Tải bản đầy đủ (.doc) (28 trang)

tý giá hối đoái và các nhân tố ảnh hưởng

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (287.51 KB, 28 trang )

NHÓM 5_K11403
MỤC LỤC
LỜI GIỚI THIỆU 2
NỘI DUNG 3
CHƯƠNG 1: LÝ LUẬN CHUNG VỀ TỶ GIÁ HỐI ĐOÁI 3
3.Các loại tỷ giá hối đoái: 6
CHƯƠNG 2: CÁC NHÂN TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN TỶ GIÁ 12
I. SƠ LƯỢC VỀ HỆ THỐNG TỶ GIÁ HỐI ĐOÁI Ở VIỆT NAM TỪ NĂM 1955 ĐẾN NAY 18
II.VẤN ĐỀ TỶ GIÁ HIỆN NAY. 25
KẾT LUẬN 27
TÀI LIỆU THAM KHẢO 28
1
TỶ GIÁ HỐI ĐOÁI VÀ CÁC NHÂN TỐ ẢNH HƯỞNG LÊN TỶ GIÁ
NHÓM 5_K11403
LỜI GIỚI THIỆU
Trong cuộc sống hàng ngày, trên sách báo, trong ngân hàng hay trên các
phương tiện thông tin đại chúng, cụm từ “Tỷ giá hối đoái” hẳn không còn xa lạ với
mỗi người dân. Vậy tỷ giá hối đoái là gì, nó được hình thành trên cơ sở nào và ảnh
hưởng bởi các nhân tố kinh tế vĩ mô tới nó ra sao?
Tỷ giá hối đoái là một trong những biến số kinh tế vĩ mô hết sức nhạy cảm. Tỷ
giá biến động từng ngày, từng giờ và chịu ảnh hưởng của rất nhiều nhân tố. Bên cạnh
các yếu tố mà ảnh hưởng của chúng đến tỷ giá dễ dàng nhận biết như cung cầu ngoại
hối, lãi suất, lạm phát, cán cân thanh toán…tỷ giá còn chịu tác động bởi những yếu tố
nếu thoáng qua sẽ tưởng như chẳng có mối ràng buộc nào cả. Ví như công việc của
một người bán hàng rong: xét một cách cụ thể công việc của một người bán hàng rong
ảnh hưởng đến thu nhập của anh ta, đến lượt thu nhập lại tác động lên chi tiêu thực tế,
gây ảnh hưởng đến chỉ số giá tiêu dùng và cuối cùng là tỷ giá hối đoái thực tế. Mặc dù
biến động của tỷ giá hối đoái là vô cùng phức tạp song tỷ giá luôn là đề tài hấp dẫn
đối với giới nghiên cứu kinh tế cũng như các nhà quản lý vĩ mô trong bối cảnh tự do
hóa thương mại hiện nay. Các quốc gia trên thế giới từ lớn đến nhỏ, từ mạnh đến yếu
đều ý thức được rằng tỷ giá hối đoái sẽ là một công cụ hữu hiệu, một liều thuốc cứu


cánh cho thương mại các quốc gia nói chung cũng như ngoại thương nói riêng đang
trong tình trạng hấp hối. Việc nghiên cứu những lý luận cơ bản về tỷ giá hối đoái dưới
đây do đó sẽ giúp ta hiểu hơn tại sao tỷ giá hối đoái lại quan trọng đối với các quốc
gia đến như vậy.
Bài tiểu luận này của nhóm chúng tôi xin được trả lời phần nào những câu
hỏi trên.
2
TỶ GIÁ HỐI ĐOÁI VÀ CÁC NHÂN TỐ ẢNH HƯỞNG LÊN TỶ GIÁ
NHÓM 5_K11403
NỘI DUNG
CHƯƠNG 1: LÝ LUẬN CHUNG VỀ TỶ GIÁ HỐI ĐOÁI
I. Khái niệm, cơ chế hình thành và phân loại tỷ giá hối đoái:
1. Khái niệm:
Tất cả chúng ta đã quá quen thuộc với khái niệm thương mại trong nước, khi ta
mua cam Sài Gòn hay bưởi Vĩnh Long, tất nhiên chúng ta sẽ trả bằng tiền đồng của
Việt Nam và tất cả những người bán cũng muốn chúng ta trả cho họ bằng đồng tiền
như vậy. Điều đó cho thấy các giao dịch kinh tế trong phạm vi một nước rất đơn giản.
Song nếu chúng ta muốn mua cam California (Mỹ) thì mọi việc sẽ hoàn toàn khác.
Các nhà xuất khẩu Mỹ sẽ muốn chúng ta trả cho họ đô la Mỹ chứ không phải tiền
đồng Việt Nam, do đó ta sẽ phải mua đô la Mỹ, từ đó dùng lượng đô la này để trả cho
họ. Một câu hỏi đặt ra liệu chúng ta sẽ cần bao nhiêu đô la Mỹ ? Khi ấy, chúng ta sẽ
phải quan tâm đến một khái niệm mới đó là: tỷ giá hối đoái.
Có rất nhiều cách định nghĩa khác nhau về tỷ giá hối đoái, do cách tiếp cận vấn
đề khác nhau, đôi khi do cách diễn đạt khác nhau. Tỷ giá hối đoái là giá của đồng tiền
này được tính theo một đồng tiền khác. Tỷ giá hối đoái cũng được hiểu là tỉ lệ trao đổi
giữa hai đồng tiền của hai quốc gia khác nhau. Tỷ giá hối đoái xuất hiện và phát triển
cùng với sự ra đời, phát triển của thương mại quốc tế, nó được giải thích bởi một hiện
tượng đơn giản, hàng hoá không có biên giới quốc gia trong khi tiền chỉ được chấp
nhận trên lãnh thổ quốc gia phát hành ra nó.
Karl Mark (1818-1883) chính là người đầu tiên đưa ra khái niệm tỷ giá hối

đoái. Trong bộ “Tư bản”(1858) ông viết: “Tỷ giá hối đoái là một phạm trù kinh tế lịch
sử, gắn với giai đoạn phát triển sản xuất của xã hội, tính chất,cường độ tác động của
nó phụ thuộc vào trình độ phát triển thị trường và các giai đoạn cụ thể trong lưu
thông tiền tệ thế giới”. Đây là một khái niệm khá phức tạp mang nặng tính lý luận hơn
nghiên cứu thực tế song cũng đã thể hiện được phần nào tính lịch sử cũng như sự vận
động của tỷ giá. Sau Mark, tỷ giá hối đoái đã được hiểu đơn giản hơn và cho đến nay
khái niệm thường được sử dụng nhất là: Tỷ giá hối đoái là giá cả của đồng tiền nước
này tính theo đồng tiền nước khác. Điều đó có nghĩa tỷ giá hối đoái cũng là giá cả
song giá cả của một loại hàng hóa đặc biệt: tiền tệ.
Mỗi quốc gia hiện nay thường tạo dựng cho mình một đồng tiền riêng, đồng
tiền nước này là ngoại tệ của nước khác, việc thanh toán giữa các quốc gia đòi hỏi
3
TỶ GIÁ HỐI ĐOÁI VÀ CÁC NHÂN TỐ ẢNH HƯỞNG LÊN TỶ GIÁ
Điều 4 mục 3.5 nghị định của Chính phủ về quản lý ngoại hối ban hành 17/8/1998
quy định: Tỷ giá hối đoái là giá một đơn vị tiền tệ nước ngoài tính bằng đơn vị
tiền tệ Việt Nam.
Trong cách viết EUR/VND, EUR đứng trước gọi là tiền yết giá và là một đơn vị
tiền tệ; VND đứng sau là tiền định giá, là một số đơn vị tiền tệ thay đổi phụ thuộc
vào thời giá của tiền yết giá.
NHÓM 5_K11403
phải sử dụng đồng tiền này đổi lấy đồng tiền kia, từ đó lại xuất hiện hai khái niệm cụ
thể hơn về tỷ giá hối đoái xét trên phạm vi một quốc gia:
 Tỷ giá là giá của đồng ngoại tệ tính theo đơn vị nội tệ. Khái niệm này biểu
trưng cho cách yết giá trực tiếp (ngoại tệ/nội tệ). Ví dụ tỷ giá EUR/VND (EUR:
euro, đồng tiền chung Châu Âu) trên thị trường Việt Nam ngày 5/11/2003 là
18.142VND và ở đây giá 1EUR đã được biểu hiện trực tiếp bằng VND.
 Tỷ giá là giá cả của đồng nội tệ tính theo ngoại tệ. Đây là khái niệm chỉ cách
yết giá gián tiếp (nội tệ/ngoại tệ), ví dụ như tỷ giá CNY/VND (CNY: Nhân dân
tệ) tại Bắc Kinh là 1.842, giá VND chưa biểu hiện ra bên ngoài, do vậy để biết
được giá VND, phải tiến hành chuyển đổi như sau: 1VND = 1/1.842CNY.

