Tải bản đầy đủ (.doc) (39 trang)

Đánh giá tình hình thất nghiệp tại việt nam từ năm 2005 – 2013

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (258.4 KB, 39 trang )

MỤC LỤC
TÀI LIỆU THAM KHẢO…………………………………………………… 39
1
LỜI NÓI ĐẦU 2
CHƯƠNG 1. GIỚI THIỆU CHUNG VỀ KINH TẾ HỌC VĨ MÔ 4
1.1 Kinh tế học 4
1.2. Kinh tế học vi mô và kinh tế học vĩ mô 5
1.3. Kinh tế học thực chứng và kinh tế học chuẩn tắc 8
1.4. Một số vấn đề kinh tế vĩ mô then chốt 8
CHƯƠNG 2. TỔNG QUAN VỀ THẤT NGHIỆP 11
2.1 Khái niệm thất nghiệp, tỷ lệ thất nghiệp và phân loại thất nghiệp 11
2.2 Mô hình về tỉ lệ thất nghiệp tự nhiên 15
2.3 Tìm việc và thất nghiệp tạm thời 16
2.4. Sự cứng nhắc của tiền lương thực tế và thất nghiệp chờ việc 18
CHƯƠNG 3. ĐÁNH GIÁ VỀ TÌNH HÌNH THẤT NGHIỆP 22
(Từ năm 2005 – 2013) 22
3.1 Đánh giá về tình hình thất nghiệp qua các năm 22
3.2 Nguyên nhân và giải pháp 30
3.2.1 Nguyên nhân 30
3.2.2 Giải pháp 33
KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ 37
TÀI LIỆU THAM KHẢO 39
TÀI LIỆU THAM KHẢO…………………………………………………… 39
1
LỜI NÓI ĐẦU
Thất nghiệp là hiện tượng kinh tế vĩ mô ảnh hưởng sâu sắc và trực tiếp
đến mọi người. Thất nghiệp đồng nghĩa với chất lượng cuộc sống giảm đi, đời
sống xã hội bất an. Vì vậy có lẽ không ngạc nhiên lắm khi thấy thất nghiệp
thường là chủ để tranh luận giữa các nhà kinh tế cũng như những người lập
chính sách kinh tế vĩ mô.
Việt Nam trong những năm gần đây nền kinh tế đang găp không ít khó


khăn và chịu tác động mạnh mẽ của nền kinh tế toàn cầu, tình trạng suy giảm
kinh tế toàn cầu khiến tỷ lệ thất nghiệp ở Việt Nam ngày càng gia tăng, đặc biệt
là lao động trong tầng lớp thanh niên, sinh viên mới ra trường, lao động thành
thị… Thất nghiệp dẫn đến nhiều vấn đề bất ổn cho xã hội như: gia tăng tỷ lệ tội
phạm, vấn đề tâm lý, tỷ lệ phân hóa giàu nghèo ngày càng sâu sắc… Cho nên
vấn đề đặt ra cho đất nước ta hiện nay là giải quyết vấn đề thất nghiệp ổn thỏa
đã và đang là vấn đề cấp bách và cần thiết để đưa nền kinh tế đất nước đi lên và
hội nhập một cách toàn diện và sâu rộng hơn với các nước trên thế giới.
Mặc dù nền kinh tế nước ta trong những năm gần đây có nhiều chuyển
biến tốt nhưng tình trạng thất nghiệp vẫn chưa được đầy lùi và có chiều hướng
gia tăng. Tỷ lệ thất nghiệp nghiệp tăng trong khi tốc độ tăng trưởng kinh tế lại
chậm lại, đây thật là vấn đề nan giải cho các nhà hoạch định kinh tế vĩ mô. Việt
Nam hiện có khoảng trên 53 triệu người trong độ tuổi lao động và dự báo sẽ còn
tăng, mỗi năm lại thêm hơn một triệu lao động khiến cho áp lực của chính phủ
phải tạo thêm việc ngày càng gia tăng. Theo các chuyên gia kinh tế nhận xét thì
có nhiều nguyên nhân dẫn đến thất nghiệp như: do trình độ sản xuất ngày càng
cao; áp dụng nhiều tiến bộ khoa học kỹ thuật đòi hỏi một đội ngũ lao động có
trình độ cao và chuyên môn cao… chính vì vậy những người không đủ điều kiện
dễ dàng bị sa thải; định hướng nghề nghiệp cho lớp thanh niên còn nạng nề tư
tưởng thích làm “thầy” hơn làm “thợ”…
Chính vì những lý do trên, em chọn đề tài “Đánh giá tình hình thất nghiệp
tại Việt Nam từ năm 2005 – 2013” nhằm tìm hiểu rõ hơn thực trạng thất nghiệp,
2
từ đó tìm hiểu nguyên nhân và nghiên cứu giải pháp nhằm góp phần không nhỏ
vào việc nghiên cứu môn học kinh tế vĩ mô.
3
CHƯƠNG 1. GIỚI THIỆU CHUNG VỀ KINH TẾ HỌC VĨ MÔ
1.1 Kinh tế học
Kinh tế học là một chuyên ngành khoa học xã hội nghiên cứu việc lựa
chọn cách xử dụng hợp lý các nguồn lực khan hiếm (có hạn) để sản xuất ra

những hàng hóa, dịch vụ, nhằm thỏa mãn cao nhất nhu cầu của mọi thành viên
trong xã hội.
Các tính chất của một chuyên ngành khoa học xã hội nói chung và kinh tế
học nói riêng là:
- Không có sự chính xác tuyệt đối (vì những hàm số, con số, những quan
hệ định lượng trong kinh tế học đều mang tính ước lượng trung bình từ thực tế).
- Chủ quan (với cùng một hiện tượng kinh tế nếu đứng trên những quan
điểm khác nhau có thể đưa ra những kết luận khác nhau). Cho nên, trong thực tế
ta thường chứng kiến sự tranh cãi giữa các trường phái kinh tế, thậm chí có lúc
căng thẳng, đối chọi nhau.
Kinh tế học luôn nhấn mạnh đến sự lựa chọn của cá nhân và xã hội trong
việc sử dụng những nguồn tài nguyên có giới hạn để đáp ứng nhu cầu ngày càng
tăng của con người.
Trong hầu hết các xã hội, việc sử dụng các nguồn lực khan hiếm không
phải do một người duy nhất nào, mà không có sự phối hợp hoạt động của hàng
triệu hội gia đình, doanh nghiệp và chính phủ. Các thành viên (hộ gia đình,
doanh nghiệp, chính phủ) của nền kinh tế xã hội thực hiện các quyết định kinh tế
dựa trên các nguyên tắc sau: Đánh đổi, chi phí cơ hội, những thay đổi biên,
những khuyến khích.
Tài nguyên có hạn, nhu cầu của con người thì không có giới hạn, nên con
người luôn phải tính toán, lựa chọn sao cho việc sử dụng tài nguyên đó hiệu quả
nhất và đó cũng chính là lý do để kinh tế học tồn tại và phát triển.
4
1.2. Kinh tế học vi mô và kinh tế học vĩ mô
Căn cứ theo đối tượng và phạm vi nghiên cứu kinh tế học được phân
thành kinh tế học vi mô và kinh tế học vĩ mô.
a. Kinh tế học vi mô:
Nghiên cứu cách thức mà các hộ gia đình, các doanh nghiệp ra quyết định
và tác động lẫn nhau trong một thị trường nào đó. Nó nghiên cứu nền kinh tế ở
góc độ chi tiết, riêng lẻ.

