Tải bản đầy đủ (.docx) (25 trang)

Tiểu luận cao học quan niệm và giải pháp đổi mới phương thức lãnh đạo của đảng đối với mặt trận tổ quốc và các đoàn thể nhân dân ở việt nam hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (102.04 KB, 25 trang )

MỤC LỤC
MỞ ĐẦU. ………………………………………………………………...2
NỘI DUNG. ………………………………………………………………3
I. QUAN NIỆM, NỘI DUNG, PHƯƠNG THỨC LÃNH ĐẠO CỦA ĐẢNG
ĐỐI VỚI MẶT TRẬN TỔ QUỐC VÀ CÁC ĐOÀN THỂ NHÂN DÂN Ở
VIỆT NAM. …………………………………………………………………3
1.1. Quan niệm phương thức lãnh đạo của Đảng đối với Mặt trận Tổ quốc và
các đoàn thể nhân dân. ……………………………………………………..3
1.2. Nôi dung và phương thức lãnh đạo của Đảng đối với Mặt trận Tổ quốc
Việt Nam và các đoàn thể nhân dân. ………………………………………...7
II. THỰC TRẠNG SỰ LÃNH ĐẠO CỦA ĐẢNG ĐỐI VỚI MẶT TRẬN
TỔ QUỐC VÀ CÁC ĐOÀN THỂ NHÂN DÂN. ……………………….…11
2.1. Thành tựu về sự lãnh đạo của Đảng đối với hoạt động của Mặt trận Tổ
quốc và các đoàn thể nhân dân. ………………………………………..…..11
2.2. Những hạn chế và nguyên nhân.………………………………….….13
III. NHỮNG GIẢI PHÁP ĐỔI MỚI PHƯƠNG THỨC LÃNH ĐẠO CỦA
ĐẨNG ĐỐI VỚI MẶT TRẬN TỔ QUỐC VIỆT NAM VÀ CÁC ĐOÀN THỂ
NHÂN DÂN. ……………………………………………………………....16
3.1. Đảng tự đổi mới và chỉnh đốn Đảng ngày càng vững mạnh về chính trị,
tư tưởng, tổ chức. ……………………………………………………..……...16
3.2. Nhà nước cần hoàn thiện luật hóa và hoạt động của Mặt trận Tổ quốc và
các đoàn thể nhân dân. ……………………………………………….………17
3.3. Đổi mới, nâng cao chất lượng hoạt động của Mặt trận Tổ quốc và các
đoàn thể nhân d……………………………………….…………………..….17
3.4. Nâng cao chất lượng các định hướng của Đảng đối với các hoạt động của
Mặt trận và đoàn thể nhân dân. …………………………………..………….18
3.5. Xây dựng đội ngũ cán bộ làm công tác Măt trận Tổ quốc và các đoàn thể
nhân dân. ………………………………………………………………….…..18
KẾT LUẬN. ………………………………………………………..………20
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO. ……………………………………21


1


MỞ ĐẦU

Hơn hai mươi năm tiến hành sự nghiệp đổi mới đất nước, phương thức
lãnh đạo của Đảng đối với Mặt trận Tổ quốc và các đồn thể chính trị - xã hội
đã đạt được nhiều thành tựu đáng kể và và có những đổi mới quan trọng, góp
phần thiết thực củng cố, nâng cao vị trí, vai trị và chất lượng  hoạt động của
các tổ chức này, thu hút toàn dân hăng hái tham gia. Tuy nhiên, vẫn tồn tại tình
trạng ở khơng ít nơi, Đảng "làm thay" Mặt trận, đoàn thể, hoặc Mặt trận, đoàn
thể ỷ lại vào cơ quan Đảng, nên thiếu sự chủ động, sáng tạo hiệu quả hoạt động
giảm... Để đẩy mạnh tồn diện  cơng cuộc đổi mới, sớm đưa nước ta ra khỏi
tình trạng kém phát triển, tiếp tục đổi mới phương thức lãnh đạo Đảng đối với
Mặt trận và các đồn thể chính trị - xã hội nhằm phát huy tối đa sức mạnh khối
đại đoàn kết của toàn dân tộc đã, đang và luôn luôn là yêu cầu quan trọng bức
thiết.
Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các đoàn thể nhân dân là một trong
những lực lượng to lớn của cách mạng. Do đó từ ngày thành lập Đảng đến
nay Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng Cộng sản Việt Nam ln ln coi trọng
Mặt trận Tổ quốc và các đồn thể nhân dân, có sự lãnh đạo đúng đắn đối với
Mặt trân Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân nhằm phát huy vai trị của Mặt
trận và các đồn thể nhân dân trong việc củng cố và tăng cường khối đoàn kết
toàn dân xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
Đất nước Việt Nam bước vào thời kỷ mới, thời kỳ đẩy mạnh cơng
nghiệp hóa, hiện đại hóa, thực hiện mục tiêu: dân giàu, nước mạnh, xã hội
công bằng, dân chủ, văn minh, vững bước tiến lên chủ nghĩa xã hội. Vì vậy,
Đảng phải tăng cường và có sự lãnh đạo đúng đắn đối với Mặt trận Tổ quốc
Việt Nam và các đoàn thể nhân dân thì mới có thể tập hợp, vận động, đồn
kết rộng rãi các tầng lớp nhân dân phấn đấu hoàn thành sự nghiệp đẩy mạnh

cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
2


Nhằm góp phần nhận thức đúng đắn hơn về những vấn đề cơ bản của
quá trình lãnh đạo của Đảng đối với Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân
dân, em xin lựa chọn chủ đề "Quan niệm và giải pháp đổi mới phương thức
lãnh đạo của Đảng đối với Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân ở
Việt Nam hiện nay"
Do điều kiện về thời gian, về tài liệu cũng như trình độ hiểu biết vấn đề
của em cịn hạn chế nên khơng tránh khỏi những thiếu sót, rất mong nhận
được những ý kiến đóng góp quý báu từ các thầy cơ để tiểu luận này được
hồn thiện hơn!

