Tải bản đầy đủ (.pdf) (15 trang)

Đề bài tính tất yếu khách quan của việc phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.67 MB, 15 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC PHENIKAA
⸎⸎⸎⸎⸎

BÀI TẬP LỚN KẾT THÚC HỌC PHẦN KINH TẾ CHÍNH TRỊ MÁC - LÊNIN
Đề bài: “Tính tất yếu khách quan của việc phát triển kinh tế thị trường định hướng
xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam?”
Mã số: 126

Sinh viên

: NGUYỄN THỊ THƯƠNG

Lớp

: K15-DL2

Mã SV

: 21012801

HÀ NỘI, THÁNG 12/2022

MỤC LỤC


LỜI MỞ ĐẦU..........................................................................................................2
NỘI DUNG...............................................................................................................3
1. Khái quát về nền kinh tế thị trường.............................................................3
1.1. Khái niệm.................................................................................................3
1.2. Những yếu tố cơ bản của kinh tế thị trường.........................................3
2. Kinh tế thị trường có những ưu nhược điểm gì?........................................5


3. Có thể thực hiện được kinh tế thị trường ở nước ta khơng?.....................6
4. Tính tất yếu khách quan phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội
chủ nghĩa ở nước ta.............................................................................................8
KẾT LUẬN............................................................................................................13
TÀI LIỆU THAM KHẢO.....................................................................................14

LỜI MỞ ĐẦU
Mối quan hệ giữa vật chất và ý thức là “vấn đề cơ bản lớn của mọi triết học,
đặc biệt là của triết học hiện đại”. Tùy theo lập trường thế giới khác nhau, khi giải
quyết mối quan hệ giữa vật chất và ý thức mà hình thành hai đường lối cơ bản trong
triết học là chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy tâm. Khẳng định nguyên tắc tính


đảng trong triết học, V.I. Lênin đã viết: “Triết học hiện đại cũng có tính đảng như
triết học hai nghìn năm về trước. Ngững đảng phái đang đấu tranh với nhau, về thực
chất, mặc dù thực chất đó bị che giấu bằng những nhãn hiệu mới của thủ đoạn lang
băm hoặc tính phi đảng ngu xuẩn – là chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy tâm”. Thế
giới xung quanh ta có vơ vàn sự vật và hiện tượng phong phú và đa dạng. Nhưng dù
phong phú và đa dạng đến đâu thì cũng quy về hai lĩnh vực: vật chất và ý thức. Có
rất nhiều quan điểm triết học xoay quanh vấn đề mối quan hệ giữa vật chất và ý
thức, nhưng chỉ có quan điểm triết học Mác – Lênin là đúng và đấy đủ đó là: vật
chất là các có trước, ý thức là cái có sau. Vật chất quyết định sự ra đời của ý thức,
đồng thời ý thức tác động trở lại vật chất. Trước năm 11986, đất nước ta đã gặp rất
nhiều khó khăn bởi một nền kinh tế trì trệ, một hệ thống quản lý yếu kém cũng là do
một phận không nhận thức đúng và đầy đủ về mối quan hệ giữa vật chất và ý thức.
Vấn đề này đã được nhận thức đúng sau đổi mới ở đại hội VI, và quả nhiên đã giành
rất nhiều thành công sau khi đã chuyển nền kinh tế từ cơ chế thị trường có sự quản
lý của nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Với mong muốn tìm hiểu thêm
về vẫn đề này, em đã chọn đề tài: “Tính tất yếu khách quan của việc phát triển kinh
tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam”.


NỘI DUNG
1. Khái quát về nền kinh tế thị trường
1.1.

Khái niệm


Nền kinh tế thị trường là nền kinh tế được vận hành theo cơ chế thị trường. Đó
là nền kinh tế hàng hóa phát triển cao, ở đó mọi quan hệ sản xuất và trao đổi đều
được thông qua thị tường, chịu sự tác động, điều tiết của các quy luật thị trường.
Sự hình thành kinh tế thị trường là khách quan trong lịch sử: từ kinh tế tự
nhiên, tự túc, kinh tế hàng hóa rồi từ kinh tế hàng hóa phát triển thành kinh tế thị
trường. Kinh tế thị trường cũng trải qua quá trình phát triển ở các trình độ khác
nhau từ kinh tế thị trường sơ khai đến kinh tế thị trường hiện đại ngày nay. Kinh tế
thị trường là sản phẩm của văn minh nhân loại.
1.2.

