Tải bản đầy đủ (.doc) (45 trang)

Tiền công - Thu nhập của người lao động ở Doanh nghiệp tư nhân và việc tạo động lực cho người lao động

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (236.84 KB, 45 trang )

Lời mở đầu
Từ khi chuyển nền kinh tế tập trung bao cấp sang nền kinh tế hàng hoá
nhiều thành phần, vận động theo cơ chế thị trờng có sự quản lý của nhà nớc,
kinh tế Việt Nam đã có nhiều thay đổi và phát triển đi lên. Các hoạt động
trong xã hội đều bị chi phối của các qui luật thị trờng, đặc biệt là qui luật cạnh
tranh. Theo đó, xã hội luôn mong muốn tạo ra đợc nhiều của cải vật chất, các
tổ chức kinh tế thì mong không ngừng tăng lợi nhuận qua việc sản xuất hàng
hoá, dịch vụ. Để đáp ứng đợc mong muốn đó, con ngời hoặc phải tăng quĩ thời
gian dùng cho sản xuất hoặc phải tăng năng suất lao động. Trong các yếu tố
đó, quĩ thời gian dành cho sản xuất là có hạn, mỗi ngời chỉ có tối đa là
24h/ngày làm việc, còn tăng năng suất thì có thể không ngừng tăng lên do
nhiều yếu tố khách quan và chủ quan. Vậy cần thiết phải nghiên cứu các yếu
tố làm tăng năng suất lao động, trong đó tiền lơng và thu nhập là yếu tố tác
động trực tiếp đến ngời lao động là động cơ chính để họ tăng năng suất lao
động. Nghiên cứu mối quan hệ giữa tiền lơng và thu nhập với năng suất lao
động là rất quan trọng, tác động đến hiệu quả sản xuất kinh doanh của các tổ
chức.
Nhận thức đợc tầm quan trọng của vấn đề này trong các doanh nghiệp t
nhân và đợc sự giúp đỡ nhiệt tình của cô giáo Nguyễn Thanh Thuỷ .Tôi đã đi
sâu vào nghiên cứu đề tài:
Tiền công - Thu nhập của ng ời lao động ở doanh nghiệp t nhân và việc
tạo động lực cho ngời lao động .
Tôi đã cố gắng đa ra một cách khái quát và đầy đủ nhất về vấn đề. Song do
thời gian có hạn và là lần đầu viết về vấn đề này nên không thể tránh đợc
những thiếu sót ,rất mong đợc những ý kiến góp ý để tôi có thể nắm vững hơn
về vấn đề và hoàn thiện hơn trong những lần viết sau:
Bài viết gồm ba phần.
Chơng1: Cơ sở lý luận chung về tiền công - thu nhập và việc tạo
động lực cho ngời lao động.
Chơng2: Thực trạng tiền công - thu nhập của những ngời lao động
trong các doanh nghiệp t nhân hiện nay.


Chơng3: Một số giải pháp hoàn thiện công tác trả công - thu nhập
trong các doanh nghiệp t nhân hiện nay nhằm tạo động lực cho ngời lao
động.
Chơng1
Cơ sở lý luận về tiền công thu nhập và
việc tạo động lực cho ngời lao động
1. Thực chất của tiền công thu nhập trong doanh nghiệp.
1.1. Khái niệm chung về tiền công - thu nhập:
Tiền lơng hay tiền công là một phạm trù kinh tế, là số tiền mà ngời sử
dụng lao động trả cho ngời lao động khi họ hoàn thành một công việc nào đó.
Có nhiều quan niệm khác nhau về tiền lơng phụ thuộc vào các thời kỳ khác
nhau và góc độ nhìn nhận khác nhau.
Theo quan niệm của chủ nghĩa Mác: Tiền lơng là một phần của thu nhập
quốc doanh mà Nhà nớc xã hội chủ nghĩa phân phối cho ngời lao động làm
việc trong khu vực nền kinh tế quốc dân dới hình thức tiền tệ căn cứ vào số l-
ợng và chất lợng lao động của mỗi ngời đã cống hiến.
ở nớc ta trong thời kỳ bao cấp, chúng ta đã từng quan niệm rằng: Tiền l-
ơng là một bộ phận của thu nhập quốc dân đợc Nhà nớc phân phối có kế hoạch
cho ngời lao động căn cứ vào số lợng và chất lợng của mỗi ngời đã cống hiến.
Theo quan niệm này, tiền lơng mang nặng tính chất bao cấp, bình quân, dàn
đều. Nó cha đảm bảo đợc nguyên tắc phân phối tiền lơng theo lao động, từ đó
khuyến khích nâng cao trình độ chuyên môn, tính chủ động sáng tạo của ngời
lao động và coi nhẹ lợi ích thiết thực của ngời lao động. Kết quả là đã không
gắn đợc gắn lợi ích của ngời lao động với thành quả mà họ đã sáng tạo ra,
không có trách nhiệm với công việc đợc giao...
Khi chuyển nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung, bao cấp sang nền kinh tế
thị trờng, ở đây mọi ngời đợc tự do mua, bán sức lao động của mình, vì thế sức
lao động đợc nhìn nhận nh một hàng hoá và tiền lơng không phải là cái gì
khác mà nó chính là giá cả của sức lao động.
Thật vậy, sức lao động là cái vốn có của ngời lao động ngời sử dụng lao

