lao động cũng gây ra một số
quan điểm bất đồng. Tùy theo những quan niệm và cách tiếp cận khác nhau mà

những ý kiến đánh giá về vấn đề này cũng khác nhau. Ở đề tài này chúng tôi xem
xét xuất khẩu lao động theo quan điểm “xuất khẩu lao động là một loại hình dịch
vụ cung cấp loại hàng hoá đặc biệt đó là sức lao động. Nó chứa đựng đầy đủ tính
chất, yêu cầu của loại hàng hóa đặc biệt đó là hoạt động của con người, tổng hoà
các mối quan hệ xã hội” và xuất khẩu lao động là một kênh giải quyết việc làm rất
hữu hiệu, và là một nguồn để thu lượng ngoại tệ cho đất nước trong những thời
gian tới.
1.1.2 – Xuất khẩu lao động - những điểm tích cực và tiêu cực
Một trong những vấn đề thời sự sôi động và nóng bỏng nhất thuộc lĩnh vực
kinh tế - xã hội ở Việt Nam hiện nay trước hết phải kể đến vấn đề “xuất khẩu lao
động” - vấn đề tìm kiếm công ăn việc làm cho người lao động ở nước ngoài. Từ
cả thập niên nay, nhất là trong giai đoạn hiện nay: sau khi nhà nước ta mở cửa hội
nhập vào đời sống kinh tế toàn cầu, Việt Nam chính thức được tiếp nhận vào tổ
chức thương mại thế giới (WTO), là thành viên khối ASEAN, hơn nữa lại được
chính phủ Mỹ tuyên bố muốn tuyển chọn một số công nhân Việt Nam sang làm
việc tại Mỹ, và được chính nhà nước khuyến khích nên vấn đề xuất khẩu lao động
càng bùng nổ dữ dội hơn. Trong những ngày tháng này,tại nhiều thành phố trong
cả nước, đặc biệt là Hà Nội và Thành phố Hồ Chí Minh, người ta không ngạc
nhiên khi trông thấy hàng trăm thanh niên tuổi từ 19 đến 30 chen chúc trước các
văn phòng dịch vụ trung gian “giới thiệu việc làm” mà nhiều nhất là làm việc ở
nước ngoài tức là “xuất khẩu lao động”. Có không ít người phải ăn chực nằm chờ
6
suốt đêm hay từ sáng tinh mơ trước các văn phòng dịch vụ với hy vọng mình sẽ
may mắn có được một công việc ở nước ngoài. Bởi hầu hết các thanh niên này đều
mang trong mình một hoài bão, một mục đích là bằng mọi giá phải xây dựng cho
mình một tương lai tươi sáng hơn cha mẹ của mình. Bởi cảnh sống nông nghiệp
truyền thống ở nông thôn làm nhiều mà được ăn ít, có khi còn không đủ ăn. Hơn
nữa do quá trình đô thị hóa đang diễn ra mạnh mẽ ở nhiều địa phương trong nước
nên đất canh tác cũng bị thu hẹp, thêm vào đó là các công ty lớn nhỏ đua nhau mở
các cơ sở sản xuất kinh doanh mới nên người dân cũng đua nhau bán đất để kiếm

ít vốn để ra thành phố lập nghiệp chứ không chịu cảnh “con trâu đi trước chiếc cày
theo sau”. Còn những người ở thành thị cũng cảm thấy tương lai không được triển
vọng hơn là bao nhiêu vì: đời sống thì giá cả ngày càng leo thang vùn vụt, đắt đỏ
tốn kém đủ bề mà đi làm cho các công ty trong nước thì tiền công quá rẻ. Do đó,
lối thoát tốt hơn là tìm cách để được xuất khẩu đi làm việc ở nước ngoài. Vì ai nấy
đều tin rằng ở ngoại quốc lương thưởng dù có thấp đi chăng nữa thì cũng còn cao
hơn ở trong nước. Chính vì vậy mà rất nhiều người đổ xô đến các trung tâm giới
thiệu việc làm để mong có cơ hội được làm việc ở nước ngoài. Chúng ta sẽ xem
xét một cách khách quan về vấn đề đã được nêu ở trên đó là vấn đề “xuất khẩu lao
động” để xem xét đâu là những điểm tích cực và đâu là những điểm tiêu cực.
Những điểm tích cực
Xuất khẩu lao động là một diễn biến kinh tế hết sức bình thường trên thế
giới. Đây là hoạt động mang tính kinh tế - xã hội cao. Nó góp phần giải quyết
nhiều vấn đề tồn tại trong nền kinh tế hiện nay như: thất nghiệp, cải thiện mức
sống, tăng cường quan hệ ngoại giao... Hiện tượng này cũng đã từng xảy ra tại
Châu Âu: Sau trận Thế chiến II, tuy nước Ðức bị thua trận và bị bom đạn đồng
minh phá tan tành, nhưng nhờ chương trình viện trợ kinh tế Marchal của Hoa Kỳ,
nhất là nhờ có tiềm năng kinh tế sẵn có, ý chí sắt đá của người dân và có được các
nhà lãnh đạo tài ba và liêm khiết, mà điển hình nhất là: thủ tướng Konrad
Adenauer, bộ trưởng kinh tế Ludwig Erhard, v.v…, những người đã “làm phép lạ
kinh tế” tại Ðức, và vì thế hàng triệu nhân công từ các nước nghèo khác như Ý,
Tân Ban Nha, Bồ Ðào Nha, Nam Tư, Thổ Nhĩ Kỳ, đã đổ xô vào Ðức kiếm công ăn
việc làm. Và dĩ nhiên hoàn cảnh sống cụ thể xưa kia của những công nhân ngoại
7
kiều này không hề may mắn hơn. Tuy thiếu thốn vất vả, nhưng so với tình trạng
đói khổ ở quê hương họ lúc bấy giờ, cảnh sống “ăn nhờ ở đậu” tại Ðức vẫn tốt
hơn gấp bội. Họ cũng đóng góp một phần rất lớn vào nền kinh tế thịnh vượng
nước Ðức cũng như nền kinh tế phồn thịnh của quê hương họ mà chúng ta chứng
kiến ngày nay. Giữa hai lựa chọn- hoặc ở nhà để nhìn cả gia đình và quê hương
đói khổ hay đi làm kinh tế ở nước ngoài dù cơ cực, vất vả, nhưng ít nhất còn có

