Tải bản đầy đủ (.doc) (85 trang)

thiết kế một số đề kiểm tra trắc nghiệm khách quan đại số và giải tích 11

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (470.62 KB, 85 trang )

1
MỤC LỤC

Trang
MỞ ĐẦU
I. Lý do chọn đề tài 4
II. Mục đích nghiên cứu 5
III. Nhiệm vụ nghiên cứu 5
IV. Đối tượng nghiên cứu 6
V. Phạm vi nghiên cứu 6
VI. Phương pháp nghiên cứu 6
NỘI DUNG
Chương I: Kiểm tra đánh giá (KTĐG) trong dạy học ở trường phổ thông
1.1. Cơ sở lý luận của KTĐG trong dạy học 7
1.1.1. Khái niệm của KTĐG 7
1.1.2. Chức năng của KTĐG trong giáo dục 8
1.1.3. Yêu cầu sư phạm của việc KTĐG 9
1.1.4. Nguyên tắc chung của việc KTĐG 11
1.1.5. Các phương pháp KTĐG 11
1.1.6. Các hình thức KTĐG 12
1.1.7. Ý nghĩa của việc KTĐG 12
1.2. Cơ sở thực tiễn của việc KTĐG 14
1.2.1. Thực trạng hoạt động KTĐG ở trường phổ thông 14
1.2.2. Những xu hướng mới trong KTĐG môn toán 15
Chương II: Trắc nghiệm khách quan trong việc KTĐG kết quả học tập
của học sinh
2.1. Khái niệm và phân loại trắc nghiệm 18
2.1.1. Khái niệm 18
2.1.2. Phân loại 18
2
2.2. Trắc nghiệm khách quan (TNKQ) 18


2.2.1. Các dạng câu hỏi TNKQ 19
2.2.2. Quy hoạch một bài TNKQ 25
2.2.3. Quy trình soạn thảo một đề kiểm tra TNKQ môn toán 27
2.2.4. Phương pháp phân tích đánh giá bài TNKQ 29
2.3. Nội dung cơ bản của môn Đại Số Và Giải Tích lớp 11 34
Chương III: Thực nghiệm sư phạm
3.1. Mục đích, nhiệm vụ của thực nghiệm sư phạm 50
3.2. Phương pháp thực nghiệm sư phạm 50
3.3. Phân tích, đánh giá kết quả thực nghiệm sư phạm 53
Đề thực nghiệm số 1 54
Đề thực nghiệm số 2 64
Đề tham khảo số 1 74
Đề tham khảo số 2 79
KẾT LUẬN 83
TÀI LIỆU THAM KHẢO 85
3
MỞ ĐẦU
I. Lý do chọn đề tài
Trong những năm trở lại đây, tình hình giáo dục nước ta đang phải đối
mặt với những vấn đề hết sức khó khăn đòi hỏi cần phải có những đổi mới để
nâng cao chất lượng dạy và học, đáp ứng được yêu cầu ngày càng cao của xã
hội. Bên cạnh việc đổi mới nội dung, chúng ta cũng cần phải chú trọng đến cả
việc đổi mới phương pháp dạy học. Muốn đổi mới phương pháp dạy học có
hiệu quả cần phải tiến hành đổi mới đồng bộ cả phương pháp dạy, phương
pháp học và phương pháp kiểm tra đánh giá. Trong đó kiểm tra đánh giá là một
khâu có vai trò hết sức quan trọng trong quá trình dạy học.
Kiểm tra đánh giá không chỉ giúp giáo viên phát hiện được thực trạng về
kiến thức, kỹ năng, quá trình tư duy và thái độ của học sinh, mà còn giúp học
sinh tự xem xét, đánh giá hiệu quả học tập của chính bản thân mình so với mục
tiêu mà môn học đã đề ra. Từ đó có biện pháp điều chỉnh kịp thời hoạt động

dạy và học, nâng cao chất lượng của quá trình dạy học.
Kiểm tra đánh giá nếu được tiến hành một cách khách quan, chính xác
sẽ có tác dụng khuyến khích học sinh tích cực học tập, có ý thức vươn lên
trong học tập và cuộc sống, khiêm tốn, trung thực.
Kết quả của kiểm tra đánh giá còn là công cụ hỗ trợ cho các tổ chức, ban
ngành giáo dục trong công tác quản lý, chỉ đạo chuyên môn.
Việc kiểm tra đánh giá ở trường phổ thông từ trước đến nay phần lớn
đều sử dụng phương pháp kiểm tra bằng hình thức tự luận. Phương pháp này
có ưu điểm nổi bật là ít tốn thời gian ra đề; đánh giá được khả năng trình bày,
diễn đạt của học sinh; khuyến khích học sinh rèn luyện khả năng tư duy logic,
khả năng suy diễn, tổng quát hóa, phát huy óc sáng tạo của học sinh. Tuy nhiên
phương pháp này cũng tồn tại nhiều hạn chế như: không thể kiểm tra được một
cách đầy đủ các kiến thức và kỹ năng của học sinh dẫn đến tình trạng học tủ,
4
học lệch; kết quả kiểm tra đánh giá không đảm bảo tính chính xác, khách quan
mà phụ thuộc nhiều vào đánh giá chủ quan của người chấm. Hơn nữa, việc
chấm điểm tốn rất nhiều thời gian và công sức, đặc biệt là với số lượng lớn.
Hiện nay hình thức kiểm tra trắc nghiệm khách quan được sử dụng khá
phổ biến ở nhiều nước trên thế giới. Tuy nhiên ở nước ta, việc sử dụng trắc
nghiệm khách quan trong kiểm tra đánh giá kết quả học tập của học sinh chỉ
mới được đưa vào thí điểm ở một số môn. Hướng tới trong tương lai hình thức
này sẽ được sử dụng một cách rộng rãi và đồng bộ hơn. Trắc nghiệm khách
quan có rất nhiều ưu điểm nổi bật như tiết kiệm được nhiều thời gian và kinh
phí. Đồng thời lại kiểm tra đánh giá được một cách hệ thống và toàn diện kiến
thức và kỹ năng của học sinh, đưa lại kết quả một cách chính xác và khách
quan.
Vì tất cả những lý do trên, tôi đã chọn đề tài:
“THIẾT KẾ MỘT SỐ ĐỀ KIỂM TRA TRẮC NGHIỆM KHÁCH QUAN
ĐẠI SỐ VÀ GIẢI TÍCH 11”
II. Mục đích nghiên cứu