động lại có điều kiện và muốn sử dụng nó để tạo ra của cải vật chất. Do vậy
ngời sử dụng lao động phải trả cho ngời chủ sở hữu sức lao động hay ngời lao
động một số tiền nhất định để đổi lấy quyền sử dụng sức lao động của ngời lao
động. Về phía ngời lao động, họ muốn bán sức lao động để có một khoản tiền
nhất định nuôi bản thân và gia đình. Vì vậy giữa ngời sử dụng lao động và ng-
ời nảy sinh quan hệ mua bán và cái đợc trao đổi, mua bán ở đây là sức lao
động của ngời lao động và số tiền mà ngời sử dụng lao động trả cho ngời lao
động chính là giá cả của sức lao động. Hay nói khác đi tiền lơng chính là giá
cả của sức lao động.
Lúc này, Đảng và Nhà nớc ta đã nhận định Tiền lơng là giá cả của sức
lao động, đợc hình thành qua sự thoả thuận giữa ngời lao động và ngời sử dụng
lao động thông qua hợp động, phù hợp với các quan hệ lao động của nền kinh
tế thị trờng đang trong quá trình hoàn thiện theo định hớng XHCN.
Điều đó có nghĩa là tiền lơng là phải đợc trả theo đúng giá trị sử dụng lao
động, phải coi tiền lơng nh một động lực thúc đẩy từng cá nhân ngời lao động
hăng say làm việc, nhng phải tránh tính chất bình quân. Có thể cùng trình độ
chuyên môn, cùng bậc thợ, nhng tiền lơng lại rất khác nhau do hiệu quả sản
xuất khác nhau hay do giá trị sức lao động khác nhau.
Quan điểm mới này về tiền lơng đã tạo cho việc trả lơng đúng với giá trị
sức lao động, tiền tệ hoá tiền lơng triệt để hơn, xoá bỏ tính phân phối cấp phát
và trả lơng bằng hiện vật. Đồng thời nó đã khắc phục quan điểm coi nhẹ lợi
ích cá nhân nh trớc kia, tiền lơng phải đợc sử dụng đúng vai trò đòn bẩy kinh
tế của nó kích thích ngời lao động gắn bó hăng say với công việc.
Tóm lại: Tiền lơng là một khoản tiền mà ngời sử dụng lao động trả cho
ngời lao động khi họ hoàn thành một công việc nào đó theo đúng số lợng và
chất lợng đã thoả thuận. Sức lao động là hàng hoá, tiền lơng là giá cả sức lao
động, và ngời sử dụng lao động phải căn cứ vào số lợng và chất lợng lao động
của ngời công nhân, cũng nh mức độ phức tạp, tính chất độc hại của công việc
để trả lơng cho ngời lao động.
Thu nhập là khoản tiền mà ngời lao động trong doanh nghiệp đợc ngời sử

dụng lao động trả theo lao động và là khoản thu thờng xuyên, tính bình quân
tháng trong năm bao gồm: Tiền lơng (tiền công), tiền thởng chia phần lợi
nhuận, các khoản phụ cấp lơng, những chi phí thờng xuyên ổn định mà ngời sử
dụng lao động chi trực tiếp cho ngời lao động nh tiền ăn tra, ăn giữa ca, tiền
xăm lốp xe... và các khoản thu khác, trong đó tiền lơng là một phần chủ yếu
trong thu nhập.
Nh vậy tiền lơng, thu nhập về cơ bản đều là số tiền mà ngời sử dụng lao
động trả cho ngời lao động, đều là giá cả sức lao động, nên nó là một khoản
mục chi phí cấu tạo nên giá thành sản phẩm do đó nó là mọt khoản khấu trừ
vaò doanh thu khi tính kết quả sản xuất kinh doanh ảnh hởng đến lợi nhuận
của doanh nghiệp. Tuy nhiên tiền lơng còn đợc chủ doanh nghiệp dùng nh một
công cụ tích cực đến ngời lao động. Tiền lơng, thu nhập gắn chặt với quy luật
nâng cao năng suất lao động và tiết kiệm thời gian lao động. Bởi tăng năng
suất lao động là cơ sở tăng tiền lơng đồng thời phần tiết kiệm do năng suất lao
động đợc dùng để tăng tiền lơng lại là động lực thúc đẩy tăng sản lợng và chất
lợng sản phẩm. Tiền lơng, thu nhập là lợi ích vật chất trực tiếp mà ngời lao
động đợc hởng từ sự cống hiến sức lao động của họ. Vì vậy trả lơng xứng đáng
với sức lao động mà họ bỏ ra sẽ có tác dụng khuyến khích ngời lao động tích
cực lao động, quan tâm đến kết quả lao động của họ. Từ đó tạo điều kiện tăng
năng suất lao động, thúc đẩy sản xuất phát triển.
1.2. Động lực lao động và tạo động lực lao động
1.2.1. Động lực lao động
Động lực lao động là sự khao khát và tự nguyện của con ngời nhằm
nâng cao mọi nỗ lực để đạt mục tiêu hay kết quả cụ thể nào đó.
Động lực lao động bao hàm động cơ lao động và mục đích hoạt động
của con ngời, trong đó động cơ lao động là quan trọng nhất vì nó quyết định
quá trình lao động của con ngời.
+ Động cơ lao động là những gì tiềm ẩn trong con ngời, nó chỉ thể hiện
ra thông qua các hoạt động của con ngời và động cơ này là khác nhau ở mỗi
ngời. Động cơ lao động thờng xuyên thay đổi theo từng thời kỳ xuất hiện

