Tải bản đầy đủ (.docx) (28 trang)

Vận dụng một số kĩ thuật dạy học tích cực trong giảng dạy lịch sử 12, phần lịch sử việt nam giai đoạn 1954 1975

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (207.01 KB, 28 trang )

1
CHƯƠNG I: TỔNG QUAN
I. CƠ SỞ LÍ LUẬN
Dạy học là một môn nghệ thuật. Nghệ thuật ấy không phải ai cũng thể hiện
giống nhau. Vì vậy “ Đổi mới phương pháp dạy học” để phát huy được tính tích
cực, chủ động, sáng tạo của học sinh, phù hợp với đặc điểm từng lớp học, từng
môn học là nhiệm vụ “ sống còn” của mỗi người giáo viên.
Trong những năm qua, phần lớn giáo viên đã được tiếp cận với các phương
pháp và kĩ thuật dạy học tích cực. Các thuật ngữ như phương pháp dạy học tích
cực, dạy học dựa trên dự án, dạy học giải quyết vấn đề, phương pháp "Bàn tay
nặn bột".... Các kĩ thuật dạy học tích cực như động não, khăn phủ bàn, bản đồ tư
duy, mảnh ghép, kĩ thuật 3-2-1... khơng cịn xa lạ với đông đảo giáo viên hiện
nay. Tuy nhiên việc nắm vững và vận dụng chúng cịn hết sức hạn chế, có khi
cịn máy móc, lạm dụng. Đại đa số giáo viên chưa tìm được "chỗ đứng" của mỗi
kĩ thuật dạy học trong cả tiến trình tổ chức hoạt động dạy học. Cũng chính vì
thế nên giáo viên vẫn chủ yếu lệ thuộc vào tiến trình các bài học được trình bày
trong sách giáo khoa, chưa "dám" chủ động trong việc thiết kế tiến trình xây
dựng kiến thức phù hợp với các phương pháp và kĩ thuật dạy học tích cực. Phần
lớn giáo viên, những người có mong muốn sử dụng phương pháp dạy học mới
đều lúng túng và tỏ ra lo sợ rằng sẽ bị "cháy giáo án" do học sinh khơng hồn
thành các hoạt động được giao trong giờ học. Chính vì vậy, mặc dù có cố gắng
nhưng việc sử dụng các phương pháp, kĩ thuật dạy học tích cực hiện nay chưa
thực sự tổ chức được hoạt động nhận thức tích cực, sáng tạo và bồi dưỡng
phương pháp tự học cho học sinh; việc tăng cường hoạt động học tập cá thể và
học tập hợp tác còn hạn chế; chưa kết hợp được sự đánh giá của giáo viên và sự
tự đánh gia của học sinh trong quá trình dạy học.
Trong các môn học ở trường phổ thông, môn Lịch sử có vai trị rất quan
trọng trong việc cung cấp cho học sinh một khối lượng tri thức phổ thơng, tồn
diện về lịch sử thế giới và lịch sử dân tộc. Trên cơ sở đó giúp học sinh hình
thành thế giới quan khoa học và lý tưởng cách mạng cao đẹp. Bồi dưỡng tư



2
tưởng, tình cảm, đạo đức, giáo dục truyền thống dân tộc cho học sinh. Học lịch
sử còn giúp học sinh rèn luyện tư duy khoa học thông qua việc phân tích, so
sánh, nhận xét, tổng hợp hóa, khái qt hóa các sự kiện, hiện tượng, các nhân
vật lịch sử.
Tuy nhiên, một thực tế đáng buồn là trong những năm gần đây, do nhận
thức và quan niệm sai lệch về vị trí, chức năng của mơn lịch sử trong đời sống
xã hội, trong giáo dục đã làm cho kết quả học tập và giảng dạy của bộ môn bị
giảm sút nghiêm trọng. Tình trạng học sinh khơng biết những sự kiện lịch sử
phổ thông, nhớ sai hoặc nhầm lẫn kiến thức lịch sử cơ bản đã trở lên phổ biến.
Đó là một thức tế đáng buồn, khiến các nhà giáo dục, các thầy cô giáo giảng dạy
môn Lịch sử không khỏi trăn trở.
Xuất phát từ vai trị của bộ mơn, thời gian qua bộ giáo dục và đào tạo
cũng đã có nhiều biện pháp nhằm nâng cao chất lượng dạy và học bộ môn. Ban
hành hưỡng dẫn thực hiện chuẩn kiến thức - kĩ năng, đưa ra một số kĩ thuật dạy
học tích cực có thể sử dụng trong dạy- học môn Lịch sử ở trường THPT... Qua
việc áp dụng những kĩ thuật dạy học tích cực vào bài dạy, tơi thấy có hiệu quả,
tạo được hứng thú cho học sinh trong các bài học. Vì vậy tơi mạnh dạn lựa chọn
đề tài “ Vận dụng một số kĩ thuật dạy học tích cực trong giảng dạy Lịch sử 12,
phần lịch sử Việt Nam giai đoạn 1954-1975 ” làm sáng kiến kinh nghiệm với hi
vọng được chia sẻ những hiểu biết của mình với đồng nghiệp đồng thời cùng
nhau vận dụng vào thực tiễn để nâng cao chất lượng môn Lịch sử.
II. PHƯƠNG PHÁP TIẾP CẬN TẠO RA SÁNG KIẾN
 Nhóm phương pháp nghiên cứu lý thuyết
- Phương pháp phân tích hệ thống: Dùng để nghiên cứu các kĩ thuật dạy
học tích cực trong dạy học Lịch sử 12 THPT để hiểu được vai trò và nội dung.
- Phương pháp nghiên cứu tài liệu: Sử dụng nhằm tìm hiểu cơ sở khoa học
của việc sử dụng kĩ thuật dạy học tích cực trong dạy học Lịch sử 12 THPT và lựa
chọn một số phương pháp thích hợp để sử dụng có hiệu quả.