+ Nghiên cứu phương pháp và kỹ thuật viết câu hỏi trắc nghiệm khách
quan ở môn Đại Số và Giải Tích 11 nâng cao.
+ Xây dựng quy trình kiểm tra, biên soạn một đề kiểm tra trắc nghiệm
khách quan có thể chấp nhận được.
III. Nhiệm vụ nghiên cứu
+ Nghiên cứu cơ sở lý luận và cơ sở thực tiễn của việc kiểm tra đánh giá
kết quả học tập của học sinh ở nhà trường phổ thông.
+ Nghiên cứu cơ sở lý luận về phương pháp soạn thảo, phân tích hệ
thống câu hỏi trắc nghiệm khách quan.
+ Nghiên cứu nội dung, mục tiêu chương trình sách giáo khoa Đại Số và
Giải Tích 11 nâng cao.
+ Thiết kế một số đề kiểm tra trắc nghiệm khách quan môn Đại Số và
Giải Tích 11.
5
+ Thực nghiệm sư phạm nhằm đánh giá đề kiểm tra trắc nghiệm khách
quan về độ tin cậy, độ giá trị và tính khả thi của nó.
IV. Đối tượng nghiên cứu
+ Cơ sở lý luận và cơ sở thực tiễn của việc kiểm tra đánh giá kết quả học
tập của học sinh ở nhà trường phổ thông.
+ Cơ sở lý luận về phương pháp soạn thảo, phân tích hệ thống câu hỏi
trắc nghiệm khách quan.
+ Nội dung, mục tiêu chương trình sách giáo khoa Đại Số và Giải Tích
11 nâng cao.
V. Phạm vi nghiên cứu
Do thời gian cho phép trong khuôn khổ một khoá luận và khả năng có
hạn, tôi chỉ nghiên cứu hệ thống các câu hỏi trắc nghiệm khách quan. Xây
dựng một số đề kiểm tra trắc nghiệm khách quan của môn Đại Số và Giải Tích
11 nâng cao và thực nghiệm sư phạm để đánh giá đề kiểm tra đó.
VI. Phương pháp nghiên cứu
+ Nghiên cứu những tài liệu về lý luận dạy học.

+ Nghiên cứu những tài liệu về đổi mới phương pháp dạy học và kiểm
tra đánh giá.
+ Nghiên cứu những tài liệu về phương pháp trắc nghiệm khách quan.
+ Nghiên cứu sách giáo khoa Đại Số và Giải Tích 11 nâng cao và các
sách tham khảo có liên quan.
+ Thực nghiệm sư phạm.
6
Chương I
KIỂM TRA ĐÁNH GIÁ TRONG DẠY HỌC
Ở TRƯỜNG PHỔ THÔNG
1.1. Cơ sở lý luận của kiểm tra đánh giá trong dạy học
1.1.1. Khái niệm của kiểm tra đánh giá
Kiểm tra là khâu đầu tiên của quá trình đánh giá, nó được xem là
phương tiện và hình thức của đánh giá. Hoạt động kiểm tra cung cấp những
thông tin, những dữ liệu làm cơ sở cho việc đánh giá.
Đánh giá là xem xét mức độ phù hợp của một tập hợp các thông tin thu
được với một tập hợp các tiêu chí thích hợp với mục tiêu đã xác định nhằm đưa
ra một quyết định theo một mục đích nào đó.
Đánh giá trong giáo dục là quá trình thu thập và xử lý kịp thời có hệ
thống thông tin về hiện trạng, khả năng hay nguyên nhân của chất lượng và
hiệu quả giáo dục căn cứ vào mục tiêu dạy học, mục tiêu đào tạo làm cơ sở cho
những chủ trương, biện pháp và hành động tiếp theo.
Đánh giá kết quả học tập là quá trình thu thập và xử lý thông tin về trình
độ, khả năng thực hiện mục tiêu học tập của học sinh, về tác động và nguyên
nhân của tình hình đó nhằm tạo cơ sở cho những quyết định sư phạm của giáo
viên, nhà trường và cho bản thân học sinh để họ học tập ngày một tiến bộ hơn.
Trong đánh giá có 2 loại: Đánh giá bên trong và đánh giá bên ngoài.
- Đánh giá bên trong còn được gọi là tự đánh giá, là công việc của
chính bản thân người học, tự xem xét lại công việc, tự mình thu thập thông tin
và đánh giá hiệu quả công việc học tập của chính bản thân mình so với mục

tiêu mà môn học đã đề ra, tự các em tìm ra nguyên nhân dẫn đến sai lầm của
mình. Trong lý luận dạy học đã chứng tỏ rằng hiệu quả của hoạt động dạy học
chỉ có thể được nâng cao nếu bản thân học sinh có khả năng tự đánh giá kết
quả học tập của mình hoặc đánh giá kết quả học tập của nhau.
7
- Đánh giá bên ngoài là sự khảo sát của các nhà giáo dục ở bên ngoài
bản thân người học nhưng am hiểu lĩnh vực chuyên môn, am hiểu về giáo dục
phổ thông nhằm xem xét, đánh giá chất lượng và hiệu quả việc học tập của bản
thân học sinh dựa trên các mục tiêu đã đề ra của học phần hay giáo trình đó.
Kiểm tra đánh giá (KTĐG) là quá trình xác định mục đích, yêu cầu nội
dung, lựa chọn phương pháp, tiến hành kiểm tra, tập hợp số liệu chứng cứ để
giải thích và sử dụng những thông tin nhằm tăng cường việc học tập và phát
triển tư duy.
KTĐG là một quá trình gồm hai công việc có nội dung khác nhau nhưng
chúng có mối quan hệ mật thiết với nhau, đang xen với nhau một cách thứ tự
nhằm đánh giá kết quả học tập của học sinh. Đối tượng của kiểm tra đánh giá
kết quả học tập là kiến thức, kỹ năng kỹ xảo của học sinh, ở các mức độ nhận
biết, thông hiểu và vận dụng, qua đó giáo viên và học sinh biết được mức độ
bền vững kiến thức đã được tiếp thu và tự điều chỉnh quá trình học cho phù
hợp, cũng như biết được mối quan hệ giữa tri thức và thực tế đời sống, kỹ năng
ứng dụng vào thực tiễn. Muốn đánh giá thông thường phải qua kiểm tra để từ
đó có cơ sở nhận xét. Tuy nhiên cũng có kiểm tra không đánh giá mà chỉ với
mục đích là theo dõi quá trình học tập và nghiên cứu.
Tóm lại KTĐG là một khâu hết sức quan trọng trong quá trình dạy học.
Nếu biết lựa chọn và phối hợp các phương pháp kiểm tra đánh giá một cách
thích hợp thì sẽ có tác dụng tích cực đến ý thức và thái độ học tập của học sinh.
1.1.2. Chức năng của KTĐG trong giáo dục
- Chức năng kiểm tra: Là chức năng cơ bản nhằm phát hiện thực trạng
về kiến thức, kỹ năng và thái độ của học sinh, xem xét trình độ đạt được và khả
năng tiếp tục học tập vươn lên của học sinh. Đồng thời nó còn kiểm tra hiệu