Những yếu tố cơ bản của kinh tế thị trường

Kinh tế thị trường nói chung bao hàm những yếu tố cơ bản như sau:
Thứ nhất, độc lập các chủ thể nền kinh tế. Nền kinh tế thị trường đòi hỏi sự
tồn tại của các chủ thể kinh tế độc lập dưới nhiều hình thức sở hữu khác nhau. Các
chủ thể này hoàn toàn độc lập, tự chủ trong việc quyết định: sản xuất cái gì, sản
xuất như thế nào và sản xuất cho ai? Họ tự chịu trách nhiệm đối với quyết định sản
xuất kinh doanh của bản thân dựa trên những tín hiệu thị trường.
Về bản chất, nền kinh tế thị trường có cấu trúc đa sở hữu. Trong cấu trúc, sở
hữu tư nhân luôn luôn là thành tố tất yếu, bắt buộc. Phủ nhận sở hữu tư nhân có
nghĩa là bác bỏ kinh tế thị trường trên thực tế. Bên cạnh sở hữu tư nhân, cịn có các
dạng sở hữu khác là sở hữu nhà nước, sở hữu tập thể và dang đồng sở hữu của các

chủ thể khác, ví dụ sở hữu CTCP, DN tư bản nhà nước,….
Về nguyên tắc, các chủ thể sở hữu và các hình thức sở hữu trong nền kinh tế
thị trường là độc lập và bình đẳng với nhau trước pháp luật và trong hoạt động kinh
doanh. Nhưng mỗi hình thức sở hữu và mỗi chủ thể sở hữu lại có vai trị, vị thế và
chức năng đặc thù trong sự vận hành của nền kinh tế thị trường.
Thứ hai, hệ thống đồng bộ các thị trường và thể chế tương ứng. Mọi nền
kinh tế thị trường yếu tố và thị trường hàng hóa và dịch vụ tiêu dùng. Để nền kinh
tế thị trường hoạt động hiệu quả, phải đảm bảo hai yêu cầu:
-

Sự hiện diện đầy đủ của tất cả các thị trường nói trên.

-

Các thị trường phải vận hành đồng bộ.

Để đáp ứng 2 yêu cầu này, việc hình thành và phát triển các thị trường phải
tuân theo một trật tự bước đi các định. Việc không tuân thủ trật tự đó (ví dụ xây
dựng thị trường vốn, thị trường chứng khốn nhưng hệ thống các quyền tài sản
khơng xác định rõ, thị trường đất đai khơng được thừa nhận chính thức) thường dẫn


đến sự rối loạn, vận hành kém hiệu quả của từng thị trường chức năng và của cả nền
kinh tế.
Bên cạnh đó, sự vận hành đồng bộ của các cá thể chế thị trường đòi hỏi phải
thực hiện đầy đủ các nguyên tắc cơ bản của thị trường (chủ thể sở hữu độc lập, mục
tiêu tối đa hóa lợi nhuận của doanh nghiệp, cơ chế phân bổ nguồn lực do các lực
lượng thị trường quyết định là chính, thơng qua cạnh tranh tự do,…) trên cơ sở
được sự đảm bảo của luật pháp. Nếu không được bảo vệ bằng các đạo luật cơ sở
như luật cạnh tranh, luật về các quyền sở hữu, luật chống độc quyền, luật chống bán