những nhu cầu. Vì vậy, phải tìm hiểu kỹ động cơ lao động của con ngời.
Quá trình hình thành động cơ lao động có nguồn gốc từ sự xuất hiện
nhu cầu. Có thể nói động cơ là nhu cầu mạnh nhất của con ngời trong một thời
điểm nhất định và nhu cầu sẽ quyết định hoạt động của con ngời.
Nhu cầu trở thành động cơ khi có đủ ba yếu tố. Đó là sự mong muốn,
chờ đợi, tính hiện thực của sự mong muốn và hoàn cảnh môi trờng xung
quanh.
Muốn biết nhu cầu của con ngời xuất hiện do đâu thì phải tìm hiểu kỹ
động cơ lao động của họ, tuy nhiên động cơ nhiều khi là vô thức nên rất dễ
đánh giá sai.
+ Mục đích hoạt động của con ngời là nhằm thoả mãn những nhu cầu,
mong ớc của chính mình. Nh vậy, nhu cầu bao giờ cũng xuất hiện trớc và đợc
thoả mãn sau bằng chính hoạt động xuất phát từ nhu cầu đó. Khi một nhu cầu
này đựơc thoả mãn thì xuất hiện nhu cầu khác cao hơn. Vì vậy, giữa nhu cầu
và sự thoả mãn luôn có khoảng cách nhất định.
nhu cầu thoả mãn > 0
Chính khoảng cách này đã tạo ra động lực cho ngời lao động, nó làm
ngời ta hớng tới mục tiêu mới và sẽ cố gắng để đạt đợc bằng sự nỗ lực của
chính mình một cách tự nguyện.
Có thể định nghĩa tổng quát về động lực lao động
Động lực lao động là những tác động thúc đẩy từ bên trong con ngời
nhằm nâng cao mọi nỗ lực để đạt đợc mục tiêu hay kết quả cụ thể nào đó một
cách tự nguyện.
1.2.2. Tạo động lực lao động
Nh ta đã biết nhu cầu tạo ra động cơ cho ngời lao động còn động lực
xuất hiện nh thế nào?
Động cơ lao động xuất phát từ nhu cầu của con ngời, từ động cơ ấy sẽ
tạo ra lợi ích và đến lợt nó lợi ích lại tạo động lực cho ngời lao động.
Hệ thống nhu cầu của con ngời gồm hai loại chính là nhu cầu vật chất
và nhu cầu tinh thần. Chúng thờng xuyên thay đổi và có xu hớng tăng lên cả

về số lợng và chất lợng. Nhân tố số lợng là có giới hạn nhất định còn nhân tố
chất lợng có xu hớng đợc đặt lên hàng đầu. Nguyên nhân của hiện tợng này là
do sự phát triển của nền kinh tế xã hội. Cách phân loại này có u điểm riêng là
làm rõ hệ thống nhu cầu. Trong thực tế sự phân chia này chỉ là tơng đối, chúng
thờng hoà quyện vào nhau, có mối quan hệ với nhau và khó phân tích một
cách rạch ròi.
Để thoả mãn đựơc tất cả các nhu cầu đặt ra con ngời phải tham gia vào
lao động xã hội. Có thể thấy rằng nhu cầu là động cơ thúc đẩy con ngời làm
việc và tham gia vào nền sản xuất xã hội. Với ý nghĩa đó, động cơ lao động
nói chung là biểu thị thái độ chủ quan của con ngời đối với hoạt động của
mình. Nó phản ánh mục tiêu đặt ra là có ý thức, xác định và giải thích cho
hành vi. Kết quả lao động đạt đựơc sẽ chứng minh cho hành vi đó.
Tuỳ thuộc vào việc xác định hoạt động, động cơ đựơc phân thành động
cơ cảm tính và động cơ lý tính.
Động cơ cảm tính gắn liền với sự hứng thú lao động. Lúc này cờng độ
lao động có thể đạt đến mức tối đa, mang lại sự hứng thú trong lao động và lao
động là hoạt động hoàn toàn tự nguyện mang tính bản năng.
Động cơ lý tính là biểu hiện của sự nhận thức rõ ràng mục tiêu cụ thể
nhất định. Lúc này, hoạt động của con ngời là hớng về mục tiêu mà họ đặt ra,
động cơ là có ý thức và hoạt động là có điều kiện.
Thật khó để phân biệt đợc đâu là động cơ cảm tính và đâu là động cơ lý
tính. Trong thực tế, con ngời hoạt động chủ yếu là vì động cơ lý tính. Động cơ
đó đợc phản ánh qua thái độ của con ngời đối với hoạt động của mình.
1.3. Vai trò của tiền lơng trong việc tạo động lực lao động
Tiền lơng là lĩnh vực không chỉ các doanh nghiệp quan tâm mà nó còn
đợc toàn xã hội chú ý. Sở dĩ nh vậy vì tiền lơng liên quan trực tiếp đến các vấn
đề xã hội cũng nh kinh tế (lạm phát) và tiền lơng đợc xem là biện pháp kích
thích vật chất chủ yếu đối với ngời lao động.
Trong doanh nghiệp, một mặt tiền lơng trớc hết là yếu tố đảm bảo cuộc
sống cho ngời lao động, nó là động lực chủ yếu khuyến khích ngời lao động