quả hoạt động của công tác giáo dục.
- Chức năng điều chỉnh: Thông qua những nguồn thông tin thu được về
quá trình giáo dục chúng ta có biện pháp hữu hiệu để điều chỉnh quá trình dạy
8
và học sao cho thích hợp nhất, phù hợp với tình hình thực tiễn cũng như xu
hướng chung của khu vực và thế giới.
- Chức năng dạy học: Đây là một trong những khâu quan trọng của quá
trình giáo dục. Thông qua KTĐG giúp cho giáo viên và học sinh thấy được
những ưu nhược điểm của mình trong hoạt động dạy và học. Từ đó có biện
pháp khắc phục những mặt yếu, phát huy hơn nữa những mặt mạnh của mình.
Đánh giá còn góp phần quan trọng trong việc tạo cho học sinh tinh thần hăng
say hứng thú học tập, ý thức vươn lên trong học tập và cuộc sống.
Ba chức năng này có mối liên quan mật thiết với nhau, phối hợp với
nhau nhằm góp phần giúp quá trình dạy và học ngày càng hiệu quả hơn.
1.1.3. Yêu cầu sư phạm của việc KTĐG
Để KTĐG có hiệu quả cần phải đảm bảo các yêu cầu:
 Phải khách quan
Hoạt động KTĐG kết quả học tập của học sinh phải được thực hiện một
cách khách quan và chính xác tới mức tối đa có thể được, tạo điều kiện để mỗi
học sinh bộc lộ thực chất khả năng và trình độ của mình, ngăn chặn mọi biểu
hiện thiếu trung thực trong KTĐG. Tính khách quan trong KTĐG rất quan
trọng, nó là một yêu cầu đòi hỏi của xã hội đối với chất lượng giáo dục, đánh
giá khách quan còn tạo ra tâm lý tích cực cho đối tượng được đánh giá, động
viên đối tượng được đánh giá vươn lên.
Để đánh giá được khách quan trước hết đòi hỏi người giáo viên phải có
nhận thức đúng về tầm quan trọng của tính khách quan trong KTĐG, đồng thời
phải có thái độ khách quan, trung thực, chí công vô tư, không có thái độ tuỳ
tiện, thành kiến. Thành tích học tập của học sinh phải được đánh giá đúng,
công bằng, phù hợp với những tri thức mà học sinh chiếm lĩnh được. Hoạt
động KTĐG phải phản ánh chính xác kết quả học tập, rèn luyện, tu dưỡng,

những tiến bộ cũng như những thiếu sót hạn chế của học sinh.
9
 Phải thường xuyên và hệ thống
KTĐG phải được tiến hành một cách thường xuyên, có hệ thống và theo
kế hoạch. Việc tiếp nhận và hệ thống hoá các tri thức hoàn toàn có thể được
thực hiện ngay ở trên lớp. Do đó kiểm tra đánh giá có thể được tiến hành
thường xuyên sau một bài hay một vấn đề nào đó vừa lên lớp.
Đánh giá một cách thường xuyên và có hệ thống sẽ giúp cho giáo viên
cũng như các ban ngành giáo dục có được những thông tin đầy đủ, rõ ràng và
chính xác, tạo cơ sở để kiểm tra đánh giá một cách toàn diện và có những điều
chỉnh kịp thời.
 Phải toàn diện
KTĐG phải đảm bảo tính toàn diện, phải đầy đủ các mặt, các khía cạnh
cần đánh giá theo mục tiêu đã đề ra, không chỉ về mặt số lượng mà cả về chất
lượng, không chỉ về mặt tri thức mà cả về mặt kỹ năng và thái độ.
Có thể sử dụng kết hợp các hình thức công cụ đánh giá khác nhau để có
thể thu thập được thông tin một cách chính xác, đa dạng và toàn diện.
Đánh giá một cách toàn diện giúp giáo viên có cách nhìn chính xác đầy
đủ và khách quan thực trạng giảng dạy, học tập và thái độ của học sinh từ đó có
cách nhìn toàn diện hơn về giáo dục.
 Phải công khai
Đánh giá phải được tiến hành công khai, kết quả phải được công bố kịp
thời để mỗi học sinh có thể tự đánh giá, xếp hạng trong tập thể, để tập thể học
sinh hiểu biết lẫn nhau, học tập giúp đỡ lẫn nhau.
 Phải đảm bảo tính phát triển
Dưới sự tác động của những yếu tố bên trong cũng như những tác động
bên ngoài, năng lực tiếp nhận, khả năng tư duy sáng tạo của học sinh luôn vận
động và phát triển. Do đó giáo viên phải luôn xem xét kịp thời, phát hiện và
đánh giá được những động lực phát triển, những nhân tố mới. Từ đó tạo ra
những điều kiện thúc đẩy nhân tố mới tích cực phát triển, đồng thời hạn chế