chút điều kiện để cải thiện được phần nào đời sống gia đình, và qua đó phát triển
nền kinh tế quê hương - đương nhiên chúng ta sẽ chọn cái có lợi hơn. Ðể chờ một
ngày không xa sau đó, khi nền kinh tế ở trong nước đã ổn định và tiến cao, bấy giờ
lực lượng lao động không cần phải xuất khẩu nữa. Từ trên, ta thấy được rằng xuất
khẩu lao động đã diễn ra từ khá lâu và có xu hướng ngày càng tăng nhiều hơn nữa
tại các nước trong thời gian tới. Bởi xuất khẩu lao động có những đóng góp tích
cực cho nền kinh tế.
Trước hết, Xuất khẩu lao động là kênh giải quyết việc làm cho lực lượng
lao động ở các quốc gia đặc biệt là những nước nghèo, chậm phát triển. Mặc dù,
nền kinh tế toàn cầu tăng trưởng mạnh trong những năm gần đây, tuy nhiên tỷ lệ
thất nghiệp toàn cầu vẫn còn khá cao. Theo một báo cáo của Tổ chức Lao động
quốc tế (ILO) công bố vào tháng 01/2007 cho thấy số người thất nghiệp trên thế
giới vẫn cao, tới 195,2 triệu người. Vì vậy giải quyết việc làm nhằm giảm tỷ lệ thất
nghiệp đang là vấn đề rất bức xúc hiện nay. Và xuất khẩu lao động là 1 trong
những kênh giải quyết việc làm có thể nói là hữu hiệu. Theo báo cáo hàng năm của
Ngân hàng Thế giới (WB) cho thấy trong 20 năm qua số lao động nhập cư trên thế
giới đã tăng gần gấp đôi, từ 105 triệu người trong năm 1985 lên 200 triệu người
trong năm 2005, điều này đã làm giảm bớt phần nào công ăn việc làm cho người
lao động hàng năm. Và chắc chắn rằng trong thời gian tới xuất khẩu lao động còn
có nhiều đóng góp lớn cho vấn đề này.
Hơn thế nữa, nguồn thu nhập từ lực lượng lao động xuất khẩu đang đóng
vai trò ngày càng lớn cho nền kinh tế. Nguồn thu nhập này là một công cụ để đấu
tranh chống đói nghèo bởi số tiền trên đã góp phần trang trải một phần chi phí học
hành của trẻ em, mua sắm nhà cửa, xây dựng đường xá...và là một phần đóng góp
vào GDP hàng năm của các nước nói trên. Ngoài việc giúp cải thiện tình trạng đói
8
nghèo, nguồn thu của lao động xuất khẩu còn có vai trò thúc đẩy đầu tư, giảm bớt
sự lệ thuộc vào các khoản vay từ các tổ chức tài chính quốc tế, cũng như viện trợ
của các nước phát triển. Theo số liệu thống kê của Ngân hàng Thế giới, từ năm
2001 đến năm 2005, thu nhập do lao động xuất khẩu của các nước đang phát triển

ở khu vực Đông Á và Thái Bình Dương đã gia tăng gấp đôi và lên tới hơn 43 tỷ
USD. Tại khu vực Nam Á con số này là 32 tỷ USD, tăng 67% so với những năm
trước đó.
Tiếp đến, xuất khẩu lao động còn có tác dụng cải thiện chất lượng lao động
của quốc gia xuất khẩu. Phải nói rằng, hầu hết xuất khẩu lao động tham gia xuất
khẩu là những lao động phổ thông, thiếu trình độ chuyên môn, thiếu kinh
nghiệm...và những nước đến là những nước có trình độ công nghệ tiên tiến, là
những nước đi trước. Vì thế khi người lao động tham gia vào thị trường này thì họ
sẽ học hỏi được những trình độ, kinh nghiệm làm việc, được học nghề, được huấn
luyện tác phong công nghiệp...Đây là một trong những cách đào tạo nghề cho
người lao động hiệu quả. Nó vừa tiết kiệm chi phí lại vừa có thể đào tạo được số
lượng lớn và chất lượng tốt. Cũng vì nước xuất khẩu lao động là những nước
nghèo mà lại có số lượng lao động lớn, đặc biệt là lao đông chưa qua đào tạo thì
việc đào tạo nghề là rất khó khăn.
Một đóng góp tích cực nữa của hoạt động xuất khẩu lao động phải kể đến
đó là thông qua xuất khẩu lao động mà mối quan hệ ngoại giao giữa các nước
được cũng cố. Mối quan hệ này không chỉ thể hiện về mặt kinh tế mà nó còn là cơ
sở để các nước giới thiệu về văn hóa, bản sắc của đất nước mình trên vũ đài quốc
tế.
Những điểm tiêu cực
Như đã xem xét ở trên, xuất khẩu lao động có những đóng góp tích cực cho
nên kinh tế xã hội.Tuy nhiên, nếu việc tổ chức và khuyến khích phong trào “xuất
khẩu lao động” chỉ hoàn toàn nhắm tới mục đích duy nhất là muốn tẩy “của nợ”
thất nghiệp và thu nhập số ngoại tệ khổng lồ cụ thể trước mắt do những người Việt
Nam đi lao động hàng tháng hay hàng năm gửi về trong nước, qua thuế lợi tức họ
đóng cho nhà nước hay số tiền họ gửi về tiếp tế cho gia đình mà thôi, thì chúng ta
sẽ vấp phải những sai lầm nghiêm trọng. Bởi không có cái gì là chỉ có tích cực mà
9
không có tiêu cực, không có cái gì là hoàn hảo. Xuất khẩu lao động cũng vậy, nó
cũng có những điểm tiêu cực nhất định.

Thứ nhất, xuất khẩu lao động là nguyên nhân gây nên tình trạng chảy máu
chất xám. Điều này có vẽ như mâu thuẫn với vấn đề cải thiện chất lượng lao động
nêu ở trên, nhưng thực ra thi không thế. Xuất khẩu lao động không chỉ là sự tham
gia của những lao động thiếu tay nghề mà còn có sự tham gia của những lao động
lành nghề và cả những lao động có trình độ cao nữa. Lý do cho tình trạng này đó
là những người tham gia xuất khẩu lao động thường có thu nhập cao và ổn định,
đặc biệt là những lao động có nghề và có trình độ cao thì thu nhập càng cao. Mặt
khác, những lao động có trình độ thường có xu hướng sang các nước phát triển,
các nước có trình độ khoa học công nghệ tiên tiến để làm việc vì ở đây có môi
trường làm việc tốt, có cơ hội phát triển năng lực bản thân. Hơn thế nữa, thường
các nước phát triển họ có chính sách đãi ngộ cao về cả vật chất và tinh thần cho
những người lao động có trình độ. Do đó, hàng năm, lượng lao động có chất lượng
cao bị “hút” vào các nước này là khá lớn. Cũng cần lưu ý một điều là, những lao
động ban đầu chưa có tay nghề nhưng sau khi làm việc ở nước ngoài, trình độ tay
nghề được cải thiện thì sau khi về nước lại có xu hướng gia hạn thêm hợp đồng
hoặc lại đi sang nước khác làm việc. Từ đó, nguồn chất xám của nước cho xuất
khẩu lao động lại dần trở nên nghèo nàn hơn, không tạo được lực đẩy cho phát
triển kinh tế. Đặc biệt, trong bối cảnh hiện nay của nền kinh tế thế giới đó là xu
hương toàn cầu hóa thì hiện tượng “chảy máu chất xám” ngày càng là vấn đề quan
trọng, liên quan đến sự phát triển lâu dài của mỗi quốc gia.
Thư hai, Theo giáo sư Trần Văn Thọ Đại Học Waseda, Tokyo: “...Một nước
xuất khẩu nhiều lao động giản đơn hầu hết nếu không nói là tất cả, là những nước
nghèo, và do đó hình ảnh của các nước này không mấy sáng sủa trên vũ đài thế
giới…”. Thật vậy, qua hoàn cảnh sống và làm việc thực tiễn của người lao động
Việt Nam hiện nay ở nước ngoài, người ta có cảm giác là những cơ sở dịch vụ làm
môi giới việc làm - ở trong cũng như ngoài nước - chỉ là những cơ sở “đưa con bỏ
chợ”; nói cách khác, họ chỉ nhắm tới cái lợi vật chất trước mắt cho chính họ - từ
việc thu lệ phí, tiền bồi dưỡng, tiền thế chân của người lao động, tiền thuế người
lao động phải đóng; nguyên tiền bồi dưỡng và thế chân có người đã phải trả tới cả
10