3


NỘI DUNG

I. QUAN NIỆM, NỘI DUNG, PHƯƠNG THỨC LÃNH ĐẠO CỦA
ĐẢNG ĐỐI VỚI MẶT TRẬN TỔ QUỐC VÀ CÁC ĐOÀN THỂ NHÂN
DÂN Ở VIỆT NAM.
1.1. Quan niệm phương thức lãnh đạo của Đảng đối với Mặt trận
Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân
1.1.1. Quan niệm về Mặt trận Tổ quốc Việt Nam
Mặt trận Tổ quốc do Đảng Cộng sản Việt Nam và Chủ tịch Hồ Chí
Minh sang lập, trải qua các thời kỳ hoạt động với các tên gọi khác nhau để
thực hiện nhiệm chính trị của từng thời kỳ cách mạng.
Điều 9 Hiến pháp năm 1992 của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt
Nam ghi rõ: “Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức thành viên là cơ sở

chính quyền nhân dân. Mặt trận phát huy truyền thống đoàn kết toàn dân, tăng
cường sự nhất trí về chính trị và tinh thần trong nhân dân, tham gia xây dựng
và củng cố chính quyền nhân dân, cùng Nhà nước chăm lo lợi ích chính đáng
của nhân dân, động viên dân thực hiện quyền làm chủ, nghiêm chỉnh thi hành
Hiến pháp và pháp luật, giám sát hoạt động của cơ quan Nhà nước, đại biểu
dân cử và cán bộ, viên chức Nhà nước.
Trong Chương 1, Điều 1, khoản 1 và 2 Luật Mặt trận Tổ quốc Việt
Nam được Quốc hội khóa X kỳ họp thứ 5 thơng qua và ghi rõ: “Mặt trận Tổ
quốc Việt Nam là tổ chức lien minh chính trị, lien hiệp tự nguyện của tổ chức
chính trị, các tổ chức chính trị xã hội, tổ chức xã hội và các cá nhân tiêu biểu
trong các giai cấp, các tầng lớp xã hội, các dân tộc, các tôn giáo và người Việt
Nam định cư ở nước ngoài.
Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã
hội có ghi rõ: “Mặt trận Tổ quốc Việt Nam là liên minh chính trị của các đoàn
4


thể nhân dân và cá nhân tiêu biểu các giai cấp và tầng lớp xã hội, các dân tộc,
các tôn giáo là cơ sở chính trị của chính quyền nhân dân. Đảng Cộng sản Việt
Nam vừa là thành viên, vừa là người lãnh đạo Mặt trận. Mặt trận hoạt động
theo phương thức hiệp thương dân chủ, phối hợp và thống nhất hành động
giữa các thành viên theo chương trình hành động chung.
Như vậy Mặt trận Tổ quốc Việt Nam có hai đặc trưng cơ bản:
Thứ nhất, đó là một lien minh chính trị của mọi người Việt Nam yêu
nước trong và ngồi nước vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng,
dân chủ, văn minh theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
Thứ hai, có chức năng hiệp thương phối hợp hành động với các tổ chức
đảng và các cơ quan chính quyền, tham gia xây dựng và thực hiện đường lối,
chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, tham gia giới thiệu
nhân sự trong bộ máy quyền lực Nhà nước.

1.1.2. Quan niệm về đoàn thể nhân dân
Đồn thể nhân dân bao gồm: tổ chức chính trị - xã hội và tổ chức xã
hội, là tổ chức của dân, do dân tự nguyện hợp nhau lại thành tổ chức và hoạt
động vì mục đích chung của nhân dân.
Các đoàn thể nhân dân ra đời là do nhu cầu và nguyện vọng của nhân
dân, trước hết là để giúp nhau tương than, tương ái trong khó khăn đời sống
thường ngày, giải bày với nhau những nỗi niềm vướng mắc về tư tưởng, tình
cảm hoặc hợp lực với nhau để phát triển sản xuất, để đấu tranh bảo vệ lợi ích,
để xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Như vậy, đoàn
thể là tổ chức của quần chúng gồm những người có chung quyền lợi và nghĩa
vụ, hoạt động vì những mục đích chính trị, xã hội v.v…nhất định
Đồn thể nhân dân có 2 đặc trưng cơ bản:
Thứ nhất, đại diện cho quyền lợi và nghĩa vụ của quần chúng nhân dân
Thứ hai, hoạt động vì những mục đích chính trị, xã hội v.v…nhất định
5


Đoàn thể nhân dân được thành lập do chủ trương, đường lối của Đảng,
do đó cần có sự lãnh đạo của Đảng để đồn thể nhân dân có sức mạnh, có tổ
chức chặt và hoạt động đúng hướng
Đồn thể nhân dân do Đảng lập ra, do đó đồn thể cần có Đảng lãnh
đạo mới phát huy được sức mạnh để tổ chức, đoàn kết. động viên nhân dân
hành động cách mạng.
1.1.3. Quan niệm về sự lãnh đạo của Đảng đối với Mặt trận Tổ quốc
Việt Nam và đoàn thể nhân dân.
Sự lãnh đạo của Đảng đối với Mặt trận Tổ quốc và đoàn thể nhân dân
là Đảng hoạch định ra các đường lối, chính sách đối với Mặt trận Tổ quốc
Việt Nam và đoàn thể nhân dân và lãnh đạo tổ chức thực hiện thắng lợi các
đường lối, chính sách đó, đồng thời tăng cường sự kiểm tra, giám sát việc các
đường lối, chính sách đó.