b. Kinh tế học vĩ mô:
Nghiên cứu nền kinh tế ở góc độ tổng thể, thống nhất. Nó chú trọng đến
nội dung chính sau đây: Giá trị tổng sản lượng; Tỷ lệ thất nghiệp; Tăng trưởng
kinh tế; Lãi suất; Tài khóa và Tiền tệ; Cán cân ngoại thương; Cán cân thanh
toán; Chính sách cho sự ổn định và thúc đẩy tăng trưởng.
Kinh tế học vĩ mô cung cấp khuôn khổ lý thuyết cho việc giải thích tiền
lương cứng nhắc, giá cứng nhắc, hành vi đầu tư, tiêu dùng, tiết kiệm, cầu tiền.
Sự phối hợp giữa kinh tế học vi mô và kinh tế học vĩ mô giúp việc thực thi chính
sách hiệu quả. Thiếu sự phối hợp dẫn đến giảm sản lượng.
Kinh tế học vĩ mô nỗ lực giải thích nền kinh tế và đề xuất những chính
sách để cải thiện những thành tựu đã đạt được. Kinh tế học vĩ mô sử dụng các
mô hình khác nhau để giải thích những vấn đề khác nhau. Mô hình với giá linh
hoạt mô tả nền kinh tế trong dài hạn, mô hình với giá cả cứng nhắc mô tả nền
kinh tế trong ngắn hạn.
Trong nền kinh tế vĩ mô, có vấn đề còn tranh luận là: Một khi mà nguồn
lực không được sử dụng hết, liệu chính phủ có thể và nên can thiệp vào kinh tế
để cải thiện hoạt động của nền kinh tế hay không? Đây là vấn đề về các chính
sách: Tài khóa; Tiền tệ; Tỷ giá. Chính từ đây đã xuất hiện hai trường phái kinh
tế cạnh tranh nhau: Trường phái cổ điển (Neo – Classical) và trường phái
Keynes (Keynes và Keynesian).
5
Lý thuyết của trường phái cổ điển cho rằng: Lương và giá có tính linh
hoạt; Nền kinh tế tự điều chỉnh đến xu hướng tăng trưởng dài hạn; Giải quyết
tình trạng thất nghiệp dai dẳng cần phải có các chính sách phái cung (điều chỉnh
luật lệ, cắt giảm thuế); sự bảo thủ về chính trị.
Lý thuyết của trường phái Keynes cho rằng: Lương và giá có tính cứng
nhắc (chậm thay đổi); Cầu khu vực tư thường không ổn định do vậy yêu cầu của
chính phủ cho sự can thiệp mang tính chủ động của Chính phủ; Giải quyết tình
trạng thất nghiệp dai dẳng cần phải có các chính sách phái cầu (tăng chi tiêu của
Chính phủ, cắt giảm thuế); Sự tự do về chính trị.

Trường phái cổ điển cho rằng, thị trường biết những gì phải làm, Chính
phủ không nên can thiệp vào nền kinh tế. Trường phái Keynes cho rằng, Chính
phù có thể và nên can thiệp vào nền kinh tế nhằm cải thiện hoạt động của nền
kinh tế.
Những nhà kinh tế học vĩ mô thường sử dụng các mô hình để giải thích và
tiên liệu các hiện tượng kinh tế. Trước hết họ khái quát những chi tiết phức tạp
của nền kinh tế bằng những biến số cần thiết có thể kiểm soát được. Dựa vào
những biến số này, hỗ nỗ lực xây dựng các mô hình kinh tế bằng cách sử dụng
một giả thiết nào đó. Mô hình này mô tả mối quan hệ giữa các biến số đó bằng
các hệ phương trình hay hệ phương trình.
Các biến số trong mô hình kinh tế vĩ mô có hai loại biến là biến nội sinh
và biến ngoại sinh. Biến nội sinh hay biến được giải thích, là những biến được
giải thích bằng mô hình. Biến ngoại sinh hay biến không giải thích là biến không
được giải thích bởi mô hình, nó được dùng để giải thích biến nội sinh.
Mục đích của mô hình là chỉ ra biến ngoại sinh ảnh hưởng đến biến nội
sinh như thế nào. Giá trị tiên nghiệm của các biến xác định ở thời điểm trong
tương lai, hiện thời giá trị của nó mới chỉ ước lượng chứ chưa xác định. Giá trị
hậu nghiệm của các biến được xác định trong quá khứ. Hiện thời giá trị của nó
đã được xác định.
6
Các mối quan hệ trong mô hình kinh tế gồm có đồng nhất thức và quan hệ
hành vi giữa các biến. Đồng nhất thức được sử dụng để định nghĩa các biến, nó
luôn luôn đúng, ví dụ: GDP = C + I + G + X – I. Quan hệ hành vi giữa các biến
phản ánh hành vi mà mô hình muốn giải thích, ví dụ: I = I
0
– h.r.
Xét ví dụ mô hình kinh tế đơn giản của thị trường hàng hóa X:
- Giả thiết: Thị trường cạnh tranh hoàn hảo
- Cầu hàng hóa X: Q
d

= F(P
x
, I, ST
TD
, KV
TD
, P
y
, N
TD
)
- Cung hàng hóa X: Q
s
= F(P
x
, CN
SX
, P
YTSX
, T, KV
SX
, N
SX
)
- Cân bằng thị trường Q
d
= Q
s

- Mô phỏng quan hệ giữa lượng cung và lượng cầu phụ thuộc vào giá cả

hàng hóa X trên đồ thị với trục tung là P, trục hoành là Q.
Như vậy, trong mô hình này các biến nội sinh là P, Q; các biến còn lại sẽ
là các biến ngoại sinh trong mô hình.
Trong kinh tế học vĩ mô, không có mô hình nào giải thích được tất cả các
sự kiện mà chúng ta quan tâm (ví dụ mô hình cung cầu hàng hóa X không giải
thích được tại sao thu nhập tăng). Chúng ta sẽ nghiên cứu nhiều mô hình khác
nhau cho những vấn đề khác nhau (như lạm phát, thất nghiệp, tăng trưởng…).
Mỗi mô hình chúng ta nên quan tâm tới những vấn đề sau: Giả thiết của mô
hình; Biến nào là biến nội sinh; biến nào là biến ngoại sinh; Mô hình này giúp
chúng ta hiểu những vấn đề gì?
Trong phân tích kinh tế vĩ mô, khung thời gian nghiên cứu được chia
thành ngắn hạn và dài hạn. Trong ngắn hạn, nhiều mức giá cứng nhắc, tức là giá
được điều chỉnh một cách chậm chạp khi có sự thay đổi của cung và cầu. Khi
giá cứng nhắc, lượng cung không luôn bằng lượng cầu. Vì vậy, có thể giải thích
tại sao lại có thất nghiệp, tại sao lại thừa hàng hóa. Trong dài hạn. giá cả linh
hoạt tức là thị trường cân bằng liên tục, nền kinh tế ở trạng thái sử dụng toàn bộ
nguồn lực, điều này có thể giải thích tăng trưởng do sự cải thiện công nghệ, tích
lũy vốn.
7
1.3. Kinh tế học thực chứng và kinh tế học chuẩn tắc
Căn cứ vào phương pháp nghiên cứu, kinh tế học có thể phân thành: kinh
tế học thực chứng và kinh tế học chuẩn tắc.
- Kinh tế học thực chứng: Bàn về những giải thích khách quan hay khoa
học sự vận động của nền kinh tế, nó trả lời cho câu hỏi: Như thế nào? Tại sao?
Ví dụ, kinh tế học thực chứng nghiên cứu tỷ lệ thất nghiệp thực tế là bao nhiêu?
Mức thất nghiệp cao sẽ ảnh hưởng thế nào đến lạm phát? Nếu chính phủ tăng
thuế đối với mặt hàng sữa tươi sẽ ảnh hưởng đến việc sản xuất và tiêu thụ sữa
tươi như thế nào? Để giải quyết những vấn đề như vậy, các nhà kinh tế học bắt
buộc phải đối chiếu với thực tế. Bằng cách khảo sát thực tế, các nhà kinh tế học
sẽ giải quyết được hai vấn đề: Lý giải tại sao nền kinh tế lại hoạt động như nó