phá giá thì nền kinh tế khơng thể hoạt động bình thường.
Thứ ba, hệ thống giá cả được xác lập thông qua tương quan cung-cầu
quyết định sự vận hàng của nền kinh tế thị trường. Gía cả trên các loại thị trường
được xác định dưa trên tương quan cung cầu của từng thị trường đó. Tín hiệu giá cả
là căn cứ khách quan đối với các chủ thể kinh tế đưa ra các quyết định sản xuất –
kinh doanh của mình trong môi trường cạnh tranh thị trường.
Nền kinh tế thị trường chỉ vận hành được một hệ thống giá cả được quyết định
khách quan bởi thị trường. Trong nền kinh tế thị trường, mục tiêu tối đa hóa lợi
nhuận là động lực chủ yếu thúc đẩy nỗ lực hoạt động và hiệu quả kinh doanh của
các doanh nghiệp. Để phục vụ mục tiêu đó, giá cả phải được thiết định trên các cơ
sở khách quan và được biết điều tiết bằng cơ chế tự điều tết (cạnh tranh tự do).
Thứ tư, cơ chế căn bản vận hành của nền kinh tế thị trường là cạnh tranh
tự do. Khơng có cạnh tranh thị trường là cơ chế điều chỉnh. Do vậy, nó cịn được
gọi là “bạn tay vơ hình”. Cơ chế này giúp nền kinh tế tạo lập sự cân bằng mỗi khi bị
trục trặc.
Cạnh tranh là cơ chế chủ yếu phân bổ các nguồn lực trong nền kinh tế thị
trường. Thông qua cạnh tranh, các nguồn lực được rút ra khỏi những ngành, lĩnh
vực và địa điểm đang hoạt động kém hiệu quả, di chuyển đến những nơi có lợi thế
phát triển và thu được hiệu quả kinh dianh, lợi nhuận cao hơn. Thực tế xác nhận
rằng cho đến nay, sau khi nền kinh tế đã vượt qua trình độ kinh tế nông dân tự cấp –
tự túc, canh tranh là cơ chế phân bổ các nguồn lực hiệu quả nhất.
Thứ năm, vai trò điều tiết kinh tế của nhà nước. Thị trường có những khuyết
tật và cơ chế thị trường có thể bị thất bại trong việc giải quyết một số vấn đề phát
triển, ví dụ như khủng hoảng, đói nghèo, cơng bằng xã hội, mơi trường,… Để khắc
phục chúng và tránh khỏi thất bại thị trường, nhà nước phải tham gia quản lý, điều


tiết sự vận hành nền kinh tế. Nhà nước tham gia các quá trình kinh tế thị trường với
tư cách là bộ mát quản lý xã hội, vừa là một yếu tố nội tại của cơ chế vận hành kinh
tế. Với các tư các đó, nhà nước thực hiện ba chức năng:

-

Quản lý, định hướng và hỗ trợ phát triển;

-

Phân phối lại thu nhập quốc dân;

-

Bảo vệ môi trường.

Để thực hiện ba chức năng đó, nhà nước phải giải quyết các nhiệm vụ:
-

Cung cấp khinh khổ pháp lý rõ ràng, nghiệm minh, có hiệu lực và phù
hợp với địi hỏi của cơ chế thị trường

-

Kiến tạo và bảo đảm môi trường vĩ mơ ổn định, có tính khuyến khích
kinh doanh

-

Cung cấp kết cấu hạ tầng cũng như các dịnh vụ và hàng hóa cơng cộng
Hỗ trợ nhóm người nghèo các điều kiện tối thiểu để tham gia thị trường
bình đẳng.

Năm yếu tố nói trên là 5 yếu tố cấu thành cơ bản khung thể chế chung của mọi

nền kinh tế thị trường. Chúng hình thành một tổng thể, quy định lẫn nhau. Thiếu bất
cứ yếu tố nào trong đó đều khơng thể có nền kinh tế thị trường bình thường, vận
hành hiệu quả. Tuy nhiên, trong mỗi kinh tế thị trường, tùy theo các điều kiện phát
triển cụ thể, vai trị, vị trí và chuwscnawng của từng yếu tố khơng hoàn toàn giống
nhau. Điều này tạo nên đặc thù của các mơ hình kinh tế thị trường và nền kinh tế thị
trường ở những quốc gia vụ thể.
2. Kinh tế thị trường có những ưu nhược điểm gì?
Bất cứ một nền kinh tế nào cũng có những ưu điểm và nhược điểm. Nền kinh
tế thị trường cũng vậy nó bao gồm những ưu và nhược điểm sau.
Những mặt tích cực của nền kinh tế thị trường thể hiện bằng sự phát triển kinh
tế vượt bậc. Từ sự phát triển vượt bậc đó khoa học cơng nghệ cũng có những bước
phát triển lớn, khoa học cơng nghệ phát triển từ đó các công cụ sản xuẩ ngày một
phát triển hơn, con người được sản xuất trong những điều kiện tốt hơn. Năng suất
lao động được nâng cao hơn rất nhiều so với trước. Một nền kinh tế phát triển đã
làm cho mức sông chung của các nước trên thế giới được nâng cao hơn trước…
Trên đây là một số mặt tích cực của nền kinh tế thị trường mà chúng ta cần phải
phát huy để nền kinh tế ngày càng phát triển hơn.


