PHẦN MỞ ĐẦU
I. Lý do chọn đề tài
Nhà tư tưởng nga Heeden đã từng nói “trang sử cuối cùng là hiện thực
ngày nay của chúng ta”. Vâng! hiện thực ngày nay là trang sử cuối cùng. Nhưng
để trang sử “cuối cùng” ấy được mở ra một cách đầy ý nghĩa, chúng ta không
thể bỏ qua những trang sử đầu tiên. Đó chính là quá khứ xa xưa, là thời đại của
quốc gia Văn Lang - Âu Lạc.
Văn Lang - Âu lạc là một đất nước vĩ đại ! Vĩ đại không phải bằng niềm
vinh quang quân sự, không phải bằng sự giàu có, trù phú của tài nguyên thiên
nhiên, bằng nền văn hóa lâu đời, mà chính bởi sức sống mãnh liệt nhất của mỗi
người dân đất Việt. Nhà nước Âu lạc với tên tuổi Thục Phán - An Dương Vương
đã đi vào lịch sử dân tộc như một điểm nhấn đánh dấu một bước ngoặt căn bản
trong tiến trình phát triển của thời kỳ dựng nước và giữ nước. Mỗi chúng ta có
quyền tự hào và ngưỡng mộ những di sản tuyệt vời mà thời đại An Dương
Vương đem lại, đó là quá trình dựng nước, đấu tranh để giữ nước cùng những
chiến thắng làm vang dậy núi sông, đặc biệt là tinh thần đoàn kết, cố kết cộng
đồng được tôi luyện, phát huy và giữ vững từ cách đây gần 2700 năm.
Bắt nguồn từ một niềm say mê với bộ môn lịch sử, đặc biệt là lịch sử cổ
trung đại Việt Nam, chúng tôi đến với đề tài này như một cái duyên đã định sẵn.
Một sự gặp gỡ tất yếu của những trăn trở thời thơ bé. Đó là nỗi khao khát được
tìm hiểu về quá khứ xa xôi của dân tộc thời đại Hùng Vương - An Dương
Vương. An Dương Vương - Thục Phán là cái tên luôn đặt ra trong chúng tôi một
dấu hỏi lớn. Bởi trong truyền thuyết Mỵ Châu - Trọng Thủy, truyền thuyết Rùa
vàng, chúng tôi mới chỉ thấy thấp thoáng bóng dáng con người này. Trong tiềm
thức chúng tôi lúc đó, An Dương Vương là ai còn chưa rõ, nước Âu Lạc ra sao
cũng chưa hay.
Tìm hiểu về An Dương Vương và thời gian tồn tại nước Âu Lạc giúp
chúng tôi hóa giải những băn khoăn của cá nhân mình, đồng thời cũng là cơ hội
để chỳng tôi hiểu sâu hơn về một thời kỳ lịch sử ít tư liệu. Mặt khác đề tài còn
giúp chúng tôi có được những liên hệ phần nào trong công cuộc xây dựng xã hội
1
mới - con người mới ở Việt Nam hiện nay. Để yêu hơn và tự hào hơn với những
gì dân tộc mình đạt được cách đây hơn hai thiên niên kỷ.
II. Mục đích nghiên cứu
Đây là một đề tài chúng tôi lựa chọn để thực hiện nhằm hưởng ứng phong
trào “tích cực tham gia nghiên cứu khoa học” của Trường Đại học Khoa học Xã
hội và Nhân văn.
Thể hiện đề tài là những cố gắng của chúng tôi để hoàn thành tốt công
việc này, vận dụng những hiểu biết, những tìm tòi học hỏi của mình về nguồn
gốc An Dương Vương và đất nước Âu Lạc để có được những kết luận rõ hơn về
vấn đề.