3
- Phương pháp đề xuất: Sử dụng nhằm đề ra một số giả thuyết khách
quan về hiệu quả của việc sử dụng kĩ thuật dạy học tích cực phục vụ cho việc
dạy học Lịch sử 12.
 Nhóm phương pháp nghiên cứu thực tiễn
- Phương pháp tìm hiểu thực tế ở trường phổ thông: Thông qua quan sát,
dự giờ, giảng dạy trực tiếp, phỏng vấn cácý kiến của học sinh và giáo viên các
nhà trường đối với việc sử dụng kĩ thuật dạy học tích cực trong dạy hộc Lịch sử.
- Phương pháp thực nghiệm: Sử dụng phương pháp này nhằm kiểm chứng
kết quả đã nghiên cứu, từ đó bổ sung thêm những vấn đề thực tế mà lý thuyết
chưa đề cập đến.
III. MỤC TIÊU
Sáng kiến nhằm mục tiêu sử dụng tốt kĩ thuật dạy học tích cực để nâng
cao chất lượng bộ môn, tạo hứng thú học tập, đạt mục tiêu trong mỗi bài học đặc
biệt với đặc thù là bộ môn Lịch sử. Từ thành công của sáng kiến sẽ nhân rộng ra
các giai đoạn khác của phần lịch sử Việt Nam và của cả bộ môn.
IV. SÁNG KIẾN ĐỐI CHỨNG HOẶC SÁNG KIẾN TIỀN ĐỀ
Bản thân tôi chưa từng làm sáng kiến kinh nghiệm về nội dung này, trong
q trình dạy học Lịch sử lớp 12, tơi thấy được hiệu quả và ý nghĩa của việc sử
dụng kĩ thuật dạy học tích cực trong việc dạy học nhằm nâng cao tính tích cực, tự
giác của các em học sinh, chính vì vậy tơi đã quyết định lựa chọn đề tài trên.
Trong khuôn khổ của sáng kiến này, tôi chỉ xin đưa ra những ý kiến về việc tôi
đã sáng tạo trong việc áp dụng kĩ thuật dạy học tích cực trong dạy học lịch sử
Việt Nam giai đoạn 1954 -1975 như thế nào để nhằm phát huy tính tích cực của
học sinh, nâng cao hiệu quả giờ dạy của mình.


4


CHƯƠNGII: MÔ TẢ SÁNG KIẾN
I. NÊU VẤN ĐỀ CỦA SÁNG KIẾN:
1. Thực trạng của việc dạy học có sử dụng kĩ thuật dạy học tích cực trong
dạy học Lịch sử ở trường THPT.
Hiện nay, ngành giáo dục đang ráo riết thực hiện nội dung đổi mới giáo
dục, đổi mới phương pháp dạy học, với phương pháp chuyển từ tiếp cận nội
dung (học sinh học được gì) sang tiếp cận năng lực của người học (học sinh làm
được gì thơng qua việc học), lấy học sinh là trung tâm và người giáo viên giữ vị
trí quan trọng trong triển khai phương pháp đổi mới đó. Các năm qua, việc đổi
mới phương pháp dạy học đã được các cấp trong ngành giáo dục đề cập khá
nhiều, hàng loạt hội nghị, tập huấn, bồi dưỡng….giành cho cán bộ quản lý, giáo
viên cốt cán, đội ngũ giáo viên được mở ra và nhà trường, giáo viên đã triển
khai thực hiện những phương pháp dạy học mới, bước đầu thu được những kết
quả nhất định.
Qua thực tế dạy học bộ môn Lịch sử ở trường THPT …., tôi cũng nhận
thấy việc sử dụng các kĩ thuật dạy học tích cực là chưa thường xuyên. Do đó
nhiều học sinh chỉ thuộc lịng câu chữ, khơng hiểu được bản chất sự kiện, không
nắm được các quy luật vận động, phát triển của xã hội nên thường ngại và sợ bộ
môn. Tôi nhận thấy một số học sinh rất ngại học bộ môn Lịch sử, nhiều em chưa
biết cách học bộ môn. Học sinh thường học trước quên sau, học xong rồi cũng
khơng nhớ mình đã học gì cả. Qua thống kê cho thấy, số lượng các em học sinh
chọn thi đại học mơn Lịch sử rất ít, điểm thi Đại học môn Lịch sử những năm
gần đây cũng khơng cao.
Vì vậy để giúp các em u thích học bộ mơn Lịch sử, tự giác tìm tịi,
nghiên cứu những sự kiện trong sách, nắm vững kiến thức ngay tại lớp, hiểu sâu
sắc các sự kiện, nhớ lâu, tôi đã tích cực sử dụng kĩ thuật dạy học tích cực .