những mặt tiêu cực.
10
1.1.4. Nguyên tắc chung của việc KTĐG
- Để KTĐG có hiệu quả, điều kiện tiên quyết là phải xác đinh rõ mục
tiêu KTĐG là gì, đối tượng KTĐG là những ai?
- Quy trình kiểm tra đánh giá phải phù hợp với mục tiêu được đặt ra.
- Cần phải tiến hành đồng thời nhiều hình thức để kết quả KTĐG có giá
trị tổng hợp và tổng quát nhất.
- Giáo viên phải biết rõ những hạn chế của từng công cụ đánh giá để sử
dụng cho đúng và có hiệu quả nhất.
1.1.5. Các phương pháp kiểm tra đánh giá
 Phương pháp quan sát
Phương pháp này rất thuận lợi cho việc thu thập dữ kiện cần thiết cho
việc đánh giá một đối tượng hay một vấn đề nào đó. Phương pháp này có thể
tiến hành ở mọi lúc mọi nơi. Khi tiến hành quan sát phải chú ý ghi chép cẩn
thận, có hệ thống và khoa học để khi sử dụng cho kết quả chính xác, khách
quan.
 Phương pháp trắc nghiệm tự luận, trắc nghiệm khách quan
Phương pháp này thường dùng để thăm dò một số đặc điểm năng lực trí
tuệ của học sinh để kiểm tra đánh giá một số tri thức, kỹ năng kỹ xảo, thái độ
của học sinh. Đây là phương pháp được sử dụng phổ biến nhất ở các trường
phổ thông.
 Phương pháp tự kiểm tra đánh giá
Với phương pháp này học sinh có thể tự kiểm tra đánh giá mức độ nhận
thức, khả năng lĩnh hội tri thức, kỹ năng kỹ xảo của mình so với yêu cầu của
môn học sau mỗi bài, mỗi chương, mỗi phần thông qua kiểm tra. Đồng thời
phương pháp này cũng giúp giáo viên tự kiểm tra đánh giá những mặt tích cực
hay hạn chế của bản thân để khắc phục góp phần nâng cao trình độ chuyên
môn cũng như năng lực sư phạm của mình.
11

1.1.6. Các hình thức kiểm tra đánh giá
 Có hai hình thức kiểm tra chủ yếu
- Kiểm tra thường xuyên: Kiểm tra mười lăm phút, kiểm tra miệng, giải
toán nhanh.
- Kiểm tra định kỳ: Kiểm tra một tiết, cuối chương, học kỳ, năm học, kỳ
thi tốt nghiệp, đại học.
 Các hình thức đánh giá
- Thường xuyên: Đánh giá kết quả học tập trong từng tiết học hay một
vấn đề.
- Định kỳ: Kiểm tra kết quả học tập cuối chương, học kỳ, năm học.
- Thi và xét tốt nghiệp.
- Thi tuyển: Đánh giá để chọn năng lực vào các lớp năng khiếu toán, đại
học.
- Thi học sinh giỏi: Đánh giá năng khiếu học toán.
1.1.7. Ý nghĩa của việc kiểm tra đánh giá
KTĐG có ý nghĩa rất quan trọng trong việc định hướng giảng dạy và
học tập của học sinh, bất kỳ một loại hoạt động nào cũng đều có một mục đích
nhất định, nhằm đem lại một kết quả có hiệu quả cao nhất, hoạt động KTĐG
cũng không ngoài mục đích đó. Hoạt động KTĐG là hoạt động nhằm xem xét
hoạt động dạy học đã đem lại kết quả cao nhất chưa, học sinh đã lĩnh hội được
những gì?
Hoạt động KTĐG còn góp phần trong quá trình hình thành thế giới quan
khoa học, giáo dục tư tưởng, đạo đức và những phẩm chất khác cho học sinh
theo mục tiêu. Trong quá trình học tập thông qua các câu hỏi thảo luận, các câu
trả lời dưới sự dẫn dắt của giáo viên đã giúp cho học sinh mở cánh cửa khám
phá thế giới bên ngoài, giúp học sinh thấy được mối quan hệ giữa con người và
xã hội, vũ trụ, thế giới tự nhiên, và bao nhiêu điều kì thú khác. Từ đó giúp học
sinh hình thành thế giới quan duy vật biện chứng.
12
Thông qua hoạt động KTĐG giúp học sinh nắm vững và củng cố những

kiến thức cơ bản đã học, rèn luyện kỹ năng kỹ xảo cho học sinh. Đồng thời
KTĐG còn hình thành cho học sinh thói quen tự học, tự nghiên cứu trong học
tập, biết phương pháp nhận thức và tiếp thu tri thức, biết cách sử dụng các
phương tiện. Đặc biệt là biết ứng dụng các tri thức đã học vào giải quyết vấn
đề, biết cách trình bày, diễn đạt những kiến thức bằng ngôn ngữ của chính
mình. Qua đó học sinh hoàn thiện tri thức, hình thành thái độ và phương pháp
tự học.
Đối với giáo viên, thông qua hoạt động KTĐG có thể kiểm tra được
năng lực và trình độ của học sinh để phân loại, tuyển chọn và hướng phương
pháp học cho học sinh. Hoạt động tự kiểm tra đánh giá cũng giúp giáo viên tự
đánh giá vốn kiến thức năng lực chuyên môn, năng lực sư phạm, nhân cách và
uy tín để ngày càng hoàn thiện bản thân mình hơn.
Kết quả của quá trình KTĐG sẽ chuyển đến cho các cấp quản lý giáo
dục, nhà trường, giáo viên, phụ huynh, học sinh những thông tin chính xác về
chất lượng dạy và học. Đây là một khâu quan trọng vì thông tin phải chính xác
thì sự tác động trở lại mới đạt hiệu quả.
Tóm lại, việc đánh giá kết quả học tập có ý nghĩa về nhiều mặt đối với
nhiều đối tượng, trong đó quan trọng nhất là đối với bản thân học sinh.
Sơ đồ:
13
Ý
nghĩa
của
kiểm
tra
đánh
giá
Giáo viên
Học sinh
Nhà quản lý

