Tải bản đầy đủ (.doc) (79 trang)

Hoạt động đầu tư cho vay đối với hộ sản xuất tại NHNo & PTNT chi nhánh huyện Vụ Bản.DOC

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (413.53 KB, 79 trang )

LỜI NÓI ĐẦU
1. Sự cần thiết nghiên cứu đề tài
Việt Nam là một nước nông nghiệp đang trên đà phát triển với hơn 80% dân
số sản xuất nông nghiệp, thu nhập hàng năm chiếm 30% thu nhập quốc dân.Trong
quá trình hội nhập kinh tế quốc tế, Đảng ta luôn coi trọng vấn đề phát triển nông
nghiệp, xây dựng nông thôn mới và đề ra các chủ chương, chính sách đúng đắn. Nhờ
đó nông nghiệp nước ta đặc biệt là trong thời kỳ đổi mới đã có sự phát triển mạnh mẽ
và thu được những thắng lợi đáng khích lệ đó là: Bộ mặt nông thôn ngày càng đổi
mới đời sống nhân dân ngày một nâng cao.
Trong các hoạt động kinh doanh của ngân hàng thương mại (NHTM) thì
nghiệp vụ tín dụng là nghiệp vụ quan trọng mang lại lợi nhuận lớn cho ngân
hàng.Tuy nhiên đây cũng là hoạt động chứa đựng rủi ro lớn. Việc nâng cao chất
lượng hoạt động đầu tư cho vay luôn là vấn đề quan tâm hàng đầu đối với các Ngân
hàng thương mại. Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn( NHNo&PTNT
hoăc NHNo ) Việt Nam đã xác định “ Mở rộng tín dụng phải gắn liền với việc nâng
cao chất lượng tín dụng. Coi chất lượng tín dụng là sự nghiệp sống còn đối với
NHNo&PTNT Việt Nam”.
Vụ Bản là huyện nông nghiệp năm 2006 có 10101 ha đất nông nghiệp, dân số
toàn huyện là : 125.019 người, trong đó hộ sản xuất nông nghiệp chiếm 84,72% tổng
số hộ. Thực tế này khẳng định: Địa bàn nông nghiệp, nông thôn huyện Vụ Bản là thị
trường chính và đáng tin cậy của NHNo&PTNT huyện Vụ Bản.
Hoạt động tín dụng của NHNo huyện Vụ Bản trong những năm vừa qua đang
được mở rộng và phát triển đã ảnh hưởng lớn đến việc kinh doanh của ngành và phát
triển kinh tế của địa phương nói chung, nhất là lĩnh vực kinh tế hộ nói riêng. Đồng
thời nhận thức được vai trò của công tác đầu tư cho vay hộ sản xuất đối với hoạt
động kinh doanh ngân hàng, NHNo&PTNT huyện Vụ Bản đã và đang thực hiện
nhiều biện pháp nhằm nâng cao chất lượng trong công tác này. Tuy nhiên công tác
Phạm Thị Hồng Mai Lớp: Kinh tế đầu tư 47A
đầu tư cho vay hộ sản xuất vẫn đang còn gặp nhiều tồn tại cần được quan tâm, khắc
phục, nghiên cứu nhằm hoàn thiện hơn để phát triển, mở rộng mạnh cả tín dụng về số
lượng và chất lượng để đáp ứng nhu cầu vốn cho chương trình phát triển kinh tế


huyện nhà.
Từ nhận thức trên, và qua thời gian thực tập tại NHNo & PTNT huyện Vụ
Bản, Em chọn đề tài nghiên cứu "Hoạt động đầu tư cho vay đối với hộ sản xuất tại
NHNo & PTNT chi nhánh huyện Vụ Bản" để làm chuyên đề tốt nghiệp của mình,
với mục đích đưa ra một số giải pháp góp ý để nâng cao hiệu quả hoạt động đầu tư cho
vay đối với hộ sản xuất.
2. Mục đích nghiên cứu
Nhằm tổng hợp, hệ thống hoá các vấn đề cơ bản thuộc lý luận về hộ sản xuất,
về hoạt động cho vay hộ sản xuất. Nhằm xem xét đánh giá thực trạng vấn đề đầu tư
vào hoạt động cho vay hộ sản xuất của NHNo & PTNT huyện Vụ Bản trong những
năm qua từ đó rút ra những bài học kinh nghiệm và đưa ra những giải pháp để nâng
cao hiệu quả hoạt động đầu tư cho vay hộ sản xuất nói chung và cho vay hộ sản xuất
ở Vụ Bản nói riêng.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Với tính chất của vấn đề nghiên cứu nên đề tài chỉ tập trung nghiên cứu
những vấn đề thực tiễn cụ thể trong đầu tư vào hoạt động cho vay đối với hộ sản
xuất ở chi nhánh NHNo & PTNT huyện Vụ Bản trong 3 năm ( 2005 - 2006 –
2007)
4. Phương pháp nghiên cứu
- Phương pháp phân tích tổng hợp, phân tích thống kê, so sánh đánh giá.
- Kết hợp nghiên cứu lý luận và thực tiễn.
Phạm Thị Hồng Mai Lớp: Kinh tế đầu tư 47A
5. Nội dung khái quát của chuyên đề
Chuyên đề gồm 3 chương:
Chương 1: Một số vấn đề lí luận chung
Chương 2: Thực trạng hoạt động đầu tư cho vay đối với hộ sản xuất của
NHNo & PTNT chi nhánh huyện Vụ Bản- Nam Định
Chương 3: Một số định hướng và giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động
đầu tư cho vay đối với hộ sản xuất tại NHNo&PTNT Vụ bản – Nam định.
Phạm Thị Hồng Mai Lớp: Kinh tế đầu tư 47A

CHƯƠNG I
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÍ LUẬN CHUNG
1.1. Khái niệm hộ sản xuất (HSX)
1.1.1. Các khái niêm
Theo quan điểm của các nhà kinh tế học: Hộ sản xuất là tất cả những người
cùng sống chung trong mái nhà, nhóm người đó bao gồm những người cùng huyết
tộc và cùng sản xuất,
Theo các nhà kinh tế học Việt Nam: Hộ sản xuất là đơn vị kinh tế tự chủ trực
tiếp hoạt động sản xuất kinh doanh là chủ thể trong mọi quan hệ sản xuất kinh doanh.
Theo điều 106 Bộ luât dân sự khẳng định: “ Hộ sản xuất mà các thành viên có
tài sản chung, cùng đóng góp công sức để hoạt động kinh tế chung trong sản xuất
nông, lâm, ngư nghiệp hoặc một số lĩnh vực sản xuất, kinh doanh khác do pháp luật
quy định là chủ thể khi tham gia quan hệ dân sự thuộc các lĩnh vực này “.
Như vậy hộ sản xuất là một chủ thể trong nền kinh tế quốc dân. Hộ sản xuất
có quyền tự chủ trong việc hạch toán kinh doanh, tự xây dựng phương án sản xuất và
tổ chức sản xuất. Hoạt động kinh tế của hộ sản xuất chủ yếu trong các ngành nông,
lâm, ngư nghiệp và một số lĩnh vực kinh tế khác. Dưới sự lãnh đạo của Đảng và Nhà
nước, kinh tế hộ sản xuất đã và đang phát triển, tạo ra những thay đổi lớn trong bộ
mặt ở nông thôn Việt Nam.
Trong điều kiện nền kinh tế nông nghiệp được tổ chức lại để hình thành mô
hình sản xuất mới thích ứng với cơ chế thị trường thì kinh tế hộ sản xuất nông nghiệp
vẫn được coi là hình thức kinh tế có sức cuốn hút to lớn để tạo điều kiện mới cho sản
xuất phát triển. Bởi sản xuất hàng hóa đòi hỏi các hộ sản xuất cũng phải cạnh tranh
với nhau. Do đó họ phải tìm mọi biên pháp tiết kiệm chi phí để hạ giá thành, đa dạng
hóa sản phẩm, tăng năng suất lao động để có lợi nhuận ngày càng tăng trong các hộ
sản xuất.
Trong những năm gần đây, hộ sản xuất chẳng những vừa là người sản xuất và
cung cấp sản phẩm hành hóa cho thị trường mà còn vừa là người tiêu dùng đông đảo
Phạm Thị Hồng Mai Lớp: Kinh tế đầu tư 47A
nhất đối với các mặt hàng trên thị trường do ngành kinh tế khác sản xuất ra. Vì thế hộ