5

2. Những tồn tại, hạn chế khi dạy và học có sử dụng kĩ thuật dạy học tích
cực Lịch sử THPT.
2.1. Về phía giáo viên:
Một trong những khó khăn mà chúng ta gặp phải khi đưa kĩ thuật dạy học
tích cực trong vào dạy học Lịch sử chính là việc hệ thống kĩ thuật dạy học tích cực
trong khơng có được hiểu một cách đầy đủ, gây khó khăn cho giáo viên và học
sinh trong quá trình dạy và học. Chính vì vậy mà khi được hỏi, rất nhiều giáo
viên đã từ chối việc thiết kế các giáo án có sử dụng kĩ thuật dạy học tích cực vào
dạy học Lịch sử, đặc biệt ở các tỉnh miền núi và các trường THPT còn chưa
trang bị đủ điều kiện dạy học như: máy tính, internet, máy chiếu phục vụ dạy và
học mang tính đại trà.
Theo kết quả điều tra, có tới 62% giáo viên cho rằng kĩ thuật dạy học tích
cực là một cơng cụ hữu hiệu trong dạy học Lịch sử nhưng có tới hơn 1/2 giáo
viên khơng đồng ý sử dụng kĩ thuật dạy học tích cực thiết kế các bài học Lịch sử.
Những trở ngại mà họ phải đối mặt khi sử dụng kĩ thuật dạy học tích cực chính là
hạn chế về mặt thời gian, điều kiện cơ sở vật chất kĩ thuật. Bên cạnh đó, nguồn
tranh ảnh, lược đồ, tư liệu Lịch sử chưa thực sự dồi dào để phục vụ cho các chủ
đề giáo dục khác nhau.
2.2. Về phía học sinh:
Nhiều học sinh rất hứng thú với môn lịch sử nhưng phương pháp dạy học
thì chưa thu hút được sự quan tâm, hứng thú với bộ mơn, sách giáo khoa cịn
mang tính hàn lâm, nhiều sự kiện, số liệu khiến học sinh chán.
Nếu có phương pháp tiếp cận khéo léo, sẽ thu hút được hứng thú học tập
cuat học sinh với bộ môn.
2.3. Về điều kiện dạy học Lịch sử ở các trường THPT hiện nay:
Điều kiện dạy học Lịch sử ở các trường THPT hiện nay không đồng bộ,
một số trường ở thành phố thường trang bị tốt hơn về cơ sở vật chất phục vụ cho
việc dạy học nên việc áp dụng các kĩ thuật dạy học tích cực vào dạy học Lịch sử
khơng q khó khăn. Song ở nhiều trường THPT, nhất là miền núi, việc đổi mới
điều kiện dạy học Lịch sử còn diễn ra chậm chạp, chưa đủ để tạo ra một môi



6
trường dạy học thực sự thuận lợi cho sự đổi mới của phương pháp dạy học Lịch
sử 11.
3. Nguyên nhân của những tồn tại, hạn chế khi sử dụng kĩ thuật dạy học tích
cực Lịch sử THPT.
- Khi được hỏi, rất nhiều giáo viên tỏ ra e ngại và chưa có nhiều hiểu biết
về việc kĩ thuật dạy học tích cực giáo viên cảm thấy khó khăn và mất thời gian
khi thiết kế bài học sử dụng kĩ thuật dạy học tích cực và thao tác, các bước tiến
hành ra sao. Giáo viên tỏ ra băn khoăn không biết học sinh có thể hiểu được nội
dung mà mình sử dụng hay khơng, tính hiệu quả của tiết học khi có sử dụng kĩ
thuật dạy học tích cực trong tiết Lịch sử có như mong đợi hay khơng.
- Việc phân tích được chính xác, đầy đủ ý nghĩa của các kĩ thuật dạy học
tích cực khiến giáo viên mất rất nhiều thời gian, công sức và việc truyền đạt cho
học sinh hiểu được ý nghĩa đó.
- Số lượng các kĩ thuật dạy học tích cực phù hợp với nội dung của bài học
hiện nay rất hạn chế, đòi hỏi giáo viên phải chuẩn bị rất cơng phu và vất vả để
tìm được kĩ thuật dạy học tích cực phù hợp với mục đích của bài học đề ra.
Nhìn chung, việc đưa kĩ thuật dạy học tích cực vào dạy học Lịch sử 12
trong nhà trường hiện nay có rất nhiều thuận lợi đặc biệt là sự ủng hộ nhiệt tình
của bạn bè đồng nghiệp, có hướng đi mới trong giáo dục, sự ham hiểu biết của
học sinh…Bên cạnh đó cũng có rất nhiều khó khăn mà việc dạy và học Lịch sử
có sử dụng kĩ thuật dạy học tích cực thường xuyên trong nhà trường tại thời
điểm hiện nay chưa thể thực hiện được. Tuy nhiên những thành công tốt đẹp
bước đầu mà tôi thu nhận được sẽ là động lực để tôi tiếp tục đi sâu vào nghiên
cứu trong những giai đoạn tiếp theo. Việc sử dụng thường xuyên kĩ thuật dạy học
tích cực là hồn tồn cần thiết và có ý nghĩa quan trọng góp phần rất lớn vào
việc đổi mới phương pháp dạy học Lịch sử.
4. Phân tích, đánh giá và chỉ ra tính cấp thiết cần tạo ra sáng kiến:

Một trong những điểm yếu của học sinh ở nhà trường THPT nước ta hiện
nay nói chung và học sinh trường THPT … nói riêng là các em ít có những kiến