Những mặt tiêu cực của nền kinh tế thị trường là: Do quá trình hoạt động sản
xuất cần phải khai thác tài nguyên thiên nhiên, nhưng do năng xuất lao động cao
cộng với việc nhu cầu của người dân ngày càng lớn đã dẫn đến khai thác tài nguyên
thiên nhiên quá mức cho phép từ đó tài nguyên thiên nhiên đã dần bị cạn kiệt.
Các hoạt động sản xuát chỉ chú ý tới vấn đề sản xuất mà không chú ý đến vấn
đề môi trường. Các hoạt động sản xuất đã gây ra hiện tượng ô nhiễm môi trường
trầm trọng.
Một mặt tiêu cực đó là vẫn đề đạo đức, lối sống trong dân. Ngày nay do mức
sống của con người được nâng cao, con người dễ tiếp xúc đối với những loại văn
hóa độc hại làm ảnh hưởng tới tình trạng đạo đức trong dân...
Từ những mặt tích cực và tiêu cực trên ta phải tìm ra những phương pháp để

phát huy những mặt tích cực và hạn chế những mặt tiêu cực để nền kinh tế được
phát triển toàn diện hơn, từ đó cuộc sống của người dân được nâng cao hơn mà
không bị ảnh hưởng của những mặt tiêu cực.
3. Có thể thực hiện được kinh tế thị trường ở nước ta không?
Một điều cần khẳng định rằng, kinh tế thị trường là hồn tồn có thể thực hiện
được trong Chủ nghĩa xã hội, câu hỏi được trả lời bởi các lý do sau:
a) Kinh tế thị trường không phải là sản phẩm riêng của chủ nghĩa tư bản.
Kinh tế thị trường là hình thức phát triển cao của kinh tế hàng hóa, mà kinh tế
hàng hóa đã từng tồn tại trước chủ nghĩa tư bản. Những điều kiện ra đời và tồn tại
của kinh tế hàng hóa, và các trình độ phát triển của kinh tế hàng hóa: kinh tế hàng
hóa giản đơn (kinh tế thị trường sơ khai), kinh tế thị trường tự do, kinh tế thị trường
hiện đại do sự phát triển của lực lượng sản xuất tạo ra. Còn bản chất cố hữu của chủ
nghĩa tư bản là bóc lột lao động làm thuê và bần cùng hóa họ. Kinh tế hàng hóa
khơng phải là cái do chủ nghĩa tư bản tạo ra, mà là thành tựu văn minh do con
người đạt được trong quá trình phát triển sản xuất của mình. Theo C.Mác, sản xuất
và trao đổi hàng hóa là “một nét chung cho những hình thái kinh tế - xã hội hết sức
khác nhau” tức là kinh tế hàng hóa tồn tại trong nhiều hình thái kinh tế xã hội chứ
khơng phải là đặc trưng riêng của chủ nghĩa tư bản. Vì vậy, không thể cho rằng xây
dựng kinh tế thị trường là đồng nghĩa với phát triển chủ nghĩa tư bản.


b) Kinh tế thị trường là thể chế kinh tế vận hành, nó khơng phải là cơ sở kinh
tế của một chết độ xã hội.
Nếu quan niệm kinh tế thị trường như là cơ sở kinh tế thì tất nhiên sẽ đi đến
kết luận: đã xây dựng kinh tế thị trường, thì chế độ tương ứng với nó phải là chế độ
tư bản. Dĩ nhiên kinh tế thị trường và chế độ xã hội có mối quan hệ chặt chẽ với
nhau. Nhưng đó khơng phải là mối quan hệ giữa cơ sở kinh tế với kiến trúc thượng
tầng. Cơ sở kinh tế của một chế độ xã hội là hệ thống quan hệ sản xuất thống trị,
trước hết là chế độ sở hữu quyết định. Cơ sở kinh tế của chủ nghĩa xã hội là hệ
thống quan hệ sản xuất chủ nghĩa xã hội chủ nghĩa dựa trên chế độ công hữu chủ