Theo từ điển tiếng Việt: “lãnh đạo là dẫn dắt tổ chức phong trào theo
đường lối cụ thể”. Như vây, khái niệm “lãnh đạo” theo quan niệm này gồm
hai nội dung; thứ nhất là, hoạch định ra các đường lối, chính sách; thứ hai là,
tổ chức thực hiện các đường lối, chính sách đó.
V.I.Lênin đã nhiều lần dung khái niệm “lãnh đạo” với cương vị là
người lãnh đạo tối cao của chính quyền Xơ Viết. Đã nhiều lần Người yêu cầu
những người cộng sản phải hiểu rõ nhiệm vụ lãnh đạo của mình chứ khơng
nên tự mình “làm tất cả”, làm quá sức mà vẫn không kịp, làm một lúc cả hai
chục việc mà không được việc nào ra trị, mà phải kiểm tra cơng việc của
hang chục, hang trăm người phụ giúp.
Chủ tịch Hồ Chí Minh, Người kế thừa và phát triển các quan điểm của
chủ nghĩa Mác – Lênin và vận dụng các quan điểm đó vào điều kiện cụ thể
của Việt Nam, đã quan niệm lãnh đạo là “không phải cứ ngôi vào trong phòng
giấy mà viết kế hoạch, ra mệnh lệnh.

6


Người cho rằng, “lãnh đạo” đúng nghĩa là:
Thứ nhất, phải quyết định mọi vẫn đề một cách cho đúng.
Thứ hai, phải tổ chức sự thi hành cho đúng…
Thứ ba, phải tổ chức kiểm, giám sát công việc đã được thực hiện…
Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, bất kỳ một việc gì cũng phải lãnh đạo cho
đúng; muốn lãnh đạo đúng phải dung hai cách lãnh đạo: “Một là lien hiệp
chính sách chung với sự lãnh đạo riêng. Hai là lien hiệp lãnh đạo với quần
chúng”. Trong đó, cách lãnh đạo “cực kỳ tốt” là phải “từ trong quần chúng
mà ra, trở lại với quần chúng. Có làm được như vậy mới thật là biết lãnh đạo.
Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: “Sự lãnh đạo mọi công tác thiết thực của
Đảng, ắt phải từ trong quần chúng ra, trở lại nơi quần chúng.
Như vây, theo quan niệm của Chủ tịch Hồ Chí Minh bao gồm ba khâu:

ra quyết định; tổ chức thực hiện quyết định và kiểm tra; kiểm soát.
Hiện nay, Đảng Cộng sản Việt Nam là Đảng duy nhất cầm quyền lãnh
đạo hệ thống chính trị và tồn xã hội. Vai trò lãnh đạo của Đảng đã được ghi
nhận trong Điều 4 Hiến pháp 1992 và luôn được khẳng định trong quá trình
xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam.
Điều 41 cảu Điều lệ Đảng Cộng sản Việt Nam thong qua tại Đại hội đại
biểu toàn quốc lần thứ X ghi rõ:
1. Đảng lãnh đạo Nhà nước và đồn chính trị - xã hội bằng cương lĩnh
chính trị, chiến lược, chính sách, chủ trương; bằng cơng tác tư tưởng, tổ chức,
cán bộ và kiểm tra, giám sát việc thực hiện.
2. Đảng thống nhất lãnh đạo công tác cán bộ và quản lý đội ngũ cán bộ,
đi đôi với phát huy trách nhiệm của các tổ chức và người đứng đầu các tổ
chức trong hệ thống chính trị về công tác cán bộ.
3. Đảng giới thiệu cán bộ đủ tiêu chuẩn để ứng cử hoặc bổ nhiệm và cơ

7


quan Nhà nước và đồn thể chính trị - xã hội.
4. Tổ chức đảng và đảng viên công tác trong cơ quan Nhà nước và
ddaonf thể chính trị - xã hội phải chấp hành nghiêm chỉnh nghị quyết, chỉ thị
của Đảng; tổ chức đảng lãnh đạo việc cụ thể hóa thành các văn bản pháp luật
của Nhà nước, chủ trương; lãnh thực hiện có hiệu quả.
Sự lãnh đạo của Đảng đối với Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các
ddaonf thể nhân dân là sự lãnh đạo chính trị. Dựa vào lý luận chủ nghĩa Mác
– Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh vào việc hiểu biết về Mặt trận Tổ quốc và các
đoàn thể nhân dân, vào việc hiểu biết sâu sắc đời sống và kinh nghiệm của
quần chúng, lợi ích và tâm tư nguyện vọng của họ, Đảng đề ra đường lối đối
nội và đối ngoại làm kim chỉ nam hành động cho tất cả các tổ chức trong Mặt
trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân. Các tổ chức này tự mình độc lập giải

quyết tất cả những vấn đề thuộc thẩm quyền của mình, theo đúng đường lối,
chính sách của Đảng.
Đường lối, nghị quyết của Đảng là kim chỉ nam tạo điều kiện để Mặt
trận và các đoàn thể nhân dân xác định đúng mục tiêu, phương hướng hoạt
động; đồng thời phát huy tinh thần tự chủ, sang tạo trong xây dựng, đổi mới
tổ chức và hoạt động của mình.
Sự lãnh đạo của Đảng đối với Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các đoàn
thể nhân dân là sự lãnh đạo chính trị, khơng có nghĩa là, Đảng chỉ ra đường
lối, chủ trương và vác chính sách mà cịn lãnh đạo Mặt trận và các đồn thể
nhân dân tổ chức thực hiện, biến đường lối, chủ trương và chính sách đó
thành hiện thực.
Trong khi lãnh đạo Mặt trận và các đồn nhân dân, Đảng tuyệt đối
khơng bao biện làm thay và không bỏ mặc các tổ chức đó. Đảng kiên quyết
bác bỏ mọi mưu toan chỉ huy, can thiệp một cách vụn vặt, hạn chế tính chủ
động của các tổ chức trong Mặt trận và các đoàn thể nhân dân.