Để tiện nghiên cứu, trong toàn bộ đề tài này nếu không có ghi chú gì đặc biệt thì tỷ
giá tăng sẽ được hiểu là tỷ giá nội tệ tăng tức đồng nội tệ tăng giá, còn tỷ giá giảm sẽ
được hiểu là tỷ giá nội tệ giảm, đồng nội tệ giảm giá. Điều này cũng có nghĩa phá giá
làm tỷ giá hối đoái giảm còn nâng giá làm tỷ giá hối đoái tăng.
2. Cơ chế hình thành tỷ giá hối đoái:
Tỷ giá hối đoái có một quá trình phát triển lâu dài, trải qua nhiều chế độ khác
nhau, các chế độ tỷ giá hối đoái luôn gắn liền với quá trình hình thành và phát triển
của thương mại thế giới. Từ chế độ bản vị vàng (1875-1914) đến chế độ bản vị hối
đoái vàng (1944-1972) rồi chế độ tỷ giá thả nổi, thả nổi có quản lý (1975 - nay), tỷ giá
đều được hình thành trên tương quan so sánh giá trị đồng tiền quốc gia này với quốc
gia khác bất kể đó là vàng hay là tiền tệ của một quốc gia đơn lẻ nào đó. Có thể nói
trong lịch sử phát triển của mình, tỷ giá được hình thành trên hai ngang giá chính đó là
ngang giá vàng và ngang giá sức mua.
4
TỶ GIÁ HỐI ĐOÁI VÀ CÁC NHÂN TỐ ẢNH HƯỞNG LÊN TỶ GIÁ
NHÓM 5_K11403
a) Ngang giá vàng:
Trước năm 1850, rất nhiều quốc gia trên thế giới theo đuổi một chế độ tiền tệ
song bản vị: bạc và vàng là hai loại tiền tệ chính được lưu hành trong thanh toán
thương mại giữa các quốc gia, tỷ giá hối đoái do đó được hình thành trên cơ sở so
sánh hàm lượng vàng và bạc. Năm 1850, khi khám phá ra hai mỏ vàng mới ở Mỹ và
Úc, lượng vàng khai thác được đổ dồn về các quốc gia Châu Âu. Nếu trước đó chỉ có
Anh tiến hành vàng hóa thanh toán (tức mọi giấy bạc của Anh đều đổi được ra vàng)
thì năm 1851, Pháp và một số quốc gia khác cũng đi theo bước chân của Anh. Đồng
bạc bị loại khỏi thanh toán và chế độ bản vị vàng bắt đầu.
Tỷ giá hối đoái giữa hai đồng tiền của hai nước bất kì thời kỳ bản vị vàng được
quyết định dựa trên việc so sánh hàm lượng vàng của hai nước với nhau. Giả sử hàm
lượng vàng của đồng bảng Anh (GBP) là 1 ounce = 6 GBP trong khi hàm lượng vàng
của franc Pháp (FRF) là 1 ounce = 12 FRF thì suy ra:
6GBP = 12FRF  1GBP = 2FRF

Có thể tổng quát hóa bằng công thức sau:
Tỷ giá hối đoái (đồng A/đồng B) =
Dưới chế độ bản vị vàng, khi tiền giấy tự do đổi ra vàng và ngược lại, thì mọi
biến động của tỷ giá hối đoái sẽ tự động được điều chỉnh về mức cân bằng. Hãy lấy ví
dụ trên làm minh chứng. Với hàm lượng vàng như trên giữa các đồng tiền GBP và
FRF, giả sử GBP bị sụt giá trên thị trường ngoại hối tức 1GBP= 1,8FRF; một nhà
nhập khẩu Anh cần 1000FRF để mua hàng hóa từ Pháp; nếu nhà nhập khẩu mua trực
tiếp FRF bằng GBP, nhà nhập khẩu sẽ phải bỏ ra 555,56 GBP để có 1000FRF. Tuy
nhiên, nhà nhập khẩu này đã dùng 1000FRF để mua vàng tại Anh sau đó đổi từ vàng
sang GBP. Qui trình 1 khiến nhà nhập khẩu phải mua vàng để có 1000FRF với giá
(1000/12)*6 = 500GBP; như vậy nhà nhập khẩu này đã lãi 55,56 GBP. Các nhà nhập
khẩu khác cũng sẽ làm tương tự như vậy dẫn đến cầu đồng bảng tăng cho đến khi tỷ
giá quay trở lại vị trí cân bằng ban đầu 1GBP = 2FRF.
Chế độ bản vị vàng với cơ chế ngang giá vàng đã đem lại nguồn lợi cho rất
nhiều quốc gia đặc biệt là Anh. Tuy nhiên đến cuối thế kỉ 19, các mỏ vàng đứng trước
nguy cơ bị khai thác hết, lượng cung vàng khan hiếm dần, tình trạng giảm phát liên
5
TỶ GIÁ HỐI ĐOÁI VÀ CÁC NHÂN TỐ ẢNH HƯỞNG LÊN TỶ GIÁ
NHÓM 5_K11403
tiếp xảy ra, một cơ chế hình thành tỷ giá hối đoái mới xuất hiện: Cơ chế ngang giá sức
mua.
b) Ngang giá sức mua:
Thời kì bản vị vàng qua đi, tiền giấy đảm nhận toàn bộ chức năng thanh toán,
cùng với việc giấy bạc không được tự do đổi ra vàng theo hàm lượng vàng ấn định,
ngang giá vàng không còn là cơ sở hình thành tỷ giá hối đoái; thay vào đó, việc so
sánh hai đồng tiền với nhau được thực hiện bằng so sánh sức mua của hai loại tiền tệ.
Tỷ giá hối đoái hình thành trên cơ chế ngang giá sức mua ra đời. Và để nghiên cứu cơ
chế này, chúng ta hay cùng nhau tìm hiểu thuyết ngang giá sức mua.
Ý tưởng ngang giá sức mua xuất phát từ thế kỉ thứ 19 với sự góp mặt của nhà
kinh tế học trường phái cổ điển David Ricardo, sau đó được mở rộng và hệ thống hóa

bởi nhà kinh tế học Thụy Điển Gustav Cassel những năm 1920.
3. Các loại tỷ giá hối đoái:
Tỷ giá hối đoái có ý nghĩa rất quan trọng đối với tất cả các đối tượng tham gia
vào các giao dịch đối ngoại cho dù đó là nhà thương mại hay nhà đầu tư. Tỷ giá hối
đoái cũng có vai trò trung tâm trong chính sách tiền tệ trong đó tỷ giá có thể là mục
tiêu hay công cụ hay chỉ đơn thuần là một chỉ số phụ thuộc vào cơ chế chính sách
của mỗi quốc gia. Mức độ can thiệp khác nhau của nhà nước khác nhau đến tỷ giá hối
đoái đã tạo nên những cơ chế tỷ giá hối đoái khác nhau giữa các quốc gia. Có hai cơ
chế tỷ giá cơ bản là: cơ chế tỷ giá hối đoái cố định (vào vàng, vào một đồng tiền hay
một nhóm đồng tiền) và cơ chế tỷ giá thả nổi (tỷ giá được xác định dựa vào cung cầu
trên thị trường). Mỗi quốc gia trong một thời kì khác nhau có sự lựa chọn khác nhau
về mức độ cố định thả nổi tỷ giá hối đoái hay có sự dung hoà nào đó về sự cố định hay
thả nổi tỷ giá hối đoái. Điều này đã đưa đến các nguyên tắc khác nhau về điều hành tỷ
giá hối đoái hay các chính sách có liên quan khác của mỗi quốc gia. Từ khi ra đời đến
nay tỷ giá hối đoái có những hình thức chủ yếu sau:
a) Tý giá hối đoái theo chế độ bản vị vàng
Trong chế độ này chính phủ của mỗi quốc gia cố định giá vàng tính bằng tiền
nước họ và duy trì khả năng chuyển đổi đồng tiền trong nước thành vàng chính phủ sẽ
mua và bán vàng nhiều bằng mức mà nhân dân muốn giao dịch tại giá trị ngang giá
6
TỶ GIÁ HỐI ĐOÁI VÀ CÁC NHÂN TỐ ẢNH HƯỞNG LÊN TỶ GIÁ
NHÓM 5_K11403
này và chính phủ tuân theo quy tắc nhằm gắn liền đồng tiền trong nước với số vàng
nhà nước có. Chính phủ chỉ có thể phát hành tiền bằng cách mua vàng của công
chúng, tức là nếu công chúng chuyển đổi tiền giấy của họ thành vàng thì lượng tiền
lưu hành sẽ giảm đi. Dưới chế độ bản vị vàng khả năng của chính phủ trong việc tăng
mức cung tiền bị hạn chế nghiêm ngặt bởi yêu cầu là chỉnh phủ phải nắm giữ một giá
trị vàng tương đương trong kho bạc.
Chế độ bản vị vàng là một chế độ ổn định, đồng tiền rất ít khi bị mất giá, việc
thanh toán nợ nần giữa các quốc gia cũng được thực hiện bằng vàng như vậy nó thực

sự đẩm bảo một cơ chế tự động điều chỉnh sự mất cân đối trong thương mại và thanh
toán quốc tế. Vì vậy chế độ này đã được sử dụng hầu như suốt thế kỷ 19 và đầu thế kỷ
20 ở các nước. Bản vị vàng có một ưu điểm lớn và một nhược điểm đáng kể. Bằng
cách gắn chặt, nếu không phải là hoàn toàn mức cung tiền nội địa với mức dự trữ
vàng, bản vị vàng thực sự đã loại trừ việc phát hành tiền liên tục trên quy mô lớn và tỉ
lệ lạm phát một cách thường xuyên cao. Tuy nhiên do cơ chế chủ yếu để phục hồi
công ăn việc làm đầy đủ là sự giảm giá và tiền lương nội địa mà phải mất nhiều năm
để điều chỉnh hoàn toàn theo mức giảm đáng kể về tổng cầu cho nên thời kì của bản vị
vàng là thời kì trong đó các nền kinh tế riêng lẻ dễ bị tổn thương dẫn tới những giai
đoạn suy thoái lâu dài và sâu sắc.
b) Tỷ giá cố định Bretton Woods :
Dưới chế độ bản vị vàng, tỷ giá hối đoái danh nghĩa được cố định một cách vô
thời hạn. Bây giờ chúng ta sẽ bàn về hệ thống điều chỉnh hạn chế, trong đó các tỷ giá
hối đoái thông thường được cố định nhưng một đôi lúc các nước được phép thay đổi
tỷ giá hối đoái của mình. Hệ thống này được ra đời gần cuối thế chiến thứ hai trong
một hội nghị đa quốc gia được tổ chức ở Brentton Woods New Hampshire để hoạch
định" một hệ thống tỷ giá hối đoái có trật tự thuận lợi cho luồng thương mại tự do".
Theo hệ thống này tỷ giá chính thức giữa đồng tiền của các nước thành viên được hình
thành trên cơ sở so sánh hàm lượng vàng của đô la Mĩ (1 USD= 0,888671 gram vàng)
và chỉ được phép dao động trong biên độ 1% của tỷ giá chính thức đã được đăng kí tại
7
TỶ GIÁ HỐI ĐOÁI VÀ CÁC NHÂN TỐ ẢNH HƯỞNG LÊN TỶ GIÁ
NHÓM 5_K11403
quỹ tiền tệ quốc tế IMF vì thế hệ thống tỷ giá này còn được biết với đến với tên gọi
bản vị đôla. Theo chế độ bản vị đô la, các đồng tiền được chuyển đổi theo đôla chứ
không phải theo vàng. Tại mức tỷ giá hối đoái cố định, các ngân hàng trung ương cam
kết mua hoặc bán đôla từ nguồn dự trữ ngoại hối hoặc lượng đôla hiện có của họ. Họ
cam kết can thiệp vào thị trường ngoại hối để bảo vệ tỷ giá hối đoái cố định theo đồng
đôla.
Sự khác nhau căn bản giữa bản vị vàng và bản vị đôla là ở chỗ không còn sự đảm