Điều chỉnh hoạt động dạy, có biện pháp giúp đỡ
Điều chỉnh hoạt động học, khẳng định năng lực
Điều chỉnh hoạt động dạy - học ở đơn vị mình
1.2. Cơ sở thực tiễn của việc kiểm tra đánh giá
1.2.1. Thực trạng hoạt động kiểm tra đánh giá ở trường phổ thông
Hoạt động kiểm tra đánh giá ở nhà trường phổ thông hiện nay có những
ưu điểm và hạn chế sau:
 Ưu điểm
- Đã có sự kết hợp giữa các loại hình đánh giá để phân loại trình độ kiến
thức, kỹ năng của học sinh.
- Tổ chức theo đơn vị lớp học trong một khoảng thời gian nhất định (15
phút, 1 tiết).
- Các loại hình đánh giá như kiểm tra miệng, mười lăm phút, một tiết,
giải bài tập nhanh, kiểm tra củng cố sau mỗi tiết học,… đã được giáo viên sử
dụng một cách tích cực, thường xuyên và có hiệu quả.
- Nội dung đánh giá đã chú trọng đến cả kiến thức, kỹ năng thái độ của
học sinh và đã phần nào phản ánh được chất lượng dạy và học ở trường phổ
thông.
 Hạn chế
- Hình thức đánh giá còn nghèo nàn, phiếm diện, thiếu khách quan, thiếu
sự kết hợp giữa các phương pháp kiểm tra đánh giá hiện đại với truyền thống,
giữa lý thuyết và bài tập.
- Giáo viên chủ yếu dựa vào điểm số để đánh giá, phân loại học sinh.
- Chưa chú trọng đến đánh giá thái độ của học sinh, giáo viên thường
quan sát học sinh trong giờ dạy nhưng với mục đích là quản lý lớp chứ không
phải đánh giá sự chú ý, tình cảm, tính chủ động, tư duy phê phán của học sinh.
- Đa số giáo viên chưa chú trọng đến việc nhận xét những ưu nhược
điểm của học sinh để học sinh nhận ra và sửa chữa khắc phục.
- Giáo viên chưa hướng dẫn cho học sinh phát triển kỹ năng tự đánh giá
để điều chỉnh cách học, phương pháp học phù hợp và hiệu quả hơn.

14
- Thông thường giáo viên là người ra đề, chấm điểm, và đánh giá kết quả
của học sinh. Vai trò tự lực, chủ động của học sinh trong việc kiểm tra đánh giá
và đánh giá lẫn nhau vẫn chưa được coi trọng. Chỉ khi nào học sinh có khả
năng tự KTĐG được mức độ chiếm lĩnh tri thức, kỹ năng kỹ xảo của mình, tự
mình tìm ra nguyên nhân dẫn đến sai lầm thì lúc đó hiệu quả của hoạt động dạy
và học mới được nâng cao.
- Kết quả học tập của học sinh là kết quả của cả một quá trình nhưng
thông thường giáo viên chỉ căn cứ vào kết quả cuối cùng để đánh giá nhận xét,
do đó chưa đánh giá được một cách chính xác và toàn diện.
- Ở các trường phổ thông hiện nay kiểm tra đánh giá chỉ chú ý đến kỹ
năng tái hiện tri thức, khả năng ghi nhớ, mà xem nhẹ kỹ năng thực hành và vận
dụng vào thực tiễn cuộc sống, chưa chú trọng đúng mức yêu cầu phát triển tư
duy sáng tạo của học sinh.
- Chưa có một quy trình kiểm tra đánh giá có tính khoa học. Thiếu một
hệ thống trắc nghiệm được xây dựng đồng bộ, có ý đồ sư phạm rõ rệt và có căn
cứ khoa học chính xác.
Tóm lại, việc kiểm tra đánh giá hiện nay ở nhà trường phổ thông còn
nhiều hạn chế bất cập, đòi hỏi cần phải có những đổi mới.
1.2.2. Những xu hướng mới trong KTĐG môn toán
Cùng với việc đổi mới nội dung chương trình, phương pháp giảng dạy,
KTĐG cũng sẽ có những thay đổi theo các yêu cầu sau:
+ Phải đánh giá chính xác và toàn diện năng lực toán học của học sinh.
+ Tạo cho học sinh nhiều cơ hội để bộc lộ khả năng cũng như niềm say
mê toán học của mình.
+ Quan tâm hơn đến từng cá nhân, dùng đánh giá để so sánh khả năng
của mỗi học sinh với các tiêu chí đặt ra chứ không phải là so sánh các học sinh
với nhau.
+ Quá trình đánh giá phải công khai, liên tục và quay vòng, đánh giá cần
dựa trên nhiều nguồn chứng cứ khác nhau.

15
KTĐG phải được đổi mới một cách toàn diện và đồng bộ trên tất cả các mặt
sau:
 Đổi mới mục đích đánh giá
Xác định kết quả học tập của các môn ở từng kỳ, từng giai đoạn của quá
trình học tập theo từng lĩnh vực nội dung môn học qui định để xác định mức độ
cần đạt được của học sinh so với mục tiêu đã đề ra.
Cung cấp những thông tin quan trọng và chính xác về quá trình học tập
và giảng dạy cho học sinh, giáo viên cùng các ban ngành giáo dục để có những
điều chỉnh đúng đắn và kịp thời tác động đến việc dạy và học các môn học
nhằm nâng cao hiệu quả dạy và học.
 Đổi mới nội dung đánh giá
Nội dung đánh giá phải bao quát đầy đủ những nội dung học tập của
môn học, phải dựa trên những mục tiêu cụ thể của chương trình để đánh giá
đầy đủ kiến thức, các kỹ năng kỹ xảo cần thiết.
Đề kiểm tra và đề thi phải thể hiện đúng mức độ, bảo đảm sự phân hoá
trình độ của học sinh qua các kiến thức kỹ năng, thái độ học tập mà trình độ
chuẩn quy định và phải tương thích với thời lượng, thời điểm đánh giá.
Đề kiểm tra phải đánh giá được các mức độ thông hiểu, vận dụng, đặc
biệt là khả năng tư duy toán học, các khả năng bậc cao như phát hiện giải quyết
vấn đề.
 Đổi mới cách đánh giá
Giáo viên phải tính đến việc đánh giá kết quả bài học ngay từ khi soạn
bài nhằm giúp học sinh và bản thân giáo viên kịp thời nắm được những thông
tin cần thiết để điều chỉnh hoạt động dạy và học có hiệu quả.
Không chỉ đánh giá bằng điểm số mà phải chú trọng việc đánh giá bằng
lời nhận xét cụ thể, hướng dẫn học sinh phát triển kỹ năng tự đánh giá để giúp
học sinh nhận ra những ưu khuyết điểm của mình nhằm kịp thời điều chỉnh.
16
Đối tượng còn được đánh giá bởi cá nhân, tập thể, thầy giáo và bạn bè