đang hoạt động; Từ đó có cơ sở để dự đoán về tương lai kinh tế. Ở đây, các nhà
kinh tế học chú trọng giải thích các hiện tượng kinh tế bằng sự khách quan.
- Kinh tế học chuẩn tắc: Cho ta những quy định hay đề nghị dựa trên đánh
giá cá nhân về giá trị. Ở đây chú trọng nhiều hơn về chủ quan, hay là điều mà ta
cho là phải xảy ra. Ví dụ: Chính phủ lên tăng mức lương tối thiểu cho người lao
động; Lạm phát cao đến mức nào thì có thể chấp nhận được; Có nên cắt giảm
chi phí cho quốc phòng không?…
1.4. Một số vấn đề kinh tế vĩ mô then chốt
Những vấn đề then chốt được kinh tế vĩ mô quan tâm nghiên cứu bao
gồm: Mức sản xuất; Thất nghiệp; Mức giá chung và Thương mại quốc tế của
một nền kinh tế. Phân tích kinh tế vĩ mô hướng vào giải đáp các câu hỏi như:
Điều gì quyết định giá trị hiện tại của các biến số này? Điều gì quy định những
quy định của các biến số này trong ngắn hạn và dài hạn? Thực chất chúng ta
khảo sát mỗi biến số này trong những khoảng thời gian khác nhau: hiện tại, ngắn
hạn và dài hạn. Mỗi khoảng thời gian đòi hỏi chúng ta phải sử dụng các mô hình
thích hợp để tìm ra các nhân tố quyết định các biến kinh tế vĩ mô này.
Một trong những thước đo quan trọng nhất về thành tựu nền kinh tế vĩ mô
của các quốc gia là GDP. GDP đo lường tổng sản lượng và tổng thu nhập của
8
một quốc gia. Phần lớn các nước trên thế giới đều có tăng trưởng kinh tế trong
dài hạn. Các nhà kinh tế vĩ mô tìm cách giải thích sự tăng trưởng này. Nguồn
gốc của sự tăng trưởng dài hạn là gì? Tại sao một số nước tăng trưởng nhanh
hơn các nước khác? Liệu chính sách của chính phủ có thể ảnh hưởng đến tăng
trưởng kinh tế dài hạn của một nền kinh tế hay không? Mặc dù tăng trưởng kinh
tế là một hiện tượng phổ biến trong dài hạn, nhưng sự tăng trưởng này có thể
không ổn định giữa các năm. Trên thực tế, GDP có thể giảm trong một số trường
hợp. Những biến động ngắn hạn của GDP được gọi là chu kỳ kinh doanh. Hiểu
biết được chu kỳ kinh doanh (CKKD) là mục tiêu chính của kinh tế vĩ mô. Tại
sao các CKKD lại xuất hiện? Các lực lượng kinh tế nào làm cho kinh tế hồi
phục? phải chăng các CKKD gây bởi các sự kiện không dự tính được hay chúng

bắt nguồn từ các lực lượng nội tại có thể dự tính trước được? Liệu chính sách
của Chính phủ có thể sử dụng để làm dịu bớt hay triệt tiêu những biến động
ngắn hạn trong nền kinh tế hay không? Đây là những vấn đề lớn đã đươc đưa ra
và ít nhất cũng đã được giải đáp một phần bởi kinh tế vĩ mô hiện đại.
Thất nghiệp là biến số then chốt thứ hai mà kinh tế học vĩ mô quan tâm
nghiên cứu. Tỷ lệ thất nghiệp đo lường số người không có việc làm và đang tích
cực tìm việc tính theo tỷ lệ % so với lực lượng lao động. Sự biến động ngắn hạn
của tỷ lệ thất nghiệp liên quan đến những dao động của CKKD. Những thời kỳ
sản lượng giảm thường đi kèm với tăng thất nghiệp và ngược lại.
Lạm phát là biến số then chốt thứ ba mà kinh tế học vĩ mô quan tâm
nghiên cứu. Lạm phát là hiện tượng phổ biến trên thế giới trong những thập kỷ
gần đây. Vấn đề đặt ra là cái gì quyết định tỷ lệ lạm phát (TLLP) dài hạn và
những biến động ngắn hạn của lạm phát trong một nền kinh tế? Tại sao lạm phát
ở Việt Nam đã rất cao năm 1980 và có xu hướng giảm trong những năm gần
đây? Sự thay đổi TLLP có liên quan như thế nào đến CKKD? Phải chăng là
ngân hàng trung ương cần theo đuổi mục tiêu lạm phát bằng không?
Vấn đề quan trọng thứ tư mà kinh tế học vĩ mô quan tâm đến là cán cân
thương mại (CCTM). Việt Nam thường có thâm hụt thương mại (THTM). Tầm
9
quan trọng của THTM là gì và điều gì quy định sự biến động của nó trong ngắn
hạn và dài hạn? Để hiểu CCTM, vấn đề then chốt cần nhận thức là mất cân bằng
thương mại liên quan chặt chẽ với dòng chu chuyển vốn quốc tế. Nhìn chung,
khi một nước nhập khẩu nhiều hàng hóa hơn từ thế giới bên ngoài so với xuất
khẩu, nước đó cần phải trang trải cho phần nhập khẩu dôi ra đó bằng cách vay
tiền từ thế giới bên ngoài, hoặc giảm lượng tài sản quốc tế hiện đang nắm giữ.
Ngược lại, khi có xuất khẩu ròng dương, thì nước đó sẽ tích tụ tài sản của thế
giới bên ngoài. Như vậy, nghiên cứu về mất cân bằng thương mại liên quan chặt
chẽ đến việc nghiên cứu tại sao các công dân một nước lại đi vay tiền hoặc cho
các công dân nước khác vay tiền.
Để nghiên cứu các vấn đề cơ bản trên, các nhà kinh tế học vĩ mô gặp