làm việc tốt, mặt khác lại là nguyên nhân gây bất mãn, trì trệ do tiền lơng
không thoả đáng, không công bằng. Điều đó có nghĩa là tiền lơng là động lực
không đủ mạnh để thúc đẩy con ngời làm việc hoặc không phản ánh đợc kết
quả (số lợng và chất lợng) mà họ đạt đợc.
Trong nền kinh tế thị trờng hiện nay, đặc biệt là từ sau cải cách tiền l-
ơng, chúng ta càng thấy rõ hơn sức lao động là hàng hoá. Ngời lao động bán
sức lao động của mình cho doanh nghiệp và nhận lại từ doanh nghiệp một
khoản gọi là tiền lơng (hay tiền công). Nh vậy tiền lơng chính là một phần thu
nhập mà ngời lao động đợc ngời sử dụng lao động trả cho sau khi họ đã hoàn
thành một công việc nhất định.
Vì tiền lơng là giá cả sức lao động cho nên tiền lơng cũng bị quyết định
bởi các quy luật về giá cả của tất cả các hàng hoá khác và bởi quan hệ giữa
cung và cầu trên thị trờng. Trong quá trình hoạt động của các doanh nghiệp,
tiền lơng là một phần chi phí cấu thành sản xuất, vì vậy nó đợc tính là chi phí
kinh tế (chi phí sản suất, kinh doanh). Do đó tiền lơng luôn phải đợc tính toán
và quản lý chặt chẽ.
Tóm lại, tiền lơng vừa là yếu tố kinh tế, vừa mang tính chất xã hội.
Càng hiểu rõ bản chất của tiền lơng, ta càng thấy tiền lơng giữ vai trò đặc biệt
quan trọng trong chính sách khuyến khích vật chất và hơn nữa nó cũng là biện
pháp kích thích tinh thần.
ở nớc ta hiện nay, với bất kỳ một ngời lao động nào thì tiền lơng cũng là
mối quan tâm hàng đầu của họ, nó là động lực chủ yếu thúc đẩy họ làm việc
tốt hơn bởi vì tiền lơng hiện nay chính là phần thu nhập chủ yếu của ngời lao
động. Cuộc sống của họ phụ thuộc vào mức tiền lơng mà họ nhận đợc từ công
việc. Vì thế, tiền lơng trớc hết là biện pháp kích thích vật chất. Biểu hiện rõ
nhất là nếu tiền lơng thoả đáng, phù hợp với sức lao động mà họ đã bỏ ra sẽ
khiến họ hăng hái làm việc. Ngợc lại, nếu tiền lơng mà họ nhận đợc quá thấp,
không xứng đáng sẽ làm giảm đi sự kích thích trong lao động. Ngời lao động
sẽ không quan tâm đến công việc của mình và có thể sẽ tìm kiếm công việc
khác làm thêm bù vào phần thu nhập của mình hoặc tìm kiếm công việc mới

có thu nhập cao hơn đủ đảm bảo cho cuộc sống của mình.
Tiền lơng cũng là một biện pháp kích thích về mặt tinh thần bởi vì nó có
thể biểu hiện giá trị, địa vị và uy tín của ngời lao động đối với gia đình, công
ty và cả xã hội. Điều này có nghĩa là tiền lơng chính là biểu hiện giá trị của
quyền lực, địa vị và sự thành đạt. Nó làm cho con ngời ta cảm thấy tự hào,
niềm tự hào đó là chính đáng và đáng đợc khuyến khích.
Tiền lơng ngoài tác dụng trên còn là công cụ thúc đẩy kinh tế của chính đơn vị
đó. Với mức tiền lơng thoả đáng con ngời sẽ làm việc hăng hái hơn, dẫn đến
năng suất lao động tăng và tiết kiện đợc thời gian hao phí lao động. Mặt khác,
tăng tiền lơng lại dựa trên cơ sở tăng năng suất lao động. Cơ sở của việc tăng
sản phẩm vật chất cho xã hội là phần giảm thời gian hao phí lao động trong
sản xuất. Mối quan hệ tác động qua lại này tạo nên sự kích thích mạnh mẽ
giúp ngời lao động làm việc tốt hơn.
1.4.Các phơng hớng tạo động lực trong lao động
4.1.Xác định nhiệm vụ và tiêu chuẩn thực hiện công việc cho nhân viên
Xác định mục tiêu hoạt động của tổ chức và làm cho ngời lao động hiểu
rõ mục tiêu đó.
Xác định nhiệm vụ cụ thể và các tiêu chuẩn thực hiện công việc cho ng-
ời lao động.
Đánh giá thờng xuyên và công bằng mức độ hoàn thành công việc của
ngời lao động.
4.2.Tạo đièu kiện thuận lợi để ngời lao động hoàn thiện công việc
Loại trừ các trở ngại cho thực hiện công việc của ngời lao động.
Cung cấp các điều kiện cần thiết cho công việc.
Tuyển chọn và bố trí ngời phù hợp để thực hiện công việc.