nghĩa về tư liệu sản xuất.
Cần hiểu rằng thể chế kinh tế là hình thức cụ thể của phương thức, phương
pháp, quy tắc cụ thể của việc tổ chức vận hành kinh tế trong một chế độ kinh tế - xã
hội nhất định. Thể chế kinh tế là một khái niệm thấp hơn một cấp so với chế độ kinh
tế. Mọi chế độ kinh tế có thể có những thể chế kinh tế khác nhai. Do đó, dưới chủ
nghĩa xã hội khơng phải chỉ có thể áp dụng duy nhất thể chế kinh tế kế hoạch mà
cũng có thể áp dụng thể chế kinh tế thị trường.
c) Kinh tế thị trường và chủ nghĩa xã hội có thể dung hóa.
Kinh tế thị trường là một thể chế kinh tế vận hành mà theo một số nhà nghiên
cứu Trung Quốc, chế độ sở hữu không quyết định trực tiếp thể chế kinh tế, mà
thông qua cơ cấu quyền sở hữu tài sản được hình thành bởi một chế độ sở hữu nào
đó, tác động gián tiếp đến chủ thể kinh tế. Vấn đề căn bản để hình thành kinh tế thị
trường là sự tồn tại những chủ đề kinh tế độc lâp, tự chủ trong sản xuất kinh doanh
có lợi ích riêng để họ có quyền ra quyết định phi tập trung hóa. Vì vậy, trong điều
kiện chế độ cơng hữu xã hội chủ nghĩa cũng có thể thực hiện thể chế kinh tế thị
trường. Nếu sở hữu nhà nước (sở hữu toàn dân) được phân giải thành các quyền
chiếm hữu, quyền sử dụng kinh doanh trao cho doanh nghiệp, thì khi đó sẽ tạo nên
những chủ thể kinh tế độc lập có lợi ích riêng, do đó sẽ hình thành được kinh tế thị
trường. Sự phân giải các quyền sở hữu tồn dân được thực hiện thơng qua việc phát
huy tiềm năng các thành phần trong đó kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo.


4. Tính tất yếu khách quan phát triển kinh tế thị trường định hướng xã
hội chủ nghĩa ở nước ta
Về phương diện kinh tế có thể khái quát rằng, lịch sử phát triển của sản xuất
và đời sống xã hội của nhân loại đã và đang trải qua hai kiểu tổ chức kinh tế thích
ứng với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất và phân công lao động xã hội, hai
thời đại kinh tế khác nhau hẳn về chất. Đó là: thời kinh tế tự nhiên, tự cung tự cấp;
và thời đại kinh tế hàng hóa mà giai đoạn cao của nó được gọi là kinh tế thị trường.
Kinh tế tự nhiên là kiểu tổ chức kinh tế - xã hội đầu tiên của nhân loại. Đó là

phương thức sinh hoạt kinh tế ở trình độ thấp ban đầu là những tặng vật của tự
nhiên và sau đó được thực hiện thông qua những tác động trực tiếp vào tự nhiên để
tạo ra những giá trị sử dụng trong việc duy trì sự sinh tồn của con người. Nó được
bó hẹp trong mối quan hệ tuần hồn khép kín giữa con người và tự nhiên kinh tế tự
nhiên lấy quan hệ trực tiếp giữa con người và tự nhiên, mà tiêu biểu là giữa người
lao động và đất đai làm nền tảng. Hoạt động kinh tế đó gắn liền với xã hội sinh tồn,
với kinh tế nông nghiệp, tự cung tự cấp. Nó đã tồn tại và thống trị trong các xã hội
cộng sản nguyên thủy, chiếm hữu nơ lệ, phong kiến và tuy khơng cịn giữ địa vị
thống trị nhưng vẫn còn tồn tại trong xã hội tư bản cho đến nay. Kinh tế tự nhiên,
hiện vật, sinh tồn, tự cung, tự cấp gắn liền với kém phát triển và lạc hậu.
Kinh tế hàng hóa, bắt nguồn từ kinh tế hàng hóa đơn giản, ra đời từ khi chế độ
cộng sản nguyên thủy tan rã, dựa trên hai tiền đề cơ bản là có sự phân cơng lao
động xã hội và có sự tách biệt về kinh tế do chế độ sử hữu khác nhau về tư liệu sản
xuất. Chuyển từ kinh tế tự nhiên, tự cung, tự cấp sang kinh tế hàng hóa là đánh dấu
bước chuyển sang thời đại kinh tế của sự phát triển, thời đại văn minh của nhân
loại. Trong lịch sử phát triển của mình, vị thế của kinh tế hàng hóa cũng dần được
đổi thay: Từ chỗ như là kiểu tổ chức kinh tế - xã hội không phổ biến, không hợp
thời trong xã hội chiếm hữu nô lệ của những người thợ thủ công và nông dân tự do,
đến chỗ được thừa nhận trong xã hội phong kiến, và đến chủ nghĩa tư bản thì kinh
tế hàng hóa giản đơn khơng những được thừa nhận mà cịn phát triển lên giai đoạn
cao hơn là nền kinh tế thị trường.