nhiều khó khăn vì họ không thể làm các thí nghiệm có kiểm soát. Để hiểu hành
vi của nền kinh tế, các nhà kinh tế học vĩ mô cần có các số liệu kinh tế. Từ việc
quan sát số liệu, phát hiện những xu hướng và các mối quan hệ, xây dựng mô
hình để giải thích các xu hướng và các mối quan hệ đó và sau đó kiểm định xem
các mô hình có phù hợp với số liệu mới cập nhật không. Vì vậy, trước khi
nghiên cứu các vấn đề cơ bản trên, các nhà kinh tế học vĩ mô phải dựa vào các
số liệu kinh tế vĩ mô. Từ các số liệu kinh tế vĩ mô (sản lượng quốc gia) chúng ta
lần lượt nghiên cứu các vấn đề trên trong ngắn hạn và dài hạn và vấn đề các cơ
sở vi mô của nền kinh tế vĩ mô.
10
CHƯƠNG 2. TỔNG QUAN VỀ THẤT NGHIỆP
Sau khi xem xét phân phối thu nhập quốc dân và sự tăng trưởng thu nhập
theo thời gian, bây giờ chúng ta trở lại giải thích một trong những biến số kinh
tế vĩ mô được đặc biệt quan tâm đó là thất nghiệp. Chúng ta liên tục nhấn mạnh
đến dài hạn: mối quan tâm của chúng ta không phải là sự biến động của thất
nghiệp mà là mức thất nghiệp trong dài hạn. Giống như sự biến động của thu
nhập, sự biến động của thất nghiệp là một vấn đề mà chúng ta gác lại khi phân
tích về hành vi của nền kinh tế trong dài hạn. Mức thất nghiệp trung bình hay
mức thất nghiệp dài hạn thường được gọi là mức thất nghiệp tự nhiên.
Tại sao các nhà kinh tế lại quan tâm đến thất nghiệp? Vì lao động là một
đầu vào để sản cuất ra hàng hóa và dịch vụ. Thất nghiệp có thể là một tín hiệu về
sự lãng phí các nguồn lực khan hiếm. Lý do khác gắn liền với chi phí mà thất
nghiệp gây ra cho xã hội và cá nhân những người bị thất nghiệp. Cuối cùng,
gánh nặng mà thất nghiệp gây ra không phân bố đều cho toàn xã hội mà chủ yếu
rơi vào nhóm người dễ bị tổn thương nhất.
Tại sao chúng ta lại kỳ vọng có một mức thất nghiệp nào đó trong nền
kinh tế? Dường như một nền kinh tế vận hành tốt sẽ không có thất nghiệp. Tuy
nhiên, điều này không xảy ra trên thực tế. Trong một nền kinh tế thường xuyên
biến động, luôn có một số người gia nhập, một số khác thì rời khỏi lực lượng lao
động hoặc chuyển việc. Thông thường công nhân sẽ bị thất nghiệp trong một

khoảng thời gian trước và giữa các công việc. Chính vì vậy, chúng ta luôn quan
sát thấy một số thất nghiệp trong các nền kinh tế.
2.1 Khái niệm thất nghiệp, tỷ lệ thất nghiệp và phân loại thất nghiệp
2.1.1 Khái niệm thất nghiệp, tỷ lệ thất nghiệp
Thất nghiệp, trong kinh tế học, là tình trạng người lao động muốn có việc
làm mà không tìm được việc làm.
11
Tỷ lệ thất nghiệp là phần trăm số người lao động không có việc làm trên
tổng số lực lượng lao động xã hội.
2.1.2 Phân loại
a. Phân theo đặc trưng của người thất nghiệp.
Thất nghiệp là một gánh nặng, nhưng gánh nặng đó rơi vào đâu, bộ phận
dân cư nào, ngành nghề nào… Cần biết được điều đó để hiểu được đặc điểm,
tính chất, mức độ tác hại… của thất nghiệp trong thực tế. Với mục đích đó có
thể dùng những tiêu thức phân loại dưới đây:
- Thất nghiệp chia theo giới tính.
- Thất nghiệp theo lứa tuổi.
- Thất nghiệp chia theo vùng, lãnh thổ.
- Thất nghiệp chia theo ngành nghề.
- Thất nghiệp chia theo dân tộc, chủng tộc.
b. Phân loại theo lý do thất nghiệp.
Trong khái niệm thất nghiệp, cần phân biệt rõ thất nghiệp tự nguyện và
thất nghiệp không tự nguyện. Nói khác đi là những người lao động tự nguyện
xin thôi việc và những người lao động buộc phải thôi việc. Trong nền kinh tế thị
trường năng động, lao động ở các nhóm, các ngành, các công ty được trả tiền
công lao động khác nhau (mức lương không thống nhất trong các ngành nghề,
cấp bậc). Việc đi làm hay nghỉ việc là quyền của mỗi người. Cho nên, người lao
động có sự so sánh, chỗ nào lương cao thì làm, chỗ nào lương thấp (không phù
hợp) thì nghỉ. Vì thế xảy ra hiện tượng:
Thất nghiệp tự nguyện: Là loại thất nghiệp mà ở một mức tiền công nào

đó người lao động khống muốn làm việc hoặc vì lý do cá nhân nào đó (di
chuyển, sinh con…). Thất nghiệp loại này thường là tạm thời.
12
Thất nghiệp không tự nguyện là: Thất nghiệp mà ở mức tiền công nào đó
người lao động chấp nhận nhưng vẫn không được làm việc do kinh tế suy thoái,
cung lớn hơn cầu về lao động…
Thất nghiệp trá hình (còn gọi là hiện tượng khiếm dụng lao động) là hiện
tượng xuất hiện khi người lao động được sử dụng dưới mức khả năng mà bình
thường người lao động sẵn sàng làm việc. Hiện tượng này xảy ra khi năng suất
lao động của một ngành nào đó thấp, thất nghiệp loại này thường gắn với việc sử
dụng không hết thời gian lao động.
Kết cục của những người thất nghiệp không phải là vĩnh viễn. Có những
người (bỏ việc, mất việc…) sau một thời gian nào đó sẽ được trở lại làm việc.
Nhưng cũng có một số người không có khả năng đó và họ phải ra khỏi lực lượng
lao động do không có điều kiện bản thân phù hợp với yêu cầu của thị trường lao
động hoặc do mất khả năng hứng thú làm việc (hay còn có thể có những nguyên
nhân khác).
Như vậy, con số thất nghiệp là con số mang tính thời điểm. Nó luôn biến
động theo thời gian. Thất nghiệp xuất phát từ nhu cầu cần việc làm, có việc rồi
lại mất việc, từ không thất nghiệp trở lên thất nghiệp rồi ra khỏi trạng thái đó. Vì
thế việc nghiên cứu dòng lưu chuyển thất nghiệp là rất có ý nghĩa.
c. Phân loại theo nguồn gốc thất nghiệp.
Tìm hiểu nguồn gốc thất nghiệp có ý nghĩa phân tích sâu sắc về thực trạng
thất nghiệp, từ đó tìm ra hướng giải quyết. Có thể chia thành 4 loại:
Thất nghiệp tạm thời là loại thất nghiệp phát sinh do sự di chuyển không
ngừng của người lao động giữa các vùng, các loại công việc hoặc giữa các giai
đoạn khác nhau của cuộc sống. Thậm chí trong một nền kinh tế có đủ việc làm
vẫn luôn có sự chuyển động nào đó như một số người tìm việc làm sau khi tốt
nghiệp hoặc di chuyển chỗ ở từ nơi này sang nơi khác; phụ nữ có thể quay lại
lực lượng lao động sau khi sinh con…