chục ngàn USD - chứ số phận người lao động ở ngoại quốc trong suốt thời gian
làm việc ra sao, họ không cần quan tâm. Vì thế, những người được xuất khẩu lao
động muốn sống là họ phải dựa vào nhau, chứ họ không còn biết nương nhờ vào ai
được nữa. Họ cảm thấy bị bỏ rơi. Nếu như thế thì việc cho xuất khẩu lao động là
một việc làm hoàn toàn tiêu cực và vô trách nhiệm. Mỗi người công nhân xuất
khẩu lao động là một nhân vị với đầy đủ nhân phẩm và mọi giá trị mà “Thượng
Ðế” đã ban cho họ, nên chẳng những bất khả xâm phạm mà còn đòi chúng ta phải
tôn trọng và bảo vệ nữa! Vã lại họ còn là những người công dân, những người
đồng bào của chúng ta. Vì thế, không ai có quyền lợi dụng sức lao động của người
khác nói chung và của những người anh em đồng bào mình nói riêng, để trục lợi,
để thu vén lợi ích cho riêng mình. Nhất là thái độ vô trách nhiệm “sống chết mặc
bay” hiện nay của một số cơ quan, ban ngành liên hệ đối với tầng lớp công nhân
được gửi đi lao động ở nước ngoài là một điều không thể chấp nhận được. Như đã
nói ở trên là chúng ta xuất khẩu lao động không chỉ nhắm tới số lợi tức bằng ngoại
tế do các công nhân chúng ta mang lại như là mục đích chính, nhưng là nhắm tới
việc phát huy sự hiểu biết và các tài năng của người công nhân – theo kinh
nghiệm: “đi một ngày đàng học một tràng khôn”, cũng như việc đào tạo những
công nhân có được kinh nghiệm về kỹ thuật tân tiến, có tay nghề cao cho tương lai
của nền kinh tế nước nhà, thì chúng ta chỉ nên gửi các công nhân đi làm việc tại
các công ty và các cơ sở kỹ nghệ chuyên môn. Còn những công nhân nữ đi xuất
khẩu chỉ để “giúp việc nhà” trong các tư gia thì nên hạn chế và dần dần xóa bỏ, vì
thực tế cụ thể chứng mình cho thấy rằng đó là một vấn đề quá phức tạp và nhạy
cảm: phẩm giá của những người công nhân nữ đó thường bị xúc phạm nặng nề.
Nhưng vì hoàn cảnh éo le “tiến thoái lưỡng nan” nên họ đành “chịu đấm ăn xôi”
một cách tủi nhục. Hơn nữa công tác quản lý lao động ở nước ngoài của các nước
xuất khẩu nếu làm không tốt sẽ dễ dẫn đến tình trạng vô tổ chức, tình trạng người
lao động bỏ việc, phá hợp đồng và vi phạm pháp luật của người lao động sẽ gia
tăng và từ đó làm cho uy tín, thương hiệu và hình ảnh của nước xuất khẩu lao
động xấu đi rất nhiều trên vũ đài quốc tế.
Thư ba, xuất khẩu lao động là một trong những điều kiện để tạo nên sự giao

thoa giữa các nền văn hóa khác nhau trên thế giới. Nhưng nếu công tác quản lý lao
11
động không cẩn thận thì đây cũng là môi trường cho những sự du nhập văn hóa
“độc hại” từ các nước sở tại sang nước bản địa. Đó là lối sống buông thả, là những
ý thức hệ quá khích...Đây cũng là nơi những tư tưởng khủng bố, tư tưởng phản
động dễ sinh sôi và lan truyền nhất. Những vấn đề này hết sức nhạy cảm, vì thế
các nhà lãnh đạo cần phải có những biện pháp phù hợp để tránh cho những người
công nhân trẻ khi làm việc tại các nước Hồi Giáo không bị thâm nhiễm những ý
thức hệ quá khích, và tại các nước Âu Mỹ không bị lây nhiễm những cách sống
phóng đãng của một số lớn các thanh thiếu niên tại đây, hầu cho sau này nước nhà
không phải gánh chịu những hậu họa nạn khủng bố như trường hợp của các nước
Thái Lan, Phi Luật Tân, v.v…
1.2 – Sự cần thiết của xuất khẩu lao động ở Việt Nam.
Trong thời đại toàn cầu hóa, lao động di chuyển từ nước này sang nước
khác đã trở thành hiện tượng khá phổ biển. Tuy không nhộn nhịp như tư bản và
công nghệ, nhưng lao động cũng là một yếu tố sản xuất ngày càng vượt biên giới
tìm nơi có mức thù lao cao hơn. Tuy nhiên, khác hẳn với sự di chuyển của lao
động trí thức đã có từ trước, xuất và nhập khẩu lao động giản đơn hay lao động
chân tay là hiện tượng tương đối mới. Vấn đề này cũng phức tạp, không thể xét ở
khía cạnh thuần kinh tế. Câu hỏi đặt ra là Việt Nam cần suy nghĩ như thế nào về
vấn đề xuất khẩu lao động? XKLĐ là việc làm phù hợp với xu thế của thời đại.
Philippines là quốc gia có 10% lao động làm việc ở nước ngoài, đã có đóng góp
đáng kể cho bản thân, gia đình và xã hội. Nhưng có phần khác với VN, họ không
xuất khẩu Thực tập sinh (TTS), mà là những lao động có tay nghề.
Về vấn đề này, chắc chắn chúng ta cũng đã nghe những ý kiến phê bình
chống đối. Những ý kiến này cho rằng xuất khẩu lao động là một hình thức bắt dân
mang thân đi làm nô lệ cho ngoại quốc. Tuy nhiên, những ý kiến này không phải là
hoàn toàn chủ quan và thiếu cơ sở. Thật vậy, nhìn vào hiện tình đời sống của một
số lao động Việt Nam ở các nước như: Indonesia, Malaisia, Thái lan, Libăng ...
quá thiếu thốn về đủ mọi phương diện: thiếu sự chăm sóc sức khỏe, bị chèn ép, bị

bóc lột, thậm chí có khi nhân vị và phẩm giá của họ còn bị những người chủ xúc
phạm trắng trợn và không ít trường hợp xảy ra thật đáng thương tâm. Nhưng nếu
chúng ta nhìn vấn đề một cách khách quan và toàn diện hơn chúng ta sẽ thấy vấn
12
đề xuất khẩu lao động là một diễn biến kinh tế rất bình thường, nên không những
đúng, tích cực mà còn cần thiết nữa. Còn nếu chỉ dừng lại ở chi tiết vấn đề thì
chúng ta khó có thể tiến xa hơn được.
Bất cứ quốc gia nào đang trong giai đoạn chuyển tiếp từ một “nền kinh tế
bao cấp” hay “kinh tế kế hoạch” độc đoán và cứng nhắc bước sang nền “kinh tế thị
trường” tự do và linh động, từ nông nghiệp bước sang công nghiệp, từ cảnh “buôn
thúng bán mẹt” bước sang thị trường “siêu thị”; từ thị trường bán lẻ bước sang thị
trường tập trung... Do đó chúng ta không thể tránh khỏi thời gian loạng choạng và
khủng hoảng buổi đầu như: thiếu vốn, thiếu nhân lực có năng lực chuyên môn,
nhưng lại thặng dư quá nhiều nhân lực không có khả năng chuyên môn, phải đối
mặt với những cạnh tranh khắt khe trên thương trường quốc tế, với các công ty
nước ngoài mạnh về tài chính, giàu về chuyên môn và kinh nghiệm từ hình thức,
mẫu mã cho đến chất lượng. Trong khi đó hoàn cảnh cụ thể của một đất nước đang
trên đường hội nhập và phát triển như Việt Nam, với trên 80 triệu dân, mà quá bán
là thuộc tầng lớp trẻ dưới 30 tuổi, thì việc tự đào tào và huấn nghiệp trong nước là
hoàn toàn quá tải, nếu không nói là một điều bất khả thi. Bởi vậy, những câu hỏi
khẩn trương được đặt ra là : Làm thế nào để tạo ra được nguồn vốn cho công cuộc
phát triển kinh tế của nước nhà? Phải giải quyết công ăn việc làm cho hàng triệu
người lao động, nhất là tầng lớp lao động trẻ ra sao? Làm thế nào để có thể học hỏi
được những kỷ thuật chuyên môn của các nước bạn? Và làm thế nào để giúp cho
đội ngũ công nhân trẻ có dịp tiếp cận, học hỏi được những kinh nghiệm về kỷ
thuật của nước ngoài? v.v… Ðó là những bức xúc mà “xuất khẩu lao động” có thể
nói được là một trong những cách giải quyết tạm thời. Trong công cuộc phát triển
kinh tế, chúng ta cần đến sự trợ giúp kinh tế của nước ngoài, cần đến vốn liếng
đầu tư của các công ty ngoại quốc, đó là vấn đề quan trọng và cần thiết. Nhưng
một vấn đề khác cũng không kém phần quan trọng và cần thiết, đó là chính chúng