thông qua các hình thức đối thoại, trò chuyện giữa thầy và trò, giữa trò và trò,
không chỉ ở giờ lên lớp mà còn trong các buổi ngoại khoá, các hội thi hay các
buổi thực hành ngoài trời.
 Đổi mới công cụ đánh giá
Công cụ đánh giá được sử dụng chủ yếu ở các trường phổ thông là các
đề kiểm tra trắc nghiệm hay trắc nghiệm kết hợp với tự luận, vở bài tập,
chuyên đề xêmina, các bài thực hành thường xuyên hoặc định kỳ.
Khi soạn và sử dụng các câu hỏi, bài tập để kiểm tra đánh giá cần phải
phù hợp với chương trình và chuẩn kiến thức kỹ năng quy định, sát với trình độ
của học sinh, phải được phát biểu chính xác rõ ràng. Tuy nhiên cũng cần phải
có cả câu hỏi, bài tập đòi hỏi học sinh phải tư duy sáng tạo.
17
Chương II
TRẮC NGHIỆM KHÁCH QUAN TRONG VIỆC KIỂM TRA
ĐÁNH GIÁ KẾT QUẢ HỌC TẬP CỦA HỌC SINH
2.1. Khái niệm và phân loại trắc nghiệm
2.1.1. Khái niệm
Trắc nghiệm theo nghĩa rộng là một hoạt động được thực hiện để đo
lường năng lực của các đối tượng nào đó nhằm những mục đích xác định
(Quang An, Trắc nghiệm khách quan và tuyển sinh đại học 1997 bộ GD-ĐT).
2.1.2. Phân loại
Có 2 loại trắc nghiệm
Trắc nghiệm dựa trên nhóm chuẩn: Là đánh giá khả năng của học sinh
theo chuẩn đã được xây dựng, bộ công cụ này có tính quốc gia do các chuyên
gia biên soạn.
Trắc nghiệm dựa theo tiêu chí: Là trắc nghiệm được xây dựng nhằm cho
phép giải thích thành tích của người được khảo sát liên quan đến một tập hợp
các khả năng đã được xác định rõ ràng.
Nếu phân loại theo hình thức thì cũng có 2 loại
Trắc nghiệm khách quan (TNKQ).

Trắc nghiệm tự luận.
2.2. Trắc nghiệm khách quan
Ở các trường phổ thông hiện nay trắc nghiệm khách quan đang dần trở
thành một công cụ kiểm tra đánh giá phổ biến bởi nó có nhiều ưu điểm, phù
hợp với mục tiêu đổi mới giáo dục ở nước ta hiện nay.
 Ưu điểm
- Chấm điểm nhanh, chính xác và khách quan, ít bị sai sót do lỗi kỹ
thuật.
- KTĐG được trên diện rộng kiến thức trong thời gian ngắn.
18
- Tiết kiệm được thời gian và có khi tiết kiệm được cả kinh phí.
- Có thể kiểm tra một cách có hệ thống, toàn diện kiến thức và kỹ năng
của học sinh, chống tình trạng học tủ, học lệch.
- Đánh giá được các mức độ: Nhận biết, thông hiểu và vận dụng, đặc
biệt thuận lợi để đánh giá các kiến thức cơ bản.
- Khả năng tự KTĐG của học sinh được phát huy.
- Rèn luyện kỹ năng nhanh nhẹn, phát triển tư duy học sinh.
- Có sự hỗ trợ của các phương tiện máy móc hiện đại trong chấm bài và
phân tích kết quả kiểm tra.
Bên cạnh những ưu điểm trên thì TNKQ cũng có một số nhược điểm cần
khắc phục để TNKQ thực sự trở thành một công cụ KTĐG có hiệu quả.
 Nhược điểm
- Việc soạn câu hỏi TNKQ đúng chuẩn, hay là rất khó khăn và tốn nhiều
thời gian.
- Rất khó đánh giá được khả năng diễn đạt, khả năng trình bày, và khả
năng tư duy sáng tạo của học sinh.
- Khó đánh giá được các mức độ nhận thức bậc cao như phân tích, tổng
hợp, khái quát.
- Nếu không có cách kiểm tra thích hợp như xáo các câu trong một đề
hay có nhiều đề,… thì dễ dẫn đến học sinh nhìn bài nhau một cách dễ dàng.

2.2.1. Các dạng câu hỏi trắc nghiệm khách quan
Câu hỏi trắc nghiệm khách quan là loại câu hỏi mà một số phương án trả
lời đã được cho sẵn, trong đó có duy nhất một câu trả lời đúng. Nếu học sinh
phải viết câu trả lời thì đó là những thông tin ngắn gọn và duy nhất đúng. Có
các dạng câu hỏi trắc nghiệm khách quan sau:
Câu hỏi dạng đúng - sai
Là dạng câu hỏi được trình bày dưới dạng một câu khẳng định mà học
sinh phải trả lời bằng cách lựa chọn Đúng hay Sai.
19
 Ưu điểm
- Câu hỏi loại này tương đối dễ viết, giáo viên có thể soạn nhiều câu
trong khoảng thời gian ngắn.
- Chấm điểm nhanh và dễ dàng.
- Ít phạm những lỗi về mặt kỹ thuật hơn so với các loại câu hỏi trắc
nghiệm khác.
 Nhược điểm
- Xác suất chọn phương án đúng do đoán mò cao.
- Có độ tin cậy thấp.
- Khi soạn thảo nếu dùng nhiều câu nguyên văn trong sách giáo khoa sẽ
khuyến khích học sinh học thuộc lòng một cách máy móc.
- Khó phát hiện ra những yếu điểm của học sinh.
 Phạm vi sử dụng
- Nên sử dụng hạn chế.
- Chỉ thích hợp khi cần kiểm tra những kiến thức có tính chất gợi nhớ,
tổng quát như khái niệm, định nghĩa, công thức hoặc kiểm tra vấn đáp nhanh.
- Thường được sử dụng khi câu hỏi nhiều lựa chọn không đủ phương án
nhiễu.
 Lưu ý khi soạn câu hỏi TNKQ dạng đúng - sai
- Các câu khẳng định phải có tính đúng sai chắc chắn.
- Sử dụng từ ngữ chính xác, ngôn ngữ rõ ràng, mạch lạc.