13
Thất nghiệp có tính cơ cấu: Xảy ra khi có sự mất cân đối giữa cung- cầu
lao động (giữa các ngành nghề, khu vực…). Loại này gắn liền với sự biến động
cơ cấu kinh tế và gây ra do sự suy thoái của một ngành nào đó hoặc là sự thay
đổi công nghệ dẫn đến đòi hỏi lao động có chất lượng cao hơn, ai không đáp
ứng được sẽ bị sa thải. Chính vì vậy, thất nghiệp loại này còn gọi là thất nghiệp
công nghệ. Trong nền kinh tế hiện đại, thất nghiệp loại này thường xuyên xảy
ra. Khi sự biến động này là mạnh và kéo dài, nạn thất nghiệp trở nên trầm trọng
và chuyển sang thất nghiệp dài hạn. Nếu tiền lương rất linh hoạt thì sự mất cân
đối trong thị trường lao động sẽ mất đi khi tiền lương trong những khu vực có
nguồn cung lao động hạ xuống, và ở trong khu vực có mức cầu lao động cao
tăng lên.
Thất nghiệp do thiếu cầu: Loại thất nghiệp này xảy ra khi mức cầu chung
về lao động giảm xuống. Nguồn gốc chính là sự suy giảm tổng cầu. Loại này
còn được gọi là thất nghiệp chu kỳ bởi ở các nền kinh tế thị trường nó gắn liền
với thời kỳ suy thoái của chu kỳ kinh doanh. Dấu hiệu chứng tỏ sự xuất hiện của
loại này là tình trạng thất nghiệp xảy ra tràn lan ở khắp mọi nơi, mọi ngành
nghề.
Thất nghiệp do yếu tố ngoài thị trường: Loại thất nghiệp này còn được gọi
theo lý thuyết cổ điển. Nó xảy ra khi tiền lương được ấn định không bởi các lực
lượng thị trường và cao hơn mức lương cân bằng thực tế của thị trường lao
động. Vì tiền lương không chỉ quan hệ đến sự phân phối thu nhập gắn với kết
quả lao động mà còn quan hệ đến mức sống tối thiểu nên nhiều nhiều quốc gia
(Chính phủ hoặc công đoàn) có quy định cứng nhắc về mức lương tối thiểu, sự
không linh hoạt của tiền lương (ngược với sự năng động của thị trường lao
động), dẫn đến một bộ phận mất việc làm hoặc khó tìm việc làm.
Tóm lại, thất nghiệp tạm thời và thất nghiệp cơ cấu xảy ra trong một bộ
phận riêng biệt của thị trường lao động (có thể diễn ra ngay cả khi thị trường lao
động đang cân bằng). Thất nghiệp do thiếu cầu xảy ra khi nền kinh tế đi xuống,
toàn bộ thị trường lao động bị mất cân bằng. Còn thất nghiệp theo lý thuyết cổ

14
điển do các yếu tố xã hội, chính trị tác động. Sự phân biệt đó là then chốt để
nắm bắt tình hình chung của thị trường lao động.
2.2 Mô hình về tỉ lệ thất nghiệp tự nhiên
Để hiểu được bản chất về sự vận hành của thị trường lao động, hãy xét
một mô hình đơn giản bao gồm những dòng vào và ra khỏi nhóm người có việc
làm. Chúng ta giả thiết rằng lực lượng lao động cố định, tức là chúng ta giả thiết
dân số và tỷ lệ tham gia lực lượng lao động là cho trước. Ta đã biết từ trước, lực
lượng lao động là cố định (L), bao gồm những người có việc làm (E) và những
người thất nghiệp (U): L=E+U.
Giả sử rằng, có một tỷ lệ cố định công nhân thất nghiệp tìm được việc làm
mỗi tháng, chúng ta sẽ ký hiệu tỷ lệ tìm được việc làm này là f. Khi đó, có fU
công nhân chuyển từ thất nghiệp thành có việc làm mỗi tháng. Tương tự, giả sử
rằng một tỷ lệ cố định s của công nhân đang có việc làm bị thất nghiệp hoặc do
họ tự ý bỏ việc hoặc bị sa thải. Chúng ta gọi s là tỷ lệ mất việc làm. Trên thực tế,
công nhân có thể bị thất nghiệp khi chuyển việc. Tuy nhiên, để đơn giản hóa cho
việc mô hình tăng trưởng Solow, chúng ta xét trạng thái dừng, khi đó số người
có việc làm và thất nghiệp (và do đó, tỷ lệ có việc làm và tỷ lệ thất nghiệp)
không thay đổi. Để điều này xảy ra thì số người bổ sung vào nhóm người có
việc làm phải đúng bằng số người bị mất việc, tức là fU – sE.
Vì ta đã biết L=E+U, do đó ta có thể viết được phương trình:
fU=s(L-U) hay U(s+f) = sL.
Và do đó chúng ta có phương trình U/L = s/(s+f)
Từ đây ta có thể đưa ra kết luận quan trọng là, muốn tác động lên tỷ lệ
thất nghiệp tự nhiên thì các chính sách cần phải thay đổi được hoặc là tỷ lệ tìm
được việc làm hoặc là tỷ lệ mất việc. Chẳng hạn, các nhà hoạch định chính sách
muốn giảm tỷ lệ thất nghiệp, họ cần phải tăng tỷ lệ tìm được việc làm và/hoặc
giảm được tỷ lệ mất việc.
15
Chúng ta sẽ đi sâu phân tích về thất nghiệp, điều mà mô hình đơn giản

này chưa thể giải đáp được. Thứ nhất, chúng ta muốn biết tại sao thất nghiệp là
điều không thể trành khỏi – hoặc theo ngôn ngữ của mô hình này, tại sao tỷ lệ
mất việc không phải rất nhỏ hay tỷ lệ tìm được việc làm nhỏ hơn một. Thứ hai,
chúng ta xem liệu các nhà hoạch định chính sách có nên thay đổi tỷ lệ thất
nghiệp tự nhiên hay không và nếu có thì nên sử dụng chính sách nào.
Có hai lý do giải thích tại sao tỷ lệ thất nghiệp không thể bằng không.
Chúng ta đã đề cập đến lý do thứ nhất, công nhân có thể cần một khoảng thời
gian thất nghiệp trong quá trình tìm việc làm. Thứ hai, vì nhiều lý do, thị trường
lao động không thể ở trạng thái cân bằng tại điểm mà cung bằng cầu. Sau đây
chúng ta sẽ xem xét các nguyên nhân này.
2.3 Tìm việc và thất nghiệp tạm thời
Công nhân và doanh nghiệp cần có thời gian để gặp được nhau. Các mô
hình của chúng ta cho đến nay đã giả thiết rằng tất cả công nhân và doanh
nghiệp là như nhau nhưng trên thực tế có nhiều loại công việc khác nhau. Một
nền kinh tế vận hành tốt là nền kinh tế đảm bảo sự ăn khớp giữa việc làm và kỹ
năng. Trong một nền kinh tế phức tạp, chúng ta không thể hy vọng những sự ăn
khớp như vậy xuất hiện tức thì. Hơn nữa, các doanh nghiệp và công nhân đôi
khi cần thời gian để hiểu nhau. Ví dụ, có thể một công nhân phải thử làm vài
công việc để lựa chọn một công việc phù hợp nhất.
Ngoài những vấn đề này, còn có một thực tế là sự ăn khớp giữa công nhân
và doanh nghiệp là một quá trình động. Theo thời gian công nhân mới gia nhập
lực lượng lao động, những người hết tuổi lao động rời khỏi lực lượng lao động
và kỹ năng của người lao động thay đổi. Đồng thời nhu cầu về công nhân cũng
thay đổi khi cầu về hàng hóa thay đổi.
Như vậy, chúng ta cần phải dự tính và phải coi một mức thất nghiệp nhất
định là cần thiết và đáng mong muốn trong xã hội hiện đại. Công nhân thường
không nhận ngay công việc đầu tiên được yêu cầu và doanh nghiệp không thuê
người công nhân đầu tiên nộp đơn xin việc. Trái lại, họ cần bỏ ra thời gian và
16
sức lực cần thiết để tạo ra sự ăn khớp tốt nhất giữa công nhân và doanh nghiệp.