8


Về nguyên tắc, không được lẫn lộn chức năng của Đảng với chức năng
của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và chức năng của các đoàn thể nhân dân.
Phương thức lãnh đạo của Đảng đối với Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các
đoàn thể nhân dân là phương pháp thuyết phục và nêu gương.
1.2. Nôi dung và phương thức lãnh đạo của Đảng đối với Mặt trận
Tổ quốc Việt Nam và các đoàn thể nhân dân.
Để đề ra được nội dung và phương thức lãnh đạo của Đảng phù hợp đối
với Mawth trận Tổ quốc Việt Nam và các đoàn thể nhân dân hiện, Đảng cần
nắm vững quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, về
nguyên tắc và phương pháp lãnh đạo của Đảng; nắm được vị trí vai trị, chức
năng, nhiệm vụ, đặc điểm của mỗi tổ chức trong Mặt trận Tổ quốc Việt Nam

và các đoàn thể nhân dân. Nắm được thực tiên và quan hệ giữa Đảng với Mặt
trận Tổ quốc Việt Nam và các đoàn thể nhân dân.
Vấn đề cốt lõi trong sự lãnh đạo của Đảng đối với Mặt trận Tổ quốc
Việt Nam và các đoàn thể nhân dân là định hướng về chính trị tư tưởng, tổ
chức, cán bộ và đổi mới hoạt động.
1.2.1. Đảng định hướng về chính trị, tư tưởng cho Mặt trận Tổ quốc
Việt Nam và các đồn thể nhân dân.
Đảng định hướng về chính trị, tư tưởng là định hướng về mục tiêu,
phương hướng phát triển lâu dài và trước mắt của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam
và các đoàn thể nhân dân; về xây dựng điều lệ (mục đích tơn chỉ, chức năng,
nhiệm vụ, tính chất và nguyên tắc tổ chức); về phương hướng hoạt động trong
từng thời kỳ, thường là qua các kỳ đại hội của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và
các đoàn thể nhân dân; về đổi mới tổ chức và phương thức hoạt động cho phù
hợp với tình hình mới. Cần chú ý 2 yêu cầu sau đây:
- Các định hướng về chính trị, tư tưởng phải phù hợp với Cương lĩnh,
chiến lược của Đảng, Hiến pháp, pháp luật của Nhà nước; đồng thời phải đáp

9


ứng nguyện vọng, nhu cầu, lợi ích thiết thực và chính đáng của đồn viên, hội
viên và của nhân dân. Các nhu cầu và lợi ích chính đáng hợp pháp của nhân
dân phải được xem xét cả về mặt chính trị, tư tưởng, cả về mặt kinh tế như
quyền lao động, điều kiện làm việc, mức thu nhâp…, và cả về mặt văn hóa, xã
hội, từ thiện.
- Các định hướng về chính trị, tư tưởng phải coi trọng việc tổ chức
đồn kết, giáo dục, bồi dưỡng nâng cao trình độ văn hóa, kiến thức nghề
nghiệp, đạo đức, thẩm mỹ, sức khỏe và vui chơi giải trí, xây dựng nếp sống
mới và gia đình văn hóa mới cho đồn viên, hội viên và nhân dân. Phải bảo
đảm cho Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các đồn thể nhân dân tích cực tham

gia xây dựng đường lối, chủ trương, chính sách, pháp luật; tham gia quản lý
kinh tế, quản lý Nhà nước; xây dựng Đảng và chính quyền, giám sát sự hoạt
động của các cơ quan này.
* Đảng định hướng chính trị, tư tưởng cho Mặt trận Tổ quốc Việt Nam
và các đoàn thể nhân dân bằng các phương thức sau đây:
- Thông qua việc tuyên truyền vận động và thuyết phục Mặt trận Tổ
quốc Việt Nam và cac đoàn thể nhân dân về đường lối, chủ trương, chính
sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước.
- Thông qua việc xây dựng chỉ thị, nghị quyết của Đảng về Mặt trận Tổ
quốc Việt Nam và các đoàn thể nhân dân, đây là hình thức chủ yếu hiện nay.
Chỉ thị, nghị quyết thường được ban hành vào dịp đại hội của mỗi tổ chức.
- Thông qua công tác của các cấp ủy và hoạt động của đảng viên. Cấp
ủy, trước hết người được phân cơng trực tiếp lãnh đạo các đồn thể nhân dân
thức hiện quan hệ lãnh đạo thường xuyên với các đoàn thể nhân dân.
1.2.2. Đảng định hướng về tổ chức và cán bộ
Nguyên tắc chung của Đảng Cộng sản Việt Nam là thống nhất lãnh đạo
công tác tổ chức, cán bộ và quản lý đội ngũ cán bộ của Mặt trận Tổ quốc Việt
10


Nam và các đoàn thể nhân dân; đồng thời phát huy tinh thần tự chủ, sang tạo
và trách nhiệm của các tổ chức này trong việc xây dựng, đổi mới tổ chức và
cán bộ phù hợp với tình nhiệm mới.
* Về tổ chức:
- Đảng định hướng về xây dựng cấu trúc tổ chức, quy mô và phạm vi
hoạt động; về cơ cấu và hoạt động của Ban chấp hành; về phát triển số lượng
và nâng cao chất lượng đoàn viên, hội viên, tuy nhiên cần coi trọng chất
lượng.
- Hướng mạnh về cơ sở, tích cực xây dựng cơ sở vững mạnh, khắc
phục tình trạng tổ chức cồng kềnh, nhiều tầng nấc trung gian.