4.3.Kích thích lao động
Sử dụng tiền công tiền lơng nh một công cụ cơ bản để kích thích vật
chất đối với ngời lao động. Tiền công tiền lơng phải đợc trả thoả đáng so với
đóng góp của ngời lao động, phải công bằng.

Sử dụng hợp lý các chính sách khuyến khích nh: tăng lơng tơng xứng
với thực hiện công việc áp dụng các hình thức trả công khuyến khích, tiền th-
ởng và phần thởng.
Sử dụng hợp lý các chính sách khuyến khích phi tài chính để thoả mãn
nhu cầu tinh thần cho ngời lao động.
2.Doanh nghiệp t nhân
1. Khái niệm về doanh nghiệp t nhân.
Xuất phát từ luật doanh nghiệp t nhân, luật công ty do Quốc hội nớc
CHXHVN Việt Nam thông qua ngày 21/12/1990 tại kỳ họp thứ 8 quốc hội
khoá VIII ta có
DNTN là đơn vị kinh doanh, có mức vốn không thấp hơn vốn pháp định
(vốn pháp định tuỳ theo từng nghề và tối thiểu là 20 triệu đồng), do một cá
nhân làm chủ và tự chịu trách nhiệm bằng toàn bộ tài sản của mình về mọi
hoạt động của doanh nghiệp.
2. Vai trò của doanh nghiệp t nhân trong sự phát triển của đất nớc.
ở nớc ta, trong vòng 30 năm ở miền Bắc và 10 năm ở miền Nam kinh tế
t nhân không đợc chấp nhận tồn tại, là đối tợng phải cải tạo, xoá bỏ. Từ sau đại
hội VI của Đảng (1986) khu vực kinh tế này đợc thừa nhận tồn tại lâu dài. Đến
nay khu vực kinh tế này đã đóng góp vai trò to lớn trong sự phát triển của đất
nớc. Nó gồm có vai trò chủ yếu sau:
- Góp phần tạo công ăn việc làm cho ngời lao động:
Sau năm 1986, sự dôi d lao động với quy mô lớn ở khu vực kinh tế t nhân
khi tiến hành sắp xếp lại sản xuất theo QĐ 176/HĐBT, cùng với sự hạn chế
của ngân sách ngày một gia tăng ở các doanh nghiệp đợc bao cấp trớc đây,
việc trở về của hàng trăm ngàn lao động từ nớc ngoài (Đông âu), và sự tăng tr-
ởng hàng triệu lao động hàng năm... đã làm cho sức ép về việc làm trở nên cấp
bách. Trớc tình hình đó, việc phát triển các doanh nghiệp t nhân đóng vai trò
cực kỳ quan trọng, để trong một thời gian ngắn tạo thêm nhiều việc làm cho
ngời lao động.
Tính đến 31/12/2002, các doanh nghiệp này đã thu hút 339638 lao động,

chiếm 7,3% lực lợng lao động xã hội. Tính cả khu vực Kinh tế t nhân thì đã
thu hút tới 89,6% lực lợng lao động xã hội.
- Tạo ra thu nhập, bảo đảm đời sống cho ngời lao động:
Chính từ việc giải quyết việc làm cho ngời lao động trong xã hội mà khu
vực Kinh tế t nhân nói chung và các Doanh nghiệp t nhân Doanh nghiệp t nhân
nói riêng đã tạo thu nhập, nâng cao đời sống cho ngời lao động.
Kết quả điều tra một số doanh nghiệp năm 2003 tính bình quân cho các
doanh nghiệp thì thu nhập bình quân của ngời lao động đạt 1,422 triệu đồng
/tháng điều đó phản ánh năng suất lao động và hiệu quả sản xuất kinh doanh
của các doanh nghiệp t nhân cao hơn sản xuất cá thể và hộ gia đình nông
nghiệp thuần tuý. Từ đó, khu vực kinh tế t nhân đã đóng góp 51,5% trong GDP
năm 2003
- Tận dụng các nguồn lực xã hội:
Doanh nghiệp t nhân phần lớn là các doanh nghiệp vừa và nhỏ, lĩnh vực
sản xuất kinh doanh chủ yếu tập trung vào thế mạnh của từng ngành, nghề
thuộc địa phơng, vùng mà doanh nghiệp hoạt động.
Vốn của nó thờng nhỏ, nên đã đợc đông đảo nhân dân tham gia hoạt
động qua đó thu hút nguồn vốn trong dân c vào sản xuất kinh doanh.
Trong quá trình hoạt động, các doanh nghiệp này thờng nhằm mục tiêu
sản xuất kinh doanh phục vụ nhu cầu tiêu dùng của nhân dân, sử dụng nhiều
lao động, ít vốn, với chi phí thấp nhất. Do vậy, phần nhiều khu vực này không
đòi hỏi lao động có trình độ cao, chỉ cần bồi dỡng hoặc đào tạo ngắn hạn là có
thể tham gia vào sản xuất trong doanh nghiệp đợc.
Khi sử dụng máy móc thiết bị, nó thờng lựa chọn kỹ thuật phù hợp với
trình độ, khả năng của ngời lao động, kết hợp giữa thủ công và kỹ thuật mà đa
số quần chúng lao động có thể nhanh chóng tiếp thu và làm chủ trong sản
xuất. Do đó, thiết bị của doanh nghiệp thờng là sản phẩm trong nớc.
Với việc sản xuất kinh doanh những mặt hàng mà nguyên vật liệu sẳn có,
tại chỗ, dễ khai thác sử dụng, đã tạo việc làm trong khu vực, sử dụng nguyên
vật liệu có hiệu quả.