Kinh tế thị trường là giai đoạn phát triển cao của kinh tế hàng hóa, cũng đã trải
qua ba giai đoạn phát triển.
Giai đoạn thứ nhất là giai đoạn chuyển từ kinh tế hàng hóa giản đơn sang kinh
tế thị trường (còn gọi là giai đoạn kinh tế thị trường sơ khai dã man).
Giai đoạn thứ hai, là giai đoạn phát triển kinh tế thị trường tự do. Đặc trưng
quan trọng của giai đoạn này là sự phát triển kinh tế diễn ra theo tình thần tự do,
nhà nước khơng can thiệp vào hoạt động kinh tế.

Giai đoạn thứ ba, là giai đoạn kinh tế thị trường hiện đại. Đặc điểm của giai
đoạn này là nhà nước can thiệp vào kinh tế thị trường và mở rộng kinh tế với nước
ngoài. Sự can thiệp của nhà nước vào kinh tế thị trường thơng qua việc xây dựng
các hình thức sở hữu nhà nước, các chương trình khuyến khích đầu tư và tiêu dùng,
cùng với việc sử dụng các công cụ kinh tế như tài chính, tín dụng, tiền tệ... để điều
tiết nền kinh tế ở tầm vĩ mô. Sự phối hợp giữa chính phủ và thị trường trong một
nền kinh tế hỗn hợp nhằm đảm bảo sự phát triển có hiệu quả của những nước có
mức tăng trưởng kinh tế nhanh.
Mặc dỳ sự hình thành và phát triển của kinh tế hàng hóa (sản xuất hàng hóa
nhỏ) tự phát sẽ “hàng ngày hàng giờ đẻ ra chủ nghĩa tư bản” (nói theo cách nói của
V.I.Lênin) và sự phát triển của kinh tế thị trường trong lịch sử diễn ra đồng thời với
sự hình thành và phát triển của chủ nghĩa tư bản, nhưng tuyệt nhiên, kinh tế thị
trường không phaeu là một chế độ kinh tế - xã hội. Kinh tế thị trường là một hình
thức và phương pháp vận hafg kinh tế các quy luật của thị trường chi phối việc phân
bố các tài nguyên, quy định sản xuẩ cái gì, sản xuất như thế nào (bao nhiêu) và sản
xuất cho ai. Đây là một kiểu tổ chức kinh tế hình thành và phát triển do những địi
hỏi khách quan của sự phát triển lực lượng sản xuất. Nó là phương thức sinh hoạt
của sự phát triển. Sự cạnh tranh trong cơ chế thị trường theo quy luật giá trị đòi hỏi
các chủ thể sản xuất – kinh doanh không ngừng đổi mới, ứng dụng tiến bộ khoa học
– kỹ thuật, nâng cao năng xuất lao động, tiết kiệm chi phí, mở rộng quy mơ của sản
xuất – kinh doanh. Quá trình hình thành và phát triển kinh tế thị trường là quá


tirrufnh mở rộng phân công lao động xã hội, phát triển khoa học – công nghệ mới
và ứng dụng chúng vào thực tiễn sản xuất – kinh doanh. Sự phát triển của kinh tế thị
trường gắn liền với quá trình phát triển của văn minh nhân loại, của khoa học – kỹ
thuật, của lực lượng sản xuất. Nhiều học giả đã khái quát rằng: Giai đoạn kinh tế
hàng hóa giản đơn gắn liền với nền văn minh nông nghiệp và kỹ thuật thủ công;
Giai đoạn kinh tế thị trường hiện đại gắn liền với nền văn minh trí tuệ, kỹ thuật vi
điện tử - tin học...