- Đảng lựa chọn những cán bộ của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các
đoàn thể nhân dân có triển vọng, năng lực, trình độ đưa đi đào tạo, bồi dưỡng.
Có chính sách sử dụng, đãi ngộ hợp lý đối với đội ngũ cán bộ này.
- Đảng lãnh đạo, định hướng các hội quần chúng phi chính thức (khơng
phải đăng ký xin phép cơ quan chính quyền) như: Hội lien gia, Hội đồng môn,
đồng thuế, đồng hương, đồng ngũ; các hội nghề nghiệp như hội sản xuất
chiếu, mành, đúc đồng; Hội Việt Nam đã từng ở nước ngoài…,
* Về cán bộ.
- Đảng định hướng lựa chọn cán bộ của Mặt trận Tổ quốc và các đoàn
thể nhân dân một cách đồng bộ, có chất lương, ngang tầm với yêu cầu, nhiệm
vụ bao gồm: cán bộ chuyên gia, lãnh đạo, nghiệp vụ, hành chính.
- Đảng định hướng lựa chọn cán bộ do đảng đoàn của Mặt trận Tổ quốc
và các đoàn thể nhân dân đề xuất và giới thiệu vào các chức vụ chủ chốt để
Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân bầu cử theo Điều lệ của mỗi tổ
chức.
- Đảng cần có chính sách đào tạo, bồi dưỡng, sử dụng và đãi ngộ hợp
lý, công bằng đối với cán bộ Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân,
11


chăm lo đời sống và bảo đảm các điều kiện làm việc cần thiết cho họ, nhất là
cán bộ cơ sở, khắc phục mặc cảm, tâm lý không muốn công tác đồn thể.
Đồng thời cũng đề phịng và kawcs phục khuynh hướng “viên chức hóa” đội
ngũ cán bộ nay.
1.2.3. Đảng định hướng về mặt luật hóa, đổi mới và tăng cường công
tác Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các đoàn thể của cơ quan Nhà nước.
Đảng định hướng lãnh đạo Nhà nước cụ thể hóa, thể chế hóa: quan
điểm, đường lối, chủ trương của Đảng về công tác Mặt trận Tổ quốc và các
đoàn thể nhân dân; về mối quan hệ gữa Nhà nước với Mặt trận Tổ quốc và
các đoàn thể nhân dân thành luật hoặc các văn bản dưới luật.

- Quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam là: Trong điều kiện Đảng
cầm quyền, Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân là cơ sở chính trị của
Nhà nước. Khơng đối lập giữa Nhà nước với Mặt trận Tổ quốc và các đoàn
thể nhân dân.
- Quan hệ giữa Nhà nước với Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân
dân là quan hệ 2 chiều:
+ Nhà nước tôn trọng, bảo vệ, tạo điều kiện pháp lý và xã hội cần thiết
để Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân hoạt động.
+ Nhưng Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân phải tích cực tham
gia xây dựng Nhà nước, phải tơn trọng và chấp hành pháp luật hoạt động
trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật.
1.2.4. Đảng lãnh đạo bằng việc kiểm tra, giám sát hoạt động của Mặt
trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân.
- Kiểm tra, giám sát hoạt động của Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể
nhân dân trong việc thực hiện nghị quyết, chỉ thị của Đảng, chính sách, pháp
luật của Nhà nước.
- Kiểm tra, giám sát việc chấp hành nguyên tắc tổ chức và hoạt động
12


của Mặt trận và các đoàn thể nhân dân.
- Kiểm tra, giám sát tổ chức, bộ máy, công tác tổ chức cán bộ của Mặt
trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân.
- Kiểm tra, giám sát việc thực hiện vai trò, trách nhiệm của Mặt trận Tổ
quốc và các đoàn thể nhân dân.
- Kiểm tra, giám sát sự phối hợp, kết hợp giữa Mặt trận Tổ quốc và các
đoàn thển nhân dân với chính quyền giải quyết những cơng việc thuộc phạm
vị, chức trách ở cấp mình.
- Kiểm tra, giám sát tài chính, việc thực hiện tiết kiệm, phịng chống
tham nhũng, lãng phí trong các khâu được cấp và sử dung ngân sách Nhà

nước.
II. THỰC TRẠNG SỰ LÃNH ĐẠO CỦA ĐẢNG ĐỐI VỚI MẶT
TRẬN TỔ QUỐC VÀ CÁC ĐOÀN THỂ NHÂN DÂN
2.1. Thành tựu về sự lãnh đạo của Đảng đối với hoạt động của Mặt
trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân.
- Đảng ban hành nhiều chỉ thị, nghị quyết sát hợp về Mặt trận và các
đoàn thể nhân dâ nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động của các tổ chức này,
đồng thời củng cố, khẳng định vai trò lãnh đạo và sự chỉ đạo đúng đắn của
mình, tiêu biểu là Nghị quyết Trung ương 8B (khố VI) về đổi mới công tác
quần chúng của Đảng, tăng cường mối quan hệ giữa Đảng và nhân dân, Nghị
quyết 07 của Bộ Chính trị  khố VII về đại đồn kết toàn dân tộc và Mặt trận
dân tộc Thống nhất; Nghị quyết Trung ương 7 (khoá IX) về phát huy sức
mạnh đại đồn kết dân tộc, về cơng tác dân tộc và công tác tôn giáo.
Về xây dựng giai cấp công nhân trong giai đoạn mới, gắn với phát triển
công nghiệp, cơng nghệ theo hướng cơng nghiệp hố, hiện đại hố đất nước,
có Nghị quyết Hội nghị Trung ương 7 (khố VIII). Riêng đối với lực lượng
thanh niên và Đồn thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh, Ban Chấp hành Trung
13