7
thức và trải nhiệm thực tế, tâm lí e ngại khi học Lịch sử, nhất là việc phải phân
tích tranh ảnh, lược đồ hay các bảng biểu Lịch sử. Các em thườngcho rằng
những bài học Lịch sử khơ và khó nên khơng có sức hấp dẫn. Đây là một khó
khăn rất lớn, bởi chương trình Lịch sử 12 địi hỏi các em phải có một trình độ
hiểu biết nhất định nền kinh tế xã hội thế giới và rất nhiều xu hướng phát triển
đang diễn ra. Chính vì vậy mà các em thường tỏ ra khơng thích thú và hào hứng
trong học tập nên hiệu quả đạt được chưa cao.
Việc sử dụng kĩ thuật dạy học tích cực vào những bài học Lịch sử 12 sẽ
góp phần quan trọng trong việc hỗ trợ, thúc đẩy mối quan tâm của các em đối
với bài học. Lịch sử có thế mạnh về khả năng truyền tải thơng tin và có thể thu
hút được mối quan tâm và mở rộng sự hiểu biết của các em về các vấn đề xã hội
rất to lớn. Từ việc các em quan tâm tới những vấn đề chính trị- xã hội, vốn kiến
thức và hiểu biết của các em về những vấn đề này được mở rộng. Sự hứng thú
của các em với môn học cũng tăng lên, các em chủ động tìm tịi và khám phá
kiến thức, từ đó tăng hiệu quả của việc dạy và học Lịch sử.
Sử dụng hợp lí kĩ thuật dạy học tích cực trong dạy học Lịch sử có khả
năng mang đến những tác dụng và ý nghĩa to lớn hơn những mục tiêu mà giáo
dục u cầu. Chính vì vậy, đây sẽ là một bước đột phá, một bước tiến mới
trong việc nâng cao chất lượng giảng dạy trong các trường THPT ở nước ta
hiện nay.
II. CÁC GIẢI PHÁP THỰC HIỆN SÁNG KIẾN:
1. Khái niệm về phương pháp và kĩ thuật dạy học
- Phương pháp dạy học: Là con đường, cách thức định hướng cho hoạt động
của thầy và trị trong q trình dạy học. Ở q trình đó thầy có 2 chức năng: tổ
chức, điểu khiển, hướng dẫn học sinh lĩnh hội kiến thức và truyền đạt (Kiến thức

cho HS chưa biết); trị có 2 chức năng và quyền hạn là chủ động lĩnh hội kiến
thức và được quyền nêu thắc mắc, câu hỏi để giáo viên giải đáp
- Kĩ thuật dạy học: Là những cách, hành động tổ chức, điều khiển của giáo
viên trong các tình huống, hành động nhỏ, nhằm thực hiện và điểu khiển quá
trình dạy học theo định hướng của phương pháp.


8
Phương pháp và hình thức dạy học mơn Lịch sử rất phong phú, đa dạng, bao
gồm các phương pháp hiện đại: (thảo luận nhóm, đóng vai, giải quyết vấn đề, trò
chơi, dự án, động não…)và các phương pháp truyền thống:(thuyết trình, đàm
thoại, kể chuyện…). Bên cạnh những phương pháp dạy học lại có các kĩ thuật
dạy học hỗ trợ. Mỗi phương pháp dạy học và kĩ thuật dạy học đều có mặt tích
cực và hạn chế riêng, phù hợp với từng loại bài và đòi hỏi những điều kiện thực
hiện riêng. Vì vậy, giáo viên khơng nên phủ định hoặc lạm dụng phương pháp
nào. Điều quan trọng là căn cứ vào nội dung, tính chất của từng bài, căn cứ vào
trình độ nhận thức của học sinh và năng lực, sở trường của giáo viên, căn cứ vào
điều kiện, hoàn cảnh cụ thể của lớp, của trường mà lựa chọn và sử dụng phối
hợp các phương pháp dạy học một cách hợp lý.Trong dạy học mơn Lịch sử, có
thể vận dụng các kĩ thuật dạy học tích cực nhằm:
- Kích thích, thúc đẩy sự tham gia tích cực
- Tăng cường hiệu quả học tập
- Tăng cường trách nhiệm cá nhân
- Yêu cầu áp dụng nhiều năng lực khác nhau
- Tăng cường sự hợp tác, giao tiếp, chia sẻ kinh nghiệm
2. Một số kĩ thuật dạy học tích cực hay được sử dụng hiện nay
*Kĩ thuật dạy học KWLH:
Kĩ thuật KWLH do Donna Ogle giới thiệu năm 1986. Theo kĩ thuật này,
học sinh bắt đầu việc công não tất cả những gì các em đã biết về chủ đề bài học.
Thơng tin này sẽ được ghi nhận vào cột K của biểu đồ. Sau đó, học sinh nêu lên

danh sách các câu hỏi về những điều các em muốn biết thêm trong chủ đề này.
Những câu hỏi sẽ được ghi nhận vào cột W của biểu đồ. Trong quá trình đọc
hoặc sau khi đọc xong, các em sẽ tự trả lời cho các câu hỏi ở cột W. Những
thông tin này sẽ được ghi nhận vào cột L. Xuất phát từ kĩ thuật KWL, Ogle
tiếp tục bổ sung thêm cột H ở sau cùng, với nội dung khuyến khích học sinh
suy nghĩ, vận dụng vào quá trình học tập, vận dụng tiếp theo. Sau khi học sinh