Thất nghiệp tạm thời có nghĩa là tỷ lệ tìm được việc nhỏ hơn một và cũng giải
thích tại sao tỷ lệ mất việc là dương. Trên thực tế, nhiều tổ chức tư nhân như
trung tâm giới thiệu việc làm được thành lập nhằm tạo thuận lợi cho sự ăn khớp
giữa công nhân và doanh nghiệp.
Chính sách công và thất nghiệp tạm thời: Trong khi dễ dàng thừa nhận
rằng một số thất nghiệp tạm thời là đáng mong muốn thì điều khó xác định hơn
là phải chăng nền kinh tế đang có quá nhiều hay quá ít, hay vừa phải số công
nhân đang thất nghiệp tạm thời. Nói một cách khác, điều không rõ ràng là phải
chăng công nhân và doanh nghiệp đã bỏ ra quá nhiều hay quá ít nỗ lực để tiếp
cận nhau. Lý do chính là quyết định của công nhân và doanh nghiệp tạo ra ngoại
ứng. Khi doanh nghiệp và công nhân không ăn khớp với nhau, thì đôi bên cùng
có lợi. Một công nhân nỗ lực hơn dường như sẽ tạo ra nỗ lực ăn khớp tốt hơn.
Tuy nhiên, một sự ăn khớp tốt cũng làm lợi cho doanh nghiệp, doanh nghiệp
cũng có lợi ích từ bên ngoài. Vì công nhân không tính đến toàn bộ lợi ích từ nỗ
lực của anh ta khi quyết định tìm việc, công nhân dường như bỏ ra quá ít nỗ lực
xét trên quan điểm. Luận cứ hoàn toàn áp dụng cho doanh nghiệp. Như vậy,
chúng ta có thể nhận thấy trên thực tế là công nhân đã nỗ lực tìm việc và quá dễ
dàng chấp nhận công việc, và tỷ lệ tìm được việc là quá cao trên quan điểm của
xã hội. Kết luận khá ngạc nhiên rút ra là nền kinh tế có thể có quá it thất nghiệp.
Nhiều chính sách của Chính phủ có ảnh hưởng đến mức thất nghiệp tạm
thời. Chính sách bảo hiểm thất nghiệp ảnh hưởng đến động cơ của các cá nhân
tìm việc làm. Bảo hiểm thất nghiệp cho phép công nhân mất việc nhận được một
khoản thu nhập từ Chính phủ khi họ không có việc làm. Điều này làm giảm sự
cấp bách phải chấp nhận ngay công việc đầu tiên đầu tiên họ được đề nghị và do
đó có thể làm tăng tỷ lệ thất nghiệp tự nhiên. Sự tồn tại của bảo hiểm thất nghiệp
cũng có thể làm cho doanh nghiệp dễ dàng sa thải công nhân hơn.
Sự gia tăng tỷ lệ thất nghiệp tự nhân chỉ nên coi là một tác động phụ. Bảo
hiểm thất nghiệp được thiết kế nhằm giảm khó khăn cho các cá nhân bị thất
17
nghiệp, và như vậy nó có mục tiêu phân phối lại. Nó cũng làm giảm tính bất

định về thu nhập của công nhân và đảm bảo cho người và việc làm ăn khớp với
nhau tốt hơn.
2.4. Sự cứng nhắc của tiền lương thực tế và thất nghiệp chờ việc
Một nguyên nhân khác góp phần giải thích tại sao chúng ta quan sát thấy
có một số thất nghiệp ngay cả trong dài hạn là sự cứng nhắc của tiền lương thực
tế. Mô hình cổ điển giả thiết tiền lương thực tế điều chỉnh để cân bằng thị trường
lao động, Điều này phù hợp với cách tiếp cận bằng thị trường: Giá cả điều chỉnh
để đảm bảo sự cân bằng giữa cung và cầu. Tuy nhiên, có một số nguyên nhân
giải thích tại sao tiền lương thực tế có thể bị mắc lâu dài cao hơn mức cân bằng
thị trường. Chúng ta xét ba lý do: Luật tiền lương tối thiểu; Công đoàn và Tiền
lương hiệu quả. Cả ba lý thuyết đều giải thích tại sao tiền lương thực tế có thể
“quá cao”, làm cho một số công nhân có thể bị thất nghiệp. Thất nghiệp tạo ra
trong trường hợp này thường được gọi là thất nghiệp chờ việc, bởi vì một số
công nhân phải chờ cho đến khi có việc làm mới dành cho họ.
2.4.1. Luật tiền lương tối thiểu
Luật tiền lương tối thiểu là một lý do giải thích tại sao tiền lương thực tế
không thể giảm xuống mức cân bằng thị trường. Nếu mức lương cân bằng thấp
hơn Chính phủ quyết định, thì tiền lương không thể điều chỉnh linh hoạt. Hình
vẽ phía dưới minh họa thị trường lao động khi có qui định về tiền lương tối
thiểu. Khi tiền lương tối thiểu cao hơn mức cân bằng như trường hợp này thì
lượng lao động cung ứng sẽ vượt lượng cầu. Kết quả là có thất nghiệp. Do đó,
tiền lương tối thiểu làm tăng thu nhập của người lao động có việc làm, nhưng
làm giảm thu nhập của người lao động không tìm được việc làm.
Thực tế cho thấy luật tiền lương tối thiểu không mang tính ràng buộc đối
với nhiều công nhân bởi vì họ được trả tiền cao hơn rất nhiều so với mức lương
tối thiểu. Tuy nhiên, đối với một số công nhân, đặc biệt là số công nhân trẻ chưa
được đào tạo, quy định này có thể mang tính ràng buộc.
18
Các nhà kinh tế thường chống lại luật tiền lương tối thiểu, không phải vì
họ chống lại sự cải thiện thu nhập cho nhóm công nhân nghèo mà vì họ cho rằng