sản xuất là yếu tố quyết định sản xuất và tiêu thụ hàng hóa trên thị trường.
Trên góc độ ngân hàng hộ sản xuất là một thuật ngữ được dùng trong hoạt
động cung ứng vốn tín dụng cho hộ sản xuất gia đình để làm kinh tế chung của hộ.
Theo văn bản 499A/NHNo-1993 của Tổng Giám Đốc NHNo&PTNT Việt Nam thì “
Hộ sản xuất là một đơn vị kinh tế tự chủ trực tiếp hoạt động sản xuất kinh doanh là
chủ thể trong mọi quan hệ sản xuất kinh doanh” để có cơ sở xây dựng chính sách tin
dụng cho phù hợp với từng loại hộ, từ đó đầu tư vốn có hiệu quả.
Nói đến sự tồn tại của hộ sản xuất trong nền kinh tế, trước hết ta cần thấy rằng
hộ sản xuất không chỉ có ở nước ta mà còn có ở tất cả các nước có nền sản xuất nông
nghiệp trên thế giới. Có quan điểm cho rằng hộ sản xuất là một đơn vị kinh tế mà các
thành viên đều dựa trên cơ sở kinh tế chung. Quá trình sản xuất của hộ được tiến
hành một cách độc lập và điều quan trọng là các thành viên của hộ có cùng huyết
thống, thường cùng chung sống trong một ngôi nhà, có sinh hoạt chung với nhau. Đối
với NHNo&PTNT Việt Nam, hộ sản xuất được hiểu là một đơn vị kinh tế tự chủ,
trực tiếp hoạt động sản xuất kinh doanh là chủ thể trong mọi quan hệ sản xuất kinh
doanh.
Kinh tế hộ sản xuất là hình thức kinh tế chủ yếu của Việt Nam. Do đặc điểm
của nền kinh tế nước ta chủ yếu là sản xuất nông nghiệp, vì thế hoạt động kinh tế hộ
sản xuất phần lớn được thực hiện trong lĩnh vực nông nghiệp. Quá trình hình thành
và phát triển của hộ sản xuất bắt nguồn từ sự hình thành và phát triển của kinh tế hộ
gia đình, hộ nông dân nên nhiều khi kinh tế hộ sản xuất được hiểu như kinh tế hộ gia
đình sản xuất nông nghiệp.
1.1.2. Phân loại hộ sản xuất
Nhìn chung có nhiều cách đánh giá và phân loại hộ khác nhau như :
- Theo tiêu trí thu nhập bình quân trên đầu người hàng tháng, hàng năm thì có:
Hộ đói, hộ nghèo, hộ trung bình, hộ khá và hộ giàu.
Phạm Thị Hồng Mai Lớp: Kinh tế đầu tư 47A
- Theo tính chất của sản xuất kinh doanh thì có: Hộ sản xuất nông nghiệp, hộ
sản xuất tiểu thủ công nghiệp, hộ ngư nghiệp, hộ sản xuất diêm nghiệp, hộ làm dịch
vụ, hộ buôn bán nhỏ…

- Căn cứ vào kết quả sản xuất, kinh doanh thì có thể phân loại hộ sản xuất
thành 3 loại:
+ Loại thứ nhất: Là loại hộ sản xuất hàng hoá hoặc kinh doanh theo luật định.
Loại hộ này có vốn, có kỹ năng lao động, biết tiếp cận môi trường kinh doanh, biết
tiếp thu và ứng dụng khoa học kỹ thuật… Nhưng trong quá trình sản xuất kinh doanh,
nâng cao năng lực sản xuất, đầu tư cải tiến đổi mới công nghệ… nói chung là do yêu
cầu của việc mở rộng sản xuất kinh doanh cả về chiều rộng và chiều sâu. Đối với loại
hộ này thì việc ngân hàng cho vay để bổ xung phần vốn thiếu, tạo điều kiện cho hộ
mở rộng sản xuất kinh doanh, tăng thêm sản phẩm hàng hoá cho xã hội, đồng thời
góp phần vào sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp nông thôn là việc
cần thiết, đúng hướng và có ý nghĩa vô cùng quan trọng.
+Loại thứ hai: Là loại hộ sản xuất có tính chất tự cung, tự cấp hoặc buôn bán
nhỏ. Loại hộ này có sức lao động, chịu khó lao động. Họ khao khát vươn lên làm
giàu nhưng do thiếu nhiều điều kiện: Như do thiếu tư liệu sản xuất, ít được tiếp xúc
với khoa học kỹ thuật tiên tiến, lại cư trú ở những nơi môi trường kinh doanh chưa
phát triển, ít có giao lưu kinh tế… Và một trong những điều kiện cơ bản là họ thiếu
vốn để sản xuất. Loại hộ này chiếm đa số trong nông thôn hiện nay thì việc đầu tư
vốn của ngân hàng và các tổ chức tài chính, tín dụng khác trong nước và quốc tế để
giúp họ có điều kiện tăng năng xuất lao động, mở rộng ngành nghề, tăng thu nhập…
là việc làm không thể thiếu giúp họ có cơ hội ổn định cuộc sống và dần dần vươn lên,
sản xuất có dư thừa sản phẩm để bán (sản xuất hàng hoá).
+ Loại thứ ba: Là loại hộ không có sức lao động do ốm đau, bệnh tật kinh niên, tuổi
cao sức yếu, không còn khả năng lao động do hậu quả của chiến tranh. Đối với loại
hộ này giải quyết bằng các chính sách cứu tế, trợ cấp xã hội của ngân sách Nhà nước
và các quỹ từ thiện của cộng đồng…là thuộc trách nhiệm của Nhà nước và cộng
Phạm Thị Hồng Mai Lớp: Kinh tế đầu tư 47A
đồng. Xã hội không những giúp họ về vật chất mà còn động viên cả tinh thần để họ
có cuộc sống hoà nhập cộng đồng.
1.2. Đặc điểm kinh tế hộ sản xuất
Hộ sản xuất Việt Nam giữ vị trí quan trong trong nền kinh tế nông nghiệp Việt Nam.