bảo đổi lại 100% đối với đồng tiền nội địa, các chính phủ có thể in thêm tiền để làm
tăng sức cạnh tranh trong nước. Nếu tình trạng thâm hụt ngân sách kéo dài chính phủ
phải dùng ngày càng nhiều dự trữ ngoại hối của mình để trang trải cho thâm hụt, thì
cuối cùng đất nước sẽ cạn kiệt dự trữ ngoại hối, lúc đó nhà nước sẽ phải phá giá tỷ giá
hối đoái của mình chuyển sang một nước giá trị ngang giá thấp hơn theo đôla để cố gắng
tăng thường xuyên sức cạnh tranh và loại trừ sự mất cân đối cơ bản trong thanh toán quốc
tế.
Tỷ giá hối đoái cố định, nếu bền vững hay được coi là bền vững thì sẽ tạo cho
các doanh nghiệp có cơ sở để lập kế hoạch và tính toán giá, như vậy sẽ thúc đẩy đầu
tư và thương mại quốc tế; tỷ giá hối đoái cố định tạo ra sự hạn chế đối với chính sách
tiền tệ trong nước vì do tỷ giá hối đoái cố định nên không khuyến khích sự luân
chuyển vốn vào hay ra khỏi quốc gia và do đó không cần thiết phải có sự quan tâm
thường xuyên của ngân hàng trung ương. Tỷ giá hối đoái cố định sẽ là tối ưu nếu các
ngân hàng trung ương có thể thực hiện được sự điều chỉnh cho tới mức tỷ giá tương
đối cân bằng và thực hiện việc cố định tỷ giá ở mức đó; cơ chế tỷ giá cố định trực tiếp
đặt ra sự tuân thủ đối với chính sách tiền tệ và có thể được coi là phù hợp trong tình
huống các công cụ tài chính và thị trường tài chính chưa phát triển đủ mức cho sự vận
hành của chính sách tiền tệ theo cơ chế thị trường.
Tuy nhiên tỷ giá hối đoái cố định trong trường hợp thiếu tin cậy sẽ bị ảnh hưởng
rất lớn của đầu cơ, điều này có thể dẫn tới sự phá vỡ hoàn toàn sự ổn định tiền tệ, ổn
định kinh tế hay ảnh hưởng tới dự trữ ngoại hối; tỷ giá hối đoái cố định có thể làm
8
TỶ GIÁ HỐI ĐOÁI VÀ CÁC NHÂN TỐ ẢNH HƯỞNG LÊN TỶ GIÁ
NHÓM 5_K11403
người ta phải từ bỏ đầu cơ, do đó thị trường sẽ buồn tẻ, khó có thể xác định đâu là tỷ
giá hối đoái tối ưu, hay hợp lý cho một nền kinh tế, mặc dù cả chính phủ và nhân hàng
trung ương đều cần thiết phải hiểu hơn ai hết đâu là mức cân bằng. Tỷ giá hối đoái
danh nghĩa cố định có thể là quan trọng nhưng nó không quyết định tỷ giá hối đoái
thực tế mà nó chỉ được coi là chỉ số hay mục tiêu quan trọng mà thôi. Duy trì tỷ giá
hối đoái cố định đòi hỏi ngân hàng trung ương phải luôn sẵn sàng can thiệp vào thị

trường ngoại hối để đảm bảo mức tỷ giá hối đoái cố định.Tuy nhiên, khó có thể đưa ra
về mức độ cần can thiệp như thế nào để tác dộng vào nền kinh tế nhằm đạt được mục
tiêu can thiệp. Ngân hàng trung ương cần thiết phải duy trì một mức nhất định về dự
trữ ngoại hối, như vậy chi phí về quản lý tài sản sẽ lớn. Tỷ giá hối đoái này cũng phụ
thuộc vào chính sách tiền tệ của quốc gia khác, và đó là điều đôi khi gây bất lợi do
việc gắn đồng tiền bản tệ vào một đồng ngoại tệ nào đó.
c) Tỷ giá hối đoái thả nổi tự do:
Là tỷ giá hối đoái phụ thuộc vào mối quan hệ cung cầutrên thị trường ngoại hối
mà không có sự can thiệp của Chính phủ. Trong cơ chế tỷ giá thả nổi tự do, mối quan
hệ cung-cầu hoàn toàn quyết định mức cân bằng về tỷ giá hối đoái.Tại điểm cân bằng
tỷ giá hối đoái thả nổi, tức là lượng hàng hóa xuất, nhập khẩu, dịch vụ và sự di chuyển
vốn đầu tư tạo nên tổng cung và cầu về ngoại tệ trong thế cân bằng. Nếu tỷ giá hổi
đoái phía trên điểm cân bằng, có nghĩa là giá ả đồng ngoại tệ cao, thì sẽ có một lượng
ngoại tệ được cung cấp lớn hơn nhu cầu.
d) Tỷ giá hối đoái thả nổi có quản lý của chính phủ
Do tầm quan trọng của tỷ giá hối đoái với nền kinh tế, nên trong giai đoạn hiện nay,
Chính phủ các quốc gia không thụ động để tỷ giá hối đoái thay đổi theo quan hệ cung
cầu của thị trường ngoại hối mà chủ động can thiệp vào thị trường ngoại hổi khi cần
thiết để ổn định tỷ giá hối đoái. Sự can thiệp của Chính phủ vào thị trường ngoại hối
bằng phương pháp mua, bán ngoại tệ, chỉ khi thị trường ngoại hối trở nên “mất trật tự"
9
TỶ GIÁ HỐI ĐOÁI VÀ CÁC NHÂN TỐ ẢNH HƯỞNG LÊN TỶ GIÁ
NHÓM 5_K11403
hoặc khi tỷ giá hối đoái đi chệch khỏi quỹ đạo, gây ảnh hưởng tiêu cực đến nền kinh
tế.
e) Tỷ giá hối đoái hiện hành (sport rate) và tỷ giá hối đoái có thời
hạn (forward rate)
Tỷ giá hối đoái hiện hành, thông thường khi trao đổi ngoại tệ việc chi trả và tiếp
nhận trao ngoại tệ có thời hạn có thời gian là 2 ngày, kiểu giao dịch này gọi là giao
dịch chi trả tiền ngay, và tỷ giá hối đoái được thực hiện tại điểm giao dịch gọi là tỷ

giá hối đoái hiện hành hay tỷ giá hối đoái giao ngay.
Tỷ giá có thời hạn, trong nhiều trường hợp trao đổi ngoại tệ việc chi trả và tiếp
nhận ngoại tệ có thời hạn thời gian. Hợp đồng giao dịch có thời hạn là hợp đồng
ngày hôm nay về mua hoặc bán một số lượng ngoại tệ tại thời điểm nhất định,
nhưng việc thanh toán lại xảy ra trong tương lai, với tỷ giá hối đoái được thỏa
thuận trong ngày hôm nay. Ví dụ hợp đồng trao đổi ngoại tệ ngày hôm nay là
10.000USD, tỷ giá 1 USD = 15.000VNĐ, nếu giao ngay thì người mua phải chi trả
cho người bán là 150.000.000 đ nhưng người bán và người mua đồng ý thời hạn
thanh toán là 3 tháng với tỷ giá hối đoái thỏa thuận là 1USD = 15.000VNĐ. Sau 3
tháng người mua phải thanh toán cho người bán 10.000x15.500=155.000.000 đ mà
không chú ý đến tỷ giá hối đoái tại thời điểm này là bao nhiêu.
Kiểu hợp đồng có thời hạn có thể là 1 tháng, 3 tháng, 6 tháng trong đó phổ biến là
loại 3 tháng. Loại hợp đồng có thời hạn là loại hợp đồng không phổ biến do tính
chất không ổn định của tỷ giá hối đoái
Tỷ giá hối đoái có thời hạn cũng được xác định trên cơ sở: tỷ giá hiện hành, sự
biến động cung và cầu ngoại tệ trong tương lai, chính sách bảo hộ mậu dịch của
chính phủ, buôn bán chứng khoán.
Giữa tỷ giá hối đoái có thời hạn và tỷ giá hối đoái hiện hành có mối quan hệ với
nhau. Nếu tỷ giá có thời hạn thấp hơn tỷ giá giao ngay, đồng ngoại tệ có thể nói
10
TỶ GIÁ HỐI ĐOÁI VÀ CÁC NHÂN TỐ ẢNH HƯỞNG LÊN TỶ GIÁ
NHÓM 5_K11403
giảm giá với đồng nội tệ. Mặt khác, nếu tỷ giá có thời hạn lớn hơn tỷ giá giao ngay
thì đồng ngoại tệ sẽ tang giá so với đồng nội tệ.
Tỷ giá hối đoái được thỏa thuận có thể cao hơn (tăng giá có thời hạn, Forward
Premiums: FP) hoặc thấp hơn (giảm giá có thời hạn, Forward Discount: FD ) tỷ giá
hối đoái hiện hành.
Sự giảm hoặc tăng giá có thời hạn được biểu hiện qua phần trăm tính cho cả năm
theo công thức sau:
Trong đó:

FR: Tỷ giá hối đoái có kỳ hạn tính trước.
SR: Tỷ giá hối đoái giao ngay
f) Tỷ giá chéo
Ở trên, chúng ta chỉ nghiên cứu với hai loại tiền tệ riêng rẻ, trong thực tế có
nhiều tỷ giá hối đoái, ví dụ: tỷ giá hối đoái giữa đồng Đôla Mỹ và đồng bảng Anh, tỷ
giá hối đoái giữa đồng đôla Mỹ và đồng Euro lien minh Châu Âu, giữa đồng đôla Mỹ
với đồng Yên Nhật. Một tỷ giá sẽ được xác định một cách nhanh chóng dựa trên tỷ
gias của những cặp tiền tệ đã cho trước. Tỷ giá hối đoái được xác định dựa trên những
tỷ giá đã cho trước gọi là tỷ giá hối đoái chéo.
11
TỶ GIÁ HỐI ĐOÁI VÀ CÁC NHÂN TỐ ẢNH HƯỞNG LÊN TỶ GIÁ
FD hoặc FP =
FR - SR
SR
x 4 x 100
NHÓM 5_K11403
CHƯƠNG 2: CÁC NHÂN TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN TỶ GIÁ
I. Các nhân tố ngắn hạn:
- Lãi suất so sánh giữa các nước về cùng 1 loại tiền gửi. Những thay đổi lãi suất
trong nước thường được nêu lên như là nhân tố chính tác động đến tỷ giá. Chúng ta
thường nghe trên các báo chí như sau : “Việt Nam đồng lên giá vì lãi suất tăng”.
Nhưng có phải nhận định này lúc nào cũng đúng. Lãi suất ở đây mà bài báo nhắc tới là
lãi suất danh nghĩa, lãi suất của các ngân hàng, và sự tác động của từng loại lãi suất là
khác nhau.
Như ta đã biết Lãi suất danh nghĩa được tính như sau: i = ir + П (với П < 10%).
Trong đó ir là lãi suất thực tế, còn П là tỷ lệ lạm phát. i thay đổi do 2 do là lãi suất
thực tế thay đổi hoặc do tỷ lệ lạm phát dự tính thay đổi. Và ảnh hưởng tới tỷ giá là
hoàn toàn khác nhau tùy thuộc vào nhân tố nào trong 2 nhân tố đó là nguồn gốc của sự
thay đổi trong lãi suất danh nghĩa (các yếu tố khác không đổi).
 Trường hợp 1: Lãi suất danh nghĩa trong nước cao hơn do lãi suất thực tế tăng

lên (do kinh tế phát triển):
Lãi suất thực tế trong nước tăng lên làm cho lãi suất danh nghĩa tăng lên trong
khi lam phát dự tính vẫn không thay đổi. Và như vậy lợi tức dự tính về tiền gửi nước
ngoài sẽ vấn không thay đổi với bất kỳ tỷ giá nào đã cho còn lợi tức về tiền gửi trong
nước lại tăng lên. Khi vậy vốn ngắn hạn từ nước ngoài sẽ chảy vào nhằm thu phần
chênh lệch do tiền lãi tạo ra đó. Điều này làm cho cung ngoại hối tăng lên, cầu ngoại
hối giảm đi, dẫn đến sự thay đổi tỷ giá theo hướng tăng giá đồng nội tệ tức là tỷ giá
giảm xuống.
Vậy khi lãi suất thực tế trong nước tăng thì đồng nội tệ tăng giá.
 Trường hợp 2: Lãi suất danh nghĩa trong nước cao hơn do một mức lạm phát
dự tính trong nước gây lên.
Khi lãi suất danh nghĩa tăng lên do một sự tăng lên trong lạm phát dự tính. Việc
này làm cho mức tăng giá dự tính của VND giảm xuống, mức này được cho là lớn
hơn mức tăng của lãi suất trong nước. Kết quả là, với một tỷ giá đã cho bất kỳ lợi tức
dự tính về tiền gửi nước ngoài tăng nhiều hơn lợi tức dự tính về tiền gửi VND và làm
cho cầu gửi tiền nước ngoài tăng lên và làm tỷ giá tăng lên. (Ảnh hưởng của lạm phát
nữa là khi lạm phát cửa nước A lớn hơn nước B dẫn đến hàng xuất khẩu của nước A
tính theo ngoại tệ đắt hơn, làm giảm cạnh tranh của hàng hóa nước A và làm giảm
12
TỶ GIÁ HỐI ĐOÁI VÀ CÁC NHÂN TỐ ẢNH HƯỞNG LÊN TỶ GIÁ
NHÓM 5_K11403
cung ngoại tệ vào nước A và làm cho đồng nội tệ giảm giá. Mình dành việc xét tác
động của lạm phát tới tỷ giá hẳn 1 phần cho rõ ràng. Cái này cũng không khó phân
tích lắm. Các bạn làm thử nhé.)
Vậy một lãi suất trong nước cao hơn do một mức lạm phát dự tính trong nước gây lên
sẽ làm cho mức giá của đồng nội tệ giảm xuống.
- Lãi suất gửi nội tệ và lãi suất gửi ngoại tệ trong nước. Nếu lợi tức của việc gửi
nội tệ cao hơn so với lợi tức của việc gửi ngoại tệ (sau khi đổi về cùng 1 đơn vị tiền
tệ) thì người dân sẽ có xu hướng gửi nội tệ, cầu về tiền gửi nội tệ tăng lên .Điều này
làm cho người dân trước đây nắm giữ ngoại tệ hay gửi ngoại tệ vào ngân hàng sẽ có

xu hướng chuyển lượng ngoại tệ đó sang nội tệ và gửi bằng nội tệ để hưởng mức
chênh lệch lợi tức. Và như vậy làm cho nội tệ trong lưu thông giảm xuống (chính sách
tiền tệ thắt chặt của NHNN nhằm chống lạm phát) dẫn đến tỷ giá có xu hướng giảm,
tức là đồng nội tệ tăng giá.
- Ảnh hưởng của cung, cầu ngoại tệ. Cung ngoại tệ là lượng ngoại tệ mà thị trường
muốn bán ra để thu về nội tệ. Cầu ngoại tệ là lượng ngoại tệ mà thị trường muốn mua
vào bằng các đồng nội tệ. Giá cả ngoại tệ, tỷ giá hối đoái cũng được xác định theo quy
luật cung cầu như đối với các hàng hoá thông thường. Khi cung ngoại tệ lớn hơn cầu
ngoại tệ sẽ làm cho giá ngoại tệ giảm, tức tỷ giá hối đoái giảm. Ngược lại, khi cầu
ngoại tệ lớn hơn cung ngoại tệ giá ngoại tệ sẽ tăng, tức tỷ giá tăng. Ở vị trí cung ngoại
tệ bằng cầu ngoại tệ xác định trạng thái cân bằng, không có áp lực làm cho tỷ giá thay
đổi. Ta có thể hình dung cơ chế hình thành tỷ giá được hiểu thị từ khi có sự khác nhau
về cung và cầu ngoại tệ. Khi cung ngoại tệ lớn hơn cầu ngoại tệ, lượng ngoại tệ mà thị
trường cần bán ra nhiều hơn lượng ngoại tệ cần mua vào, khi đó có một số người
không bán được sẽ sẵn sàng bán với mức giá thấp hơn và làm cho giá ngoại tệ trên thị
trường giảm. Tư duy tương tự, khi cầu lớn hơn cung, một số người không mua được
ngoại tệ sẵn sàng trả giá cao hơn và gây sức ép làm giá ngoại tệ trên thị trường tăng.
Khi cung ngoại tệ bằng cầu ngoại tệ, lượng ngoại tệ mà thị trường cần mua đúng bằng
lượng ngoại tệ cần bán làm cho giá ngoại tệ không đổi, thị trường cân bằng. Chúng ta
có thể thấy, tỷ giá hối đoái trên thị trường luôn thay đổi do cung và cầu về ngoại tệ
luôn thay đổi.
- Ảnh hưởng của cung, cầu nội tệ (phần này có thể cho vào phần lạm phát). Giả
định rằng NHNN quyết định tăng mức cung tiền tệ để giảm thất nghiệp, mà mọi người
tin là quá nhiều. Cung VND tăng lên sẽ dẫn đến mức giả cả trong nước cao hơn về dài
hạn và từ đó ảnh hưởng đến tỷ giá tương lai dự tính thấp hơn. Kết quả sụt xuống trong
sự tăng giá dự tính của VND làm tăng lợi tức dự tính về tiền gửi nước ngoài với bất
kỳ một tỷ giá hiện hành đã cho nào và làm cho VND giảm giá. Nói tóm lại là việc
tăng cung nội tệ sẽ dẫn đến việc lạm phát dự tính tăng lên trong tương lai, theo như
trên thì sẽ làm cho giá nội tệ giảm xuống, tức là tỷ giá giữa USD/VND tăng lên.
13