Đề tài được nghiờn cứu sẽ tạo điều kiện nghiờn cứu đề tài theo một hướng
tiếp cận mới, mở ra một con đường mới, để chúng tôi cùng những người đam
mê nghiờn cứu thời kỳ lịch sử cổ trung đại nói riêng và lịch sử Việt Nam nói
chung có thể tiếp nhận và khám phá nhiều hơn về nó, thể hiện đề tài còn là một
cơ hội để chúng tôi rèn luyện khả năng nghiờn cứu khoa học cho bản thân, có
thể tiếp cận và thực hiện ở những đề tài lớn hơn. nghiờn cứu đề tài cũng là một
cách học tập hữu hiệu để chúng tôi nghiờn cứu thêm, đọc và hiểu thêm nhiều
quan điểm, ý kiến đánh giá của các nhà nghiờn cứu, các vị tiền bối. Từ đó có thể
đưa ra định kiến và những kiến giải của bản thân, rèn luyện đức tính cần cù,
quyết đoán, sáng tạo- những đức tính cần có của một nhà nghiờn cứu lịch sử.
III. Lịch sử vấn đề
Mỗi một thời đại đi qua đều để lại đằng sau nó những dư âm không ngớt
còn đeo đẳng trong kí ức con người. cũng giống như thế kỉ X, thế kỉ II TCN
được coi là thế kỉ bản lề với nhiều biến động lớn trong lịch sử, người Việt Nam
đã chứng kiến những phút giây chuyển giao của thời đại mình đầy đau xót
nhưng cũng đáng tự hào.
Thật vậy trong lịch sử cổ đại nước ta, giai đoạn Âu Lạc do Thục Phán- An
dương vương mở đầu là sự kế tiếp nhà nước văn lang đời các vua hùng. Nhưng
thục phán là ai? cho đến nay không phải tất cả các vấn đề đều sáng tỏ. Bởi thế từ
lâu nó đã trở thành một đề tài hấp dẫn được nhiều người quan tâm nghiên cứu.
2
Đến nay có rất nhiều quan điểm khác nhau về nguồn gốc an dương vương tập
trung chủ yếu với 3 quan điểm chính sau:
Thứ nhất, như chúng ta đã biết, tuy nói rằng lịch sử nước ta từ thời Âu
Lạc trở đi đã có những sử liệu thành văn soi sáng nhưng số tư liệu đó cũng rất ít
ỏi. Những ghi chép đầu tiên về thục phán an dương vương có thể tìm thấy trong
thư tịch cổ của Trung Quốc. Sách Hậu hán thư, phần quận quốc chí của Phạm
Việp khi chép về quận Giao Chỉ có chú thích “ đấy là nước cũ của An Dương
Vương”. Tác phẩm Bùi thị Quảng châu kí ra đời vào khoảng thế kỉ V được dẫn
lại trong sách ẩn của Tư Mã Trinh đời Đường thế kỉ VIII cũng chép: “ sau con
vua Thục đem quân đánh chiếm tự xưng là An Dương Vương sai hai sứ cai trị
hai xứ là Giao chỉ và Cửu chân tức là Âu lạc vậy”. Theo Nam Việt chí được dẫn
lại trong Cựu đường thư, phần địa lí chí viên biên soạn thế kỉ X “ thì vua nước
thục cho con là An Dương Vương cai trị đất Giao chỉ nước ấy nay nằm về phía
đông huyện Bình Đạo”. như thế các thư tịch cổ của Trung Quốc đều chép An
Dương Vương là con vua Thục nhưng không cho biết cụ thể vua Thục là ai và
nước Thục ở đâu tuy sách vở Trung Quốc xưa viết nhiều, kĩ về nước Ba thục
một nước đã thực sự tồn tại ở vùng Tứ Xuyên thời xuân thu chiế quốc nhưng
cũng không thấy chi tiết nào nói về mối quan hệ giữa Ba thục và Văn lang. Sách