Đặc điểm của hộ sản xuất Việt Nam là gắn bó, có tính chất truyền thống cả 2 mặt vật chất và
tinh thần, có quyền lợi cùng hưởng có khó khăn cùng chịu. Sản xuất của hộ nông dân Việt
Nam sau bao năm chiến tranh không phát triển được, vẫn còn là sản xuất nhỏ, tự cung, tự
cấp, năng xuất lao động thấp, sản xuất còn lệ thuộc vào thiên nhiên nhiều. Việc chế biến sản
phẩm và phát triển các ngành nghề phụ còn yếu.
Ở nước ta do đặc điểm tự nhiên của từng vùng, từng miền nên tập quán sinh
hoạt, công tác, cách thức tổ chức sản xuất của các hộ gia đình cũng rất đa dạng,
phong phú. Song dù ở vùng nào, miền nào thì tựu chung lại kinh tế của hộ sản xuất
cũng có những đặc điểm cơ bản sau:
- Chủ hộ là người lao động trực tiếp, làm việc hoàn toàn tự giác và có trách
nhiệm cao.
- Sản xuất của hộ khá ổn định, vốn luân chuyển chậm so với các ngành khác,
vì đối tượng của sản xuất là cây, con, sinh trưởng và phát triển theo một chu kỳ nhất
định và thường là thời gian khá dài.
- Sản xuất mang tính thời vụ là chủ yếu xong cùng một lúc có thể sản xuất,
nuôi trồng nhiều loại cây, con khác nhau tiến hành làm các ngành nghề khác nhau vì
chu kỳ sinh trưởng và phát triển của từng loại cây, con khác nhau, chu kỳ kinh doanh
các ngành nghề không giống nhau, vì thế chi phí phải bỏ ra thường là không cao lắm
và dàn trải tương đối đều trong năm, đồng thời cũng có thu nhập đều trong năm. Đây cũng
là đặc điểm quan trọng tạo điều kiện cho kinh tế hộ phát triển đa dạng.
- Trình độ sản xuất của các hộ chủ yếu là thủ công (máy móc tuy đã có xong ít và
đơn giản) trình độ tổ chức sản xuất nói chung ở mức độ chưa cao, phạm vi chưa rộng, người
lao động làm việc theo tính chất truyền thống là chính, thái độ lao động bị chi phối bởi tình
cảm, đạo đức, phong tục, tập quán của địa phương…
Phạm Thị Hồng Mai Lớp: Kinh tế đầu tư 47A
- Sản xuất nông nghiệp lệ thuộc vào thời tiết, khí hậu. Người sản xuất trong ngành
nông nghiệp chưa thể khắc phục được những bất lợi của thiên nhiên đem đến cho mình. Mặt
khác mặc dù sản phẩm nông nghiệp là tối cần thiết cho cuộc sống con người. Song con
người không thể tiêu thụ nó nhiều hơn mức mà sức khoẻ, sinh lý cho phép. Do vậy khi sản
phẩm xuất hiện nhiều trên thị trường thì giá cả hạ rất nhanh, khi thiếu hụt thì giá cả tăng rất

nhanh. Do vậy sản xuất nông nghiệp là một ngành sản xuất có rủi ro lớn. Rủi ro do bị phụ
thuộc vào thiên nhiên, rủi ro về giá cả.
- Hộ sản xuất nông nghiệp với quy mô sản xuất nhỏ chủ yếu là sản xuất tự cấp tự
túc nên việc tích tụ vốn cho sản xuất còn hạn chế . Do đó trong sản xuất kinh doanh thường
thiếu vốn, nhất là vốn để đầu tư mở rộng sản xuất, mua sắm máy móc thiết bị.
1.3. Vai trò của hộ sản xuất trong nền kinh tế thi trường của nước ta hiện nay
1.3.1. Quan điểm của Đảng và Nhà nước về vai trò của hộ sản xuất đối với nền
kinh tế của nước ta hiện nay
Trong thời kỳ thực hiện cơ chế quản lý kế hoạch hoá tập trung, nông dân sản
xuất dưới hình thức tập thể, quán triệt quan điểm hợp tác xã là nhà, xã viên là chủ.
Nhưng vì lúc đó chưa có đủ điều kiện để tổ chức quản lý sản xuất nông nghiệp tập
thể với quy mô lớn, nên đã dẫn đến tình trạng hợp tác xã chưa phải là nhà, xã viên
chưa thực sự làm chủ, lao động hời hợt, năng xuất thấp kém, sản xuất đình đốn, tình
trạng trì trệ trong sản xuất kéo dài hàng chục năm. Thu nhập từ kinh tế tập thể của
mỗi gia đình không đảm bảo nhu cầu tối thiểu của cuộc sống. Bên cạnh đó thì kinh tế
gia đình, kinh tế tư nhân, cá thể bị kinh tế tập thể chèn ép, bị cơ chế chính sách rằng
buộc vì bị coi là mầm mống nảy sinh của chủ nghĩa tư bản.
Từ năm 1982 chỉ thị 100 của Ban Bí thư ra đời đã khẳng định mô hình sản
xuất nông nghiệp theo hình thức hợp tác xã là chưa phù hợp với điều kiện nước ta lúc
đó. Đồng thời Đảng ta cũng đã xác định muốn đưa nền kinh tế phát triển với một
nước nông nghiệp như nước ta thì nông nghiệp phải là “Mặt trận hàng đầu”, tiếp đó
là nghị quyết 10 của Bộ Chính trị đã xác định hộ sản xuất là đơn vị kinh tế cơ bản trong nền
kinh tế nông nghiệp nước ta. Từ đó kinh tế gia đình, kinh tế tư nhân, cá thể được khôi phục.
Phạm Thị Hồng Mai Lớp: Kinh tế đầu tư 47A
Tháng 12/1986, Nghị quyết đại hội VI của Đảng Cộng Sản Việt Nam đã đề ra
đường lối đổi mới toàn diện nhằm đưa nền kinh tế của đất nước ra khỏi khủng hoảng, đi vào
thế ổn định và phát triển. Đảng chủ chương coi phát triển kinh tế là nhiệm vụ trung tâm,
trong lĩnh vực kinh tế thì đổi mới nông nghiệp là khâu đột phá.
Việc chủ trương chuyển từ tập thể hoá sang chủ trương thừa nhận hộ gia đình nông
dân là đơn vị kinh tế tự chủ, đã có tác động khơi dậy những tiềm năng to lớn của hơn 12

triệu hộ gia đình nông dân để không ngừng đẩy mạnh sản xuất phát triển.Tạo ra bước phát
triển mạnh mẽ, sôi động, sử dụng có hiệu quả hơn đất đai, lao động, tiền vốn, công nghệ và
lợi thế sinh thái từng vùng. Kinh tế hộ nông thôn và một bộ phận kinh tế trang trại đang trở
thành lực lượng sản xuất chủ yếu về lương thực, thực phẩm, nguyên liệu cho công nghiệp
chế biến nông lâm thuỷ sản, sản xuất các ngành nghề thủ công phục vụ tiêu dùng trong nước
và xuất khẩu. Bởi vì kinh tế hộ có quy mô nhỏ nhưng lại rất linh hoạt, tận dụng được tối đa
nguồn tài nguyên, đất đai, sức lao động, tiền vốn… kinh tế hộ dễ thích ứng với nền kinh tế
thị trường, mang lại hiệu quả kinh tế cao vì chi phí cho các khâu trung gian ít, mặt khác do
quy mô nhỏ nên dễ dàng điều chỉnh cơ cấu để phù hợp với nhu cầu thị trường. Đồng thời
kết hợp với các chính sách vĩ mô của Nhà nước. Kinh tế hộ có điều kiện phát triển không
ngừng và bền vững, là điều kiện để chuyển dịch nền nông nghiệp tự nhiên sang nền nông
nghiệp hàng hoá có quy mô lớn.
Đại hội lần thứ VIII của Đảng với chủ trương công nghiệp hóa – hiện đại hóa nông
nghiệp nông thôn thị hộ sản xuất nông nghiệp được khẳng định và đặt lên vị trí hàng đầu
trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
1.3.2. Vai trò cụ thể của hộ sản xuất đối với nền kinh tế của nước ta
Việt Nam là một nước nông nghiệp với hơn 80% dân số sống ở nông thôn, trình độ
lao động còn hạn chế. Từ khi chuyển nền kinh tế từ quản lí tập trung, quan liêu, bao cấp
sang nền kinh tế thị trường, khu vực kinh tế quốc doanh vẫn giữ vai trò chủ đạo, song cũng
bị co hẹp cả về quy mô và số lượng. Do đó lực lượng lao động trong khu vực đã giảm đáng
kể. Nền kinh tế mở, các công ty liên doanh, doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài tăng lên
nhanh chóng nhưng yêu cầu sử dụng lao động của các doanh nghiệp này còn đòi hỏi người
Phạm Thị Hồng Mai Lớp: Kinh tế đầu tư 47A
lao động phải có năng lực và kiến thức kĩ thuật, công nghệ. Như vậy để sử dụng hợp lí
nguồn lao động dồi dào, giải quyết tốt việc làm cho người lao động ở nông thôn hiện nay là
một vấn đề hết sức cấp bách. Và điều đó chỉ có thể được giải quyết bằng việc phát triển kinh
tế hộ sản xuất. Đó là hướng đi đúng mà Đảng và nhà nước đã lựa chọn. Kinh tế hộ sản xuất
góp phần nâng cao hiệu quả sử dụng nguồn lao động, giải quyết tốt công ăn việc làm ở nông
thôn.
Từ khi chuyển đổi cơ chế quản lí trong nông nghiệp theo cơ chế thị trường hộ sản

