Tải bản đầy đủ (.pptx) (22 trang)

Vận dụng cơ sở lý luận chủ nghĩa MacLenin về vấn đề dân tộc chỉ ra vấn đề cơ bản của dân tộc Việt Nam hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (484.13 KB, 22 trang )

Đề tài thảo luận nhóm 9:Vận dụng cơ sở lý luận chủ nghĩa MacLenin
về vấn đề dân tộc chỉ ra vấn đề cơ bản của dân tộc Việt Nam hiện nay

◊Cơ sở lý luận của chủ nghĩa mác leenin
về vấn đề dân tộc học
1

●Xu hướng phát triển dân tộc và vấn đề
dân tộc trong xây dựng chủ nghĩa xã hội
2

●Quan điểm cơ bản của chủ nghĩa Mac
Lenin trong vấn đề giải quyết vấn đề dân
tộc học
3

●Thực trạng vấn đề dân tộc nước ta
4

●Biện pháp giải quyết vấn đề cơ bản của
dân tộc Việt nam
5

Dân tộc là một hình thức tổ chức cộng đồng người có
tính chất ổn định được hình thành trong lịch sử, là sản
phẩm của quá trình phát triển lâu dài của lịch sử xã
hội. Trước khi dân tộc xuất hiện, loài người đã trải
qua những hình thức cộng đồng từ thấp đến cao: thị
tộc, bộ lạc, bộ tộc.
Khái niệm dân tộc
-Xu hướng thứ nhất: Trên thực tế, xu hướng này đã biểu hiện


thành phong trào đấu tranh chống áp bức dân tộc, thành lập các
quốc gia dân tộc độc lập.
Xu hướng này biểu hiện thành phong trào đấu tranh chống áp
bức dân tộc để tiến tới thành lập các quốc gia dân tộc độc lập và
có tác động nổi bật trong giai đoạn đầu của chủ nghĩa tư bản.
-Xu hướng thứ hai: Sự liên hiệp lại của các dân tộc trong một
quốc gia, các dân tộc của nhiều quốc gia nhằm mở rộng, tăng
cường quan hệ kinh tế, phá bỏ ngăn cách về kinh tế giữa các dân
tộc.
Xu hướng phát triển dân tộc và vấn
đề dân tộc trong việc xây dựng
CNXH
Các dân tộc ở từng quốc gia, kể cả các dân tộc ở nhiều quốc gia
muốn liên hiệp lại với nhau. Sự phát triển của lực lượng sản xuất,
của giao lưu kinh tế, văn hóa trong chủ nghĩa tư bản đã tạo mối
liên hệ quốc gia và quốc tế mở rộng giữa các dân tộc, xóa bỏ sự
biệt lập, khép kín, thúc đẩy các dân tộc xích lại gần nhau

+ Xét trong phạm vi các quốc gia xã hội chủ nghĩa có nhiều
dân tộc: Xu hướng thứ nhất biểu hiện trong sự nỗ lực của
từng dân tộc để đi đến sự tự chủ và phồn vinh của bản thân
dân tộc mình. Xu hướng thứ hai, tạo nên sự thúc đẩy mạnh
mẽ để các dân tộc trong cộng đồng quốc gia xích lại gần nhau
hơn, hòa hợp với nhau ở mức độ cao hơn trong mọi lĩnh vực
của đời sống xã hội.
=>Trong điều kiện của chủ nghĩa xã hội, hai xu hướng phát huy
tác động cùng chiều, bổ sung, hỗ trợ cho nhau và diễn ra trong
từng dân tộc, trong cả cộng đồng quốc gia trên cơ sở hợp tác bình
đẳng giữa các dân tộc, tôn trọng và hữu nghị.
+ Xét trên phạm vi thế giới, sự tác động của hai xu hướng khách