tiền lương tối thiểu không phải là một công cụ hiệu quả và công bằng để thực
hiện mục tiêu ấy. Nếu phân tích của chúng ta là đúng, tiền lương tối thiểu sẽ làm
cho những người có việc làm khá giả hơn (bởi vì họ sẽ nhận được tiền lương cao
hơn mức cân bằng) tuy nhiên điều đó cũng có nghĩa là một số người lẽ ra đã có
việc nhưng nay bị thất nghiệp và thực ra họ đã bị tổn thất do chính luật tiền
lương tối thiểu.
2.4.2. Công đoàn và thương lượng tập thể
Tại đa số các nước, công đoàn là một hiệp hội của công nhân để thương
lượng với giới chủ về tiền lương và điều kiện lao động. Công đoàn là một các-
ten vì thực chất nó là một nhóm người tập hợp nhau lại để tạo ra sức mạnh thị
trường. Nếu công đoàn và doanh nghiệp không nhất trí được với nhau, công
đoàn có thể tổ chức đình công, nghĩa là rút lao động ra khỏi doanh nghiệp. Nhờ
cách đe dọa đình công, đoàn viên công đoàn ở một số nước phương Tây thường
được nhận tiền lương cao hơn khoảng từ 10 đến 20% so với công nhân không
tham gia công đoàn.
Công đoàn mang lại lợi ích cho những người trong cuộc (các đoàn viên
công đoàn) đồng thời lại gây tổn thất cho những người ngoài cuộc (không phải
đoàn viên công đoàn). Khi công đoàn làm tăng tiền lương lên cao hơn mức cân
bằng, một số người bị thất nghiệp. Người trong cuộc nhận được tiền lương cao
hơn, người ngoài cuộc thì bị thất nghiệp hoặc phải chuyển sang tìm việc trong
khu vực không có công đoàn. Điều này làm tăng cung lao động trong khu vực
không có công đoàn và làm giảm hơn nữa tiền lương của công nhân không tham
gia công đoàn.
Người ta vẫn còn tranh luận về sự tồn tại của công đoàn. Những người
phản đối công đoàn lập luận rằng công đoàn là một các-ten làm cho giá của lao
động tăng lên cao hơn mức cân bằng cạnh tranh. Điều này gây ra tình trạng
không hiệu quả (gây ra thất nghiệp) và không công bằng (người trong cuộc được
19
lợi từ thiệt hại của người ngoài cuộc). Những người ủng hộ công đoàn lập luận
rằng do doanh nghiệp có sức mạnh thị trường và có khả năng ép tiền lương

xuống mức thấp nên công đoàn là đối tượng cần thiết để cân bằng với sức mạnh
của doành nghiệp. Nhận định này chắc chắn đúng với các “thành phố công ty”,
nơi mà một doanh nghiệp thuê hầu hết công nhân trong vùng. Những người ủng
hộ công đoàn còn lập luận rằng tổ chức công đoàn sẽ mang lại hiệu quả bởi vì
các doanh nghiệp không cần phải thương lượng với từng công nhân về tiền
lương và các khoản phúc lợi khác. Nghĩa là công đoàn góp phần cắt giảm chi phí
giao dịch.
Thất nghiệp chờ việc do tiền lương tối thiểu
2.4.3. Lý thuyết tiền lương hiệu quả
Lý thuyết tiền lương hiệu quả cho rằng các doanh nghiệp có thể chủ động
giữ cho tiền lương ở mức cao hơn trạng thái cân bằng cạnh tranh, bởi vì khi làm
như vậy có thể họ được lợi hơn. Tiền lương hiệu quả có tác dụng tương tự như
luật tiền lương tối thiểu và công đoàn vì trong cả ba trường hợp này, thất nghiệp
phát sinh là do tiền lương được duy trì ở mức cao hơn trạng thái cân bằng. Tuy
nhiên, tiền lương hiệu quả đặc biệt ở chỗ nó được doanh nghiệp tự nguyện trả.
Dưới đây chúng ta nêu ra bốn nguyên nhân lý giải tại sao các doanh nghiệp cho
rằng có thể được lợi khi trả tiền lương cao hơn mức cân bằng cạnh tranh:
20
Dư cung
LD (TN)
W
L
D
L
S
L
W
E
W
min

- Sức khỏe của công nhân có thể được cải thiện nhờ việc trả tiền lương
cao hơn. Công nhân được thù lao cao hơn có khẩu phần cao hơn và làm việc với
năng suất cao hơn;
- Sự luân chuyển công nhân có thể giảm nhờ việc trả lương cao hơn mức
cân bằng cạnh tranh, bởi vì công nhân khó có thể tìm được việc làm thay thế ở
nơi khác với mức tiền lương như trước. Các doanh nghiệp nhận thấy có lợi khi
giảm được sự luân chuyển công nhân, bởi họ cắt giảm được chi phí tuyển dụng,
đào tạo mới công nhân.
- Nỗ lực của công nhân có thể tăng lên nhờ việc trả lương cao hơn. Khi
doanh nghiệp không thể dễ dàng giám sát nỗ lực của công nhân, công nhân có
thể thiếu tinh thần trách nhiệm. Nếu bị phát hiện sẽ bị sa thải, những công nhân
được trả lương bằng mức tiền lương cân bằng cạnh tranh dễ dàng tìm được việc
làm khác với mức lương như trước. Tiền lương cao hơn làm cho công nhân
muốn giữ chỗ và buộc phải làm việc chăm chỉ.
- Chất lượng công nhân có thể được cải thiện nhờ việc trả tiền lương cao
hơn. Bằng cách trả lương cao hơn mức cân bằng cạnh tranh, các doanh nghiệp
có lợi nhuận cao hơn nhờ thu hút những người lao động có chất lượng cao hơn
cho những việc làm mới.
Kết luận: trong khi đưa ra lời giải thích về nguyên nhân gây thất nghiệp,
các lý thuyết không chỉ ra được phải chăng tỷ lệ thất nghiệp tự nhiên thực ra là
quá cao hay quá thấp, Tuy nhiên, các lý thuyết cũng cho thấy một số chính sách
của Chính phủ như bảo hiểm thất nghiệp, các chương trình dạy nghề, và luật tiền
lương tối thiểu có thể ảnh hưởng đến tỷ lệ thất nghiệp.
21
CHƯƠNG 3. ĐÁNH GIÁ VỀ TÌNH HÌNH THẤT NGHIỆP
(Từ năm 2005 – 2013)
3.1 Đánh giá về tình hình thất nghiệp qua các năm
Năm 2005
Lao động đang làm việc trong các ngành kinh tế tại thời điểm 1/7/2005 là
42,71 triệu người, tăng 1,12 triệu người (+2,7%) so với năm 2004, trong đó lao

động đang làm việc trong khu vực Nhà nước chiếm 9,6%; ngoài Nhà nước
chiếm 88,8% và khu vực có vốn đầu tư nước ngoài chiếm 1,6%. Theo ngành
kinh tế, tỷ trọng lao động khu vực nông, lâm nghiệp, thuỷ sản chiếm 56,8%; khu
vực công nghiệp, xây dựng 17,9% và khu vực dịch vụ 25,3%.
Tỷ lệ thất nghiệp năm 2005 tiếp tục giảm; tính đến giữa năm 2005, tỷ lệ
thất nghiệp của lao động trong độ tuổi ở khu vực thành thị là 5,3%, giảm 0,3
điểm phần trăm so với năm 2004, đồng thời đạt mục tiêu kế hoạch 5 năm 2001-
2005 về giảm tỷ lệ thất nghiệp khu vực thành thị xuống dưới 6% vào cuối năm
2005.
Năm 2006
Năm 2006: Số lao động từ 15 tuổi trở lên đang làm việc trong nền kinh tế
tại thời điểm 1/7/2006 ước tính là 43,44 triệu người, tăng 2,1% so với cùng thời
điểm năm trước. Tỷ trọng lao động đang làm việc trong khu vực nông, lâm
nghiệp và thuỷ sản tiếp tục giảm từ 57,2% trong năm 2005 xuống 55,7% trong
năm 2006 để chuyển dịch sang các khu vực có năng suất lao động cao hơn, phù
hợp với chủ trương công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước; tương ứng, tỷ trọng
khu vực công nghiệp, xây dựng tiếp tục tăng từ 18,3% lên 19,1% và khu vực
dịch vụ từ 24,5% lên 25,2%. Trong các thành phần kinh tế, lao động thuộc khu
vực nhà nước vẫn tăng nhẹ so với năm trước. Tỷ lệ thất nghiệp của lao động khu
vực thành thị tiếp tục giảm, đạt 4,4%, trong đó tỷ lệ thất nghiệp của nam là
4,8%, của nữ là 3,9%.
Tỷ lệ thất nghiệp của lao động trong độ tuổi khu vực thành thị
22
%
Năm 2005 Năm 2006
CẢ NƯỚC 5.3 4.4
Đồng bằng sông Hồng 5.6 5.6
Đông Bắc 5.1 3.8
Tây Bắc 4.9 3.0
Bắc Trung Bộ 5.0 5.2