Hoa dương quốc chí của Thường Cứ, người đời Tấn là bộ sách đã cung cấp cho
chúng ta những hiểu biết vế lịch sử địa lí về nước Ba thục cũng không thấy nhắc
đến tên Thục phán và việc Thục phán đánh được nước Văn lang, trong khi nó lại
cho biết một cách chu đáo tình hình thay đổi chớnh trị trong từng quận huyện,
sau khi nước này bị diệt năm 316 TCN “ nước Thục xưng vương vào lúc nhà
Chu suy vong. Vua đầu tiên là Tàm Tùng cũng như các vua sau chỉ lo dậy dân
cày cấy làm ăn không có chinh chiến gì. Đó là bước đầu xây dựng vương triều,
nên vua Thục chưa có thế lực để phát triển ra bên ngoài. Đến lúc “thất quốc” suy
vong (476 TCN) vua Thục là Đỗ Vũ cũng xưng đế lấy hiệu là Vong đế đổi tên là
Bồ ty “ tự cho công đức cao các vương khác….các sông giang tiềm, miên, lạc
làm thành trì, lấy núi Văn sơn làm nơi chăn nuôi, lấy Nam trung làm thượng
uyển” đó lần đầu tiên Thục bành trướng. Theo địa danh và các tên đất trên chủ
3
yếu nó hướng về phía bắc và phía đông. Đỗ Vũ nhường ngôi cho Khai Minh,
con Khai Minh đánh Tần đến đất Ung “ đánh Thanh y, hùng cứ cả lão
bặc….Thục vương phong cho em là Hà Manh giữ đất Hán Trung hiệu là Thư
Hầu.. Thư Hầu kết thân với nước Ba, nước Ba lại thù với Thục. Thục vương
giận đánh Thư hầu, Thư hầu chạy đến Ba cầu cứu Tần… Mùa thu năm Chu
thuận vương thứ V quan quân của Tần là bọn đại phu Trương Nghi, Tư Mã
Tháo đánh Thục, Thục vương kháng cự với Hà Manh, bị thua chạy đến Vũ
Dương thì bị quân Tần giết tướng phó và thái tử của vua Thục lui về Phùng
Hương rồi chết ở núi Bạch Lộc đó là lần duy nhất Thục vương phát triển về
hướng đông nam nhưng chưa hề vượt khỏi nước Ba tức là chưa đến địa phận
quận Tường Kha thời Hán sau này. Họ chưa vượt quá thượng lưu sông Trường
giang ngày nay hướng phát triển chủ yếu là đông và bắc nên gặp phải quân Tần
và Sở. Những người dân Thục bị Đường Mông đưa đi làm đường ở Dạ Lang có
cả người Thục nhưng chưa xuống đến đất Nam Việt thì chiến tranh đã kết thúc,
lúc đó không còn Thục Vương họ khai minh nữa. Nhiều sử gia và các nhà
nghiến cứu đã tốn không ít giấy mực để vun đắp cho ức thuyết này. Trong số
những người nghiến cứu gần đây thì Trần Thu Hòa là người đã bỏ nhiều công để
vun đắp cho lý thuyết này. Nhưng chính ông cũng đã nhận thấy một khó khăn
lớn trong vấn đề là tuổi của Thục Vương. Nước Thục bị Tần diệt vào năm 316
TCN. Nếu là con của Thục Vương tử tính đến năm 214 TCN trong kháng chiến
chống Tần thì ít nhất ông cũng đã trên trăm tuổi, vậy làm sao có thể lãnh đạo
nhân dân đánh thắng quân Tần?
Vì thế ông đã giả thuyết về con di phúc. Tuy nhiên, đó chỉ là một giả
thuyết hoàn toàn vô căn cứ không dựa trên một tài liệu cơ sở chữ viết nào, một
truyền thuyết làm cơ sở cho giả định này.