TỶ GIÁ HỐI ĐOÁI VÀ CÁC NHÂN TỐ ẢNH HƯỞNG LÊN TỶ GIÁ
NHÓM 5_K11403
- Cán cân thương mại ảnh hưởng đến tỷ giá hối đoái. Cấn cân thương mại của
một nước là chênh lệch giữa kim ngạch xuất khẩu và kim ngạch nhập khẩu (Khi xét
tác động của vấn đề này tới tỷ giá ta phải bỏ qua những khoảng mục phản ánh sự can
thiệp của Chính Phủ và tương quan lực lượng cung cầu ngoại hối trên thị trường.).
Một nền kinh tế khi xuất khẩu hàng hoá và dịch vụ sẽ thu được ngoại tệ. Để tiếp tục
công việc kinh doanh, các nhà xuất khẩu phải bán ngoại tệ lấy nội tệ, mua hàng hoá
dịch vụ trong nước xuất khẩu ra nước ngoài. Trên thị trường cung ngoại tệ sẽ tăng,
làm tỷ giá hối đoái giảm. Ngược lại, khi nhập khẩu hàng hoá dịch vụ, các nhà nhập
khẩu cần ngoại tệ để thanh toán cho đối tác và đi mua ngoại tệ trên thị trường. Hành
động này làm cầu ngoại tệ tăng, tỷ giá hối đoái tăng. Tác động của hai hiện tượng trên
là ngược chiều trong việc hình thành tỷ giá hối đoái. Tỷ giá hối đoái cuối cùng sẽ tăng
hay giảm phụ thuộc vào mức độ tác động mạnh yếu của các nhân tố, đó chính là cán
cân thương mại. Nếu một nước có thặng dư thương mại, cung ngoại tệ lớn hơn cầu
ngoại tệ, tỷ giá hối đoái sẽ giảm, đồng nội tệ lên giá. Ngoài ra cán cân thanh toán quốc
tế và tỷ giá không chỉ có tác động một chiều mà có tác động ngược lại của tỷ giá đối
với cán cân. Khi cán cân thanh toán thâm hụt sẽ làm cho đồng nội tệ giảm giá, và điều
này làm tăng xuất khẩu và hạn chế nhập khẩu. Quá trình này diễn ra đến khi nó đạt
mức cân bằng. Tóm lại, khi thâm hụt thương mại, tỷ giá hối đoái sẽ tăng, đồng nội tệ
giảm giá.
- Tỷ giá chịu ảnh hưởng của hoạt động đầu tư. Đầu tư ra nước ngoài, cú ảnh
hưởng tới tủ giỏ hối đoỏi cư dân trong nước dùng tiền mua tài sản ở nước ngoài, có
thể là đầu tư trực tiếp (xây dựng nhà máy, thành lập các doang nghiệp ) hay đầu tư
gián tiếp (mua cổ phiếu, trái phiếu ). Những nhà đầu tư này muốn thực hiện hoạt
động kinh doanh trên cần phải có ngoại tệ. Họ mua ngoại tệ trên thị trường, luồng vốn
ngoại tệ chảy ra nước ngoài, tỷ giá hối đoái sẽ tăng. Ngược lại một nước nhận đầu tư
từ nước ngoài, luồng vốn ngoại tệ chảy vào trong nước, làm cho cung ngoại tệ tăng, tỷ
giá hối đoái giảm. Đầu tư ra nước ngoài ròng là hiệu số giữa luồng vốn chảy ra và
luồng vốn chảy vào một nước. Khi đầu tư ra nước ngoài ròng dương, luồng vốn chảy

vào trong nước nhỏ hơn dòng vốn chảy ra nước ngoài,tỷ giá hối đoái giảm. Tỷ giá hối
đoái sẽ giảm trong trường hợp ngược lại, đầu tư ra nước ngoài ròng âm. Theo quy luật
tối ưu hoá, luồng vốn sẽ chảy đến nơi nào có lợi nhất, tức là hiệu suất sinh lời cao
nhất. Một nền kinh tế sẽ thu hút được các luồng vốn đến đầu tư nhiều hơn khi nó có
môi trường đầu tư thuận lợi, nền chính trị ổn định, các đầu vào sẵn có với giá rẻ,
nguồn lao động dồi dào có tay nghề, thị trường tiêu thụ rộng lớn, lãi suất cao và sự
thông thoáng trong chính sách thu hút đầu tư nước ngoài của Chính phủ.
- Nhân tố cuối cùng và cũng là nhân tố quan trọng nhất tác động đến tỷ giá hối
đoái đó là yếu tố tâm lý. Người dân, các nhà đầu cơ, các ngân hàng và các tổ chức
kinh doanh ngoại tệ là các tác nhân trực tiếp giao dịch trên thị trường ngoại hối. Hoạt
động mua bán của họ tạo nên cung cầu ngoại tệ trên thị trường. Các hoạt động đó lại
bị chi phối bởi yếu tố tâm lý, các tin đồn cũng như các kỳ vọng vào tương lai. Điều
này giải thích tại sao, giá ngoại tệ hiện tại lại phản ánh các kỳ vọng của dân chúng
14
TỶ GIÁ HỐI ĐOÁI VÀ CÁC NHÂN TỐ ẢNH HƯỞNG LÊN TỶ GIÁ
NHÓM 5_K11403
trong tương lai. Nếu mọi ngưòi kỳ vọng rằng tỷ giá hối đoái sẽ tăng trong tương lai,
mọi người đổ xô đi mua ngoại tệ thì tỷ giá sẽ tăng ngay trong hiện tại; Mặt khác, giá
ngoại tệ rất nhậy cảm với thông tin cũng như các chính sách của chính phủ. Nếu có tin
đồn rằng Chính phủ sẽ hỗ trợ xuất khẩu, hạn chế nhập khẩu để giảm thâm hụt thương
mại, mọi người sẽ đồng loạt bán ngoại tệ và tỷ giá hối đoái sẽ giảm nhanh chóng.
Nhiều nhà đầu tư định chế (NHTM và các công ty bảo hiểm) thực hiện vị thế tiền tệ
dựa trên biến động lãi suất sự kiến ở các nước khác nhau. Ví dụ cac nhà đầu tư định
chế có thể đầu tư 1 cách thường xuyên ngân quỹ vào VND nếu họ dự kiến lãi suất của
VND tăng; 1 sự gia tăng như thế sẽ thu hút vốn vào Việt Nam nhiều hơn và tạo áp lực
tăng giá VND. Bằng cách thực hiện vị thế mua bán tiền dựa vào kỳ vọng, họ có thể
đạt được lợi ích từ sự thay đổi trong giá trị của VND vì họ mua VND trước khi có sự
thay đổi xảy ra. Đương nhiên rủi ro có thể xảy ra do kỳ vọng có thể sai nhưng vấn đề
ở đây là kỳ vọng ảnh hưởng đến tyrgias vì chúng thúc đẩy các nhà đầu tư định chế
thực hiện các vị thế tiền tệ

Sự can thiệp của chính phủ. Bất cứ sự can thiệp nào của chính phủ mà có ảnh hưởng
đến tỷ lệ lạm phát, thu nhập thực tế hoặc mức lãi suất trong nước đều làm ảnh hưởng
đến sự biến động của tý giá hối đoái. Chính phủ có thể sử dụng ba loại hình can thiệp
chủ yếu: can thiệp vào thương mại quốc tế; đầu tư quốc tế; can thiệp trực tiếp vào thị
trường ngoại hối. Việc tác động của Chính phủ đến các yếu tố trên sẽ gây ảnh hưởng
đến tỷ giá.
- Tác động của Lạm phát tới tỷ giá. Lạm phát cao làm tăng lãi suất tương đối của
tiền gửi ngoại tệ so với nội tệ và dẫn đến giảm giá của đồng nội tệ. Lạm phát cao còn
làm cho sức mua của nội tệ giảm so với ngoại tệ. Lạm phát tác động trực tiếp tới hàng
xuất – nhập khẩu dẫn đến làm ảnh hưởng đến tính cạnh tranh của quốc gia đó và ảnh
hưởng tới tỷ giá. Đối với hàng xuất khẩu, khi lạm phát tăng cao thì giá hàng hóa nội
địa tăng lên tương đối so với hàng nước ngoài (các yếu tố khác không đổi), điều này
làm giảm xuất khẩu, dẫn đến giảm cung ngoại tệ gây áp lực giảm giá đồng nội tệ. Còn
đối với nhập khẩu, khi lạm phát xảy ra thì nhập khẩu tẳng nhẹ do yếu tố lạm phát ở
nước ngoài. Do mức lạm phát ở nước ngoài và trong nước tăng như nhau làm cầu
hàng hóa ko giảm. Nhưng trong ngắn hạn, người tiêu dùng trong nước chưa bắt kịp
với sự tăng giá của hàng nội địa, do đó họ và các công ty vẫn phải trả 1 khoản ngoại tệ
cho hàng nước ngoài, điều này làm tăng cầu ngoại tệ, làm tăng giá ngoại tệ.
15
TỶ GIÁ HỐI ĐOÁI VÀ CÁC NHÂN TỐ ẢNH HƯỞNG LÊN TỶ GIÁ
NHÓM 5_K11403
Ví dụ:
Tỷ giá các ngoại tệ của Ngân hàng thương mại cổ phần Ngoại thương Việt Nam
Mã NT Tên ngoại tệ Mua tiền mặt Mua chuyển khoản Bán
AUD AUST.DOLLAR 21,638.73 21,769.35 22,085.02
CAD CANADIAN DOLLAR 20,215.91 20,399.51 20,695.32
CHF SWISS FRANCE 22,078.67 22,234.31 22,556.72
DKK DANISH KRONE - 3,628.71 3,696.09
EUR EURO 27,024.21 27,105.53 27,498.57
GBP BRITISH POUND 31,571.64 31,794.20 32,190.79

HKD HONGKONG DOLLAR 2,644.82 2,663.46 2,712.92
INR INDIAN RUPEE - 374.34 390.55
JPY JAPANESE YEN 207.18 209.27 212.31
KRW SOUTH KOREAN WON - 16.66 20.41
KWD KUWAITI DINAR - 72,373.42 74,012.66
MYR MALAYSIAN RINGGIT - 6,849.30 6,948.62
NOK NORWEGIAN KRONER - 3,616.72 3,683.87
RUB RUSSIAN RUBLE - 610.84 748.37
SEK SWEDISH KRONA - 3,236.68 3,296.77
SGD SINGAPORE DOLLAR 16,601.88 16,718.91 17,029.33
THB THAI BAHT 705.50 705.50 736.06
USD US DOLLAR 20,840.00 20,840.00 20,890.00
Tỷ giá được cập nhật lúc 10/04/2013 18:00 và chỉ mang tính chất tham khảo