9
đã hoàn tất nội dung ở cột L, các em có thể muốn tìm hiểu thêm về một số
thơng tin liên quan. Các em sẽ nêu biện pháp để tìm thông tin mở rộng. Giáo
viên cũng yêu cầu học sinh vận dụng vào thực tiễn, giải quyết các dạng bài tập
như thế nào. Tất cả những ý tưởng, yêu cầu này sẽ được ghi nhận ở cột H.
- Kĩ thuật KWLH có thể sử dụng trong những trường hợp sau:
+ Lần đầu tiên lên lớp, tiếp xúc với học sinh mới. Mục đích tạo cảm giác
gần gũi, thân thiện với học sinh; tìm hiểu, thăm dị thái độ của người học, để
biết người học có mong muốn, đề xuất gì với giáo viên; giúp giáo viên có định
hướng, điều chỉnh PPDH tốt hơn.
+ Trước khi dạy 1 nội dung/chủ đề mới rất quan trọng. Kĩ thuật này đặc
biệt có hiệu quả với các bài mở đầu chương trình học, hoặc bài học mang tính
chất gợi mở, tìm hiểu, giải thích.
* Kĩ thuật “khăn trải bàn”
- Là hình thức tổ chức hoạt động mang tính hợp tác kết hợp giữa hoạt
động cá nhân và hoạt động nhóm nhằm:
+ Kích thích, thúc đẩy sự tham gia tích cực
+ Tăng cường tính độc lập, trách nhiệm của cá nhân học sinh
+ Phát triển mơ hình có sự tương tác giữa HS và HS


10


- Tác dụng đối với học sinh:
+ Học sinh được tiếp cận với nhiều giải pháp và chiến lược khác nhau
+ Rèn kĩ năng suy nghĩ, quyết định và giải quyết vấn đề
+ Học sinh đạt được mục tiêu học tập cá nhân cũng như hợp tác
+ Sự phối hợp làm việc cá nhân và làm việc theo nhóm nhỏ tạo cơ hội
nhiều hơn cho học tập có sự phân hóa
+ Nâng cao mối quan hệ giữa học sinh. Tăng cường sự hợp tác, giao tiếp,
học cách chia sẽ kinh nghiệm và tôn trọng lẫn nhau.
+ Nâng cao hiệu quả học tập
*Kĩ thuật “ mảnh ghép”
- Là kĩ thuật dạy học mang tính hợp tác, kết hợp giữa cá nhân, nhóm và
liên kết giữa các nhóm nhằm giải quyết một nhiệm vụ phức hợp, kích thích sự
tham gia tích cực cũng như nâng cao vai trò của cá nhân trong quá trình hợp
tác.


11

* Kĩ thuật 3-2-1: Đây là kĩ thuật lấy thông tin phản hồi nhằm huy động sự tham
gia tích cực của học sinh
3. Vận dụng các kĩ thuật dạy học tích cực vào dạy học phần lịch sử Việt Nam
từ 1954-1975
a. Các bước tiến hành kĩ thuật KWLH
- Bước 1: Chọn chủ đề hoặc bài học
- Bước 2: Giáo viên yêu cầu học sinh lập bảng KWLH hoặc tự chuẩn bị ở nhà
rồi phát cho học sinh khi dạy trên lớp (Theo mẫu)
BẢNG HỎI THEO KĨ THUẬT DẠY HỌC KWLH
Họ và tên học sinh:…………………………………………
Lớp:……… Trường:………………… ……………………

Câu hỏi:
1. Em đã biết gì về chủ đề/bài học này (học sinh điền vào cột K)
2. Em mong muốn và đề xuất gì thêm khi học chủ đề/bài học này?(Học sinh
điền vào cột W)


12
3. Em đã học thêm được những gì sau khi học xong chủ đề/bài học này (Học
sinh điền vào cột L)
4. Em có thể vận dụng vào thực tiễn những kiến thức nào vận và vận dụng như
thế nào? (Học sinh điền vào cột H)
K

W

L

H

………………….

………………….

…………………

………………

………………….

…………………


…………………

………………

………………….

…………………

…………………

………………

…………………

…………………

…………………

………………

…………………

………………….

………………….

………………

- Bước 3: Học sinh suy nghĩ và nêu ra các từ, cụm từ có liên quan đến chủ đề.

Cả giáo viên và học sinh cùng ghi nhận hoạt động này vào cột K. Hoạt động
này kết thúc khi học sinh đã nêu ra tất cả các ý tưởng. Tổ chức cho học sinh
thảo luận về những gì các em đã ghi nhận.
Một số lưu ý tại cột K: Giáo viên phải chuẩn bị câu hỏi để giúp học sinh
suy nghĩ "Hãy nói những gì các em đã biết về….". Giáo viên cần khuyến khích
học sinh giải thích, vì đơi khi những điều các em nêu ra có thể là mơ hồ hoặc
khơng chính xác. Trong trường hợp học sinh viết được rất ít ở cột K thì giáo
viên cũng đừng lo lắng.
- Bước 4: Giáo viên hỏi tiếp học sinh xem các em muốn biết thêm điều gì về
chủ đề. Cả giáo viên và học sinh ghi nhận câu hỏi vào cột W. Hoạt động này kết
thúc khi học sinh đã nêu ra các ý tưởng. Nếu học sinh trả lời bằng một câu phát
biểu bình thường, hãy biến nó thành câu hỏi trước khi ghi nhận vào cột W.
Một số lưu ý tại cột W: Giáo viên hãy hỏi học sinh những câu hỏi tiếp nối
và gợi mở theo chỉ dẫn. Nếu giáo viên chỉ nói: "Các em muốn biết thêm những
gì về chủ đề này?" Đôi khi học sinh sẽ trả lời đơn giản là "khơng biết", vì các