Các nguồn thư tịch cổ Việt Nam có thể nói xuất hiện muộn hơn các thư
tịch của Trung Quốc nhưng lại có ghi chép rõ hơn về nguồn gốc của Thục Phán
- An Dương Vương. Viện Sử lược Bộ sử biên niên thời Trần chép “cuối đời
Chu, Hùng Vương bị con Vua Thục là Phán đánh đuổi mà lên thay”. Kế tiếp đó
trong Đại việt sử ký toàn thư các sử gia đã có một kỷ riêng “kỷ nhà Thục” để
4
chép về Thục Phán và nước Âu Lạc, đoạn viết khẳng định: “Nhà Thục, An
Dương Vương ở ngôi 55. Họ Thục tên Phán là người đất Ba Thục, đóng đô ở
Phong Khê”
3
. Sách “Đại Việt sử ký” thời Tây Sơn cũng chép gần giống thế: “An
Dương Vương húy Phán, người Ba Thục ở ngôi 50 năm sử cũ cho là không
phải”. Thuyết “Thục Phán gốc người Ba Thục” chiếm địa vị độc tôn trong
những tác phẩm sử học thời Lê sơ cho đến đầu thời Nguyễn. Trong “Lịch chiều
Hiến chương loại chí”, Phan Huy Chú viết “An Dương Vương tên là Phán người
Ba Thục”
5
, đến cối triều Nguyễn trong khi biên soan Việt sử thông giám cương
mục, một số sự kiện trong lịch sử cổ đại nước nhà đã được xem xét phê phán lại,
trong đó có thuyết Thục Phán người ba Thục. Thuyết này đã bị bác bỏ. Trong
“Việt sử thông giám cương mục” viết “Nước Thục đã bị quân Tần diệt từ năm
thứ 5 đời Thuận Tĩnh Vương, nhà Chu (316 TCN) lúc đó làm gì có vua Thục
nào? huống chi giữa đất Văn Lang với đất Thục còn có các thứ kiện - vi, dạ -
lang, cùng, tạc, nhiễm, bàng cách xa nhau hai ba ngàn dặm. Nước Thục ở xa,
làm thế nào băng qua các nước ấy mà đến lấy được Văn Lang? Sử cũ đã chép:
cháu vua Thục tên là Phán lại bảo An Dương Vương họ Thục tên Phán người ba
Thục hoặc giả ở ngoài cõi Tây Bắc, giáp liền với nước Văn Lang có người họ
Thục, bèn cho là Thục Vương cũng chưa biết chừng. Nếu bảoThục Vương là
người ba Thục là không phải”
6
.
Trong việc sử lược, cuốn sử lược được phổ biến rộng rãi thời Pháp thuộc
của Trần Trọng Kim khi bàn đến gốc tích nhà Thục cũng khẳng định “Nhà Thục
chép trong sử nước ta không phải nhà Thục bên Tàu.
Năm 1957, Trần Văn Giáp đã đề cập đến vấn đề này trong bài “Một vài ý
kiến về An Dương Vương ngọc giả và vấn đề Thục - An Dương Vương” ông đã
dẫn sách vở Trung Quốc để đưa ra kết luận sau: “Khoảng trước thế kỷ 13 TCN
vua Thục ở Ba Thục” sai cháu là Phán đánh xuống miền Nam tức vùng Giao
Chỉ đời Hán và tượng Quận đời Tần. Trong thời gian đó thì nước Thục đã bị
Trương Nghi và Tư mã Thố nhà Tân đánh, chiếm lấy cả nước Thục. Trong khi
Phán mang 3 vạn quân ở miền Nam thì nước Thục bị mất và vua bị giết chết.
Đám 3 vạn quân ở miền Nam đó trở về đâu? Phán tất phải đánh Tượng Quận,
5
chiếm lấy một khu căn cứ địa nào đó, làm chỗ đứng chân rồi dần da thiết lập
thành nước gọi là Âu Lạc, xưng là An Dương Vương”. Đọc đoạn viết này chúng
ta chỉ thấy một điều là sau khi nước Thục bị Tần diệt người ta có nhắc đến người
Thục, nước Thục cũ mà thôi. Chứ không chứng minh gì thêm cho ý kiến Thục -
An Dương Vương là người từ Ba Thục xuống. Bởi khu căn cứ địa nào đó làm
chỗ đứng chân là khu căn cứ nào. Tác giả chưa nói rõ, vả lại theo cách lý giải
của ông thì Thục Phán là cháu Thục vương tử. Được sai dẫn quân đánh miền
Nam, vậy là ít nhất tại thời điểm đó Phán phải là một tướng tài hoặc có uy tín.
Việc này diễn ra trước khi nước Ba Thục bị diệt tức là trước 316 TCN.