xuất được công nhận là đơn vị kinh tế tự chủ, được Nhà nước giao quyền sử dụng đất và
quản lí đất đai lâu dài, đã có tác động thúc đẩy các hộ sản xuất khai thác có hiệu quả nguồn
lực đất đai và tài nguôn thiên nhiên tại chỗ tăng vòng quay sử dụng đất, đầu tư thâm canh
tăng độ phi nhiêu của đất, tăng nâng suất cây trồng, mở rộng khai hoang phục hóa tăng diện
tích canh tác, tăng sản lượng cây trồng. Sản lượng lương thực của cả nước đã tăng từ 17,5
triệu tấn ( năm 1987) lên 34,3 triệu tấn (năm 1999) tức tăng gần gấp đôi sau 13 năm. Từ chỗ
trung bình mỗi năm Nhà nước ta phải nhập khẩu trên dưới một triệu tấn lương thực thời kỳ
trước đổi mới, đến năm 1989 Việt Nam đã xuất khẩu 1,4 triệu tấn gạo đến năm 1999 lượng
xuất khẩu gạo đã tăng lên 4,5 triệu tấn và từ đó đến nay Việt Nam đã trở thành nước xuất khẩu
gạo lớn đứng thứ hai trên thế giới sau Thái Lan, ngoài ra kim ngạch xuất khẩu các mặt hàng như
chè, cà phê, cao su, hạt điều, hạt tiêu.... và các mặt hàng thủ công có nguyên liệu từ nông nghiệp đã
góp phần không nhỏ trong tổng kim ngạch xuất khẩu của nước ta.. Từ những nhận định đến
thực tế như trên đối với Việt Nam đã có thể khẳng định rằng kinh tế hộ sản xuất đang giữ
một vị trí, vai trò hết sức quan trọng trong nông nghiệp nói riêng trong nền kinh tế nước ta
nói chung .
Cũng như các thành phần kinh tế khác, hộ sản xuất là đơn vị kinh tế độc lập, tự chủ
song với quy mô nhỏ bộ máy quản lí gọn nhẹ, năng động nên đã dễ dàng nắm bắt được sự
thay đổi của thị trường, kịp thời điều chỉnh kế hoạch sản xuất kinh doanh cho phù hợp, đồng
thời lại được nhà nước có chính sách hộ trợ phát triển.
Các hộ sản xuất tiến hành hoạt động sản xuất, kinh doanh trong nhiều lĩnh vực với
những điều kiện khác nhau và trong nền kinh tế thị trường mức độ cạnh tranh ngày càng
Phạm Thị Hồng Mai Lớp: Kinh tế đầu tư 47A
tăng. Do đó giữa các hộ sản xuất thường có sự phân công lao động theo hướng ai giỏi nghề
gì, có điều kiện tư nhiên, kĩ thuât, tiền vốn để sản xuất được mặt hàng nào thì làm nghề đó,
sản xuất mặt hàng đó. Vì vậy sẽ có điều kiện tập trung được tiền, vốn nhân lực, vật lực triển
khai có hiệu quả các tiến bộ khoa học kĩ thuật vào sản xuất nâng cao năng suất và chất lượng
sản phẩm, đáp ứng ngày càng tốt hơn nhu cầu của thị trường.
Tóm lai: Hộ sản xuất là một tổ chức kinh tế năng động hiệu quả, có khả năng thích
ứng với cơ chế thi trường cao, có vai trò quan trọng trong việc thúc đẩy phân công lao động
dẫn tới chuyên môn hóa từ đó tạo khả năng hợp tác lao động trên cơ sở tự nguyện cùng có

lợi. Như vậy ở mỗi thời điểm, mỗi thời kì đều có những chủ trương, phương hướng nhất
định để khẳng định vai trò to lớn của kinh tế hộ sản xuất. Những chủ trương của Đảng và
Nhà nước trên đây đối với kinh tế hộ sản xuất đang được thực hiện tạo điều kiện cho sự phát
triển vững mạnh của hình thức kinh tế này.
1.3. Tầm quan trọng của tin dụng ngân hàng đối với sự phát triển kinh tế hộ sản
xuất
1.3.1. Khái quát về hoạt đồng tín dụng của ngân hàng
Tín dụng là một phạm trù của kinh tế hàng hoá. Bản chất của tín dụng là sự
chuyển nhượng tạm thời quyền sử dụng vốn trong một thời gian nhất định, có hoàn
trả đầy đủ cả vốn và lãi.
Điều 20 luật các tổ chức tín dụng qui định.
“Hoạt động tín dụng là việc tổ chức tín dụng sử dụng nguồn vốn tự có, nguồn
vốn huy động để cấp tín dụng”.
“Cấp tín dụng là việc tổ chức tín dụng thoả thuận để khách hàng sử dụng một
khoản tiền với nguyên tắc có hoàn trả bằng các nghiệp vụ cho vay, chiết khấu, cho
thuê tài chính, bảo lãnh ngân hàng và các nghiệp vụ khác”.
Trong nền kinh tế hàng hoá có nhiều loại hình tín dụng như: tín dụng thương
mại, tín dụng ngân hàng, tín dụng Nhà nước.
Tín dụng ngân hàng là sự tin tưởng lẫn nhau trong quan hệ đi vay và cho vay
Phạm Thị Hồng Mai Lớp: Kinh tế đầu tư 47A
giữa các Ngân hàng với chủ thể kinh tế khác nhau trong xã hội, được thực hiện dưới
hình thức chủ yếu bằng tiền tệ theo nguyên tắc hoàn trả và có lãi.
Với đặc điểm tín dụng bằng tiền, vốn tín dụng ngân hàng có khả năng đầu tư
vào bất cứ lĩnh vực nào của sản xuất lưu thông hàng hoá. Vì vậy, tín dụng ngân hàng
ngày càng trở thành một hình thức tín dụng quan trọng trong các hình thức tín dụng
hiện có.
1.3.2. Tầm quan trọng của tín dụng ngân hàng với sự phát triển kinh tế hộ sản
xuất
Với thị trường nông thôn rộng lớn trên khắp đất nước, với đặc điểm kinh tế
của hộ nông dân đa dạng, phong phú như đã nêu ở phần trên. Đặc biệt xuất phát từ