- Tăng nguồn thu cho ngân sách quốc gia:
Hàng năm, khu vực kinh tế này đóng góp trên 51% cho ngân sách Nhà n-
ớc.
- Đóng vai trò quan trọng đối với quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá
và chuyển dịch cơ cấu kinh tế.
Quá trình phát triển của các doanh nghiệp t nhân cũng là quá trình cải
tiến máy móc, thiết bị, nâng cao năng lực sản xuất và chất lợng sản phẩm để
đáp ứng nhu cầu thị trờng, đến một mức độ nào đó, nhất định sẽ dẫn đến đổi
mới công nghệ, làm cho quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nớc diễn
ra không chỉ ở chiều sâu mà cả ở chiều rộng.
Sự phát triển của các doanh nghiệp này làm cho Công nghiệp, Dịch vụ
phát triển theo, dẫn đến chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo xu hớng tiến bộ, đặc
biệt ở các vùng nông thôn.
3. Đặc điểm, vị trí, vai trò của tiền lơng hay thu nhập trong DNTN.
a. Tiền lơng mà chủ doanh nghiệp trả cho ngời lao động theo đúng bản
chất là giá cả của sức lao động.
Khi chủ doanh nghiệp đầu vốn tiến hành sản xuất kinh doanh, tuyển lao
động, ngời lao động đem bán sức lao động của mình cho chủ doanh nghiệp.
Tiền lơng lúc này đợc trả theo đúng bản chất là giá cả sức lao động, hoạt động
theo quy luật cung cầu về sức lao động, thông qua sự thoả thuận bằng hợp
đồng lao động giữa chủ doanh nghiệp và ngời lao động. Kết quả là tiền lơng
trong DNTN phản ánh tơng đối rõ nét những mức trả lơng khác nhau theo đặc
thù riêng của từng vùng, từng khu vực.
Chủ doanh nghiệp t nhân là chủ sở hữu đích thực có thể đồng thời là ngời
chủ huy, ngời sử dụng lao động, trả lơng cho ngời lao động bằng chính nguồn
tài chính của riêng mình và không hề đợc sự hỗ trợ của ngân sách Nhà nớc
Trung ơng hay địa phơng. ở đây, tiền lơng là một yếu tố của chi phí sản xuất
nh mọi chi phí khác. Do vậy mà chủ doanh nghiệp tính toán một cách rất chi
li, thậm chí tìm cách hạ thấp mức trả lơng xuống dới giá trị sức lao động, nhất
là việc tính toán kỹ lỡng nhu cầu công nhân để có đợc giá thành hạ, thu đợc

nhiều lợi nhuận hơn. Tuy vậy, chủ doanh nghiệp cũng biết sử dụng đúng chỗ,
đúng lúc nhân kích thích của tiền lơng để trả tơng đối thoả đáng cho ngời lao
động có trình độ chuyên môn kỹ thuật cao. Chủ DNTN không phải tìm nguồn
tài chính bất hợp lệ, bất hợp pháp để trả lơng cho ngời lao động mà chỉ bằng
nguồn vốn của mình.
Trong việc trả lơng cho ngời lao động chủ DNTN có lợi thế ở chỗ: chỉ
phải thuân thủ các quy định của pháp luật là không đợc trả lơng dới mức tiền l-
ơng tối thiểu cho ngời lao động làm những công việc giản đơn không qua đào
tạo và tuân thủ quy định pháp luật về hạch toán kế toán thống kê tiền lơng.
Ngoài ra thì đợc hoàn toàn chủ động trong các việc nh: xây dựng thang lơng,
bảng lơng, định mức lao động và đơn giá, ấn định các mức lơng trên mức lơng
tối thiểu cho lao động kỹ thuật, xác định các hình thức trả lơng thích hợp với
từng loại công việc. Do đó, phơng pháp tiến hành những công việc này nói
chung là đơn giản, nhiều trờng hợp tuỳ thuộc vào trình độ, phơng thức quản lý
của chủ doanh nghiệp kể cả tính của ngời chủ mà tiến hành cho hợp lý. Ngay
cả việc tuân thủ pháp luật về tiền lơng tối thiểu, về thực hiện pháp lệnh hạch
toán kế toán thống kê cũng đã có nhiều chủ doanh nghiệp tìm cách lảng tránh,
thiếu trung thực.
b. Trong các DNTN, ngời lao động không thoát khỏi vị thế chung của
ngời lao động là chủ yếu.
Trong các DNTN, việc làm - thu nhập của ngời lao động hay thất thờng,
không ổn định. Trong khi đó sức ép về việc làm nói chung của nền kinh tế
cũng làm cho sự yếu thế của ngời lao động so với các chủ doanh nghiệp, nhất
là đối với lao động không có kỹ thuật hoặc kỹ thuật thấp, đặc biệt là lao động
nông thôn nhập c vào các thành phố. Điều đó sẽ tác động rất lớn tới quan hệ
trả lơng giữa chủ và thợ trong doanh nghiệp.
Ngời lao động trong DNTN đại bộ phận lấy tiền lơng làm nguồn sống
chủ yếu cho bản thân và gia đình. Họ thờng bằng lòng với cơ máy có đợc việc
làm và thu nhập. Do vậy họ ít quan tâm tới việc đòi hỏi công bằng xã hội, đòi
hỏi chủ doanh nghiệp phải trả đúng giá trị sức lao động của mình.