- Mỗi câu chỉ nên diễn tả một ý độc nhất, tránh tình trạng một câu có
nhiều ý hoặc nhiều câu có chung một ý.
- Nên viết những câu yêu cầu học sinh phải vận dụng kiến thức đã học,
tránh trích những câu nguyên văn từ sách giáo khoa vì làm như vậy sẽ khuyến
khích học sinh học vẹt.
- Nên biên soạn những câu khẳng định đúng sai sao cho một học sinh
trung bình không thể nhận ra ngay là đúng hay sai.
20
- Không nên bố trí số câu đúng bằng số câu sai hay sắp đặt các câu đúng
theo một trật tự có tính chu kì trong một bài trắc nghiệm.
Câu hỏi dạng ghép đôi
Loại câu hỏi này được thiết kế thành hai cột: cột trái gồm hai hay nhiều
ý, mỗi ý là một câu hỏi hoặc một câu chưa hoàn chỉnh và cột phải cũng gồm
nhiều ý, mỗi ý là phần trả lời cho câu hỏi hoặc phần bổ sung cho câu chưa hoàn
chỉnh ở cột trái.
 Ưu điểm
- Trong một thời gian ngắn giáo viên có thể kiểm tra được nhiều nội
dung.
- Phù hợp khi sử dụng để kiểm tra một nhóm kiến thức liên quan, gần
gủi, những định nghĩa, quy tắc, định lí hay lập những mối tương quan.
- Thích hợp để đo các mức độ tư duy khác nhau.
- Hạn chế được khả năng đoán mò nếu số lượng ý ở hai cột khác nhau.
 Nhược điểm
- Học sinh có thể đoán ra câu trả lời bằng phương pháp loại trừ.
- Nếu số ý trong mỗi cột quá dài, học sinh sẽ mất nhiều thời gian đọc tất
cả cột mỗi lần muốn ghép đôi.
 Phạm vi sử dụng
Nên sử dụng hạn chế, chủ yếu là để kiểm tra những kiến thức cơ bản
cuối chương hay một chủ đề nào đó.
 Lưu ý khi soạn thảo

- Số lựa chọn ở cột phải nên nhiều hơn số câu cần ghép ở cột trái nhằm
tăng độ tin cậy, tránh tạo nên việc ghép đôi theo kiểu một - một.
- Số ý trong mỗi cột không nên quá dài làm học sinh mất quá nhiều thời
gian để đọc và lựa chọn.
- Thứ tự các câu hỏi và câu trả lời tương ứng không nên trùng khớp
nhau, mỗi câu trả lời chỉ được sử dụng một lần hoặc không sử dụng lần nào.
21
Câu hỏi dạng điền khuyết
TNKQ loại điền khuyết thường là những mệnh đề hay những phát biểu
trong đó có những chữ hoặc câu quan trọng được chừa trống để học sinh trả
lời vào. Nếu trình bày loại này dưới dạng câu hỏi, chúng ta gọi là câu trả lời
ngắn. Nếu được trình bày dưới dạng một phát biểu chưa đầy đủ thì được gọi là
câu điền khuyết.
 Ưu điểm
- Với loại câu hỏi này học sinh có cơ hội trình bày những câu trả lời hay,
độc đáo, phát huy khả năng sáng tạo của học sinh.
- Học sinh không thể đoán mò mà phải nhớ và nghĩ ra câu trả lời.
- Loại câu hỏi này giúp luyện trí nhớ cho học sinh khi học.
 Nhược điểm
- Thiếu yếu tố khách quan khi chấm điểm.
- Giáo viên có thể hiểu sai, đánh giá thấp giá trị của các câu trả lời sáng
tạo, khác với ý của giáo viên nhưng vẫn hợp lý.
- Mất nhiều thời gian chấm điểm vì các khoảng trống nằm rãi rác khắp
nơi chứ không được sắp xếp thành cột.
 Phạm vi sử dụng
Sử dụng hạn chế.
 Lưu ý khi soạn
- Chỉ sử dụng dạng điền khuyết khi câu trả lời ngắn, có tiêu chuẩn đúng,
sai rõ ràng và các từ, cụm từ, kí hiệu, giá trị,… cần điền phải là đơn trị.
- Khi soạn câu hỏi dạng này nên tránh lấy nguyên văn những câu từ sách