ta cũng phải “tự túc tự cường” nữa, chứ không thể “ngồi chơi xơi nước” và chỉ “há
miệng chờ sung” được. Nếu những ai đã từng sống ở các nước kỷ nghệ tân tiến,
những nơi mà thời gian được coi là quý hơn vàng bạc mà phải chứng kiến cảnh
trong các quán cà-phê và các quán nhậu ở Hà Nội, ở Saigon hay ở các thành phố
khác trong nước, vào các buổi sáng, từ 8,9 giờ đến 10,11 giờ, tức giờ làm việc cao
13
điểm, luôn luôn đầy ắp tầng lớp thanh niên ngồi đọc báo và tán gẫu, thì chắc chắn
sẽ không tránh khỏi những tư tưởng bi quan cho một viễn tưởng kinh tế tiến bộ và
phát triển. Chúng ta cần phải làm một cái gì đó,cần phải thay đổi thì mới mong
nền kinh tế nước nhà có cơ may tiến lên được, hay ít ra bớt tụt hậu so với các nước
phát triển. Trong những băn khoăn toan tính đó, phải kể đến việc “xuất khẩu lao
động”. Và trước hết, ít ra cần phải tạm thời giải quyết được phần nào tình trạng
thất nghiệp của nước nhà, nhằm giảm bớt đi tình trạng “nhàn cư vi bất thiện”, từ
đó làm giảm thiểu những tệ nạn trong xã hội.
1.2.1 – Kinh nghiệm xuất khẩu lao động ở các nước.
Theo Ngân hàng Phát triển châu Á (ADB), hiện nay ở châu Á có 54 triệu
lao động xuất khẩu và lực lượng này đang góp phần giảm bớt tình trạng đói nghèo
ở các nước trong khu vực, vì vậy các chính phủ cần tạo điều kiện thuận lợi về đi
lại và làm việc cho họ. Trong báo cáo thường niên công bố ngày 2/4, ADB cho biết
trong năm 2007 các lao động xuất khẩu ở châu Á đã gửi về quê nhà 108,1 tỷ USD,
chiếm hơn 1/3 tổng lượng tiền này trên toàn thế giới. Tuy nhiên, theo đánh giá của
ADB, các quy định ở châu Á đối với lực lượng lao động xuất khẩu vẫn khá chặt
chẽ, các chính phủ trong khu vực cần tăng cường hợp tác để mở rộng thị trường
lao động, quản lý luồng lao động và giảm thiểu phí tổn cho lao động xuất khẩu
(Theo báo điện tử - Thời báo kinh tế ngày 13/04/2008).
Hiện những điểm đến đang rất hấp dẫn đối với lao động xuất khẩu châu Á,
đặc biệt từ Đông Nam Á, là Hồng Kông, Đài Loan, Hàn Quốc và Singapore.
Những nước cần nhập khẩu lao động có hai loại: một là những nước dân số ít mà
giàu tài nguyên như ở Trung Đông, ở đây thiếu lao động trong các ngành xây
dựng, dịch vụ, nhất là dịch vụ tại tư gia; hai là những nước đã phát triển, kể cả

những nước công nghiệp mới như Hàn Quốc, Đài Loan, Singapore, Malaysia.
Trong nhóm thứ hai, cơ cấu kinh tế chuyển dịch nhanh sang những ngành dùng
nhiều tư bản, công nghệ và lao động trí thức, và chuyển sang nước ngoài đầu tư
trực tiếp, những ngành có hàm lượng lao động giản đơn cao. Tuy nhiên, tại những
nước công nghiệp mới, những ngành dùng nhiều lao động giản đơn có quy mô khá
lớn nên không thể chuyển hết ra nước ngoài. Thêm vào đó, trong những ngành
đang phát triển mạnh tại những nước này, nhiều công đoạn còn dùng lao động giản
14
đơn nên nhu cầu nhập khẩu lao động tăng. Tại những nước phát triển như Tây Âu,
Bắc Mỹ, Nhật... nhu cầu lao động tăng trong ngành xây dựng, dịch vụ ẩm thực,
dịch vụ săn sóc người cao tuổi, một số nước cần lao động trong nông nghiệp. Ở
đây, cần lưu ý một điểm là tại các nước đã phát triển không phải là không còn tồn
tại lao động giản đơn. Vẫn còn một bộ phận không nhỏ số người mới ở trình độ
giáo dục cưỡng bách. Tuy nhiên vì tiền lương nói chung đã tăng cao theo mức
sống của xã hội, các xí nghiệp có khuynh hướng thuê mướn lao động nước ngoài
để giảm chi phí. Mặt khác, lao động bản xứ có xu hướng tránh những loại công
việc mà môi trường lao động không tốt dễ gặp tai nạn, như ở các công trình xây
dựng. Tại Nhật 3 loại công việc mà tiếng Nhật gọi là 3k, phải nhập khẩu lao động
nước ngoài vì không thuê mướn được lao động bản xứ : nguy hiểm (kiken), môi
trường làm việc không sạch sẽ (kitanai) và điều kiện lao động khắc nghiệt (kitsui)
như nóng bức, ngột ngạt.
Về khía cạnh các nước xuất khẩu lao động, nói chung đây là những nước
kém phát triển hoặc phát triển với tốc độ chậm mà không ưu tiên đầy mạnh các
ngành dùng nhiều lao động. Cho đến nay, những nước xuất khẩu lao động vừa
nhiều về số lượng lao động vừa có tỷ lệ cao trong tổng dân số của nước đó là
Lebanon, EL Salvador, Columbia, Pakistan và Philipin. Lao động các nước này đã
gửi về hơn 30% thu nhập mà họ nhận được. Riêng Philipin hiện nay có khoảng 8
triệu người làm việc ở nước ngoài, bằng khoảng 10% dân số nước này. Hằng năm
ngoại hối do lao động xuất khẩu gửi về qua đường chính thức khoảng 10 tỉ USD,
xấp xỉ 10% GDP. Ước tính, tổng số kiều hối do lao động nước này gửi về qua các