vai trò quan trọng của kinh tế hộ trong nền kinh tế nước ta. Nên tín dụng ngân hàng
ngày càng có vai trò quan trọng đối với sự tồn tại và phát triển nền kinh tế hộ sản
xuất cụ thể là:
- Góp phần chuyển dich cơ cấu kinh tế trong nông nghiệp: Tín dụng ngân
hàng là kênh cung cấp vốn chủ yếu và quan trọng nhất cho kinh tế hộ, nó có vai trò
rất to lớn trong tiến trình phát triển nông nghiệp nông thôn mà trước hết là tác động
vào phát triển lương thực, nuôi trồng thuỷ sản, chuyển dịch cơ cấu cây trồng vật nuôi
trong nông nghiêp, mở mang thêm ngành nghề phá thế độc canh tạo ra nhiều sản
phẩm hàng hoá. Nhiều hộ đã tổ chức sản xuất dưới hình thức trang trại và ứng dụng
tiến bộ khoa học vào sản xuất nông nghiệp. Nhiều vùng chuyên canh mới ra đời thay
thế những cây trồng vật nuôi kém hiệu quả.
- Tín dụng Ngân hàng đáp ứng nhu cầu vốn cho hộ sản xuất: nó đảm bảo
quá trình sản xuất liên tục, góp phần khai thác tiềm năng, tài nguyên, đất đai, lao
động; Tiềm năng tài nguyên, đất đai nước ta còn rất lớn, nếu được đầu tư tín dụng
hợp lý, kết hợp với chính sách vĩ mô thích hợp chắc chắn sẽ phát huy được hiệu quả
cao, đặc biệt là lực lượng lao động hiện đang còn dư thừa chủ yếu là ở nông thôn.
- Tín dụng Ngân hàng góp phần thúc đẩy quá trình tích tụ và tập trung
vốn trong sản xuất nông nghiệp: Quá trình sản xuất kinh doanh trong cơ chế thị
Phạm Thị Hồng Mai Lớp: Kinh tế đầu tư 47A
trường đòi hỏi người sản xuất phải nâng cao năng xuất lao động, hạ giá thành sản
phẩm. Muốn vậy phải không ngừng mở rộng quy mô sản xuất, kinh doanh, cải tiến
máy móc thiết bị, ứng dụng công nghệ mới những hoạt động này đòi hỏi phải có 1
khối lượng vốn lớn thường vượt quá khả năng của hộ sản xuất. Nhờ có vốn tín dụng
Ngân hàng các hộ sản xuất có đủ vốn để mở rộng sản xuất, tập trung ruộng đất, đầu
tư máy móc thiết bị, hạ giá thành sản phẩm, tăng lợi nhuận từ đó thúc đẩy quá trình
tích tụ vốn, tăng quy mô vốn tự có.
- Tín dụng Ngân hàng góp phần hạn chế cho vay nặng lãi ở nông thôn:
Một trong những đặc điểm quan trong của sản xuất nông nghiệp là sản xuất mang
tính chất thời vụ, khi chưa tới vụ thu hoạch, chưa có sản phẩm hàng hoá để bán nên
chưa có thu nhập song hộ nông dân vẫn cần vốn để đầu tư cho sản xuất và chi tiêu

cho những khoản sinh hoạt tối thiểu. Chính điều này đã tạo điều kiện cho tệ nạn cho
vay nặng lãi, tình trạng bán lúa non phát triển. Tín dụng ngân hàng ngày càng mở
rộng với chính sách đầu tư trực tiếp tới hộ sản xuất đã đáp ứng khá đầy đủ nhu cầu
vốn cho sản xuất, hạn chế và đẩy lùi tệ nạn cho vay nặng lãi, góp phần làm giàu cho
các hộ sản xuất, tăng thêm của cải cho xã hội, củng cố lòng tin của dân đối với Đảng
và Nhà nước.
- Tín dụng Ngân hàng góp phần ổn định an ninh chính trị và trật tự an
toàn xã hội trên địa bàn: Thông qua việc cho vay mở rộng, phát triển sản xuất, phát
triển ngành nghề trong nông thôn đã góp phần giải quyết công ăn việc làm cho người
lao động từ đó nâng cao đời sống vật chất, tinh thần cho người dân sẽ góp phần đẩy
lùi các tai tệ nạn xã hội, hạn chế 1 bộ phận lao động nông nhàn vào thành thị tìm
kiếm việc làm, từ đó giảm sức ép đối với khu vực thành thị. Người dân tin tưởng vào
đường lối chủ trương của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước.
- Tín dụng ngân hàng góp phần thúc đẩy tăng trưởng kinh tế ở địa
phương: Tín dụng ngân hàng đầu tư vốn tạo điều kiện để phát triển nhiều ngành
nghề mới trong nông thôn, tạo công ăn việc làm, thu hút lực lượng lao động dôi thừa
trong nông thôn.
Phạm Thị Hồng Mai Lớp: Kinh tế đầu tư 47A
- Góp phần đẩy nhanh tiến độ hiện đại hoá nông nghiệp nông thôn: Tín
dụng góp phần xây dựng kết cấu hạ tầng,tạo điều kiện cho nông dân tiếp thu và ứng
dụng khoa học kỹ thuật vào sản xuất, tạo điều kiện giao lưu hàng hoá …
Tóm lại: Tín dụng Ngân hàng đóng vai trò quan trọng và không thể thiếu đối với
kinh tế hộ sản xuất, hay nói cách khác hộ sản xuất không thể mở rộng sản xuất kinh doanh,
không thể tạo ra kinh tế hàng hoá, trong nông nghiệp nếu không có sự đầu tư của tín dụng
ngân hàng.
Phạm Thị Hồng Mai Lớp: Kinh tế đầu tư 47A
CHƯƠNG II
THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG ĐẦU TƯ NÂNG CAO HIỆU QUẢ
HOẠT ĐỘNG CHO VAY ĐỐI VỚI HỘ SẢN XUẤT CỦA NHNo &
PTNT HUYỆN VỤ BẢN TRONG THỜI GIAN QUA

2.1. Đặc điểm của các hộ sản xuất ở huyện Vụ Bản
Vụ Bản là huyện nằm dọc theo quốc lộ 10 có:
- Phía Đông giáp thành phố Nam Định
- Phía Tây giáp huyện ý yên.
- Phía Nam giáp huyện Nam trực.
- Phía Bắc giáp Huyện Mỹ lộc.
* Huyện Vụ Bản có 18 đơn vị hành chính gồm 17 xã, 01 thị trấn nằm ở trung
tâm huyện. Nhìn chung tương đối phát triển song hệ thống điện, đường giao thông
nông thôn của huyện đã được xây dựng xong nhưng chưa được hoàn chỉnh.
Trong những năm gần đây Vụ Bản đã đạt được những thành tựu đáng kể như:
đường quốc lộ 10 được nâng cấp mở rộng tạo điều kiện thuận lợi cho giao thông Vụ
Bản với các tỉnh Thái Bình, Hải Phòng, Quảng Ninh do đó kinh tế thương mại của
Vụ Bản tăng trưởng khá, tạo điều kiện thuận lợi cho việc làm ăn của các hộ sản xuất
ở địa phương.
* Vụ Bản tính đến năm 2006 có tổng diện tích tự nhiên của huyện là 14.038 ha
trong đó diện tích đất nông nghiệp là 10.096 ha.Tổng dân số trong huyện là 126.784
người.Trong đó hộ sản xuất nông nghiệp khoảng 28.330 hộ chiếm 85% tổng số hộ,
với đặc thù kinh tế thuần nông, với lợi thế là cây lúa và các loại cây hoa màu khác
như lạc, đậu tương... và vật nuôi là con:(Lợn, con bò) là chủ yếu.
Hộ sản xuất ở huyện Vụ Bản cũng mang những đặc tính của hộ sản xuất nói
chung như đã nêu ở trên. Ngoài ra còn có một số đặc trưng khác có thể kể ra ở đây
Phạm Thị Hồng Mai Lớp: Kinh tế đầu tư 47A
như là:
Bên cạnh lợi thế là cây lúa nước và các loại cây hoa màu khác như lạc, đậu
tương, ngô,… và vật nuôi là các con như lơn, bò…,các hộ sản xuất của huyện Vụ
Bản còn có thế mạnh trong các ngành nghề truyền thống khá phát triển như: Mây tre
đan ở Vĩnh Hào, nghề rèn ở Quang Trung, nghề dệt ở Thành Lợi, nghề sơn mài ở
Liên Minh...Các nghề truyền thông đó đã có thời gian bị mai một, nay được sự quan
tâm của huyện, của các ban ngành đã hoạt động trở lại và đang trên đà phát triển. Tuy
nhiên đa phần các hộ sản xuất ở huyện vẫn sản xuất nhỏ manh mún, thiếu vốn để mở