Vậy cần giải thích như thế nào về cuộc kháng chiến chống Tần và Triệu
Đà của Âu Lạc trong khi người chỉ huy lãnh đạo họ cũng là Thục Phán người
cách đây khoảng 100 năm đã “đánh Tượng Quận chiếm lấy một khu căn cứ nào
đó làm chỗ đứng chân rồi dần dà lập thành một nước gọi là Âu Lạc”.
Dựa trên cơ sở đó, chúng ta có thể bác bỏ quan điểm An Dương Vương là
người Ba Thục.
Quan điểm thứ hai, cũng là một quan điểm nghiến cứu đáng quan tâm
“An Dương Vương là người từ Ai Lao di đến”.
Trước tiên về vị trí nước Thục, Hùng Vương - Ngọc phả cho biết “vua
thục phụ đạo xứ Ai Lao cũng là dòng giõi vua Hùng, được tên Hùng Tấn vương
muốn nhường ngôi cho con rể là Sơn Tinh (Tản Viên sơn thánh) lên triêu tập
binh mã sang đánh”. Thần tích đền Mủi xã Thanh Uyên, huyện Tam Nông,
Vĩnh Phúc kể: “Đời Hùng Vương thứ 18 có giặc Ai Lao sang đánh nước ta.
Chúng chia quân làm 5 đạo… vua mời Tản Viên sơn thánh đi đánh”. Sự tích
Thiên Thai đại vương một vị tướng của Tản Viên có đoạn viết “đời Hùng
Vương thứ 18… có quân Thục đến đánh giặc cùng Tản Viên sơn thánh chia
thành hai đạo quân đánh tan giặc”. Thần tích về Cao Sơn, Quý Minh hai bộ
tướng của Tản Viên được thờ ở xã Cảnh Mỹ cũng chép chuyện hai ông đi đánh
giặc Thục tức giặc Ai Lao ở Tây Bắc. Sách “Sơn Tây thần tích An sơn huyện,
Lạp Tuyết sơn xã, thông đạt thần tích” chép về chuyện Nam Hải đại cương cũng
6
có đoạn viêt: “… Lúc đó bộ chủ Ai Lao là Thục Phán đem quân sang đánh bị
Tản Viên sơn thánh đánh cho thua”…
Chuyện công thần nhị vị đại vương phả lục, trong sách thần tích các xã
thuộc huyện Sơn vi tỉnh Phú Thọ cũng nói: “thời bấy giờ Hùng Duệ Vương gả
công chúa Mỵ Nương cho Tản viên sơn thánh tên là Nguyễn Tùng Thi, Thục
phán chúa Ai Lao đem 10 vạn binh 8 nghìn ngựa sang đánh, Duệ vương hỏi kế
Sơn thánh nói: Nên cử anh em Cao Hưng đem binh tuần tiễu các nơi… đến xã
Bản nguyên đóng đồn… sau cùng với Sơn thánh đánh giặc toàn thắng trở về
Thục âp”.
Về vị trí các trận đánh, truyền thuyết địa phương nào cũng nói là quân
Thục cũng đi qua vùng ấy, nếu căn cứ vào đó thì thấy cuộc chiến tranh xảy ra ở
một vùng rộng lớn, phía Đông tới Sóc Sơn, bắc tới Hà Giang, Lai Châu, phía
Tây tới Hòa Bình, phía Nam tới Ninh Bình. Trong khu vực được chỉ định một
cách chung chung ấy thì tuyệt đại đa số truyền thuyết địa phương và thần phả ở
Vĩnh Phúc và Hà Tây lại tập trung chỉ rõ hướng giặc Ai Lao tấn công từ phía
Bắc và Tây Bắc trên lưu vực sông Hồng và sông Mã.
Có thể kể như thần tích đền gò Chám xã Dị Nậu, huyện Tam Nông, Vĩnh
Phúc ghi rằng: “Thời Duệ Vương quân Thục sang đánh nước ta. Cao sơn Đại
vương giúp Tản Viên sơn thánh tới thẳng trận tiền ở Mộc Châu là nơi đóng quân
chính của giặc”.