II. Xét về các yếu tố dài hạn:
Có 4 nhân tố chính tác động đến tỷ giá : (1) mức giá cả tương đối; (2) thuế quan
và hạn ngạch nhập khẩu; (3) ưa thích hàng nội hơn hàng ngoại; (4) năng suất lao
động. Cụ thể như sau:
- Mức giá cả tương đối : Theo thuyết ngang giá sức mua – thuyết PPP – theory of
purchasing power parity (thuyết này được phát biểu như sau: tỷ giá giữa bất kỳ hai
đồng tiền nào sẽ điều chỉnh để phản ánh những thay đổi trong mức giá cả của hai
nước. Ví dụ thế này: nếu nồi cơm điện của Việt Nam rẻ hơn ở Mỹ dẫn đến người mua
sẽ mua nồi cơm điện của Việt Nam nhiều hơn làm cho xuất khẩu của Việt Nam tăng
còn xuất khẩu của Mỹ giảm, dẫn đến su hướng làm cho VND tăng giá so với USD)
khi giá hàng Việt Nam tăng thì cầu về hàng hóa Việt Nam sẽ giảm xuống và VND có
xu hướng giảm giá để cho hàng Việt Nam có thể bán được tốt hơn. Mặt khác nếu giá
16
TỶ GIÁ HỐI ĐOÁI VÀ CÁC NHÂN TỐ ẢNH HƯỞNG LÊN TỶ GIÁ
NHÓM 5_K11403
cả hàng hóa nước ngoài tăng lên sao cho giá tương đối của hàng Việt Nam giảm

xuống thì cung về hàng Việt Nam tăng lên và VND có xu hướng tăng giá bởi vì hàng
Việt Nam sẽ tiếp tục được bán tốt hơn ngay cả khi giá trị đồng nội tệ cao hơn. Trong
dài hạn, một sự tăng lên mức giá của một nước (tương đối so với mức giá nước ngoài)
làm cho đồng tiền của nước đó giảm giá, trong khi một sự giảm xuống của mức giá
tương đối của một nước làm cho đồng tiền của nước đó tăng giá.
- Thuế quan và hạn ngạch nhập khẩu. Công cụ này nhiều hay ít đã tác động và
làm tăng giá của hàng ngoại nhập, làm giảm tương đối nhu cầu với hàng nhập khẩu,
góp phần bảo hộ và khuyến khích tiêu dùng hàng trong nước. Làm tăng giá đồng nội
tệ vì hàng hóa trong nước sẽ tiếp tục được bán tốt hơn ngay cả khi đồng nội tệ tăng
giá. Như vậy trong dài hạn thì thuế quan và hạn ngạch nhập khẩu về lâu dài làm cho
đồng tiền của một nước tăng giá.
- Ưa thích hàng nội so với hàng ngoại. Nếu như sự ham thích của người nước
ngoài đối với hàng Việt Nam tăng lên, chẳng hạn thích dùng quạt Việt Nam hơn và
thích xem phim Việt Nam, thì cầu về hàng hóa Việt nam tăng lên và làm tăng giá
VND bởi vì hàng hóa Việt Nam được bán tốt hơn ngay cả khi VND tăng giá. Và
ngược lại. Như vậy trong dài hạn thì cầu đối với hàng xuất của một nước tăng lên về
lâu dài làm cho đồng tiền của nước đó tăng giá trong khi cầu về hàng nhập tăng lên
làm cho đồng tiền của nước đó giảm xuống.
- Năng suất lao động. Khi năng suất lao động trong nước cao hơn so với nước ngoài
thì những nhà kinh doanh trong nước có thể giảm giá hàng hóa của mình một cách
tương đối so với hàng hóa nước ngoài mà vẫn thu được lợi nhuận cao. Kết quả là làm
cho cầu về hàng nội tăng lên và đồng tiền nội tệ có xu hướng tăng giá bởi vì hàng nội
tệ sẽ tiếp tục được bán tốt với một trị giá cao hơn của đồng nội tệ. Và ngược lại. Như
vậy trong dài hạn nếu năng suất lao động của một nước cao hơn tương đối so với các
nước khác thì đồng tiền của nước đó tăng giá.
17
TỶ GIÁ HỐI ĐOÁI VÀ CÁC NHÂN TỐ ẢNH HƯỞNG LÊN TỶ GIÁ
NHÓM 5_K11403
CHƯƠNG 3: LIÊN HỆ VIỆT NAM
I. SƠ LƯỢC VỀ HỆ THỐNG TỶ GIÁ HỐI ĐOÁI Ở VIỆT NAM TỪ NĂM

1955 ĐẾN NAY.
Trong giai đoạn từ năm 1955 đến 1989, mặc dù nhiều nước trên thế giới đang áp
dụng cơ chế thả nổi và thả nổi có quản lý, nhưng các nước xã hội chủ nghĩa, với cơ
chế kế hoạch hoá tập trung, nhà nước luôn can thiệp mạnh vào mọi mặt hoạt động
kinh tế, thì quả thực cơ chế hối đoái thả nổi không thể tồn tại, và phát huy tác dụng,
thay vào đó là tỷ giá cố định, Việt Nam cũng không nằm ngoài khuôn khổ đó. Tỷ giá
chính thức của VND được công bố vào ngày 25 / 11 / 1955, là tỷ giá giữa VND và
đồng nhân dân tệ trung quốc là 1NDT =1470 VND và giữa đồng Việt Nam với đồng
Liên Xô là 1 Rúp bằng 735 đồng Việt Nam. Tỷ giá này được xác định bằng cách so
sánh giá bán lẻ của 34 mặt hàng tiêu dùng tại thủ đô và một số tỉnh khác giữa hai nước
nhằm giả quyết nhu cầu thanh toán giữa hai nước trong những năm kháng chiến chống
Pháp. Sau đó các tỷ giá giữa đồng Việt Nam với các nước khác được thiết lập dựa trên
tỷ giá đó. Bên cạnh tỷ giá chính thức (tỷ giá mậu dịch), nhà nước còn đưa ra hai loại
tỷ giá khác là tỷ giá phi mậu dịch và tỷ giá kết toán nội bộ (tỷ giá giữa các đơn vị có
thu chi ngoại tệ với ngân hàng ngoại thương). Như vậy hệ thống tỷ giá ở Việt Nam
trong giai đoạn này là chế độ đa tỷ giá, tỷ giá được xác định trên ý đồ phục vụ kế
hoạch của nhà nước, các quyết định này không xuất phát từ nhu cầu thực tại của nền
kinh tế thị trường trong và ngoài nước, tỷ giá giữ vai trò thụ động, chưa phải là công
cụ điều chỉnh kinh tế vĩ mô thực sự. Chính vì vậy, hệ thống tỷ giá này đã gây không ít
khó khăn cho việc quản lý đều hành của nhà nước trong lĩnh vực tài chính, tiền tệ,
kinh tế đối ngoại, đồng thời để lại hậu quả nghiêm trọng cho nền kinh tế. Sở dĩ có tình
trạng như vậy là vì một số nguyên nhân, thứ nhất là do việc sử dụng tỷ giá kết toán nội
bộ trong quản lý ngân sách nhà nước làm cho việc tính toán và thu chi ngân sách bị sai
lệch nghiêm trọng, công tác điều hành ngân sách nhà nước khó khăn, làm giảm hiệu
quả hoạt động của ngân sách nhà nước. Từ năm 1970 đến 1980 hàng năm Liên Xô
18
TỶ GIÁ HỐI ĐOÁI VÀ CÁC NHÂN TỐ ẢNH HƯỞNG LÊN TỶ GIÁ
NHÓM 5_K11403
viện trợ cho nước ta khoảng 15 % thu nhập của cả nước, bình quân từ 1,2 đến 1,5 tỉ rúp
trong 1 năm nếu tính theo tỷ giá kết toán nội bộ thì số viện trợ này khoảng 1/3 tổng thu

ngân sách, nhưng nếu tính sức mua trên thị trường của đồng rúp thì tỉ trọng này vào
khoảng 60–70 %. Vì vậy nhu cầu đổi mới cơ chế tỷ giá nói riêng,đổi mới lĩnh vực tài
chính tiền tệ nói chung, trở thành vấn đề cấp bách vì nếu để tỷ giá cũ làm cho việc bù lỗ
nhập khẩu vượt mức chịu đựng của ngân sách nhà nước, thủ tiêu động lực xuất khẩu.
Sau đại hội toàn quốc lần thứ VI, nhà nước bắt đầu thực hiện công cuộc đổi mới
nền kinh tế, từng bước xoá bỏ cơ chế kế hoạch hoá tập trung, chuyển dần sang cơ chế
thị trường có sự quản lý của nhà nước. Đây là thời kì có sự chuyển biến mạnh mẽ
trong tư duy quản lý và diều hành kinh tế của nhà nước, nhất là trong lĩnh vực tài
chính tiền tệ.
Tỷ giá hối đoái, khâu đột phá có vai trò cực kì quan trọng trong cải cách được
đặc biệt quan tâm. Tháng 3/1989 Nhà nước chính công bố xoá bỏ tỷ giá kết toán nội
bộ, xoá bỏ mội chế độ trợ giá cho các hoạt động ngoại thương. Tỷ giá chính thức đuợc
Ngân hàng nhà nước chính thức công bố căn cứ vào chỉ số lạm phát, lãi suất trên thị
trường, cán cân thanh toán, tham khảo diễn biến giá trên thị trường tự do và giá vàng
trên thị trường quốc tế và trong nước. Trên cơ sở tỷ giá này, các ngân hàng thương
mại xây dựng cho mình một tỷ giá dùng để giao dịch hàng ngày với biên độ giao động
cho phép. Nhìn chung những giải pháp trên đã góp phần cải thiện phần nào tình hình
trên thị trường ngoại hối, xoá bỏ tình trạng bất hợp lý trong mua bán thanh toán, đặc
biệt trong lĩnh vực nhập khẩu.
Sau năm 1990, tuy đã có những cải cách nhất định về mặt tỷ giá nhưng tỷ giá vẫn
có những biến động mạnh mà điển hình là cơn sốc tỷ giá vào năm 1991, đồng Việt
Nam bị mất giá 60 % so với đôla Mĩ. Nguyên nhân chính là do ảnh hưởng của tình
hình cán cân thanh toán quốc tế, sự thâm hụt tài chính của chính phủ và mức độ lạm
phát nặng nề ở Việt Nam. chính vì vậy vào cuối năm 1991 đầu năm 1992 chính phủ đã
can thiệp để nâng giá đồng Việt Nam trên thị trường ngoại tệ. Sự can thiệp này có
mục đích chống lạm phát bằng cách giữ cho hàng nhập khẩu được ổn định vì từ năm
19
TỶ GIÁ HỐI ĐOÁI VÀ CÁC NHÂN TỐ ẢNH HƯỞNG LÊN TỶ GIÁ
NHÓM 5_K11403
1990 trở lại đây, Việt Nam đã nhập khẩu một số lượng lớn lượng nguyên, nhiên vật liệu