rộng sản xuất, đầu tư trang thiết bị.
Trình độ của người nông dân trong huyện còn hạn chế nên việc sử dụng vốn
cũng chưa thật sự hiệu quả.
2.2. Thực trạng hoạt động đầu tư cho vay đối với hộ sản xuất ở NHNo chi
nhánh huyện Vụ Bản
2.2.1. Đầu tư vào hoạt động huy động vốn
Muốn hiệu quả của hoạt động cho vay được nâng lên điều trước tiên là phải
đảm bảo được việc có đủ vốn để cho vay. Do đó trong thời gian qua NHNo huyện đã
thực hiện nhiều hoạt động đầu tư để huy động vốn có hiệu quả:
Trước hết là đầu tư vào việc tuyên truyền, quảng cáo: Ngân hàng đã thực hiện
tuyên truyền quảng cáo mạnh mẽ bằng nhiều hình thức, kí hợp đồng và tự viết bài
quảng cáo thường xuyên trên hệ thồng loa đài của huyện, của các xã trong toàn huyện
và phát thanh vào những thời điểm thuận lợi để người nghe nắm bắt và cập nhật liên
tục thông tin về lãi suất cũng như các dịch vụ của ngân hàng, quảng cáo rộng rãi việc
mở tài khoản cá nhân, thẻ ATM, tiên ích ngân hàng bằng nhiều hình thức như: phát
tờ rơi, họp dân, họp tổ vay vốn (TVV), lồng ghép với các cuộc họp ở xã, ở thôn nhằm
mục đích tuyên truyền đến từng người dân. Ở những khu vực đông dân cư NHNo đều
bố trí treo Pano, áp phích quảng cáo về lãi suất, các chương trình khuyến mại, huy
động tiết kiệm dự thưởng, huy động tiết kiệm VNĐ bảo đảm bằng vàng, các dịch vụ
tiện ích và đặc biệt hơn là quảng bá hình ảnh và thương hiệu của NHNo.
Phạm Thị Hồng Mai Lớp: Kinh tế đầu tư 47A
Trong năm 2008 vừa qua NHNo huyện đã đầu tư một cây ATM để phát triển
dịch vụ thẻ ở địa phương, nhằm tạo ra thêm một kênh huy động vốn mới cho ngân
hàng. Dịch vụ thẻ ATM( thẻ ghi nợ nội địa) đây là sản phẩm không phải là mới ở
Việt Nam, nhưng đối với huyện Vụ Bản nói riêng và các khu vực huyện trên cả nước
nói chung thì đây là một trong những dịch vụ hoàn toàn mới. vì đầu tư cho một trạm
ATM rút tiền mặt và thanh toán qua thẻ tương đối cao, thường không mang lại hiệu
quả về mặt kinh tế nhất là đối với các ngân hàng tuyến huyện. Song NHNo Vụ Bản
xác định cần đi trước một bước nhằm tăng khả năng thanh toán, quảng bá thương
hiệu NHNo Vụ Bản và quan trọng hơn là chuẩn bị cho việc triển khai quyết định

291/2006 ngày 29/12/2006 và chỉ thị 20/2007 ngày 24/8/2007 của Thủ tướng chính
phủ về việc phê duyệt đề án không dùng tiền mặt trong thanh toán và trả lương qua
tài khoản. đến nay qua 3 tháng triển khai mở thẻ ATM, NHNo Vụ Bản đã phát hành
trên 200 thẻ và tiếp tục sẽ tăng mạnh trong năm 2009
Ngoài ra NHNo Vụ Bản còn ra quyết định thành lập các tổ huy động vốn, cho
vay, tính đến năm 2006 dã thành lập được ở tất cả các thôn xóm ở địa phương , mỗi
thôn xóm 1 tổ huy động vốn và cho vay mà thành viên trong tổ chính là các hộ sản
xuất kinh doanh của thôn xóm ấy. Với hình thức này các hộ sản xuất được trực tiệp
tiệp cận với các thông tin về lãi suất cũng như các thủ tục giấy tờ cần thiết khi gửi tiết
kiệm hoặc khi muốn vay vốn tại ngân hàng. Tiếp thị lưu động quy định và giao rõ
nhiệm vụ, với nhân lực là các cán bộ nhân viên có kinh nghiệp, hiểu biết các nghiệp
vụ của ngân hàng, đồng thời cho in hàng loạt tờ rơi giao cho các tổ huy động vồn và
tổ vay vốn đi tiếp thị trực tiếp đến nhà người dân có khả năng tài chính (trên cơ sở đã
điều tra nắm bắt trước) để quảng cáo tiếp thị về các hình thức huy động vốn khuyến
mại với mức lãi suất cao hấp dẫn như: lãi suất tiết kiệm bảo đảm bằng vàng, hình
thức tiết kiệm dự thưởng…
Tiếp theo là việc đầu tư nâng cao trình độ nguồn nhân lực: Bên cạnh nhưng
lớp đào tạo về nghiệp vụ cho những cán bộ mới vào làm việc, ngân hàng còn tạo mọi
điều kiện cho cán bộ của mình tham gia học nâng cao trình độ. Do đó tính đến nay
ngân hàng đã có 64,7% số cán bộ nhân viên có trình độ đại học.Ngoài ra để việc huy
Phạm Thị Hồng Mai Lớp: Kinh tế đầu tư 47A
động vốn có hiệu quả toàn bộ cán bộ đều phải quán triệt tư tưởng, thái độ phục vụ
khiêm tốn hòa nhã, tận tình với khách hàng, không phân biệt khách hàng là hộ gia
đình, là các doanh nghiệp, khách hàng dù gửi ít cũng như gửi nhiều, tranh thủ huy
động vốn tại chỗ đối với các khách hàng có người thân gửi tiền từ nước ngoài về
Để đảm bảo an toàn tuyệt đối cho các khoản tiền gửi của khách hàng, ngân
hàng huyện đã tham gia bảo hiểm tiền gửi tháng 7/2000 theo nghị định 89/1999/NĐ-
CP về bảo hiểm tiền gửi của Chính phủ đã tạo tâm lý yên tâm cho khách hàng khi gửi
tiền vào Ngân hàng.
2.2.2. Quy trình thực hiện đầu tư cho vay hộ sản xuất

Trong hoạt động kinh doanh của Ngân hàng thì hoạt động tín dụng là hoạt
động mang tính đặc trưng và nó có vai trò quan trọng trong hoạt động Ngân hàng, là
nguồn thu chính đối với Ngân hàng nhất là đối với NHNo&PTNT Việt Nam nói
chung và NHNo&PTNT huyện Vụ Bản nói riêng. Quy mô của họat động tín dụng là một
nhân tố để đáng giá chất lượng tín dụng của ngân hàng. Hoạt động tin dụng được mở rộng
sẽ làm tăng doanh thu của ngân hàng nó tác động tích cực đến tình hình tài chính của ngân
hàng. Chính vì vậy việc đầu tư vào việc mở rộng hoạt động tín dụng là cần thiết.
Từ khi có chỉ thị 202/HĐBT, Nghị định 14, quyết định 67 của chính phủ về
chính sách cho hộ nông dân vay vốn, nghị quyết liên tịch 2308, quyết định 1627 của
Ngân hàng Nhà Nước, quyết định 72 của NHNo&PTNT Việt Nam. Hệ thống
NHNo&PTNT đã tập trung đầu tư cho thị trường nông nghiệp, nông thôn, trên cơ sở
khảo sát khách hàng để đầu tư phát triển kinh tế hộ sản xuất, mở rộng cho vay thông
qua tổ tương hỗ thực hiện cho vay, thu nợ lưu động tại xã, tạo thuận lợi cho bà con
nông dân thuận tiện trong việc giao dịch vốn ngân hàng.
Trên thực tế, như đã nêu ở phần trước, trong những năm gần đây trên 97%
khách hàng vay vốn ở chi nhánh NHNo&PTNT huyện Vụ Bản là hộ sản xuất. Như
vậy đối tượng phục vụ chính của chi nhánh NHNo&PTNT huyện Vụ Bản là hộ sản
xuất. Trong hộ sản xuất vay vốn thì số hộ nông dân chiếm hơn 90%, hộ kinh doanh
khác và hộ công nhân viên chức vay vốn chỉ chiếm gần 10 %.
Phạm Thị Hồng Mai Lớp: Kinh tế đầu tư 47A
Hiện nay, NHNo & PTNT huyện Vụ Bản thực hiện cho vay trực tiếp đối với
hộ sản xuất theo phương thức cho vay từng lần và hạn mức tín dụng theo quyết định
số 72/QĐ - HĐQT – TD ngày 31/3/2002 và 1.300/ HĐQT – TD của Chủ tịch Hội
đồng quản trị NHNo&PTNT Việt Nam ban hành theo quyết định số 1627/2001/QĐ -
NHNN Việt Nam ngày 31 tháng 12 năm 2001 của Thống đốc NHNN Việt Nam, có vận
dụng vào điều kiện cụ thể của huyện Vụ Bản.
Quy trình tín dụng áp dụng đối với hộ sản xuất khi vay vốn tại NHNo&PTNT
Huyện Vụ Bản trải qua các bước cơ bản sau đây:
Bước 1: Khách hàng nộp hồ sơ vay xin vay vốn theo quy định của Ngân hàng
(Đơn xin vay vốn, phương án sản xuất kinh doanh).