quan thể hiện rất nổi bật. Trong thời đại ngày nay, các dân tộc bị
áp bức đã vùng dậy đấu tranh xoá bỏ sự thống trị của chủ nghĩa
đế quốc để giành lấy quyền quyết định vận mệnh của dân tộc
mình, đó là quyền tự lựa chọn chế độ chính trị, quyền bình đẳng
với các dân tộc khác. Đây là một trong những mục tiêu chính trị
chủ yếu của thời đại - mục tiêu độc lập dân tộc.
Giải quyết vấn đề dân tộc thực chất là xác lập quan hệ công
bằng bình đẳng giữa các dân tộc trong một quốc gia,giữa các
quốc gia dân tộc trên các lĩnh vực
Ba nội dung cơ bản:
+các dân tộc hoàn toàn bình đẳng
+các dân tộc được quyền tự quyết
+liên hiệp công nhận tất cả các dân tộc.
Đây được coi là cương lĩnh dân tộc của chủ nghĩa Mác-Lênin
Quan điểm cơ bản của chủ nghĩa Mac lênin
trong vấn đề giải quyết vấn đề dân tộc
Hiện nay chúng ta đang sử dụng thuật ngữ dân tộc đa số và dân tộc
thiểu số, vậy nên hiểu thống nhất là:

Dân tộc đa số là dân tộc có số người đông nhất trong cộng đồng
các dân tộc Việt Nam, tức là dân tộc Kinh (Việt), dùng thuật ngữ
này là nói trên phạm vi cả nước chứ không là nói trên địa bàn
vùng hoặc địa phương nào đó.

-Dân tộc thiểu số, thuật ngữ này không đồng nghĩa với dân tộc
chậm phát triển, càng không phải là dân tộc lạc hậu, khái niệm
đó là chỉ những dân tộc có số người ít hơn so với dân tộc đa số.
Trong đó kể cả dân tộc Hoa, còn người Hoa không có quốc tịch
Việt Nam là Hoa Kiều.
Thực trạng vấn đề cơ bản của

dân tộc Việt Nam
- Về thành phần dân tộc:.
Ở Việt Nam, việc xác định thành phần dân tộc căn cứ theo 3 tiêu
chuẩn:
+ Ý thức tự giác dân tộc, tức là ý thức về sự thống nhất của
các thành phần trong cộng đồng người thể hiện bằng một tên gọi
chung.
+ Ngôn ngữ.
+ Văn hoá.
Thành phần dân tộc và
tộc danh

- Về tộc danh: Là tên gọi của dân tộc. Sau khi công bố danh mục thành
phần dân tộc thì tên gọi của các dân tộc được xác định một cách rõ
ràng. Đồng bào các dân tộc rất phấn khởi và tự hào từ nay đã được gọi
theo đúng tên gọi của chính dân tộc mình
Khác với trước đây, dưới thời Pháp thuộc bọn thống trị đã dùng
những tên gọi khinh miệt chia rẽ các dân tộc như: Thổ (Tày), Mán (Dao),
Mèo (Mông), Mọi (chỉ chung một số dân tộc ở miền núi) tuy nhiên về
tên dân tộc trong thời kỳ ban hành trước đây không ghi bằng tiếng phổ
thông mà ghi theo giọng nói nên khi đọc có dân tộc đã có người đọc sai
một ly đi một dặm như HMông đáng lẽ phát âm gần giống như từ Mông
của tiến g Việt, lại đọc chệnh đi là "Hơ Mông" là sai hoàn toàn.
Các dân tộc thiểu số ở nước ta hiện nay có gần 11 triệu người,
chiếm khoảng 14% dân số chung của cả nước:
+ Năm dân tộc là Tày, Thái, Khơme, Mường, Hoa, mỗi dân tộc có
hơn 1 triệu người.
+ Ba dân tộc là Nùng, Mông, Dao có số dân từ trên 50 vạn đến 1
ttriệu người.
+ Chín dân tộc là Gia Rai, Ê Đê, Ba Na, Sán Chay, Chăm, Xơ

Đăng, Sán Dìu, H'rê, Cơ Ho có số dân từ 10 vạn đến 50 vạn
người.
+ Mười bảy dân tộc có từ 1 vạn đến dưới 10 vạn người
+ Mười bốn dân tộc có từ 1 ngàn đến dưới 10 ngàn người.
+ Năm dân tộc có từ 194 đến dưới 1.000 người
Dân số
- Thành phần dân tộc và số dân của các dân tộc thiểu số ở Việt
Nam như trên cho thấy chiến lược đại đoàn kết dân tộc ở nước ta
có ý nghĩa quan trọng xuyên suốt quá trình xây dựng và bảo vệ
tổ quốc.
- Do lịch sử để lại của đất nước ta và sự phát triển của mỗi dân
tộc, cộng với điều kiện tự nhiên và địa bàn cư trú, nói chung trình
độ phát triển của các dân tộc thiểu số so với dân tộc đa số còn
thấp, giữa các dân tộc, phát triển cũng không đồng đều:
+ Có dân tộc, có vùng đã định canh định cư như Tày, Nùng, Thái,
Mường, Khơme, Chăm nhưng có dân tộc còn mang nặng tính
chất du canh du cư như Mông, Dao, Cơ Ho, Ba Na, M'Nông
+ Đời sống vật chất và tinh thần giữa các dân tộc, bên cạnh một
số trung tâm văn hóa có tính chất tiêu biểu như Tày, Nùng ở
Đông Bắc, Thái ở Tây Bắc, Gia Rai, Ê Đê, Ba NA ở Tây
Nguyên, Khơ Me ở Nam Bộ, Chăm ở Duyên Hải Trung Bộ
Về Xã hội