để đáp ứng nhu cầu phát triển và mở rộng sản xuất trong nước, thúc đẩy xuất khẩu sản
phẩm của nông nghiệp. Nếu để giá của đồng nội tệ tiếp tục giảm tất yếu sẽ làm cho giá
thành sảm phẩm sản xuất trong nước tăng bởi vì các yếu tố đầu vào đã tăng. Trong điều
kiện nền kinh tế có nhiều nhân tố gây bất ổn địnhkhác thì việc giá thành hàng hoá nhập
khẩu tăng cao sẽ là nhân tố kích thích lạm phát.
Cuối năm 1992, nguồn ngoại tệ do ngoại kiều gửi về Việt Nam khá lớn làm tăng
cung về ngoại tệ, mặt khác ngân hàng nhà nước kiên trì quan điểm ổn định tỷ giá bằng
cách can thiệp vào thị trường ngoại tệ, nhu cầu về ngoại tệ của các doanh nghiệp cơ
bản được đáp ứng, lạm phát gần như được chặn lại, tạo lòng tin cho dân chúng và sự
ổn định của đồng tiền Việt Nam, giải toả được tâm lý đầu cơ. đó là những nguyên
nhân cơ bản nhất khiến cho xu hướng lên giá của đồng Đô la sẽ bị chặn lại, tỷ giá
VND/USD không những không tăng mà còn giảm xuống. Tuy nhiên vẫn còn một số
tồn tại trong viêc điều chỉnh này về tỷ giá hối đoái quá mạnh đã gây sức rất ép lớn đối
với sản xuất công nghiệp và nông nghiệp. Trung Quốc là một bạn hàng quan trọng của
Việt Nam và là một thị trường vừa lớn lại vừa gần. Tỷ giá hối đoái do thị trường quy
định của Trung Quốc đã bị phá giá mạnh kể từ giữa năm 1991, biến động khoảng từ 6-
8 NDT / 1 đô la và có thời gian ngắn lên 10 NDT
Như vậy, trong cùng điểm thời gian (tháng 8/1991) khi đồng Việt Nam lần đầu
tiên đạt mức tỷ giá danh nghĩa như năm 1991 thì đồng Nhân dân tệ bị phá giá 50%.
Trong khi đó mức lạm phát ở Việt Nam là 67%, còn tại Trung Quốc là 25%, do đó
mức tăng trong sức cạnh tranh của hàng hoá Trung Quốc là rất đáng kể và các nhà
máy Việt Nam đã phải vất vả vì tình trạng này.
Nhà nước đã đối phó với tình trạng này bằng cách vẫn giữ ổn định tỷ giá và phát
động chống buôn lậu đồng thời đề ra cơ chế quản lý nhập khẩu bằng hạn nhập
(Quota), cấm nhập khẩu cũng như hạn chế cấp tín dụng cho nhập khẩu cùng với một
số chính sách ưu đãi đối với nhà xuất khẩu như : Giảm thuế, bảo hiểm giá đối nông
sản xuất khẩu, trợ giá đối với những sản phẩm xuất khẩu mới Nhưng do biên giới
20
TỶ GIÁ HỐI ĐOÁI VÀ CÁC NHÂN TỐ ẢNH HƯỞNG LÊN TỶ GIÁ
NHÓM 5_K11403

với Trung Quốc rất dài, dễ qua lại và do việc buôn lậu mang lại rất nhiều lợi nhuận
nên hầu như không thể ngăn chặn việc buôn bán tại vùng này tuy có thể làm cho
những hoạt động đó mang lại ít lợi nhuận hơn. Tất nhiên những biện pháp này sẽ
không giúp được gì cho các nhà xuất khẩu do họ sản xuất lại tụt xuống (nếu mức giá
bằng USD vẫn không thay đổi).
Diễn biến cụ thể của tỷ giá hối đoái trong 2 năm 1991, 1992 như sau
Năm 1991 :
Tháng 12/90 1/91 3/91 6/91 12/91
VNĐ/US
D
7400 7900 8830 10050 12550
VNĐ/US
D
1350 1370 1460 1850 2350
Du
Năm 1992 :
Tháng 12/91 1/92 3/92 6/92 9/92 12/92 1/93
VND/US
D
12.900 11.800 11.550 10.285 10.950 10.720 10.500

Đến cuối năm 1992, đồng Việt Nam tăng 20 % so với đồng đô la vì thế vào năm 1993,
sức cạnh tranh của hàng Việt Nam trên thị trường sẽ bị giảm mạnh. Sau đó Nhà nước
lại tăng giá đồng đô la trong cuối quý I năm 1993 là cho đồng Nhân dân tệ tăng gía,
sức cạnh tranh của hàng Trung Quốc trên thị trường Việt Nam giảm
Tỷ giá năm 1993 của đồng Việt Nam so với đô la là
21
TỶ GIÁ HỐI ĐOÁI VÀ CÁC NHÂN TỐ ẢNH HƯỞNG LÊN TỶ GIÁ
NHÓM 5_K11403
Tháng 12/92 1/93 3/93 6/93 7/93 9/93 12/93

VND/US
D
10.720 10.500 10.500 10.580 10.680 10.750 10.835
Trong năm 1993, tỷ giá VNĐ/USD có xu hướng ổn định, Ngân hàng Nhà nước
đã thành công trong việc giữ cho đồng Việt Nam không lên giá, điều này giúp cho
hàng hoá Việt Nam có thể cạnh tranh được, kích thích xuất khẩu được giúp Việt Nam
có thể hạn chế được ảnh hưởng của đồng đô la với nền ngoại thương của mình
Ngày 20/09/1994, Thống đốc Ngân hàng nhà nước ban hành quyết định số 203 /
QĐ - NH9 về việc thành lập thị trường ngoại tệ liên ngân hàng, Ngân hàng Nhà nước
thực hiện vai trò là người mua bán cuối cùng trong ngày. Tỷ giá chính thức vẫn được
Ngân hàng Nhà nước công bố, chỉ có biên độ dao động là thay đổi. Trong 3 năm 93–
96, đồng đô la hầu như không tăng theo giá trị thực của nó trên thị trường, trong khi
thị trường dường như được thả nổi theo cung cầu. Nguyên nhân của tình trạng trên là
lượng vốn của nước ngoài đầu tư vào Việt Nam trong thời kỳ này tăng rất nhanh,
chính sách thắt chặt tiền tệ của chính phủ đã kiềm chế được lam phát ở mức vừa phải
và do chênh lệch lãi xuất giữa VNĐ và USD quá lớn nên rất nhiều nhà đầu tư đã bán
đô la để lấy VNĐ gửi tiết kiệm lấy lãi
Tình trạng giá trị đồng nội tệ cao đã làm cho vào năm 1996, mức thâm hụt cán
cân thương mại nước ta lên đến 16 %, cao gấp rưỡi so với các nước có mức độ nhập
siêu cao nhất thế giới, nhu cầu về USD lại tăng gây sức ép giảm giá VND
Như vậy có thể nói toàn bộ việc điều hành tỷ giá hối đoái của Ngân hàng Nhà
nước từ 1990 đến trước tháng 3 / 1997 là áp dụng chính sách tỷ giá cố định có điều
tiết nhẹ của Nhà nước, chủ yếu dựa vào neo giữ và quy đổi VNĐ theo USD qua 1 tổ
ngoại tệ hẹp (chủ yếu qua đô la Mỹ, DM, bảng Anh, ) trong đó đôla Mỹ chiếm tỉ
trọng lớn. Thực tiễn đã chứng minh chính sách này chỉ phù hợp với giai đoạn tiền tệ
còn chưa ổn định, xuất khẩu còn yếu, nhập khẩu khá ồ ạt, dự trữ ngoại tệ quốc gia
mỏng. Xu hướng của tỷ giá trong thời gian này là tăng quá chậm so với tốc độ tăng
trưởng lạm phát (tính theo chỉ số liên hoàn qua nhiều năm), VND được đánh giá quá
22
TỶ GIÁ HỐI ĐOÁI VÀ CÁC NHÂN TỐ ẢNH HƯỞNG LÊN TỶ GIÁ