So với các DNNN, ngời lao động trong các DNTN phần lớn ít đợc phổ
biến, quán triệt pháp luật lao động... Do đó, ngoại trừ một bộ phận lao động
quản lý có trình độ chuyên môn cao đợc trả lơng thoả đáng cao hơn nhiều so
với mức lơng của ngời cùng trình độ trong doanh nghiệp và cơ quan nhà nớc.
Còn lao động phổ thông, lao động có trình độ khoa học kỹ thuật thấp, tuy mức
lơng nhiều trờng hợp có cao hơn trong DNNN chút ít, nhng vẫn phải chịu thiệt
thòi về các quyền lợi tham gia bảo hiểm xã hội, tổ chức công đoàn, cải thiện
điều kiện lao động, đảm bảo an toàn lao động, vệ sinh lao động, thời gian làm
việc, thời gian nghỉ ngơi, tranh chấp lao động. Việc giao kết hợp đồng lao
động, ký kết thoả ớc lao động tập thể ít đợc quan tâm, đòi hỏi theo luật định.
Trong trờng hợp có tổ chức công đoàn vững mạnh và biết dựa vào tổ chức
công đoàn thì ngời lao động lại có lợi thế để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp
chính đáng.
3. Sự cần thiết phải nâng cao thu nhập cho ngời lao động trong các
doanh nghiệp t nhân.
Khu vực kinh tế t nhân (KTTN) nói chung và các DNTN nói riêng ở nớc
ta ta mới đợc thừa nhận và phát triển khoảng 10 năm lại đây, vì thế nó cha đợc
chú trọng và phát triển. Trong khi nó là thành phần kinh tế năng động, rất
quan trọng chiếm đại bộ phận trong nền kinh tế quốc dân. Tiền lơng của ngời
lao động ở đây vẫn còn rất thấp, ngời lao động luôn luôn bị yếu thế hơn so với
các DNNN, kết quả lao động của họ nhận đợc tiền lơng, giá cả sức lao động
cha tơng xứng với sức lao động của họ đã bỏ ra, thu nhập của họ phải đợc
nâng cao từ kết quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Đó cũng là chức
năng phân phối thu nhập trong nền kinh tế quốc dân, đảm bảo tính công bằng
trong xã hội, thực hiện làm theo năng lực, hởng theo lao động.
Trong những năm gần đây, sự tiến bộ khoa học kỹ thuật, sự hiện đại của
máy móc thiết bị, chuyên môn hoá, hiệp tác hoá diễn ra rộng khắp đợc áp
dụng vào sản xuất; Do nhu cầu đòi hỏi sự đa dạng hoá sản phẩm hàng hoá của
ngời tiêu dùng... Từ đó, đòi hỏi trình độ chuyên môn kỹ thuật của ngời lao
động cũng phải đợc nâng cao tơng xứng với trình độ của máy móc, thiết bị.

Nếu trình độ chuyên môn kỹ thuật của ngời lao động thấp thì việc áp dụng
công nghệ, máy móc thiết bị mới hiện đại sẽ rất khó khăn không có hiệu quả,
việc nâng cao trình độ lao động là hết sức cần thiết. Muốn vậy, ngời lao động
cần đợc học tập, nâng cao trình độ hơn nữa. Việc nâng cao thu nhập cho ngời
lao động là một tất yếu và cần thiết. Lúc đó sẽ tái sản xuất sức lao động mở
rộng cả về chất lợng, phục vụ cho doanh nghiệp, cho xã hội.
Hơn nữa, các doanh nghiệp cũng phải thấy rằng: Thu nhập là một khoản
ứng trớc cho hiệu quả, cho mục đích sản xuất kinh doanh của mình. Tiền l-
ơng, thu nhập là giá cả của sức lao động mà ngời sử dụng lao động trả cho ng-
ời lao động theo thoả thuận. Vì thế nó là công cụ quản lý mà ngời sử dụng lao
động có thể sử dụng nó để điều khiển ngời lao động trong một giới hạn nhất
định một cách có hiệu quả. Mục đích của việc điều khiển ở đây là kích thích
khai thác tối đa khả năng lao động của ngời lao động. Việc nâng cao thu nhập
cho ngời lao động sẽ nâng cao đợc tinh thần trách nhiệm, lòng nhiệt tình, hăng
hái sản xuất, từ đó tăng năng suất lao động, hiệu quả sản xuất sẽ đạt đợc, đa
doanh nghiệp phát triển.
Trong phạm vi một nền kinh tế quốc dân muốn CNH, HĐH diễn ra
nhanh chóng thì đời sống của nhân dân phải đợc nâng cao, khi mà đời sống
của ngời dân đợc cải thiện, nâng cao thì các nghĩa vụ, trách nhiệm của ngời
dân đối với công việc chung, việc thực hiện các kế hoạch, chính sách của nhà
nớc mới thu đợc kết quả tốt. ở nớc ta hiện nay vẫn là một nớc nghèo, đời sống
nhân dân vẫn còn khó khăn, việc nâng cao thu nhập cho ngời lao động là cần
thiết, tạo sức mạnh của toàn dân trong công cuộc xây dựng đất nớc. Nâng cao
thu nhập, đời sống cho ngời lao động thực hiện xã hội công bằng văn minh
cũng là mục tiêu cuối cùng của công cuộc CNH, HĐH đất nớc. Đời sống của
ngời dân vẫn còn nghèo đói khó khăn cũng có nghĩa là mục tiêu của CNH,
HĐH cha đợc thực hiện. Vì vậy nâng cao thu nhập cho ngời lao động nói
chung và ngời lao động trong các doanh nghiệp t nhân nói riêng là nhiệm vụ
chung của toàn xã hội, đa nớc nhà phát triển.
Chơng2