Cho đến cuối những năm 80, về cơ bản, trong nền kinh tế nước ta, sản xuất
nhỏ vẫn còn là phổ biến, trạng thái kinh tế tự nhiên, hiện vật, tự cung, tự cấp còn
chiếm ưu thế. Xã hội Việt Nma, về cơ bản vẫn dựa trên nền tảng của văn minh nông
nghiệp lúa nước, nông dân chiếm đại đa số. Việt Nam vẫn là một nước nghèo nàn,
lạc hậu và kém phát triển. Phát triển trở thàng nhiệm vụ mục tiêu số một đối với
toàn đaeng, toàn dân ta trong bước đường đi tới. Muốn vậy, phải chuyển toàn bộ
nền kinh tế quốc dân sang trạng thái của sự phát triển là sự phát triển kinh tế thị
trường cùng với nó là cơng cuộc cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa.
Tính tất yếu phải chuyển sang nền kinh tế thị trường định hướng XHCN.
Trước sự suy thối nghiêm trọng, viện trợ nước ngồi lại giảm sút đã đưa nền
kinh tế nước ta tới sự bức bách phải đổi mới. Tại đại hội VI của đảng đã chủ trương
phát triển kinh tế nhiều thành phần và thực hiện chuyển đổi sang cơ chế hạch toán
kinh danh xã hội chủ nghĩa. Đến đại hội VII đảng ta đã xác định việc đổi mới cơ
chế kinh tế nước ta là một tất yếu khách quan và trên thực trạng diễn ra việc đó tức
là chuyển từ nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung sang nền kinh tế thị trường có sự
quản lý của nhà nước theo định hướng XHCN. Đây là một sự thay đổi về nhận thức
có ý nghĩa rất quan trọng trong lý luận cũng như trong thực tế lãnh đạo của đảng
trên mặt trận làm kinh tế. Việc chuyển đổi hoàn toàn đúng đắn. Nó phù hợp với thực
tế của nước ta với các quy luật kinh tế và xu thế của thời đại.
Nếu không thay đổi cơ chế vẫn giữ cơ chế kinh tế cũ thì khơng thể nào có sản
phẩm để tiêu dùng chứ chưa nói đến tích lũy vốn để mở rộng sản xuất. Thực tế


những năm cuối của thập kỷ 80 đã chỉ rõ thực hiện cơ chế kinh tế cho dù chúng ta
đã liên tục đổi mới hoàn thiện cơ chế quản lý kinh tế, nhưng hiệu quả của nền sản
xuất xã hội đạt mức rất thấp. Sản xuất không đáp ứng nổi tiêu dùng, tích lũy hầu
như khơng có đơi khi cịn ăn lạm cả vào vốn vay nước ngoài.
Do đặc trưng của nền kinh tế tập trung là rất cứng nhắc cái đó chủ có tác dụng
thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Và chỉ có tác dụng phát triển nền kinh tế theo hcieefu
rộng. Nền kinh tế chỉ huy nước ta tồn tại q dài do đó nó khơng những cịn tác

dụng đáng kể trong việc thúc đẩy sản xuất mà nó cịn sinh ra nhiều hiện tượng tiêu
cực làm giảm năng xuất, chất lượng và hiệu quả sản xuất.
Xét về tồn tại thực tế ở nước ta những nhân tố của nền kinh tế thị trường. Về
vấn đề này có nhiều ý kiến đánh giá khác nhau. Nhiều nước cho rằng thị trường ở
nước ra là thị trường sơ khai. Thực tế kinh tế thị đã hình thành và phát triển đạt
những mức phát triển khác nhau, ở hầu hết các đô thị và vùng hẻo lánh đang được
mở rộng với thị trường quốc tế. Nhưng thị trường ở nước ta phát triển chưa đồng bộ
còn thiếu hẳn thị trường các yếu tố sản xuất như thị trường lao động, thị trường
viisn là thị trường đất đai về cơ bản vẫn là thị trường tự do, mức độ cản thiệp của
nhà nước còn rất thấp.
Xét về mối quan hệ kinh tế đối ngoại ta thấy nền kinh tế nước ta đang hòa
nhập với nền kinh tế thị trường thế giới, sự giao lưu về hàng hóa gần gũi hơn với thị
trường thế giới. Tương quan giá cả các loại hàng hóa trong và giá cả hàng hóa quốc
tế.
Xu hướng chung phát triển kinh tế thế giới là sự phát triển kinh tế của một
nước không tách rời sự phát triển và hòa nhập quốc tế. Sự cạnh tranh giữa các quốc
gia đã thay đổi hẳn về chất khơng cịn là dân số đơng, vũ khí nhiều, qn đội mạnh
mà là tiềm lực kinh tế. Mục đích của các quốc gia được nhiều của cải vật chất trong
quốc gia của mình là tốc độ phát triển kinh tế cao, đời sống nhân đân được cải thiện,
thất nghiệp thấp, tiềm lực kinh tế đã trở thành thước đo chủ yếu.