NHÓM 5_K11403
cao so với giá trị thực của nó. Từ năm 1992–1996, tỷ giá tăng khoảng 5,2 % trong khi
lạm phát tăng 40%). Yêu cầu chuyển sang giai đoạn chuyển dịch cơ cấu kinh tế,
hướng mạnh vào xuất khẩu trong điều kiện tiền tệ khá ổn định (lạm phát thấp, lãi suất
giảm, cán cân thanh toán tổng thể có bội chi nhỏ, dự trữ ngoại tệ khá hơn ) buộc
chính sách tỷ giá hối đoái phải điều chỉnh lại, vì thế đến năm 1997, Ngân hàng Nhà
nước có quyết định để thay đổi biên độ giao dịch: Ngân hàng Nhà nước nới rộng biên
độ giao dịch hối đoái cho các Ngân hàng thương mại so với tỷ giá chính thức do Ngân
hàng Nhà nước công bố, lần lượt là 5% vào tháng 3/1997 rồi đến 10% vào tháng
10/1997, từ mức 0,5 - 1 % được áp dụng trong suốt 2 năm 1995, 1996
Trong thời kỳ 1997 - 1998, chênh lệch lãi suất giữa VND và USD xích lại gần
nhau. Thời gian này diễn ra cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ trong khu vực, về cuộc
khủng hoảng này, nhiều nhà kinh tế cho rằng một trong những nguyên nhân gây ra
khủng hoảng là ở Thái Lan đã duy trì một cơ chế gắn đồng Bath vào đồng đô la một
cách rất cứng nhắc của Ngân hàng Trung ương Thái Lan trong nhiều năm. Sau cuộc
khủng hoảng này, hầu hết các đồng tiền của các nước trong khu vưc giảm giá (tiền
Indonexia mất giá 130 %, đồng Thái Lan mất giá 100 %, đồng Malaixia mất giá 60
% ) đồng thời lượng vốn nước ngoài đầu tư vào Việt Nam giảm sút. Xu hướng rút
tiền đồng Việt Nam để chuyển sang ngoại tệ tăng lên. Hơn nữa do năm 1996 khối
lượng L/c trả chậm khá lớn và phần lớn đến hạn trả vào năm 1997, do vậy làm tăng
nhu cầu mua ngoại tệ trong nước để trả nợ đến hạn. Tất cả các điều kiệ trên gây áp lực
giảm giá VNĐ. Trước tình hình đó chính phủ đã thực hiện phá giá từ 11113VND/
USD năm 1996 lên 13980 VND/ USD năm 1998
Việc điều chỉnh tỷ giá lần này là một quyết định kịp thời. Trong bối cảnh cuộc
khủng hoảng kinh tế khu vực, việc cố định một tỷ giá được coi là cao hơn tỷ giá thực tế là
một rủi ro quá lớn cho nền kinh tế Việt Nam, không những nó cản trở xuất khẩu, khuyến
khích xuất khẩu mà còn hạn chế" khả năng đề kháng” của nền kinh tế Việt Nam. Nhiều
chuyên gia tỷ giá cho rằng, mức tỷ giá đó là phù hợp trong giai đoạn đó. Việc tăng tỷ giá
đã góp phần giảm tỉ nhập siêu từ 20,3 % năm 1997 xuông 17,6 % năm 98
23

TỶ GIÁ HỐI ĐOÁI VÀ CÁC NHÂN TỐ ẢNH HƯỞNG LÊN TỶ GIÁ
NHÓM 5_K11403
Ưu và nhược điểm của việc phá giá trong giai đoạn này: Nó làm cho tốc độ xuất
khẩu tăng và nhập khẩu giảm, do vậy tỉ lệ nhập siêu giảm xuống song" độ nhạy” giữa
việc thay đổi tỷ giá với việc thay đổi xuất nhập khẩu là thấp. Bởi vì để đẩy mạnh xuất
khẩu ngoài việc phụ thuộc vào tỷ giá còn phụ thuộc vào nhiều nhân tố khác như chất
lượng, cơ cấu mặt hàng xuất khẩu, thủ tục về xuất nhập khẩu mà ở Việt Nam vấn đề
này còn rất bức xúc và thức tế đã chứng tỏ điều đó.
Mặt khác việc tăng tỷ giá sẽ làm giá thành sản phẩm của các doanh nghiệp tăng
giảm sức cạnh tranh và đến lượt nó lại là yếu tố cản trở tăng xuất khẩu và làm cho nợ
nần của các doanh nghiệp xuất nhập khẩu và các nhà đầu tư tăng lên. Trong năm
1998,sau khi nới rộng biên độ giao dịch, cầu ngoại tệ trên thị trường rất cao nên hầu
như việc mua bán ngoại tệ của các Ngân hàng thương mại thường xuyên bám sát mức
trần cho phép. Mặc dù vậy nhưng giá trên thị trường tự do còn cao hơn nhiều, có lúc
lên đến 14000 VND/ 1 USD, đây chính là hậu quả của tình trạng găm giữ ngoại tệ do
lo ngại về khả năng khủng hoảng của VND. Đứng trước tình hình này, những tháng
đầu năm 1998, Ngân hàng Nhà nước đã đưa ra một loạt các biên pháp nhằm ổn định
thị trường như : Quy chế về giao dịch ngoại hối, các nghiệp vụ mua bán ngoại tệ mới,
quy định về trạng thái ngoại tệ, trạng thái tiền đồng, đối với các tổ chức tín dụng được
phép kinh doanh ngoại tệ. Đặc biệt là 2 lần chủ động điều chỉnh tỷ giá: lần thứ nhất
vào 16/02/1998, Ngân hàng Nhà nước(NHNN) quyết định nâng tỷ giá từ 11175
VND/1 USD lên 11800 VND/ 1 USD làm tỷ giá trao đổi của các ngân hàng thương
mại(NHTM) xấp xỉ với tỷ giá trên thị trường tự do. Lần thứ hai diễn ra vào ngày
07/8/1998, tỷ giá chính thức được nâng từ 11888 VND/ 1 USD lên 11.998VND/ 1
USD, tăng 16,3 %, bên cạnh đó, biên độ giao dịch cũng được thu hẹp lại còn 7 % chứ
không phải là 10 % như trước đây nữa. Việc chủ động điều chỉnh tăng tỷ giá của
NHNN đã làm thu hẹp khoảng cách giữa tỷ giá trên thị trường tự do và tỷ giá của các
NHTM. Vào những tháng cuối năm 1998, tỷ giá của hai thị trường này thường xuyên
sấp xỉ nhau
24

TỶ GIÁ HỐI ĐOÁI VÀ CÁC NHÂN TỐ ẢNH HƯỞNG LÊN TỶ GIÁ
NHÓM 5_K11403
Tuy nhiên để xoá bỏ hiện tượng găm giữ, đầu cơ ngoại tệ và tập trung hơn nữa
ngoại tệ vào sự quản lý của Nhà nước, ngày 12/09/1998, Chính phủ ban hành quyết định
số 173/ QĐ-TTG về mua và bán ngoại tệ đã mang lại một số kết quả khả quan. Suốt quý
IV năm 1998, doanh số mua bán ngoại tệ tăng liên tục. Quan hệ cung cầu ngoại tệ được
cải thiện đáng kể đã góp phần nhằm ổn định tốt hơn tỷ giá hối đoái. Tỷ giá giao dịch của
thị trường ngoại tệ liên ngân hàng được duy trì trong biên độ quy định, khoảng cách
chênh lệch về tỷ giá giữa thị trường ngoại tệ liên ngân hàng và thị trường tự do là khá
thấp (< 1 %).
II.VẤN ĐỀ TỶ GIÁ HIỆN NAY.
Từ ngày 01 /01/1999, sự kiện ra đời chính thức đồng Euro đã đem đến cho khu
vực này một chế độ không có tỷ giá hối đoái hay cũng có thể gọi là" cơ chế tỷ giá cố
định tuyệt đối”. Ở Việt Nam nhiều quan điểm cho rằng, cần giảm bớt sự quản lý đối
với tỷ giá bằng cách mở rộng biên độ giao dịch để thực hiện cơ chế tỷ giá linh hoạt, có
quan điểm lại cho rằng cần duy trì tỷ giá hối đoái ổn định hơn nữa. Do cần phải thực
hiện điều chỉnh tỷ giá sao cho phù hợp với điều kiện nền kinh tế thị trường, NHNN đã
đưa ra hai quyết định số 64 và 65 ngày 26/02/99, tiếp tục hoàn thiện chính sách tỷ giá
trên cơ sở bám sát các nguyên tắc điều hành tỷ giá được nêu trong" điều hành tỷ giá
linh hoạt theo cung cầu phù hợp với sức mua thực tế của đồng tiền Việt Nam trên cơ
sở đảm bảo ổn định kinh tế vĩ mô và chủ động xử lý có hiệu quả tỷ giá hối đoái ”
Thực chất hai quyết định đã nêu hoàn toàn không đề cập đến điều chỉnh mức tỷ giá đã
hoàn thành ổn định trong thời gian này. Thế nhưng đây là dấu hiệu cho thấy xu hướng
tự do hoá rõ rệt hơn tỷ giá hối đoái có sự điều tiết của Nhà nước. Tỷ giá thực tế ở thời
điểm có quyết định mới (26/02/1999) có nhiều biểu hiện phù hợp với sức mua, đối nội
và đối ngoại của đồng tiền Việt Nam hoàn toàn không có lý do phải có sự điều chỉnh.
Bằng vào việc công bố hai loại tỷ giá : tỷ giá chính thức và tỷ giá bình quân mua vào
bán ra thực tế trên thị trường ngoại tệ liên ngân hàng như trước đây để chỉ còn công
bố một tỷ giá gọi là tỷ giá giao dịch bình quân (của đồng Việt Nam so với đôla Mỹ)
trên thị trường này đã đưa đến một sự thay đổi khác hẳn theo cách ổn định, công bố và

điều hành tỷ giá hối đoái lâu nay
25
TỶ GIÁ HỐI ĐOÁI VÀ CÁC NHÂN TỐ ẢNH HƯỞNG LÊN TỶ GIÁ

×