Bước 2: Cán bộ tín dụng tiến hành thẩm định và tái thẩm định dự án sản xuất
kinh doanh. Nếu dự án khả thi, tiếp xuống bước 3.
Bước 3: Giám đốc Ngân hàng, trưởng phòng tín dụng… tuỳ theo phân cấp xét
và ra quyết định cho vay. Phán quyết sẽ ra quyết định cho vay hoặc lập báo cáo trình
lên cấp trên xem xét
Bước 4: Hoàn tất thủ tục hồ sơ, tiến hành kí hợp đồng tín dụng và chuyển hồ
sơ tín dụng sang bộ phận kế toán và ngân quỹ.
Bước 5: Bộ phận kế toán và ngân quỹ kiểm tra lại các thông tin trong hợp
đồng, thực hiện bút toán cần thiết, sau đó tiến hành giải ngân.
Bước 6: Kiểm tra giám sát khoản vay, cơ cấu lại thời hạn trả nợ tiến hành thu
lãi, thu nợ gốc và thanh lý hợp đồng tín dụng.
Tóm lại: Việc cho vay đối với hộ sản xuất được thực hiện theo trình tự sau:
đầu tiên cán bộ tín dụng sẽ phải hướng dẫn cho khách hàng lập hồ sơ xin vay vốn để
nộp cho ngân hàng; trên cơ sở hồ sơ xin vay của khách hàng và các nguồn thông tin
khác nữa ngân hàng tiến hành phân tích tín dụng đây chính là bước thẩm định khách
hàng và thẩm định phương án kinh doanh mà khách hàng mang đến để xin vay. Kết
quả của bước này sẽ giúp ngân hàng đưa ra quyết định co cho vay hay không; dựa
Phạm Thị Hồng Mai Lớp: Kinh tế đầu tư 47A
vào kết quả của bước trên để ngân hàng đưa ra quyết định cho vay; sau đó ngân hàng
sẽ giải ngân vốn; và khi đã cho vay thì ngân hàng phải có nhiệm vụ giám sát các
khoản vay và thanh lí tín dụng. Sau đây ta sẽ đi phân tích cụ thể một số bước trong
quy trình trên:
2.2.2.1. Thẩm định trước khi cho vay
Để có thể được vay vốn của ngân hàng thì khách hàng phải đảm bảo các yêu
cầu sau:
Điều kiện 1: Khách hàng phải có năng lực pháp luận dân sự, năng lực hành vi
dân sự và chịu trách nhiệm dân sự theo quy định của pháp luật.
Điều kiện 2: Mục đích sử dụng vốn vay hợp pháp.
Điều kiện 3: Có khả năng tài chính đảm bảo trả nợ trong thời hạn cam kết.
Điều kiện 4: Có dự án đầu tư, phương án sản xuất kinh doanh, khả thi và có

hiệu quả.
Điều kiện 5: Thực hiện các quy định về bỏa đảm tiền vay quy định của Chính
phủ, NHNN Việt Nam và hướng dẫn của NHNo Việt Nam.
Quy trình thẩm định nhằm kiểm tra năm điều kiện trên để ngân hàng có thể
đưa ra quyết định có cho vay hay không. Đây là bước rất quan trọng nó ảnh hưởng
trực tiếp đến quyết định của ngân hàng. Nếu thẩm định tốt ra quyết đinh đúng sẽ
ngăn chăn được nợ xấu, giảm rủi ro cho ngân hàng. Còn nếu thẩm định không chính
xác ngân hàng ra quyết định cho vay sai có thể dẫn đến không có khả năng thu hồ nợ
đúng hạn, như thế rủi ro tín dụng sẽ rất lớn
Quá trình thẩm định này được tiến hành theo các bước sau: thẩm định chủ đầu
tư; thẩm định dự án vay vốn; thẩm định đảm bảo tiền gửi.
Bước 1: Thẩm định chủ đầu tư ở đây chính là các hộ sản xuất
Trước khi phát tiền vay, Ngân hàng cần phải hiểu rõ khách hàng vì khách
hàng là người chịu trách nhiệm sử dụng và hoàn trả vốn vay, là người quyết định cuối
Phạm Thị Hồng Mai Lớp: Kinh tế đầu tư 47A
cùng về hiệu quả của khoản tiền vay. Vì vậy thẩm định khách hàng là một biện pháp
quan trọng để nâng cao chất lượng hoạt động tín dụng nhằm phòng ngừa và hạn chế
nợ quá hạn trong kinh doanh tín dụng Ngân hàng. Nếu Ngân hàng không tiến hành
thẩm định khách hàng hoặc thẩm định không chính xác sẽ dẫn đến hiện tượng cho
khách hàng không đủ điều kiện sử dụng và trả nợ vốn vay, gây nợ quá hạn. Qua thẩm
định khách hàng, Ngân hàng thấy được khả năng tài chính hiện tại, tiềm năng trong
tương lai, khả năng hoàn trả vốn vay của khách hàng. Có thể nói việc phân tích
nghiên cứu khách hàng có một ý nghĩa hết sức quan trọng vì nó tạo lập cơ sở ban đầu
để cho ngân hàng làm căn cứ đưa ra những quyết định trong kinh doanh của mình.
Bên cạnh đó việc thẩm định các phương án kinh doanh của khách hàng giúp ngân
hàng thấy được phương án ấy có tính khả thi hay không có tính hiệu quả hay không
từ đó giúp ngân hàng khẳng định thêm về khả năng trả nợ của khách hàng
Đối với NHNo huyện Vụ Bản thì do khách hàng chủ yếu là các hộ sản xuất
nông nghiệp, các phương án sản xuất kinh doanh chủ yếu là trong lĩnh vực nông
nghiệp với số vốn vay nhỏ. Hiện nay nghiệp vụ cho vay của NHNo&PTNT Vụ Bản

90 % là cho vay hộ sản xuất như đã nói ở phần trên. Trong tổng số hộ có đến trên
75% là số hộ vay dưới 30 triệu đồng. Tuy nhiên không thể vì thế mà ngân hàng coi
nhẹ công tác thẩm định trước cho vay. Tuy nhiên do sự hạn chế cả về số lượng lẫn
trình độ cán bộ thêm vào đó là đặc trưng của các dự án nông nghiệp nên việc thẩm
định cũng gặp nhiều khó khăn.
Hiện nay ở ngân hàng nông nghiệp huyện Vụ Bản thì cán bộ tín dụng cũng
kiêm luôn việc thẩm định. Kết quả của việc thẩm định này là dựa trên sự đánh giá
của cán bộ thẩm định trên cơ sở khoa học và các chuẩn mực khác. Do vậy muốn cải
thiên chất lượng thẩm định trước hết cần đầu tư nâng cao trình độ của cán bộ một
cách thích đáng.
Ngân hàng cũng đã trang bị một hệ thống máy tính và phần mềm thẩm định
khá đồng bộ giúp cho việc thẩm định của cán bộ được dễ dành và chính xác. Các
thông số tính toán về mặt tài chính của các dự án kinh doanh đã được tính toán trên
máy đảm bảo tính khoa học, logic, chính xác trong việc thẩm định.
Phạm Thị Hồng Mai Lớp: Kinh tế đầu tư 47A
Hoạt động thẩm định phải đảm bảo việc phân tích đánh giá phải tiến hành toàn
diện, phải đánh giá năng lực pháp lý, tư cách đạo đức, uy tín của khách hàng vay bởi
điều đó quyết định ý thức trả nợ của khách hàng. Phân tích đánh giá chính xác năng
lực tài chính, năng lực kinh doanh, môi trường kinh doanh của khách hàng bởi nó
quyết định đến khả năng trả nợ của khách hàng. Bên cạnh đó còn phải chú trọng đến
việc thẩm định tính khả thi và tính hiệu quả của những phương án kinh doanh mà hộ
sản xuất sẽ thực hiện.
Trước hết là việc thẩm định khách hàng. NHNo&PTNT huyện Vụ Bản khi
thẩm định khách hàng tập trung vào việc tìm hiểu và thẩm định các thông tin sau:
* Đánh giá về năng lực pháp lý của khách hàng vay vốn.
- Khách hàng vay vốn phải có năng lực pháp luật dân sự, năng lực hành vi dân
sự và chịu trách nhiệm dân sự theo quy định của pháp luật để gắn trách nhiệm của
khách hàng với sự ràng buộc về mặt pháp luật, giúp cho các nhà kinh doanh thuận
tiện trong việc quản lý.
Đối với hộ sản xuất tất cả các thành viên trong gia đình cần kí cam kết vay