kênh khoảng 14 tỷ đến 21 tỷ USD, lớn hơn cả số vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài
FDI và viện trợ quốc tế vào Philippines. Dự kiến vào năm 2010, con số này sẽ
tăng lên 21,4 tỷ USD. Còn với đất nước Srilanka, thu nhập từ xuất khẩu lao động
hiện cao hơn thu nhập từ xuất khẩu chè, mặt hàng xuất khẩu chủ yếu của nước
này. ( Theo vnecono.vn – thông tin kinh tế ngày 16/06/2008).
Nhìn chung có thể thấy một số đặc điểm cơ bản liên quan đến những nước
xuất khẩu lao động và đặc điểm lao động xuất khẩu là:
Thứ nhất, lao động giản đơn xuất khẩu sang các nước phát triển nhất là các
nước công nghiệp mới thông thường làm việc trong môi trường khó khăn, quyền
15
lợi của người lao động dễ bị xâm phạm nếu việc xuất khẩu lao động không được
tổ chức chu đáo, không có sự cam kết của xí nghiệp dùng lao động và sự giám sát
của các cơ quan nước sở tại.
Thứ hai, vì là lao động giản đơn, trình độ học vấn, trình độ văn hóa của
người đi lao động nước ngoài thấp nên khó thích nghi với điều kiên văn hóa xã hội
nước ngoài. Không ít người thất vọng với hoàn cảnh sống và làm việc ở nơi đất
khách quê người, và có nhiều trường hợp phạm pháp xảy ra, gây ra hình ảnh xấu
cho nước xuất khẩu lao động. Ngoài ra, cùng với điểm thứ nhất, lao động có trình
độ văn hóa thấp thường dễ bị bóc lột tại xứ người.
Thứ ba, nước xuất khẩu lao động hầu hết là những nước không thật thành
công trong các chiến lược phát triển kinh tế. Với trình độ văn hóa thấp, người dân
nước này không khỏi lo âu khi rời xa xứ sở ra nước ngoài làm việc. Tại Á châu,
ngay cả việc rời khỏi nông thôn để ra thành thị đối với họ cũng không phải là sự
lựa chọn dễ dàng. Thành ra, nếu trong nước có công ăn việc làm thì ít người muốn
tham gia xuất khẩu lao động.
Thứ tư, cho đến nay, trong những nước xuất khẩu lao động chưa thấy nước
nào đưa vấn đề này vào trong chiến lược phát triển kinh tế chung, trong đó lao
động được đưa đi sẽ bảo đảm rèn luyện được tay nghề khi trở về, ngoại hối thu
được sẽ được dùng một cách hiệu quả trong việc du nhập công nghệ tư bản...và có
kế hoạch giảm bớt xuất khẩu lao động trong tương lai. Chỉ thấy có trường hợp

(như Malasia đã làm 20 năm trước) tích cực đưa thực tập sinh sang tu nghiệp ngắn
hạn tại các nước tiên tiến để sau đó về làm với năng suất cao hơn tại các nhà máy
hoặc cơ sở kinh tế khác, nhằm thực hiện thành công chiến lược phát triển chung.
Nhưng thực tập sinh khác về chất với vấn đề xuất khẩu lao động.XKLĐ là việc
làm phù hợp với xu thế của thời đại. Philippines là quốc gia có 10% lao động làm
việc ở nước ngoài, đã có đóng góp đáng kể cho bản thân, gia đình và xã hội.
Nhưng có phần khác với VN, họ không xuất khẩu TTS, mà là những lao động có
tay nghề.
1.2.2 – Vấn đề xuất khẩu lao động ở Việt Nam trong thời gian qua.
Việc đưa người lao động đi làm việc ở nước ngoài là một chủ trương lớn
của Đảng và Nhà nước ta nhằm tạo việc làm, tăng thu nhập, nâng cao trình độ tay
16
nghề, tiếp cận công nghệ tiên tiến cho người lao động. Nước ta đã hợp tác đưa lao
động đi làm việc ở nước ngoài từ năm 1980. Trong thời kỳ từ năm 1980 đến 1990,
hợp tác lao động của nước ta chủ yếu thông qua các Hiệp định Chính phủ với Liên
Xô (trước đây), một số nước xã hội chủ nghĩa ở Đông Âu và một số nước ở Trung
Đông. Trong giai đoạn này, hợp tác lao động được thực hiện theo kế hoạch của
Nhà nước do các cơ quan Nhà nước tổ chức thực hiện. Trong vòng 10 năm từ 1980
– 1990 nước ta đã đưa được khoảng 277.183 người đi lao động có thời hạn ở nước
ngoài, bình quân mỗi năm có trên 2.7 vạn người tham gia xuất khẩu lao động. Từ
năm 1991 đến nay, hoạt động đưa người lao động đi làm việc ở nước ngoài được
thực hiện theo cơ chế thị trường, Nhà nước chủ yếu làm chức năng quản lý, mở thị
trường, các doanh nghiệp ký kết hợp đồng và trực tiếp đưa, quản lý người lao
động làm việc ở nước ngoài. Quy định hiện hành của pháp luật về xuất khẩu lao
động, ngoài tám điều trong Bộ luật Lao động, chủ yếu được quy định trong các
Nghị định của Chính phủ.Theo đó, Nhà nước tạo điều kiện thuận lợi để công dân
Việt Nam có đủ điều kiện đi làm việc ở nước ngoài; bảo hộ quyền, lợi ích hợp
pháp của người lao động đi làm việc ở nước ngoài; hỗ trợ đầu tư mở thị trường lao
động mới, thị trường có thu nhập cao, thị trường tiếp nhận nhiều người lao động;
hỗ trợ đào tạo cán bộ quản lý, dạy nghề, ngoại ngữ cho người lao động; Nhà nước

có chính sách tín dụng ưu đãi cho các đối tượng chính sách xã hội đi làm việc ở
nước ngoài; khuyến khích đưa nhiều người lao động có trình độ chuyên môn, kỹ
thuật đi làm việc ở nước ngoài, đưa người lao động đi làm việc ở thị trường có thu
nhập cao; khuyến khích đưa người lao động đi làm việc tại công trình, dự án, cơ
sở sản xuất, kinh doanh do doanh nghiệp, tổ chức, cá nhân trúng thầu, nhận thầu,
đầu tư thành lập ở nước ngoài. Không kể thời kỳ quan hệ kinh tế mật thiết với các
nước Đông Âu, xuất khẩu lao động của Việt Nam tăng nhanh từ cuối thập niên
1990 và chủ yếu sang các nước Đông Á, Nhất là Malaisia, Đài Loan và Hàn Quốc.
Gần đây, thị trường xuất khẩu lao động mở rộng sang Trung Đông, Tây Âu và Mỹ.
Từ năm 2001, bình quân mỗi năm có 70.000 lao động được đưa ra nước ngoài.
Hiện nay có xấp xỉ 500.000lao động Việt Nam đang làm việc tại hơn 40 nước và
lãnh thổ, trong đó riêng tại Malaisia có hơn 100.000 người, chiếm khoảng 10%
tổng số lao động nhập khẩu của nước này.
17
Tuy nhiên, cùng với sự tăng lên về số lượng lao động xuất khẩu thì trong
thời gian quan xuất khẩu lao động của nước ta cũng có những điểm cần phải lưu ý.
Cùng với hiện tượng ngày càng nhiều phụ nữ Việt Nam kết hôn với người nước
ngoài chỉ vì mục đích giải quyết khó khăn về kinh tế, biến việc xuất khẩu lao động
trở thành vấn đề bức xúc của xã hội ta, xúc phạm lòng tự trọng của người Việt.
Đặc biệt xuất khẩu lao động ồ ạt làm cho hình ảnh của Việt Nam trên thế giới
không mấy sáng sủa. Tổn thất này có bù đắp được bởi mấy tỉ USD ngoại hối hay
không? Hiện nay, trong nước đang bàn về dự thảo đưa người lao động đi làm việc
ở nước ngoài và đã được thông qua vào cuối năm 2006. Việc tổ chức có hệ thống
này hy vọng sẽ cải thiện tốt hơn tình hình xuất khẩu lao động hiện nay. Trong điều
kiện kinh tế khó khăn, xuất khẩu lao động có thể cải thiện đáng kể đời sống của
người lao động, mang lại nguồn ngoại tệ đóng góp cho ngân sách nhà nước, góp
phần thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội của địa phương. Dó đó xuất khẩu lao
động là một biện pháp hữu hiệu trong hoàn cảnh hiện nay và trong thời gian tới.
Tuy nhiên có những người bất đồng quan điểm đã lên tiếng phê bình và chống đối
không phải là vô căn cứ. Vì vậy chúng tôi muốn nhấn mạnh rằng phải làm thế nào