ương đã ban hành Nghị quyết 04 (khoá VIII). Bộ Chính trị, Ban Bí Thư cũng
có nhiều chỉ thị, nghị quyết cụ thể đối với các đối tượng quần chúng và các tổ
chức quần chúng khác.
Những năm đầu của thời kỳ đổi mới, có hai lực lượng quần chúng chưa
có đồn thể của mình là nơng dân và cựu chiến binh. Nhận thức rõ vị trí quan
trọng  của những lực lượng này, Ban Bí thư ra chỉ thị số 05 - CT/TW "về tổ
chức  Hội liên hiệp nông dân tập thể Việt Nam và đại hội toàn quốc lần thứ
nhất của Hội"; ngày 6/12/1989, Hội cựu chiến binh Việt Nam được thành lập.
Để tập hợp được nhiều hơn các đối tượng quần chúng, Đảng lãnh đạo tăng
cường và mở rộng Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, đổi tên một số đồn thể nhân

dân, như: Tổng cơng đồn Việt Nam thành Tổng liên đồn Lao động Việt
Nam, Hội liên hiệp Nơng dân tập thể Việt Nam thành Hội Nông dân Việt
Nam.
Qua các văn bản đã ban hành, có thể thấy, Đảng Cộng sản Việt Nam
tăng cường lãnh đạo, chỉ đạo Mặt trận và các đoàn thể nhân dân đổi mới nội
dung và phương thức hoạt động; định hướng hoạt động cơ bản của các tổ
chức, đoàn thể vào thực hiện quyền làm chủ của nhân dân, thực hiện quy chế
dân chủ cơ sở, đẩy mạnh quyền dân chủ trực tiếp, nâng cao chất lượng dân
chủ đại diện, xây dựng và thực hiện chế độ dân chủ tự quản của nhân dân ở
các cộng đồng dân cư. Cụ thể:
Một là, Đảng Cộng sản Việt Nam có quan niệm ngày càng rõ hơn về
phương thức lãnh đạo của mình đối với Mặt trận, đoàn thể nhân dân. Phương
thức lãnh đạo của Đảng trên lĩnh vực này là tổng thể những phương pháp,
hình thức, giải pháp, quy trình, lề lối, tác phong cơng tác mà Đảng tiến hành
để tác động vào Mặt trận, các đoàn thể nhân dân nhằm thúc đẩy việc thực
hiện nhiệm vụ cách mạng, củng cố mối quan hệ giữa Đảng và nhân dân.
Hai là, làm sáng tỏ hơn mục tiêu đổi mới phương thức lãnh đạo của
Đảng đối với hoạt động của Mặt trận, đoàn thể nhân dân là: tiếp tục đổi mới
14


phương thức tập hợp nhân dân; xây dựng một xã hội đồng thuận, ổn định;
củng cố mối quan hệ giữa Đảng, Nhà nước với nhân dân; tăng cường khối đại
đoàn kết toàn dân tộc. Phát huy tinh thần đại nghĩa và khoan dung, lấy mục
tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh là điểm tập
trung, tương đồng để thu hút mọi người Việt Nam yêu nước gắn bó với sự
nghiệp chung của đất nước.
Ba là, từng bước làm rõ hơn chức năng, nhiệm vụ hoạt động của Mặt
trận và các đoàn thể nhân dân; bên cạnh chức năng cơ bản là quy tụ lực lượng
của quần chúng thành tổ chức để thực hiện tốt nhiệm vụ chính trị do Đảng

Cộng sản Việt Nam đề ra, phải bảo vệ có hiệu quả những lợi ích chân chính,
hợp pháp của các thành viên trong tổ chức mình; phát huy vai trò phản biện,
kiểm tra, giám sát đối với hoạt động của tất cả các bộ phận cấu thành hệ thống
chính trị.
Bốn là, thực hiện có hiệu quả chức năng, nhiệm vụ nêu trên, cần đa
dạng hố hình thức tập hợp quần chúng, phương thức và hình thức hoạt động.
Năm là, khẳng định và xác định rõ: động lực thúc đẩy phong trào quần chúng
phát triển là nhằm đáp ứng lợi ích thiết thực của nhân dân và kết hợp hài hồ
các lợi ích, thống nhất giữa quền lợi với nghĩa vụ của công dân.
- Việc tiến hành đổi mới công tác cán bộ của Mặt trận và các đồn thể
chính trị xã hội tạo nhiều chuyển biến tích cực, nhất là sau khi lập lại các
Đảng đồn trong các đoàn thể nhân dân. Đảng xác định rõ vai trị và trách
nhiệm của mình đối với việc xây dựng đội ngũ cán bộ Mặt trận, các đoàn thể
từ khâu xây dựng quy hoạch đến công tác quản lý. Các tổ chức Đảng từng
bước cải tiến việc phân công, phân cấp quản lý cán bộ, đổi mới trong chính
sách đào tạo, bồi dưỡng, sử dụng, đãi ngộ cán bộ Mặt trận và các đoàn thể.
Đặc biệt việc mạnh dạn sử dụng cán bộ ngoài Đảng là một bước chuyển đáng
kể.
- Thành lập và củng cố các Đảng đoàn, Đảng bộ khối dân vận và Hội
15


đồng Công tác quần chúng Trung ương, lập Ban dân vận Trung ương và hệ
thống Ban Dân vận Trung ương và hệ thống Ban dân vận trong cả nước nhằm
tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, Ban Dân vận Trung ương là cơ quan tham
mưu cho Ban Chấp hành Trung ương Đảng về cơng tác dân vận, Ban Bí thư
quyết định lập Ban dân vận Trung ương, có hệ thống Ban dân vận tới các
huyện thị, và thành lập khối dân vận với cấp xã, phường. Hội đồng công tác
quần chúng Trung ương cũng được thành lập theo quyết định của Ban Bí thư
nagỳ 27/8/1991.