13
em chưa có ý tưởng. Hãy thử sử dụng câu hỏi: "Em nghĩ mình sẽ biết thêm
được những gì sau khi em học xong bài học/chủ đề mới này?". Giáo viên có thể
chọn ý tưởng ở cột K và hỏi: "Em có muốn tìm hiểu thêm điều gì liên quan đến
ý tưởng này khơng?". Thành phần chính trong cột W là những mong muốn của
học sinh. Giáo viên phải làm thế nào để học sinh rất quan tâm điền mong muốn
của mình vào cột W, nhưng phải có liên quan trực tiếp đến bài học. Nếu học
sinh không điền mong muốn vào cột W, coi như chúng ta không thành công.
Lưu ý: Khi học sinh đã điền đủ các thông tin vào cột K và cột W, giáo
viên thu phiếu lại để nghiên cứu thông tin của các em đã viết ở cột K và W.
Chúng ta cũng có thể tổ chức trao đổi ngay tại lớp.
- Bước 5: Sau khi đã dạy xong bài học/chủ đề mới, giáo viên phát trả lại cho
học sinh phiếu KWLH mà các em đã viết trước đó, yêu cầu học sinh đọc lại và

tự điền câu trả lời mà các em tìm được vào cột L.
- Bước 6: Sau khi học sinh đã hồn tất nội dung ở cột L, học sinh có thể muốn
tìm hiểu thêm các thơng tin có liên quan, giáo viên hãy yêu cầu các em nêu biện
pháp để tìm kiếm mở rộng. Giáo viên khuyến khích học sinh nghiên cứu thêm
những câu hỏi mà các em đã nêu ở cột W nhưng chưa tìm được câu trả lời từ
bài học, yêu cầu học sinh vận dụng vào thực tiễn, giải quyết các dạng bài tập
như thế nào. Tất cả những ý tưởng, yêu cầu này sẽ được ghi nhận ở cột H.
Một số lưu ý tại cột L: Ngoài việc yêu cầu học sinh trả lời về kiến thức,
giáo viên nên khuyến khích học sinh ghi vào cột L những điều các em cảm thấy
tâm đắc, thú vị. Để phân biệt, có thể đề nghị các em đánh dấu những ý tưởng
của các em.
Giáo viên cũng đề nghị học sinh tìm kiếm từ các tài liệu khác để trả lời
cho những câu hỏi ở cột W mà bài đọc không cung cấp câu trả lời, hoặc những
câu hỏi mà học sinh đưa ra ở cột W không nằm trong phạm vi bài học/chủ đề
mới. Không phải tất cả các câu hỏi ở cột W đều được bài học trả lời hoàn chỉnh.


14
- Bước 7: Tổ chức cho học sinh thảo luận những thơng tin các em ghi nhận ở
cột L: Có thể kết hợp vận dụng kĩ thuật 3-2-1.
Ví dụ 1: Khi bắt đầu dạy bài 21: Xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc, đấu
tranh chống đế quốc Mĩ ở Miền Nam (1954-1965) giáo viên phát phiếu thông
tin và u cầu học sinh hồn thành các nội dung
PHIẾU THƠNG TIN:
Họ và tên học sinh:……………………………………………
Lớp:………… Trường:………………………………
Câu hỏi:
1. Em đã biết gì về âm mưu và thủ đoạn của Pháp, Mĩ đối với Việt Nam sau khi
Hiệp định Giơ-ne-vơ được kí kết năm 1954?(học sinh điền vào cột K)
2. Em mong muốn và đề xuất gì thêm khi học về âm mưu và thủ đoạn của Pháp,

Mĩ đối với Việt Nam sau khi Hiệp định Giơ-ne-vơ được kí kết? (Học sinh điền
vào cột W)
3. Em đã học thêm được những gì sau khi học về âm mưu và thủ đoạn của
Pháp, Mĩ đối với Việt Nam sau Hiệp định Giơ-ne-vơ năm 1954? (Học sinh điền
vào cột L)
4. Em có nhận xét gì về âm mưu, thủ đoạn của Pháp - Mĩ đối với Việt Nam?
(Học sinh điền vào cột H)
K

W

L

H

…………………

…………………

…………………

………………

…………………

…………………

…………………

………………


…………………

…………………

…………………

………………

…………………

…………………

…………………

………………

…………………

…………………

………………..

………………


15
Ví dụ 2: Khi bắt đầu dạy bài 22: Nhân dân hai miền trực tiếp chiến đấu chống
đế quốc Mĩ xâm lược. Nhân dân Miền Bắc vừa chiến đấu, vừa sản xuất (19651973) giáo viên phát phiếu thông tin và u cầu học sinh hồn thành các nội
dung

PHIẾU THƠNG TIN:
Họ và tên học sinh:……………………………………………
Lớp:………… Trường:………………………………
Câu hỏi:
1. Em đã biết gì về Chiến lược chiến tranh cục bộ và chiến lược Việt Nam hóa
chiến tranh mà Mĩ áp dụng ở Việt Nam từ năm 1965 đến năm 1973.(học sinh
điền vào cột K)
2. Em mong muốn và đề xuất gì thêm khi học về Chiến lược chiến tranh cục bộ
và chiến lược Việt Nam hóa chiến tranh mà Mĩ áp dụng ở Việt Nam từ năm
1965 đến năm 1973 ? (Học sinh điền vào cột W)
3. Em đã học thêm được những gì sau khi học về Chiến lược chiến tranh cục bộ
và chiến lược Việt Nam hóa chiến tranh mà Mĩ áp dụng ở Việt Nam từ năm
1965 đến năm 1973? (Học sinh điền vào cột L)
4. Em có thể so sánh với các chiến lược Mĩ đã áp dụng ở các nước trên thế giới
giai đoạn này? (Học sinh điền vào cột H)
K

W

L

H

…………………

…………………

…………………

………………


…………………

…………………

…………………

………………

…………………

…………………

…………………

………………

…………………

…………………

…………………

………………

…………………

…………………

………………..