vốn và chủ gia đình phải là người có năng lực pháp luật dân sự và năng lực hành vi.
Thông qua các giấy tờ như: chứng minh thư nhân dân của người chủ gia đình, sổ hộ
khẩu để kiểm tra về năng lực pháp lí của khách hàng. Việc thẩm định năng lực pháp
lí của khách hàng là hộ gia định cũng đơn giản hơn nhiều so với thẩm định doanh
nghiệp. Điều này không phải là do ngân hàng xem nhẹ việc thẩm định đối với khách
hàng là hộ sản xuất mà do tích chất khác nhau giữa hộ sản xuất so với doanh nghiệp.
Hộ sản xuất là những hộ đã gắn bó lâu dài ở địa phương do đó nguồn thông tin mà
ngân hàng có được về những khách hàng này cũng nhiều và chính xác hơn so với
khách hàng là doanh nghiệp do đó khả năng lừa lọc của doanh nghiệp bao giờ cũng
lớn hơn.
* Đánh giá năng lực phẩm chất của người lãnh đạo điều hành
Đánh giá năng lực phẩm chất của người lãnh đạo điều hành là nội dung quan
trọng do Ngân hàng giao vốn cho người lãnh đạo điều hành, nó quyết định đến sự
Phạm Thị Hồng Mai Lớp: Kinh tế đầu tư 47A
thành công hay thất bại của khách hàng. Đối với khách hàng là hộ sản xuất người
lãnh đạo chính là chủ hộ cán bộ thẩm định thường thông qua việc nói chuyện phỏng
vấn trực tiếp người chủ hộ đó để biết được năng lực kinh doanh quản lí của họ.
Ngoài ra việc quan trọng là phải biết được người chủ hộ này có phẩm chất đạo đức
như thế nào: có nghiện rượu không; có đam mê cờ bạc không. Vì ở nông thôn những
người đàn ông trong gia đình rất dễ bị dính vào những tế nạn này. Và khi đó không
những khả năng lao đông, sản xuất kinh doanh cuẩ họ bi giảm sút mà họ con rất dẽ sử
dụng tiền vay của ngân hàng để phục vụ cho những nhu cầu trên của bản thân. Điều
này rất nguy hiểm vì nó không những làm cho ngân hàng không thể thu được nợ mà
con đẩy những hộ sản xuất này vào cảnh nợ nần không lối thoát.
* Phân tích đánh giá về năng lực tài chính của khách hàng
Nếu như khách hàng là doanh nghiệp thi việc thẩm định năng lực tài chinh sẽ
được dựa trên các báo cáo tài chính của khách hàng lập tại thời điểm gần nhất, ngân
hàng tiến hành phân tích tình hình tài chính của khách hàng để từ đó có thể đánh giá
ảnh hưởng của nó đến mức độ rủi ro của khoản vay sau này. Đối với hộ sản xuất họ
không có những báo cáo tài chính nay, hoặc có nhưng không đầy đủ. Vì vậy khi thảm

định tài chính đối với loại khách hàng này người cán bộ thẩm định gặp nhiều khó
khăn khi thu thập thông tin. Thông tin có thể phải được thu thập từ kho lưu trữ của
ngân hàng, từ phía khách hàng hoặc thường xuyên phải xuống tận cơ sở để thu thập
thông tin trực tiếp. Phân tích tài chính giúp ngân hàng thấy được khách hàng thừa vốn
hay thiếu vốn, nếu thiếu thì thiếu bao nhiêu? Vốn của khách hàng được sử dụng như
thế nào? Khả năng tiềm tàng nằm ở đâu để từ đó có những quyết định đúng đắn đối
với các khoản tín dụng phát ra. Qua phân tích đánh giá về năng lực tài chính của
khách hàng giúp cho các nhà kinh doanh ngân hàng có thể đánh giá khả năng thanh
toán của khách hàng, để biết thực trạng hoạt động sản xuấ kinh doanh (SXKD) của
khách hàng, xu thế hoạt động của khách hàng trong tương lai tốt hay xấu. Qua đó xác
định mối quan hệ lâu dài giữa khách hàng với ngân hàng trong tương lai.
Phạm Thị Hồng Mai Lớp: Kinh tế đầu tư 47A
Phân tích tình hình tài chính của khách hàng, ngân hàng sử dụng các chỉ tiêu
sau:
- Xem cơ cấu kinh doanh của khách hàng hợp lý hay không. Nếu không hợp lý
thì hiệu quả sử dụng vốn thấp. Cơ cấu giữa vốn cố định và vốn lưu động, cơ cấu này
cũng có khác nhau giữa các khách hàng sản xuất và kinh doanh.
- Phân tích đánh giá khả năng tự tài trợ, tự trang trải về vốn trong kinh doanh
của khách hàng. Khả năng tự chủ về tài chính của khách hàng càng cao thì càng tốt.
Phạm Thị Hồng Mai Lớp: Kinh tế đầu tư 47A
Nguồn vốn có của khách hàng (vốn chủ sở hữu)
Hệ số tài trợ =
Tổng nguồn vốn khách hàng đang sử dụng
Hệ số này càng cao, thể hiện tình hình tài chính của khách hàng càng vững
chắc. Khách hàng ít lo lắng trong việc vay, trả nợ. Như vậy năng lực đi vay rất lớn,
điều này dễ hiểu bởi vì người vay có thể vay được khi chứng minh được bản thân
mình có khả năng trả nợ.
Vốn vay so với doanh số hoạt động:
Vốn vay
< 1 thì khả năng tự tài trợ tốt

Doanh số hoạt động
Doanh số hoạt động lớn chứng tỏ vốn của khách hàng bỏ vào kinh doanh lớn,
vốn luân chuyển cao.
- Đánh giá khả năng thanh toán của khách hàng: Có ảnh hưởng rất lớn tới mức
rủi ro trong một khoản vay. Một khách hàng có khả năng thanh toán tốt là có đủ khả
năng trả các khoản nợ khi đến hạn. Thông thường các doanh nghiệp có tình hình tài
chính tốt có thể tự cân đối các khoản nợ khi đến hạn, thường họ kéo dài thời hạn hoặc
vay nơi này để trả nợ nơi khác gây nên nợ nần dây dưa và đến một lúc nào đó khách
hàng sẽ mất khả năng thanh toán. Cho vay trường hợp này, khoản tín dụng của Ngân
hàng sẽ gặp rủi ro cao. Các chỉ tiêu ngân hàng sử dụng để phân tích khả năng thanh
toán của doanh nghiệp là: Khả năng thanh toán chung, khả năng thanh toán nhanh,
khả năng thanh toán cuối cùng.
Phạm Thị Hồng Mai Lớp: Kinh tế đầu tư 47A

×