để hạn chế bớt những điểm tiêu cực của xuất khẩu lao động thì nó phải nhằm tới
mục đích thật rõ ràng như:
Mục đích gần: Giải quyết công ăn việc làm cho tầng lớp công nhân trẻ;
tránh đi cho họ cảnh “nhàn cư vi bất thiện”, không bị rơi vào các tệ nạn xã hội; và
nhất là thu về cho ngân sách nhà nước một số ngoại tệ to lớn mà nhà nước đang
cần để giao dịch thương mại với ngoại quốc.
Mục đích xa: Trong khi làm việc ở ngoại quốc, các công nhân Việt Nam có
dịp tiếp cận và học hỏi được các kỹ thuật, chuyên môn của nước bạn. Như thế,
dưới một hình thức nào đó, các công nhân xuất khẩu lao động hiện nay cũng có
thể gọi là “du học sinh” và do đó là một tiềm năng đầy triển vọng trong việc xây
dựng nền kinh tế nước nhà sau này. Người ta không được phép quên rằng mỗi
người công nhân là một nhân vị có đầy đủ phẩm giá thiêng liêng, cao cả mà tạo
hóa đã ban cho họ, nên không bất cứ ai có quyền coi họ như những bộ phận thuần
túy kinh tế nhất là lợi dụng sức lao động của họ để trục lợi riêng. Trái lại, các cơ
quan và ban ngành liên quan có bổn phận phải săn sóc, chăm lo đời sống cụ thể
18
của người công nhân xuất khẩu về vật chất cũng như tinh thần, nhất là bảo vệ và
bênh vực cho họ trước sự đàn áp và bóc lột của các chủ nhân cũng như những
công chức thoái hóa của các nước sở tại. Được như vậy các ban ngành và các giới
chức liên quan mới tránh cho người công nhân xuất khẩu lao động cái mặc cảm
“một cổ hai tròng” và cảnh “làm tôi hai chủ”, chủ nhân của nước sở tại và các giới
chức Việt Nam phụ trách họ. Và có được như thế thì phong trào “xuất khẩu lao
đông” mới có đầy đủ lý hữu và có ý nghĩa đích thực của nó, tránh được những suy
nghĩ tiêu cực về vấn đề này.
CHƯƠNG 2 – TỔNG QUAN VỀ TÌNH HÌNH XUẤT
KHẨU LAO ĐỘNG CỦA VIỆT NAM
2.1 – Thực trạng xuất khẩu lao động ở Việt Nam.
2.1.1 – Những thành tựu của xuất khẩu lao động trong những năm qua.
Đối với một nước dân số vào khoảng 84 triệu dân, với trên một nữa là số
người trong độ tuổi lao động, nhưng số người thất nghiệp ở thành thị lên đến 5,6%

và số thời gian chưa được sử dụng ở nông thôn lên đến trên 20%, thì xuất khẩu lao
19
động là một kênh giải quyết việc làm cho người lao động rất có ý nghĩa. Xuất khẩu
lao động cũng là một kênh đem lại nguồn thu nhập cho đất nước. Hơn nữa, nó còn
tạo điều kiện cho người lao động học hỏi được những kinh nghiệm làm việc trong
nền công nghiệp, nâng cao tay nghề và tác phong làm việc cho người lao động...
Những người này, với những kinh nghiệm học hỏi được cùng với số vốn mà họ
tích lũy được sau khi hoàn thành hợp đồng sẽ trở về quê hương đầu tư xây dựng
nhà cửa, lập ra các doanh nghiệp vừa và nhỏ, góp phần xóa đói giảm nghèo và
thúc đẩy sự phát triển kinh tế xã hội của đất nước. Vì vậy, xuất khẩu lao động là
một hình thức đang được Đảng và nhà nước rất quan tâm. Trong mấy năm gần
đây, số lao động đi làm việc ở nước ngoài ngày một tăng lên rõ rệt về cả chất
lượng và số lượng. Theo báo cáo của Bộ lao động - thương binh và xã hội với Ủy
ban thường vụ Quốc hội về tình hình xuất khẩu lao động từ năm 2003 đến hết
tháng 06/2005, cả nước đã đưa được trên 173.000 lao động đi làm việc ở nước
ngoài. Và cho đến thời điểm này nước ta có hơn 400.000 lao động Việt Nam đang
làm việc tại hơn 40 nước và vùng lãnh thổ với tổng thu nhập hàng năm khoảng
1.5tỷ USD. Báo cáo khẳng định công tác xuất khẩu lao động và chuyên gia trong
những năm qua đã góp phần đào tạo nghề, giải quyết việc làm, xóa đói giảm
nghèo, cải thiện đời sống cho một bộ phận người lao động, chủ yếu ở nông thôn và
người nghèo. Xuất khẩu lao động trong thời gian qua không chỉ tăng lên về số
lượng mà chất lượng cũng được cải thiện rõ rệt. Điều này thể hiện qua sự thay đổi
cơ cấu nghề nghiệp và sự đa dạng hóa ngành nghề trong xuất khẩu. Nếu như trong
giai đoạn 1980 – 1990 lao động Việt Nam chủ yếu làm việc trong các ngành nghề
như: cơ khí, công nghiệp nhẹ, hóa chất,... thì đến nay lao động Việt Nam còn tham
gia vào các ngành mới, đặc biệt là những ngành về các dịch vụ xã hội như: chăm
sóc người già, làm việc nội trợ, làm nông nghiệp...Năm 2007 Việt Nam đưa đi
được khoảng 85000 lao động làm việc trong khoảng 30 nhóm ngành nghề khác
nhau như: cơ khí, chế tạo, xây dựng, lắp ráp điện tử, dệt may, thuyền viên tàu đánh
cá và tàu vận tải, dịch vụ xã hội...Số lượng lao động đi làm việc có nghề cũng