giáo khoa ra để khỏi khuyến khích học sinh học thuộc lòng.
- Chỉ nên chừa trống những từ quan trọng.
- Trong mỗi câu chỉ nên có một đến hai chỗ trống, độ dài khoảng trống
phải bằng nhau để học sinh không đoán được từ phải điền dài hay ngắn.
22
Câu hỏi dạng nhiều lựa chọn
Đây là dạng câu hỏi TNKQ khó viết nhất nhưng lại cho độ tin cậy cao
nhất. Dạng câu hỏi này được trình bày dưới hình thức gồm hai phần: Phần dẫn
thường là một câu hỏi hay một câu bỏ lửng và phần lựa chọn gồm bốn hay năm
phương án trả lời cho sẵn để học sinh lựa chọn phương án trả lời đúng nhất hay
hợp lý nhất. Những phương án trả lời không đúng được gọi là phương án
nhiễu.
 Ưu điểm
- Được sử dụng rộng rãi nhất trong các hình thức trắc nghiệm khách
quan.
- Có độ giá trị và độ tin cậy cao.
- Trong cùng một thời gian chúng ta có thể kiểm tra được một phạm vi
rộng về kiến thức của học sinh so với các loại trắc nghiệm khác.
- Đảm bảo tính khách quan trong khi chấm điểm.
- Xác suất chọn phương án đúng do ngẫu nhiên không cao.
- Có thể phân tích được tính chất của mỗi câu hỏi, xác định được những
câu không có giá trị đối với các mục tiêu cần đánh giá để chỉnh sửa.
 Nhược điểm
- Để soạn một câu hỏi hay và đúng chuẩn rất khó và tốn nhiều thời gian.
- Khó đo được khả năng trình bày suy nghĩ, cách diễn đạt, tư duy logic
của học sinh.
- Nếu không có hình thức kiểm tra thích hợp thì học sinh rất dễ nhìn bài
nhau.
 Phạm vi sử dụng
Có thể sử dụng cho mọi loại hình kiểm tra đánh giá, đặc biệt là rất thích

hợp để đánh giá phân loại học sinh.
 Lưu ý khi soạn câu hỏi TNKQ nhiều lựa chọn
• Đối với phần dẫn
- Phần dẫn phải có nội dung rõ ràng, ngắn gọn thể hiện được vấn đề gì
23
muốn hỏi và không nên đưa vào nhiều ý trong một câu dẫn hoặc trong các lựa
chọn vì điều này sẽ khiến học sinh khó lựa chọn được đáp án.
- Nên hạn chế dùng những câu dẫn dạng phủ định, nếu dùng thì phải
gạch dưới hoặc in đậm chữ “không” để nhắc nhở học sinh thận trọng khi trả
lời.
- Đảm bảo cho câu dẫn nối liền với mọi phương án chọn theo cùng một
cấu trúc ngữ pháp.
• Đối với phần lựa chọn
- Mỗi câu chỉ nên có từ bốn đến năm phương án lựa chọn trong đó chỉ
có duy nhất một phương án đúng. Các phương án nhiễu phải được thiết kế sao
cho trông có vẻ hợp lý, có sức thu hút đối với những học sinh không hiểu kĩ
bài. Do đó để xây dựng được các phương án nhiễu thật tốt chúng ta nên dựa
vào các sai lầm phổ biến của học sinh hay các trường hợp khái quát hoá không
đầy đủ. Nếu có quá ít học sinh chọn phương án nhiễu hoặc học sinh dễ dàng
nhận ra thì phương án nhiễu đó không đáp ứng được yêu cầu.
- Chỉ có duy nhất một đáp án đúng.
- Các câu lựa chọn phải được viết theo cùng một lối hành văn, cùng một
cấu trúc, chỉ khác nhau về phần nội dung.
- Nên sắp xếp các phương án đúng theo một thứ tự ngẫu nhiên, tránh
một vị trí ưu tiên nào đó.
- Đối với các câu hỏi có dùng hình vẽ, nên tránh sử dụng các kí hiệu đã
dùng trong hình vẽ, hình vẽ không nên quá phức tạp làm rối học sinh.
- Tránh lạm dụng các phương án “tất cả đều đúng”, “tất cả đều sai” vì
học sinh dễ sử dụng phương pháp loại suy.
 Đối với phương án “tất cả đều sai”

Chỉ dùng khi các phương án trả lời có tính đúng sai một cách chắc chắn.
Thích hợp sử dụng đối với những câu hỏi đòi hỏi sự tính toán với đáp số cho
sẵn hoặc số sai lầm của học sinh quá ít.
24
 Đối với phương án “tất cả đều đúng”
Phương án này không nên sử dụng vì nếu phương án “tất cả đều đúng”
là phương án đúng thì ba phương án trên cũng đúng. Như vậy ta có đến bốn
phương án đúng.
2.2.2. Quy hoạch một bài trắc nghiệm khách quan
Quy hoạch một bài TNKQ là dự kiến phân bố các phần tử của bài trắc
nghiệm một cách thích hợp theo mục tiêu và nội dung của môn học sao cho có
thể đo lường chính xác nhất khả năng ta muốn đo lường.
Để quy hoạch có hiệu quả, người soạn trắc nghiệm phải đưa ra một số
quyết định trước khi đặt bút viết các câu hỏi trắc nghiệm. Cần khảo sát những
gì ở học sinh? Đặt tầm quan trọng vào những phần nào, mục tiêu nào của môn
học? Cần phải trình bày các câu hỏi dưới hình thức nào cho có hiệu quả nhất?
Mức độ dễ, khó của bài trắc nghiệm như thế nào? Nếu không có dự kiến về
mục đích, nội dung, hình thức của một bài trắc nghiệm khách quan, chúng ta có
thể mắc phải sai lầm là đặt nặng một phần nào đó mà coi nhẹ các phần khác,
số lượng các câu hỏi phân bố không phù hợp, không bao quát hết kiến thức cần
đánh giá,…sẽ làm hạ thấp giá trị đánh giá của bài trắc nghiệm.
 Xác định mục đích của bài TNKQ
Một bài trắc nghiệm có thể có nhiều mục đích khác nhau nhưng bài trắc
nghiệm có hiệu quả nhất khi nó được soạn nhằm phục vụ một mục đích chuyên
biệt nào đó. Nếu bài trắc nghiệm là bài kiểm tra nhằm cho điểm và xếp loại học
sinh thì các câu hỏi phải được soạn thảo sao cho điểm số được phân tán rộng,
như vậy mới phân biệt được học sinh kém, học sinh giỏi. Nhưng nếu bài trắc
nghiệm là một bài kiểm tra thông thường nhằm kiểm tra những hiểu biết tối
thiểu về một phần nào đó của chương trình thì câu hỏi phải làm sao cho hầu hết
học sinh đạt được điểm số tối đa nếu thực sự đã tiếp thu bài học, nhất là về căn

bản, như vậy mới chứng tỏ được sự thành công của giáo viên trong việc giảng
dạy.
25

×