Đảng cử cán bộ lãnh đạo chủ chốt trong cấp uỷ phụ trách công tác dân
vận. Ở cấp Trung ương, là một uỷ viên Bộ Chính trị hoặc uỷ viên Ban Bí thư;
ở cấp dưới, thường do một đồng chí Uỷ viên Ban thường vụ đảm nhiệm. Tuỳ
theo số lượng cấp  uỷ viên ở mỗi cấp, trong Đảng đoàn Mặt trận và một số
đoàn thể nhân dân đều có một cấp uỷ viên làm Bí thư Đảng đoàn hoặc trực
tiếp giữ các chức vụ lãnh đạo cao nhất của tổ chức này.
Thường xuyên tăng cường kiểm tra hoạt động của Mặt trận và các đồn
thể chính trị - xã hội, chú ý hơn đến công tác sơ kết, tổng kết việc thực hiện
chỉ thị, nghị quyết liên quan đến hoạt động của Mặt trận và các đồn thể chính
trị - xã hội, nhằm nâng cao trách nhiệm của các đoàn thể, tổ chức, đảm bảo
hoạt động đúng tinh thần chỉ thị, nghị quyết đề ra.
2.2. Những hạn chế và nguyên nhân.
2.2.1. Hạn chế
Về nhận thức:  Còn nhiều vấn đề chưa được chỉ ra thật rõ, như: Mặt
trận Tổ quốc là một liên minh chính trị, hoạt động của  Mặt trận có nên đi vào
những việc quá cụ thể, tổ chức hoạt động kiểu phong trào như một đồn thể
khơng? Trong quan hệ giữa Mặt trận và các tổ chức thành viên, việc Đảng
vừa là tổ chức thành viên, vừa có vai trị lãnh đạo sẽ được thể hiện cụ thể như
thế nào trong quy chế hoạt động khơng? Mối quan hệ giữa Mặt trận và các
đồn thể nhân dân được cụ thể hoá như thế nào, một mặt thể hiện tiếng nói
16


chung của đông đảo quần chúng; mặt khác, thể hiện được nguyện vọng, lợi
ích đa dạng của các tầng lớp nhân dân.?...
Trong chỉ đạo thực tiễn: Sự lãnh đạo bằng định hướng thơng qua các
chỉ thị, nghị quyết vẫn cịn chung chung, nội dung trùng lặp. Nghị quyết của
cấp uỷ đối với Mặt trận và các đoàn thể nhân dân nhìn chung chưa kịp thời.
Nghị quyết của cấp dưới  gần như mơ phỏng, thậm chí là bản sao của nghị
quyết cấp trên; vẫn cịn tình trạng chưa kịp triển khai thực hiện nghị quyết

trước đã ban hành nghị quyết mới. Việc học tập nghị quyết của Đảng ở khơng
ít nơi cịn mang tính hình thức, chưa chỉ ra những việc cụ thể cần làm. Qua
điều tra xã hội học, 65.5% số người được hỏi cho rằng nghị quyết của Đảng
chưa thực sự cụ thể, không quy định rõ trách nhiệm; 55.8% cho rằng việc
thực hiện kiểm ra tổ chức còn yếu.
Đảng lãnh đạo Nhà nước thể chế hoá các nghị quyết của Đảng về  Mặt trận và
các đoàn thể nhân dân còn chậm, thiếu đồng bộ. Luật mặt trận, Luật Cơng
đồn, Luật Thanh niên đã được ban hành nhưng chưa có luật về các tổ chức
quần chúng khác, đặc biệt là luật về Hội. Công tác lãnh đạo thông qua tổ chức
và cán bộ đối với Mặt trận và các đồn thể nhân dân cịn nhiều vấn đề bất cập:
+ Về Đảng đoàn: Quy chế tổ chức và hoạt động của Đảng đồn cịn
một số vấn đề chưa rõ: Tổ chức Đảng đoàn của Mặt trận Tổ quốc như thế nào
là phù hợp? Mối quan hệ giữa Đảng đoàn cấp trên và cấp dưới, giữa Đảng
đoàn và Uỷ ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam với Đảng đoàn của
các đoàn thể nhân dân chưa được xác định rõ.
+ Đội ngũ cán bộ Mặt trận và các đoàn thể nhân dân chưa được kiện
toàn về cả số lượng và chất lượng, nhằm đáp ứng yêu cầu của tình hình mới.
Đội ngũ này đa phần làm việc kiểu hành chính, một số mắc bệnh quan liêu,
không chịu sâu sát quần chúng nhân dân. Chế độ, chính sách, điều kiện làm
việc của cán bộ còn nhiều bất cập. Kết quả điều tra xã hội học cho thấy 39.3%
số người được hỏi đánh giá cán bộ Mặt trận, đoàn thể hoạt động yếu kém, gần
17


50% cho rằng họ thiếu sự quan tâm của cấp uỷ và sự tạo điều kiện của chính
quyền, 38.3% nhận xét Mặt trận và các đoàn thể chậm đổi mới nội dung,
phương thức hoạt động, mức độ tác động đến quần chúng thấp. Ở những vùng
tôn giáo và những nơi xẩy ra "điểm nóng", vai trị của các tổ chức đoàn thể
nhân dân thường bị giảm sút...
- Hoạt động lãnh đạo đổi mới phương thức công tác Mặt trận và các

đồn thể nhân dân trong thời kỳ mới đơi khi cịn lúng túng, chưa thực sự hiệu
quả, dẫn tới tình trạng "hành chính hố", Mặt trận, các đồn thể nhiều khi
chưa kịp thời nắm bắt được những vấn đề phức tạp nảy sinh từ các đối tượng,
các tầng lớp, các giai cấp trong xã hội. Ở khơng ít nơi, cấp uỷ chưa quan tâm
lãnh đạo thường xuyên đối với Mặt trận và các đồn thể nhân dân, mà thường
"khốn trắng" cho những uỷ viên được phân công phụ trách. Do đó, hiệu quả
thực hiện các mục tiêu hoạt động chưa cao.
- Phương thức sinh hoạt chủ yếu của các tổ chức xã hội là các hội nghị,
nặng về phổ biến sự chỉ đạo một chiều từ trên xuống, ít có ý kiến tranh luận,
nội dung  một số hội nghị trùng lặp. Đa phần cán bộ lãnh đạo ít dành thời gian
đi khảo sát thực tế ở cơ sở và tiếp xúc, đối thoại trực tiếp với quần chúng
nhân dân.
- Việc kiểm tra các hoạt động của cơ quan Mặt trận và các đoàn thể
nhân dân chưa được tiến hành thường xuyên, kịp thời đôi khi bị xem nhẹ, nên
không phát hiện được những nhân tố, điển hình mới, tiên tiến, kịp thời khắc
phục và uốn nắn các khuyết điểm. Chất lượng sơ kết, tổng kết thấp, nặng nề
báo cáo thành tích, chưa có tính khái qt và chưa rút ra được các bài học
kinh nghiệm có ý nghĩa lý luận và thực tiễn sâu sắc.
2.2.2. Nguyên nhân của những hạn chế
Trước hết xuất phát từ nhận thức. Đến nay, vấn đề phương thức lãnh
đạo của Đảng đối với hoạt động của hệ thống chính trị vẫn cịn nhiều điều
chưa được làm sáng tỏ về cả lý luận và thực tiễn, tồn tại tình trạng coi phương
18