Trên thế giớ có nhiều mơ hình kinh tế thị trường, nhưng nếu việc phát triển mà
dẫn tới tình trạng dân không giàu, nước không mạnh, thiếu dân chủ, kém văn minh
thì khơng quốc gia nào mong muốn. Cho nên, phấn đấu vì mục tiêu dân giàu, nước
mạnh, xã hội dân chủ, công bằng, văn minh là khát vọng của nhân dân Việt Nam.
Để hiện thực hóa khát vọng như vậy, việc thực hiện kinh tế thị trường mà trong đó
hướng tới những giá trị mới, do đó, là tất yếu khách quan.
Mặt khác, kinh tế thị trường sẽ còn tồn tại lâu dài ở nước ta là một tất yếu
khách quan, là sự cần thiết cho công cuộc xây dựng và phát triển. Bởi lẽ sự tồn tại

hay không tồn tại của kinh tế thị trường là do những điều kiện kinh tế - xã hội khắc
quan sinh ra nó quy định. Trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam
những điều kiện do sự ra đời và tồn tại của sản xuất hàng hóa như: phân cơng lao
động xã hội, các hình thức khác nhau của quan hệ sở hữu về tư liệu sản xuất khơng
hề mẩ đi thì việc sản xuất và phân phối sản phẩm vẫn phải được thực hiện thông
qua thị trường.
Phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa sẽ phá vỡ tính chất
tự cấp, tự túc, lạc hậu của nền kinh tế; đẩy mạnh phân công lao động xã hội, phát
triển ngành nghề; tạo việc làm cho người lao động; thúc đẩy lực lượng sản xuất phát
triển mạnh mẽ, khuyến khích ứng dụng kỹ thuật cơng nghệ mới bảo đảm tăng năng
xuất lao động, tăng số lượng, chất lượng và chủng loại hàng hóa, dịch vụ góp phần
từng bước cải thiện và nâng cao đời sống nhân dân; thúc đẩy tích tụ và tập trung sản
xuất, mở rộng giao lưu kinh tế giữa các vùng miền trong nước và với nước ngồi;
khuyến khích tính năng động, sáng tạo trong các hoạt động kinh tế; tạo cơ chế phân
bổ và sử dụng các nguồn lực xã hội một cách hợp lý, tiết kiệm… Điều này phù hợp
với khát vọng của người dân Việt Nam.

KẾT LUẬN


Theo C.Mác, kinh tế thị trường là một giai đoạn phát triển tất yếu của lịch sử
mà bất cứ nền kinh tế nào cũng phải trải qua để đạt tới nấc thang cao hơn trên con
đường phát triển và nền kinh tế tư bản chủ nghĩa chính là nền kinh tế thị trường
phát triển đến trình độ phổ biến và hồn chỉnh. Nấc thang cao hơn chính là nền kinh
tế cộng sản chủ nghĩa mà giao đoạn đầu là nền kinh tế xã hội chủ nghĩa. Để chuyển
lên nấc thang này, nền kinh tế thị trường phải phát triển hết mức, phải trở thành phổ
biến trong đời sống kinh tế - xã hội.
Đây là một kết luận lý luận quan trọng. Nó khái qt q trình phát triển của
lịch sử nhân loại, trong đó, kinh tế thị trường được xã định là một nấc thang tất yếu,
mang tính phổ biến. Tính phổ biến của kinh tế thị trường thể hiện ở cấu trúc khung

chung cho mọi nền kinh tế thị trường.


TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Chuyên để 6: tinhuygialai.org.vn
2. Giáo trình học phần Kinh tế chính trị MLN: moet.gov.vn
3. Báo lý luận chính trị và truyền thơng



×