ngay càng tăng. Cụ thể, năm 2003 tỷ lệ lao động có nghề tham gia xuất khẩu vào
khoảng 16,17%, năm 2004 và 2005 tỷ lệ này là 20%, năm 2006 là 27,5% và cho
tới năm 2007 thì tỷ lệ này tăng lên tới 30%.
20
(Theo thời báo kinh tế Việt Nam 22/02/2007). Năm 2006, xuất khẩu lao
động ở Việt Nam đã tiếp tục được giữ vững, ổn định các thị trường truyền thống,
mở thêm được các thị trường mới. Kết quả xuất khẩu lao động và chuyên gia cả
nước đạt 78.855 người, bằng 105,1% kế hoạch, vượt 12% so với năm 2005. Riêng
9 tháng đầu năm 2007, cả nước đưa được 62760 lao động sang nước ngoài, đạt
78.5% kế hoạch cả năm. Trong đó đông nhất là Malaysia với 21313 người, thứ hai
là thị trường Đài Loan với 16554 người, tiếp đó là Hàn Quốc với 8536 người,
Quatar 4350 người, Nhật Bản là 3047 người, Macao là 1631 người và các thị
trường khác là 7032 người. Nếu năm 1995 nước ta mới có 29vạn lao động làm
việc ở tại 15nước thì đến nay đạt gần 60vạn lao động làm việc ở trên 40nước và
vùng lãnh thổ. Hiện nay, lao động Việt Nam đang làm việc chủ yếu ở các thị
trường: Malaysia trên 100.000 người, thu nhập bình quân 2÷3triệu đồng/tháng,
một số nghề thu nhập 5-7triệu đồng/tháng; Đài Loan có trên 90.000 người thu
nhập 300-500 USD/tháng; Hàn Quốc có trên 30.000 người, thu nhập bình quân
khoảng 900-1000 USD/tháng; Nhật Bản khoảng 19.000 tu nghiệp sinh với thu
nhập bình quân trên 1000USD/tháng. Ngoài ra, các tiểu vương quốc Ả Rập thống
nhất có khoảng 3000 lao động và tại Quatar co trên 7000 người. Chúng ta đang bắt
đầu đầu tư vào kế hoạch đưa lao động sang các thị trường mới như Cộng hòa Sec,
Úc, Bruney, Macao, Nga, Canada...Hàng năm, số lao động làm việc ở nước ngoài
đã gửi về nước một lượng ngoại tệ khoảng 1.6 tỷ USD, đó là con số khá đáng kể.
Đặc biệt cho đến hết năm 2007, xuất khẩu lao động chúng ta đã hoàn thành vượt
mức kế hoạch là đã đưa được trên 85.000 lao động đi làm việc có thời hạn ở nước
ngoài, người lao động gửi về 1.7tỷ USD.
Mặt khác, các doanh nghiệp xuất khẩu lao động cũng không ngừng tăng lên
về cả số lượng và chất lượng. Theo thông tin từ Hiệp Hội Xuất khẩu lao động Việt
Nam (trang thông tin điện tử - Bộ lao động - Thương binh và xã hội ngày

20/2/2008), trong năm 2007, Hiệp hội biểu dương 19 doanh nghiệp có thành tích
xuất sắc trong việc đưa lao động đi làm việc ở nước ngoài. Trong đó công ty AIC
đã xuất khẩu trên 5.000 lao động, còn lại các công ty khác đã đưa được hơn 1.000
lao động / năm như các công ty TRAENCO, công ty TTLC…Đạt được kết quả
trên, những công ty này, trong năm phải vượt qua rất nhiều khó khăn như thị
21
trường lao động cạnh tranh gay gắt, nguồn tuyển lao động khan hiếm, đã góp phần
cùng 150 doanh nghiệp xuất khẩu lao động của cả nước đưa được hơn 85 nghìn
lao động đi làm việc ở nước ngoài. Trong năm 2007, Trung tâm Lao động Ngoài
nước đã hoàn thành và hoàn thành vượt mức các chỉ tiêu, nhiệm vụ được Bộ giao
về công tác tuyển chọn, đào tạo và đưa người lao động đi làm việc ở nước ngoài.
Đây là năm thứ hai Trung tâm phối hợp với phía Hàn Quốc tổ chức thành công 2
đợt kiểm tra tiếng Hàn cho hơn 16 nghìn lao động; phối hợp với các đơn vị liên
quan và các địa phương hướng dẫn người lao động thi đạt chứng chỉ làm hồ sơ dự
tuyển và gửi hồ sơ qua mạng để chủ sử dụng lao động Hàn Quốc lựa chọn. Tính
đến ngày 31/12/2007, Trung tâm đã đưa được 10.490 lao động đi làm việc tại Hàn
Quốc (tăng gần 5000 người so với năm 2006 và là con số cao nhất trong 4 năm
thực hiện Chương trình EPS), đưa Việt Nam trở thành nước có tỷ lệ lao động được
chọn và số lượng người đi làm việc tại Hàn Quốc lớn nhất trong 10 quốc gia phái
cử (năm 2007, các nước Thái Lan, Philippiné chỉ đưa đi được trên 5000 lao động).
Chất lượng lao động được tuyển chọn cơ bản đáp ứng được yêu cầu về tiếng Hàn
và tay nghề, tạo được uy tín đối với chủ sử dụng lao động trong những năm tới.
Ngoài ra, đơn vị còn chủ trì, phối hợp với Tổ chức Phát triển nguồn nhân lực Hàn
Quốc và Trường Cao đẳng Kỹ thuật công nghệ tổ chức 4 đợt kiểm tra tay nghề, thể
lực và phỏng vấn cho 1046 lao động trong ngành xây dựng, trong đó có 465 người
đã được lựa chọn ký hợp đồng trực tiếp với chủ sử dụng lao động. Cũng trong
năm qua, Trung tâm đã tổ chức 248 lớp học giáo dục định hướng cho 9867 lao
động. Việc giáo dục định hướng được tổ chức ở 3 miền Bắc, Trung, Nam đã giúp
người lao động giảm chi phí đi lại trong thời gian đào tạo và tiếp tục củng cố tiếng
Hàn trong thời gian chờ xuất cảnh, nâng cao nhận thức của người lao động trước

khi sang làm việc ở nước ngoài. Bên cạnh công tác tuyển chọn và đưa lao động
sang Hàn Quốc, Trung tâm cũng phối hợp với Cục Quản lý Lao động Ngoài nước,
Hiệp hội Phát triển nhân lực quốc tế các doanh nghiệp vừa và nhỏ Nhật Bản (IMM
Japan) tổ chức tốt việc tuyển chọn và đào tạo cho tu nghiệp sinh Việt Nam sang
Nhật Bản theo Bản Ghi nhớ giữa Bộ trưởng Bộ Lao động-Thương binh và Xã hội
và Chủ tịch IMM Japan ngày 11/10/2005. Nhờ đó, trong năm đã đưa được 138 tu
nghiệp sinh sang Nhật Bản theo chương trình này, được phía bạn đánh giá cao, tạo
22
cơ sở mở rộng chương trình với quy mô và số lượng lớn hơn (riêng năm 2008, chỉ
tiêu Nhật Bản dành cho Việt Nam khoảng 350 tu nghiệp sinh). Ngoài ra, Trung
tâm cũng tiếp tục thực hiện việc tiếp nhận thẩm định và xác nhận cho gần 7000 lao
động đi làm việc tại Đài Loan theo hợp đồng thứ hai. Trung tâm cũng tiếp tục kiện
toàn tổ chức bộ máy; đầu tư cơ sở vật chất, trang thiết bị đáp ứng yêu cầu công
tác; tăng cường phối hợp với các cơ quan thông tin đại chúng tuyên truyền sâu
rộng đến các cơ quan chức năng và người lao động về Chương trình EPS, cảnh
báo kịp thời những hành vi cò mồi, môi giới, lừa đảo người lao động. Năm 2008,
Trung tâm Lao động Ngoài nước sẽ tập trung thực hiện tốt công tác tuyển chọn lao
động; chú trọng công tác đào tạo, giáo dục định hướng nhằm nâng cao chất lượng
lao động và tu nghiệp sinh; đơn giản hoá thủ tục và rút ngắn thời gian chờ xuất
cảnh; phối hợp chặt chẽ với Ban Quản lý Lao động Việt Nam tại Hàn Quốc để
quản lý người lao động; đẩy mạnh công tác thông tin, tuyên truyền, quản lý tài
chính, tăng cường công tác kiểm tra và kiện toàn tổ chức bộ máy. Những đóng góp
của trung tâm trong thời gian qua là rất đáng ghi nhận. Và để trung tâm ngày một
phát triển và có những đóng góp tích cực hơn nữa thì trong thời gian tới trung tâm
cần làm một số việc sau:
Thứ nhất, nghiên cứu, tham mưu đề xuất với Bộ về quy trình tuyển chọn
lao động đi làm việc tại Hàn Quốc bảo đảm công khai, minh bạch và hạn chế các
hành vi tiêu cực, trong đó có cơ chế tăng thêm chỉ tiêu đối với những tỉnh làm tốt,
giảm chỉ tiêu đối với những địa phương thực hiện không hiệu quả, chỉ trông chờ vào
chỉ tiêu đi làm việc tại Hàn Quốc mà không chú trọng tới các thị trường khác.