Nhưng nói chung sự phát triển của các dân tộc thiểu số còn
thấp so với dân tộc đa số, giữa các dân tộc và các vùng cũng
có sự chênh lệch với nhau, đặc biệt là số đồng bào dân tộc ở
vùng cao, biên giới, vùng sâu, vùng xa còn rất nhiều khó
khăn và kém phát triển về mọi mặt. Tuy nhiên cũng có dân tộc
đã phát triển tương đối như Khơ Me, Hoa, Chăm
- Các dân tộc thiểu số ở nước ta cư trú chủ yếu ở

miền núi, chiếm 3/4 diện tích cả nước, một số sinh
sống ở đồng bằng, hải đảo và đô thị.
- Cư trú trên toàn tuyến biên giới và vùng cao.
- Cư trú phân tán và xen kẽ với nhau, không hình
thành một vùng lãnh thổ riêng biệt.
Đặc điểm cư trú đó, có ý nghĩa cực kỳ quan trọng
đối với sự phát triển kinh tế và an ninh quốc phòng
của nước ta:
Về địa bàn cư trú
+ Về phát triển kinh tế, tiềm năng đất đai và rừng chủ yếu là ở miền núi, tài
nguyên khoáng sản, nguồn thuỷ năng phần lớn cũng tập trung ở vùng này. Địa
bàn đó vừa là mái nhà, là môi trường cho cả nước, vừa có ý nghĩa quan trọng
đối với sự nghiệp phát triển kinh tế của đất nước mà tiềm năng phát triển cây
công nghiệp, chăn nuôi rất lớn.
+ Về an ninh quốc phòng, địa bàn cư trú của các dân tộc thiểu số có vị trí, ý
nghĩa bảo vệ toàn vẹn lãnh thổ trong thời bình cũng như khi có chiến tranh
+ Các dân tộc sống xen kẽ là phổ biến, yếu tố này nói lên sự hoà hợp của
cộng đồng dân cư, mặt tốt là tạo điều kiện học hỏi, giúp nhau cùng tiến bộ,
nhưng cũng dễ va trạm dẫn đến mất đoàn kết.
Một nước có nhiều dân tộc như nước ta, truyền thống đoàn kết
là chủ yếu, nhưng cũng còn những mặc cảm, bọn phản động
thường lợi dụng vấn đề dân tộc để phục vụ âm mưu, thủ đoạn
của chúng. Do đó cần phải cảnh giác cao, có chính sách dân tộc
đúng và thực hiện nghiêm túc, không để kẽ hở cho bọn phản
động và phần tử xấu có thể lợi dụng được
Những chính sách dân tộc cơ bản của Đảng và Nhà nước
+ Có chính sách phát triển kinh tế hàng hoá ở các vùng dân tộc thiểu số
phù hợp với điều kiện và đặc điểm từng vùng, từng dân tộc
+ Tôn trọng lợi ích, truyền thống, văn hoá, ngôn ngữ, tập quán, tín ngưỡng
của đồng bào các dân tộc; từng bước nâng cao dân trí đồng bào các dân

tộc(dân tộc thiểu số vùng cao hải đảo)
+ Tiếp tục phát huy truyền thống đoàn kết và đấu tranh kiên cường của các
dân tộc
+ Tăng cường bồi dưỡng, đào tạo đội ngũ cán bộ dân tộc thiểu số; đồng thời
giáo dục tinh thần đoàn kết hợp tác cho cán bộ các dân tộc
Biện pháp giải quyết vấn đề
dân tộc học
Kết Luận
Tài Liệu Tham khảo

×