Thực trạng tiền công thu nhập của ngời lao động
trong các doanh nghiệp t nhân hiện nay
1. Quá trình phát triển và đặc điểm tình hình sản xuất
của các doanh nghiệp t nhân trong các năm qua.
1.1. Về số lợng các doanh nghiệp t nhân.
Việt Nam, trong mấy chục năm qua, quan điểm chính thống đối với
thành phần kinh tế t nhân có những thay đổi. Kinh tế t nhân phát triển qua các
bớc thăng trầm, có thể chia thành 2 giai đoạn chính.
a. Trong thời gian đầu xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nớc ta (sau cuộc
cách mạng giành độc lập dân tộc).
Trong thời gian này, do t tởng muốn hoàn thành công cuộc cải tạo xã hội
chủ nghĩa trong một thời gian ngắn mà kinh tế t nhân không đợc thừa nhận, bị
xoá bỏ, hoặc hoà tan vào trong thành phần kinh tế quốc doanh dới hình thức
Công ty hợp doanh.
Sau năm 1954, trải qua một thời kỳ cải tạo ngắn ngủi, kinh tế t bản t nhân
bị biến mất ở miền bắc. Đến cuối năm 1960, công cuộc cải tạo xã hội chủ
nghĩa đối với công nghiệp t bản t nhân căn bản hoàn thành và chuyển 729 xí
nghiệp t nhân thành 661 xí nghiệp công t hợp doanh, và 68 xí nghiệp quốc
doanh.
Sau khi giải phóng miền Nam, cả nớc thống nhất đã cùng đi lên chủ
nghĩa xã hội, với t tởng đó, chúng ta lại tiến hành cải cách một cách triệt để và
kinh tế t nhân lại bị xoá bỏ ở miền Nam. Đến cuối năm 1975 thì thành phần
kinh tế t nhân bị xoá bỏ hoàn toàn.
b. Giai đoạn từ Đại hội Đảng lần thứ VI (1986) đến nay.
Từ Đại hội Đảng lần thứ VI, Đảng và nhà nớc đã nhận đợc những sai lầm
trong đờng lối quản lý kinh tế nói chung và trong cải tạo xã hội chủ nghĩa nói
riêng. Do vậy, đã thừa nhận sự tồn tại một nền kinh tế nhiều thành phần ở nớc
ta, trong đó có thành phần kinh tế t nhân. Chính do nhận thức đợc tình hình tất
yếu khách quan của thành phần kinh tế t nhân, mà nhà nớc đã ban hành hàng
loạt các chủ trơng chính sách, quy định về thành lập và hoạt động của doanh

nghiệp t nhân. Hội nghị lần thứ II của TW Đảng (ngày 4/4/1987) đã cụ thể hoá
nghị quyết của đại hội VI về chính sách đối với kinh tế cá thể và kinh tế t bản
t nhân, đề ra yêu cầu xoá bỏ sự phân biệt đối xử trong chính sách kinh tế xã
hội đối với các thành phần kinh tế này. Các chính sách đó đã đợc thể chế hoá
thành những văn bản pháp quy: Nghị định 27 HĐBT ngày 9 tháng 3 năm 1988
của hội đồng bộ trởng ban hành quy định về chính sách đối với kinh tế cá thể,
kinh tế t doanh, nghị quyết 16 của Bộ chính trị về đổi mới chính sách và cơ
chế quản lý đối với các cơ sở sản xuất thuộc thành phần kinh tế quốc doanh.
Luật doanh nghiệp t nhân ngày 21/12/1990 nghị định số 221 - HĐBT ngày 23
tháng 7 năm 1991 của hội đồng Bộ trởng về cụ thể hoá một số điều trong
doanh nghiệp t nhân...
Các chủ trơng chính sách đó của nhà nớc đã tạo điều kiện thuận lợi cho
các doanh nghiệp t nhân phát triển.

×