Duyên hải Nam Trung Bộ 5.5 4.5
Tây Nguyên 4.2 1.8
Đông Nam Bộ 5.6 4.6
Đồng bằng sông Cửu Long 4.9 3.5
Tỷ lệ thất nghiệp của lao động trong độ tuổi khu vực thành thị

2006 2007
Ước tính năm
2008
CẢ NƯỚC 4,82 4,64 4,65
Đồng bằng sông Hồng 6,42 5,74 5,31
Trung du và miền núi
phía Bắc
4,18 3,85 4,13
Bắc Trung Bộ và duyên
hải miền Trung
5,50 4,95 4,73
Tây Nguyên 2,38 2,11 2,49
Đông Nam Bộ 5,47 4,83 4,85
Đồng bằng sông Cửu
Long
4,52 4,03 4,08
Năm 2008
Dân số trung bình năm 2008 ước tính 86,16 triệu người, bao gồm nam
42,35 triệu người, chiếm 49,1% tổng dân số; nữ 43,81 triệu người, chiếm 50,9%.
Trong tổng dân số cả nước, dân số khu vực thành thị là 24 triệu người, tăng
23
2,85% so với năm trước, chiếm 27,9% tổng dân số; dân số khu vực nông thôn là
62,1 triệu người, tăng 0,55% và chiếm 72,1%.
Tổng số lao động đang làm việc trong các ngành kinh tế năm 2008 ước

tính 45 triệu người, tăng 2% so với năm 2007, trong đó lao động khu vực nhà
nước 4,1 triệu người, tăng 2,5%, lao động ngoài nhà nước 39,1 triệu người, tăng
1,2%, lao động khu vực đầu tư nước ngoài 1,8 triệu người, tăng 18,9%.
Tỷ lệ thất nghiệp của lao động trong độ tuổi chung cả nước là 2.38%,
trong đó tỷ lệ thất nghiệp thành thị là 4.65%, nông thôn là 1.53%.
Tỷ lệ thất nghiệp và tỷ lệ thiếu việc làm của
lực lượng lao động trong độ tuổi năm 2008 phân theo vùng
(*)
%
Tỷ lệ thất nghiệp Tỷ lệ thiếu việc làm
Chung
Thành
thị
Nông
thôn
Chung
Thành
thị
Nông
thôn
CẢ NƯỚC 2.38 4.65 1.53 5.10 2.34 6.10
Đồng bằng sông Hồng 2.29 5.35 1.29 6.85 2.13 8.23
Trung du và miền núi
phía Bắc 1.13 4.17 0.61 2.55 2.47 2.56
Bắc Trung Bộ và duyên
hải miền Trung 2.24 4.77 1.53 5.71 3.38 6.34
Tây Nguyên 1.42 2.51 1.00 5.12 3.72 5.65
Đông Nam Bộ 3.74 4.89 2.05 2.13 1.03 3.69
Đồng bằng sông Cửu
Long 2.71 4.12 2.35 6.39 3.59 7.11


Năm 2009
Theo kết quả sơ bộ của cuộc Tổng điều tra dân số và nhà ở năm 2009, dân
số cả nước tại thời điểm 0 giờ ngày 01 tháng 4 năm 2009 là 85,789 triệu người.
Tốc độ tăng dân số bình quân thời kỳ 1999-2009 là 1,2%. Trong tổng dân số,
dân số thành thị 25,4 triệu người, chiếm 29,6% tổng dân số; dân số nông thôn
60,4 triệu người, chiếm 70,4%; dân số nam 42,5 triệu người, chiếm 49,5% tổng
dân số; dân số nữ 43,3 triệu người, chiếm 50,5%. Tỷ lệ giới tính của dân số năm
2009 ở mức 98,1 nam trên 100 nữ.
24
Cũng theo kết quả Tổng điều tra dân số và nhà ở năm 2009, dân số trong
độ tuổi lao động cả nước là 55 triệu người, trong đó 45,2 triệu người thuộc lực
lượng lao động trong độ tuổi, chiếm 82,2% tổng dân số trong độ tuổi lao động.
Số lao động trong độ tuổi đang làm việc là 43,9 triệu người, chiếm 51,1% tổng
dân số, bao gồm: lao động khu vực thành thị gần 12 triệu người, chiếm 27%
tổng lao động trong độ tuổi đang làm việc; lao động khu vực nông thôn 31,9
triệu người, chiếm 73%. Tỷ lệ lao động có trình độ học vấn trung học cơ sở trở
lên là 56,7% so với tổng số lao động trong độ tưổi, trong đó tỷ lệ lao động có
trình độ trung học phổ thông trở lên là 27,8%. Lực lượng lao động trong độ tuổi
có trình độ đại học trở lên chiếm 5,3% tổng lực lượng lao động trong độ tuổi,
trong đó thành thị 14,4%; nông thôn 1,8%; nam 5,6%; nữ 5%.
Tại thời điểm điều tra, cả nước có 1,3 triệu lao động trong độ tuổi thất
nghiệp, tỷ lệ thất nghiệp là 2,9% (cao hơn mức 2,38% của năm 2008), trong đó
tỷ lệ thất nghiệp khu vực thành thị là 4,64%, xấp xỉ năm 2008; khu vực nông
thôn là 2,25%, cao hơn mức 1,53% của năm 2008.
Năm 2010
Dân số trung bình cả nước năm 2010 ước tính 86,93 triệu người, tăng
1,05% so với năm 2009, bao gồm dân số nam 42,97 triệu người, chiếm 49,4%
tổng dân số cả nước, tăng 1,09%; dân số nữ 43,96 triệu người, chiếm 50,6%,
tăng 1%. Trong tổng dân số cả nước năm 2010, dân số khu vực thành thị là

26,01 triệu người, chiếm 29,9% tổng dân số, tăng 2,04% so với năm trước; dân
số khu vực nông thôn là 60,92 triệu người, chiếm 70,1%, tăng 0,63%. Tỷ lệ giới
tính của dân số năm 2010 ở mức 97,7 nam trên 100 nữ (Năm 2009 tỷ lệ này là
97,6/100).
Lực lượng lao động từ 15 tuổi trở lên năm 2010 là 50,51 triệu người, tăng
2,68% so với năm 2009, trong đó lực lượng lao động trong độ tuổi lao động là
46,21 triệu người, tăng 2,12%. Tỷ lệ dân số cả nước 15 tuổi trở lên tham gia lực
lượng lao động tăng từ 76,5% năm 2009 lên 77,3% năm 2010. Tỷ lệ lao động
khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản giảm từ 51,9% năm 2009 xuống 48,2%
25

×