………………


16
Ví dụ 3: Khi dạy bài 23: Khơi phục và phát triển kinh tế xã hội ở Miền Bắc,
giải phóng hoàn toàn Miền Nam (1973-1975) giáo viên đưa mẫu phiếu thơng
tin u cầu học sinh hồn thành:
PHIẾU THƠNG TIN:
Họ và tên học sinh: …………………………………………………
Lớp:…………… Trường:…………………………………
Câu hỏi:
1. Em đã biết gì về Cuộc Tổng tiến công và nổi dậy mùa xuân 1975? (học sinh
điền vào cột K)
2. Em mong muốn và đề xuất gì thêm khi học về Cuộc Tổng tiến công và nổi
dậy mùa xuân 1975?(Học sinh điền vào cột W)
3. Em đã học thêm được những gì sau khi học về Cuộc Tổng tiến công và nổi
dậy mùa xuân 1975? (Học sinh điền vào cột L)
4. Em có thể liên hệ Cuộc Tổng tiến công và nổi dậy xuân 1975 đã tác động tới
sự phát triển của cách mạng Việt Nam như thế nào? (Học sinh điền vào cột H)
K

W

L

H

………………


…………………

…………………

………………

…………………

…………………

…………………

………………

…………………

…………………

…………………

………………

………………..

…………………

…………………

………………


b. Cách tiến hành kĩ thuật khăn trải bàn
- Chia học sinh thành các nhóm và phát cho mỗi nhóm một tờ giấy A0
- Trên giấy A0 chia thành các phần, gồm phần chính giữa và các phần
xung quanh. Phân xung quanh được chia theo số thành viên của nhóm (ví dụ
nhóm 4 người). Mỗi người ngồi vào vị trí tương ứng với từng phần xung quanh.


17
- Mỗi cá nhân làm việc độc lập trong khoảng vài phút, tập trung suy nghĩ
trả lời câu hỏi/nhiệm vụ theo cách nghĩ cách hiểu riêng của mỗi cá nhân và viết
vào phân giấy của mình trên tờ A0.
- Trên cơ sở những ý kiến của mỗi cá nhân, học sinh thảo luận nhóm,
thống nhất ý kiến và viết vào phần chính giữa của tờ giấy A0 “khăn trải bàn”.
* Một số lưu ý khi tổ chức dạy học theo kĩ thuật khăn trải bàn
- Câu hỏi thảo luận là câu hỏi mở
- Trong trường hợp số học sinh trong nhóm q đơng, khơng đủ chỗ trên
“khăn trải bàn”, có thể phát cho học sinh những mảnh giấy nhỏ để học sinh ghi
ý kiến cá nhân, sau đó đính vào phần xung quanh “khăn trải bàn”.
- Trong quá trình thảo luận thống nhất ý kiến, đính những ý kiến thống
nhất vào giữa “khăn trải bàn”. Những ý kiến trung nhau có thể đính chồng lên
nhau.
- Những ý kiến khơng thống nhất, cá nhân có quyền bảo lưu và được giữ
lại ở phần xung quanh của “khăn trải bàn”.
Kĩ thuật khăn phủ bàn là một kĩ thuật dạy học đơn giản, dễ thực hiện, có
thể tổ chức trong tất cả các bài học, mơn học, cấp học giống như học theo
nhóm. Kĩ thuật khăn trải bàn khắc phục được những hạn chế của học theo
nhóm. Tuy nhiên trong học theo nhóm, nếu tổ chức khơng tốt, đơi khi chỉ có
các thành viên tích cực làm việc, các thành viên thụ động thường hay ỷ lại,
trơng chờ, “nghỉ ngơi” như người ngồi cuộc hoặc như một quan sát viên. Do
đó dẫn đến mất nhiều thời gian và hiệu quả học tập không cao.

Trong kĩ thuật khăn phủ bàn đòi hỏi tất cả các thành viên phải làm việc
cá nhân, suy nghĩ, viết ra ý kiến của mình trước khi thảo luận nhóm. Như vậy
có sự kết hợp giữa hoạt động cá nhân và hoạt động nhóm. Từ đó, các cuộc thảo
luận thường có sự tham gia của tất cả các thành viên và các thành viên có cơ hội
chia sẽ ý kiến, kinh nghiệm của mình, tự đánh giá và điều chỉnh nhận thức của


18
mình một cách tích cực. Nhờ vậy hiệu quả học tập được đảm bảo và không mất
thời gian cũng như giữ được trật tự trong lớp.
Ví dụ 1: Khi dạy bài 22: Nhân dân hai miền trực tiếp chiến đấu chống đế quốc
Mĩ xâm lược. Nhân dân Miền Bắc vừa chiến đấu, vừa sản xuất(1965 - 1973):
Khi dạy phần I. Chiến đấu chống chiến lược "Chiến tranh cục bộ" của đế quốc
Mĩ ở Miền Nam (1965-1968). Giáo viên chia lớp thành 4 nhóm (tương ứng với
các tổ). Giáo viên phát cho mỗi nhóm một tờ giấy A0. Trên tờ giấy được chia
thành nhiều phần, trong đó có phần trung tâm dành ghi ý kiến thống nhất của cả
tổ sau khi đã thảo luận và phần xung quanh ghi ý kiến của mối cá nhân:
- Nhóm 1 và 2: Thực hiện nhiệm vụ: Tìm hiểu về chiến lược chiến tranh cục bộ
của đế quốc Mĩ ở Miền Nam(1965-1968). Chiến tranh cục bộ có điểm gì giống
và khác với các chiến lược chiến tranh trước đó của Mĩ.
- Nhóm 3 và 4: Thực hiện nhiệm vụ: Tìm hiểu cuộc chiến đấu chống chiến lược
chiến tranh cục bộ của quân và dân ta. Cho biết chiến thắng quyết định nhất
làm sụp đổ chiến tranh cục bộ.
Giáo viên phát giấy A0 kẻ ô theo kĩ thuật khăn phủ bàn.
Mỗi cá nhân trong nhóm sẽ làm việc độc lập trong 3 phút, tập trung suy nghĩ trả
lời cho câu hỏi của nhóm theo cách nghĩ của cá nhân và ghi ý kiến của mình
vào phần của mình trên tờ giấy A0. Nếu số lượng thành viên trong nhóm đơng,
khơng đủ chỗ trên tờ giấy A0, giáo viên có thể phát cho HS một tờ giấy A4 để
HS ghi ý kiến của mình và gắn vào phần xung quanh.
Sau đó nhóm thảo luận trong 3 phút để thống nhất ý kiến và ghi ý kiến chung