thức lãnh đạo của Đảng ở đây chỉ là lề lối làm việc, là các biện pháp tác
nghiệp, phong cách và tác phong của tổ chức Đảng. Nhiều người còn chưa
phân biệt được những phương thức lãnh đạo với  nội dung lãnh đạo và e ngại
tổ chức lãnh đạo sẽ làm suy yếu sự lãnh đạo của Đảng.
Năng lực hoạt động thực tiễn của đội ngũ cán bộ Mặt trận và đồn thể

nhân dân nhìn chung chưa đáp ứng u cầu thực tiễn đặt ra.
Việc phân tích chức năng, nhiệm vụ giữa Đảng, chính quyền, Mặt trận
và các đồn thể, việc đổi mới phương thức lãnh đạo của cấp uỷ từng cấp cịn
chậm được cụ thể hố; việc thành lập lại Đảng đoàn Mặt trận và các đoàn thể
là một bước tiến, song chưa kịp nghiên cứu bổ sung, hướng dẫn giải quyết cụ
thể những vấn đề phát sinh từ thực tiễn...
III. NHỮNG GIẢI PHÁP ĐỔI MỚI PHƯƠNG THỨC LÃNH
ĐẠO CỦA ĐẨNG ĐỐI VỚI MẶT TRẬN TỔ QUỐC VIỆT NAM VÀ
CÁC ĐOÀN THỂ NHÂN DÂN.
3.1. Đảng tự đổi mới và chỉnh đốn Đảng ngày càng vững mạnh về
chính trị, tư tưởng, tổ chức.
Tự đổi mới và chỉnh đốn là công việc phải làm thường xuyên đối với
một chính đảng cách mạng. Chủ tịch Hồ Chí Minh coi đó là “việc chính, phải
đặc biệt chú trọng”. Người đã nhiều lần nhấn mạnh: “Đảng phải thật mạnh,
thật trong sạch để thiết thực lãnh đạo những nhiệm vụ cơng tác nói trên.
Muốn lãnh đạo vững thì trước hết cán bộ và đảng viên phải có tư tưởng và lập
trường vững chắc để lãnh đạo, để xung phong làm gương mẫu. Vì vậy, chỉnh
Đảng là việc chính mà chúng ta phải làm ngay”.
Cơng tác giáo dục chính trị, tư tưởng, tổ chức và cán bộ, xây dựng tổ
chức cơ sở đảng gắn với xây dựng hệ thống chính trị ở cơ sở, phát triển đảng,
cơng tác kiểm tra có những chuyển biến mới. Đa số cán bộ, đảng viên phát
huy vai trò tiền phòng, năng động, sang tạo, giữ gìn phẩm chất đạo đức.

19


Trước tình hình mới, xuất phát từ yêu cầu và nhiệm cảu cách mạng
Đảng Cộng sản Việt Nam cho rằng: “Phương hướng và mục tiêu của công tác
xây đựng Đảng trong nhiệm kỳ tới là: tiếp tục đổi mới, tự chỉnh đốn Đảng,
tăng cường bản chất giai cấp công nhân và tính tiền phong, nâng cao năng lực

lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng; xây dưng Đảng thực sự trong sạch, vững
mạnh về chính trị, tư tưởng, tổ chức, có bản lĩnh chính trị vững vàng, có đạo
đức cách mạng trong sang, có tầm trí tuệ cao, có phương thức lãnh đạo khoa
học, ln gắn bó với nhân dân”. Để đạt được phương hướng và mục tiêu trên
trong công tác đổi mới, chỉnh đốn Đảng, nâng cao năng lực lãnh đạo và sức
chiến đấu của Đảng cần thực tốt các nhiệm vụ và giải pháp lớn sau: nâng cao
bản lĩnh chính trị và trình độ trí tuệ của Đảng; kiện toàn và đổ mới hoạt động
của tổ chức cơ sở đảng, nâng cao chất lượng đội ngũ đảng viên; thực hiện
nghiêm túc nguyên tắc tập trung dân chủ trong trong Đảng; tăng cường quan
hệ gắn bó giữa Đảng với nhân dân; nâng cao chất lượng và hiệu quả công tác
kiểm tra, giám sát; đổi mới tổ chức, bộ máy và cơng tác cán bộ.
3.2. Nhà nước cần hồn thiện luật hóa và hoạt động của Mặt trận Tổ
quốc và các đoàn thể nhân dân.
Cần xác định rõ quyền hạn và trách nhiệm của Mặt trận Tổ quốc và các
đoàn thể nhân trong việc tham giam quản lý kinh tế, quản lý xã hội; tham gia
ý kiến xây dựng pháp luật và chế độ chính sách đặc biệt là những vấn đề lien
quan trực tiếp đến quyền lợi và nghĩa vụ của đoàn viên, hội viên và nhân dân,
tạo mọi điều kiện cần thiết về thong tin để Mặt trận Tổ quốc và các đồn thể
nhân dân có thể chủ động trong việc phát biểu ý kiến của mình.
Tăng cường trách nhiệm của Nhà nước chăm lo phát triển tổ chức và
hoạt động của Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân. Các đại biểu Quốc
hội, Hội đồng nhân các cấp phải thường xuyên lien hệ với các cử tri, định kỳ
làm việc với Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân để nắm được yêu
cầu, nguyện vọng của nhân dân.
20



×