Căn cứ vào việc thờ thần Tản Viên phân bố rộng rãi trong toàn bộ vùng
cư trú của người Việt và một phần người Mường thì thấy cuộc chiến tranh
chống Thục tác động đến toàn bộ vùng trung du và đồng bằng Bắc bộ. Hiện nay
vùng tập trung chủ yếu của những trận đánh lớn thì đều ở phía Tây và Tây bắc
đồng bằng Bắc bộ.
Đọc qua nhiều truyền thuyết thì dường như giả thuyết về nước Thục có
liên quan tới nước Ai Lao (Lào) nước láng giềng phía Tây của nước ta thời nay.
Nhưng tiếc thay những tài liệu lịch sử thành văn chỉ mới cho phép chúng ta soi
sáng lịch sử nước Lào từ khoảng giữa thế kỷ 14 trở lại đây. Như vậy tương ứng
với giai đoạn lịch sử cuối đời Hùng Vương trong lịch sử nước Lào chưa hề thấy
7
một tổ chức quốc gia hay một nhóm bộ lạc có tên là Ai Lao cả. Mặt khác qua
nhiều cuộc khảo sát trên thung lũng sông Hồng các nhà nghiến cứu thấy xuất
hiện chữ Lao trong tên đất tên sông: chân lao ở bờ đầm Chính Công, ngòi lao ở
Hạ Hà, ngòi kiên lao ở ngàng Lan Đình…
Chữa A dùng riêng hoặc kết hợp với một số chữ khác đứng trước hoặc
đứng sau như núi A (274m ở sát ngã ba Nhân Mục). Như Sơn A ở sát đông bắc
cánh đồng Nội… như vậy các nhà nghiến cứu phỏng đoán rất có thể ở khu vực
thung lũng sông Hồng có thể có thên Việt cổ là A Lao mà sau này đọc nhầm,
viết nhâm thành Ai Lao.
Thường cứ cũng khi “đất Thục đông giáp ba, nam tiếp với Việt, bắc tiếp
Tần”. ở đây tác giả cho Thục giáp Việt. Sau này khi nhà Tây Han đặt ra hai châu
ích và Dao thì địa bàn hai châu tiếp giáp nhau nhưng cũng không có đường ranh
giới cụ thể .Dần dà về sau châu Giao thu hẹp với địa phận là khu vực miền Bắc
nước ta. Trái lại châu ích được mở rộng gồm cả khu vực tỉnh Vân Nam, Quý
Châu, Tứ Xuyên ngày nay đến đời tam quốc .cũng có khi tac giả dùng lối định
vị xưa ma cho bất cư môt địa điểm nào từ quảng tây đến Tứ Xuyên đều có thể là
Thục. Thủy kinh chú dẫn Giao Châu ngoại vực ký có ghi là Thục vương tử nước
Âu Lạc người sau dịch Thục vương tử là con vua Thục. Nhưng ta cũng có thể
hiểu theo cách khác. Thủy tinh chú cũng ghi: “Thanh y vương tử hâm mộ chế độ
nhà Hán bèn xin nội thuộc”. Đây là vua Thanh y quyết định việc hàng Hán chứ
không phải con của vua Thanh y. Vì vậy cho nên cũng có tài liệu ghi là: “Thục
vương đánh Hùng Vương”.
Trong một bài viết tác giả Nguyễn Huy Hinh từng nhận xét “Giữa Giao
Châu và ích Châu chỉ hạn chế đến điển, không vượt qua khỏi điền đến Ai Lao di
bao giờ, Ai Lao di cũng chưa từng trở thành một nước hùng mạnh và có xu thế
phát triển về phía Giao Châu bao giờ.
Ngay nước Điền ở bên cạnh cũng chưa từng có hành động gì vào phía
Giao Châu dù Điền rất phát triển. Những thần tích ghi việc Thục Phán cai trị ở
Ai Lao là những tài liệu do người sau này viết. Từ Ai Lao ở đây phải chăng là
Ai Lao di hay là Lào ngày nay.