vào phần chính giữa của tờ giấy.
Hết thời gian thảo luận, giáo viên u cầu các nhóm trình bày kết quả thảo luận
của nhóm. Học sinh sẽ cử đại diện trình bày kết quả mà nhóm đã thống nhất.
Học sinh các nhóm khác có thể bổ sung. Giáo viên nhận xét, kết luận, cho điểm
các nhóm.


19
Ví dụ 2: Khi học bài 23 Khơi phục và phát triển kinh tế - xã hội ở miền Bắc,
giải phóng hồn tồn miền Nam (1973 - 1975). Khi dạy mục 1(II) “Chủ trương,
kế hoạch giải phóng hồn tồn miền Nam”, Giáo viên chia lớp thành 3 nhóm
Giáo viên phát cho mỗi nhóm một tờ giấy A0. Trên tờ giấy được chia thành 4
phần, trong đó có phần trung tâm dành ghi ý kiến thống nhất của cả tổ sau khi
đã thảo luận và 3 phần xung quanh ghi ý kiến của mối cá nhân:
- Nhóm 1: Thực hiện nhiệm vụ: Tìm hiểu hồn cảnh Trung ương Đảng đề ra
chủ trương, kế hoạch giải phóng hồn tồn miền Nam.
- Nhóm 2: Thực hiện nhiệm vụ: Tìm hiểu nội dung chủ trương, kế hoạch giải
phóng hồn tồn miền Nam của Trung ương Đảng.
- Nhóm 3: Thực hiện nhiệm vụ: Phân tích sự linh hoạt, chủ động, sáng tạo của
nội dung chủ trương, kế hoạch giải phóng hồn tồn miền Nam của Trung
ương Đảng.

Giáo viên phát giấy A0 đã kẻ ô theo kĩ thuật khăn phủ bàn.
Mỗi cá nhân trong nhóm sẽ làm việc độc lập trong 3 phút, tập trung suy nghĩ trả
lời cho câu hỏi của nhóm theo cách nghĩ của cá nhân và ghi ý kiến của mình
vào phần của mình trên tờ giấy A0. Sau đó nhóm thảo luận trong 3 phút để
thống nhất ý kiến và ghi ý kiến chung vào phần chính giữa của tờ giấy.
Hết thời gian thảo luận, giáo viên yêu cầu các nhóm trình bày kết quả thảo luận
của nhóm. Học sinh sẽ cử đại diện trình bày kết quả mà nhóm đã thống nhất.
Học sinh các nhóm khác có thể bổ sung. Giáo viên nhận xét, kết luận, cho điểm

các nhóm.
c. Cách tiến hành dạy học theo kỹ thuật các mảnh ghép:
* Cách tiến hành:  
Vịng 1: Nhóm chun sâu


20
Lớp học sẽ được chia thành các nhóm (khoảng từ 3- 6 người). Mỗi nhóm
được giao một nhiệm vụ với những nội dung học tập khác nhau. Ví dụ:
+ Nhóm 1: Nhiệm vụ A
+ Nhóm 2: Nhiệm vụ B
+ Nhóm 3: Nhiệm vụ C
Mỗi cá nhân làm việc độc lập trong khoảng vài phút, suy nghĩ về câu hỏi,
chủ đề và ghi lại những ý kiến của mình.
Khi thảo luận nhóm phải đảm bảo mỗi thành viên trong từng nhóm đều
trả lời được tất cả các câu hỏi trong nhiệm vụ được giao và trở thành chuyên gia
của lĩnh vực đã tìm hiểu và có khả năng trình bày lại câu trả lời của nhóm ở
vịng 2.
Vịng 2: Nhóm mảnh ghép
Hình thành nhóm mới khoảng từ 3-6 người (bao gồm 1-2 người từ nhóm
1; 1-2 từ nhóm 2; 1-2 người từ nhóm 3…), gọi là nhóm mảnh ghép.
Các câu hỏi và câu trả lời của vòng 1 được các thành viên trong nhóm
mới chia sẻ đầy đủ với nhau.
Khi mọi thành viên trong nhóm mới đều hiểu, được tất cả nội dung ở
vịng 1 thì nhiệm vụ mới sẽ được giao cho các nhóm để giải quyết (lưu ý nhiệm
vụ mới này phải gắn liền với kiến thức thu được ở vịng 1)
Các nhóm mới thực hiện nhiệm vụ trình bày và chia sẻ kết quả.
* Một số lưu ý khi sử dụng kĩ thuật mảnh ghép:
- Đảm bảo những thông tin từ các mảnh ghép lại với nhau có thể hiểu
được bức tranh toàn cảnh của một vấn đề và là cơ sở để giải quyết một nhiệm

vụ phức hợp ở vòng 2.



×