Thứ hai, phối hợp tốt với IMM Japan làm tốt chương trình đưa tu nghiệp
sinh sang Nhật Bản, trong đó cần chú trọng nâng cao trình độ tiếng Nhật cho
người lao động.
Thứ ba, nâng cao hiệu quả công tác đào tạo giáo dục định hướng, phối hợp
chặt chẽ với các cơ sở đào tạo hiện có, đồng thời nghiên cứu mở rộng thêm cơ sở
tại miền Trung; phối hợp với Cục Quản lý Lao động Ngoài nước để thống nhất nội
dung giáo trình đào tạo cho lao động đi làm việc tại Hàn Quốc.
Thứ tư, đẩy mạnh công tác thông tin tuyên truyền, tăng cường cường kiểm
tra và xử lý vi phạm ở địa phương.
23
Thứ năm, nhanh chóng nghiên cứu, đề xuất hoàn thiện cơ chế tài chính của
trung tâm.
Thứ sáu, tiếp tục củng cố, kiện toàn tổ chức bộ máy.
Trên đây là một số thành tựu mà xuất khẩu lao động Việt Nam nói chung và
doanh nghiệp xuất khẩu lao động đạt được trong thời gian qua. Bên cạnh đó xuất
khẩu lao động cũng còn những vấn đề hạn chế và chúng ta sẽ tìm hiểu nó trong
phần tiếp theo đây.
2.1.2 – Những hạn chế của xuất khẩu lao động ở Việt Nam.
Mặc dù xuất khẩu lao động đã đạt được những thành tựu kể trên nhưng vấn
đề này vẫn tồn tại môt số hạn chế. Công tác xuất khẩu lao động trong thời gian qua
vẫn chưa ổn định, chưa tương xứng với tiềm năng lao động trong nước. So với các
nước trong khu vực thì số lượng lao động xuất khẩu lao động của nước ta vẫn còn
nhỏ bé. Như Philipin nước có cùng trình độ và tương đương về quy mô dân số,
đến nay đã đưa được 7,5 triệu lao động ra nước ngoài làm việc với số ngoại tệ đưa
về nước hàng năm vào khoảng 8,5tỷ USD. Indonesia thì đưa được 8vạn lao động
sang làm việc ở nước ngoài và lượng ngoại hối đưa về nước theo con đường chính
thức là 4,6tỷ USD. Còn Ấn Độ thì đã đưa được 50.000 lao động đi làm việc ở
ngoại quốc và lượng ngoại hối là 11tỷ USD. Hơn nữa, phần lớn lao động Việt Nam
thường rơi vào ở các thị trường có thu nhập thấp, công việc đơn giản, môi trường
làm việc nặng nhọc, độc hại, kém hấp dẫn. Một số thị trường cần nhiều lao động

biết ngoại ngữ, có trình độ chuyên môn kỹ thuật cao thì chưa đáp ứng được yêu
cầu. Đáng báo động là tình trạng lao động vi phạm hợp đồng bỏ trốn đang là vấn
đề nổi cộm, bức xúc trong công tác xuất khẩu lao động hiện nay.
(Theo báo HÀ NỘI MỚI điện tử ngày 30/07/2006). Bộ LĐ-TB-XH, mục
tiêu đặt ra là đến năm 2010, nâng tỉ lệ lao động xuất khẩu có nghề lên mức tối
thiểu 75% trong tổng số lao động đưa đi hằng năm, trong đó lao động có trình độ
từ trung cấp nghề trở lên chiếm 40%; đến năm 2015, chủ yếu XKLĐ có nghề, lao
động có trình độ chuyên môn kỹ thuật và chuyên gia; 100% lao động xuất khẩu
được đào tạo ngoại ngữ, giáo dục định hướng. Bộ LĐ-TB-XH đã xây dựng xong
đề án nói trên và đang tiến hành các bước triển khai.
24
Tuy nhiên, theo các chuyên gia XKLĐ, các mục tiêu đề ra là rất khó hoàn
thành. Các số liệu cho biết từ năm 1998-2005, cả nước đưa được 360.959 lao động
đi làm việc ở nước ngoài (riêng 6 tháng đầu năm 2006 là 35.171 lao động), trong
đó 61.300 lao động có nghề chuyên môn, chiếm 27,5%. Điều đáng nói là nếu như
năm 1998, tuy số lượng lao động đi XKLĐ chỉ có 12.240 người, nhưng tỉ lệ lao
động có nghề chiếm tới 39,9%; trong khi năm 2003 tỉ lệ lao động có nghề giảm
16.17% trong số 75.000 lao động được đưa đi. Riêng trong 2 năm 2004 và 2005,
ước tỉ lệ lao động có nghề đi XKLĐ cũng chỉ chiếm khoảng dưới 20% trong tổng số
140.000 lao động được đưa đi. Cái lo là XKLĐ chỉ mới tập trung giải quyết việc
làm trước mắt cho lao động nghèo, trình độ thấp, còn việc liên kết đào tạo, chuẩn bị
nguồn nhân lực có nghề cho XKLĐ thì chưa được chú trọng.
Chưa khai thác hết tiềm năng
Số lượng lao động được đưa đi làm việc ở nước ngoài của VN tăng đều
hằng năm (xem bảng 2.1). Trong 5 năm trở lại đây, bình quân mỗi năm cả nước có
trên 70.000 lao động đi XKLĐ, nguồn thu ngoại tệ tính theo thu nhập thực tế do
người lao động chuyển về nước đạt khoảng 1,5 tỉ USD/năm. Mặc dù đóng góp
không nhỏ cho tăng trưởng kinh tế và tạo việc làm xã hội, nhưng XKLĐ vẫn chưa
được xem là ngành kinh tế mũi nhọn. Nếu so với tiềm năng lao động dồi dào với
khoảng 25 triệu người ở độ tuổi từ 18 đến 35 thì XKLĐ của VN vẫn chưa khai

thác hết. Còn nếu nhìn sang các nước, VN vẫn còn thua xa về năng lực XKLĐ.
Philippines, hiện có hơn 700 doanh nghiệp XKLĐ (trong khi VN chỉ có 160), hằng
năm đưa được khoảng 800.000 người ra nước ngoài, dòng kiều hối do người lao
động gửi về đạt trên 10 tỉ USD/năm. Nguồn thu từ XKLĐ đóng góp 10% vào tăng
trưởng kinh tế của đất nước. Một số liệu rất đáng lưu ý khác đó là trái ngược với
nỗ lực chung về khai thác thị trường mới, bản đồ XKLĐ của VN đang dần bị thu
hẹp. Từ năm 2000 trở về trước, lao động VN được đưa đi làm việc ở 38 quốc gia
và vùng lãnh thổ, hiện chỉ còn 18. Trong nhiều năm liền, XKLĐ của VN chỉ quanh
quẩn với 4 thị trường Đài Loan, Malaysia, Hàn Quốc và Nhật Bản, trong khi tỉ lệ
lao động sang các thị trường mới chiếm chưa tới 5%.
Về chất lượng lao động
25

×