8
Quan điểm thứ ba cho rằng An Dương Vương là người Lạc Việt theo sự
gợi ý của sử ký. Tây Âu là nước ở trần. Các sử gia thời bấy giờ khi phân biệt các
nhóm tộc thường chú ý đến trang phục của các dân tộc. Mà Tư Mã Thiên cũng
như các sử gia đời sau đã mô tả, chúng ta không thấy nói đến nhóm người ở trần
nào khác. Người Thục, người Điền đều không ở trần, nhiều tượng người thổi
kèn được tìm thấy trong quan tải mộ Việt Khê. Những tượng đồng trên thạp
đồng Đào Thịnh v.v… đều đóng khố, đó là một hình thức ở trần.
Đây là một dấu hiệu phân biệt người Âu Lạc với người Nam Việt, người
Thục và họ đi đến khẳng định An Dương Vương là người Lạc Việt.
Sáng đến những năm đầu thế kỷ 20 nhiều người tỏ ý nghi ngờ vua Thục
và thành Cổ Loa tiêu biểu như Ngô Tất Tố với bài: “Nước Nam không có ông
An Dương Vương nhà Thục” hay một số nhà khảo cổ như ông Trương, ông Đỗ
cũng nghi ngại thành Cổ Loa hay một bộ phận của nó là thành nhà Hán… nhiều
học giả còn phủ nhận sự thật về An Dương Vương và cho rằng đó chỉ là nhân
vật trong truyền thuyết. Học giả Pháp Maspéro cũng cho An Dương Vương “ là
một nhân vật chưa chắc chắn đã có trong lịch sử, là một ông vua huyền thoại vì
sử cũ chỉ chép theo truyền thuyết mà thôi”.
Tuy nhiên tất cả những quan điểm trên còn chứa đựng trong nó quá nhiều
mâu thuẫn và nhiều điều chưa hợp lý. Một số cách giải thích mang tính chất giả
định cao chưa có những tài liệu hay bằng chứng nào cụ thể. Bởi vậy, hiện nay
các nhà nghiến cứu vẫn đang trên con đường kiếm tìm sự thật về nguồn gốc
Thục Phán - An Dương Vương.
Một vấn đề còn gây nhiêu tranh cãi giữa các nhà sử học nghiến cứu về
thời đại An Dương Vương đó là thời gian tồn tại nước Âu Lạc. Đây là vấn đề
cũng được nhiều người quan tâm và tìm hiểu. Họ đã đưa ra nhiều ý kiến khác
nhau với những kiến giải riêng. Trong đó nổi bất nhất là ba quan điểm sau:
Âu Lạc ra đời năm 257 TCN, kết thúc năm 208 TCN tồn tại trong khoảng
50 năm.
Âu Lạc ra đời trong khoảng 210 TCN, kết thúc năm 207 TCN, tồn tại
trong khoảng 4-5 năm.
9
Âu Lạc ra đời năm 208 TCN và kết thúc 179 TCN tồn tại trong khoảng 30
năm.
10
IV. Phạm vi và phương pháp nghiến cứu
1. Phạm vi nghiến cứu
- Nguồn gốc An Dương Vương: thông qua nghiến cứu nguồn gốc tộc
người Tày cổ.
- Thời gian tồn tại nước Âu lạc: thông qua việc nghiến cứu thời gian ra
đời và kết thúc nhà nước Âu lạc.
2. Phương pháp nghiến cứu
Bài viết có sử dụng một số phương pháp nghiến cứu cơ bản như:
+ Hệ thống
+ So sánh, đối chiếu
+ Lựa chọn dẫn chứng.
+ Phân tích - tổng hợp.
+ Nhận xét, đánh giá.
+ Một số phương pháp khác.
V. Cấu trúc đề tài
Phần 1: Mở đầu.
I. Lý do chọn đề tài.
II. Mục đích nghiến cứu
III. Lịch sử vấn đề
IV. Phạm vi và phương pháp nghiến cứu.
V. Cấu trúc đề tài.
Phần 2: Nội dung:
I. Nguồn gốc Tày cổ của An Dương Vương.
1. Một vài nét về Cao Bằng và tộc người Tày cổ.
2. Văn hóa Tày Thái và văn hóa Việt cổ.
3. An Dương Vương - nguồn gốc Tày cổ.
II. Thời gian tồn tại nước Âu Lạc.
1. Thời gian ra đời.
2. Thời gian kết thúc.
11