Tải bản đầy đủ (.doc) (33 trang)

Tìm hiểu việc thực hiện mục tiêu ổn định kinh tế của Việt Nam thời kì 2001 - 2005

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (279.13 KB, 33 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC HÀNG HẢI VIỆT NAM
KHOA KINH TẾ VẬN TẢI BIỂN
∞©∞
BÀI TẬP LỚN
MÔN KINH TẾ VĨ MÔ 1
Đề bài : Tìm hiểu việc thực hiện mục tiêu ổn định kinh tế của
Việt Nam thời kì 2001 - 2005
Ngày giao đề : 27/10/2011
Ngày nộp bài : 24/11/2011
Sinh Viên : Vũ Thành Tâm
Lớp : KTN 51 – ĐH3
Giáo viên hướng dẫn : Trương Thị Như Hà


Hải Phòng, tháng 11 năm 2011
1
1.Lời mở đầu
Ổn định, tăng trưởng kinh tế và phân phối công bằng là những mục tiêu cơ
bản được đặt ra trong suôt quá trính phát triển kinh tế của một đất nước. Nền kinh
tế ở điều kiện lạm phát hay suy thoái đều gây ra những tác động không tốt, làm
ảnh hưởng đến cuộc sống của người dan. Vì vậy Chính phủ phải dùng các công
cụ là các chính sách kinh tế vĩ mo để tác dộng vào nền kinh tế hướng nền kinh tế
đến trạng thái ổn định. Bước sang thế kỉ 21, toàn cấu hoá tiếp tục phát triển sâu
rộng và tác động đến tất cả các nước. Các quốc gia lớn nhỏ đang tham gia ngày
càng tích cực vào quá trình hội nhập quốc tế. Hoà bình, hợp tác và phát triển vẫn
là xu thế lớn, phản ánh đòi hỏi bức xúc của mỗi quốc gia, dân tộc trong qúa trình
phát triển. Tuy nhiên các cuộc chiến tranh cục bộ, xung đột vũ trang, xung đột tôn
giáo, chạy đua vũ trang, hoạt đọng can thiệp lật đổ, khủng bố vẫn thường xuyên
xảy ra ở nhiều nơi với tính chất và hình thức ngày càng đa dạng, phức tạp. Thế kỉ
21 đang mở ra những cơ hội to lớn nhưng cũng chứa đựng nhiều thách thức. Nền
kinh tế Việt Nam bước vào giai đoạn hội nhập được hưởng những cơ hội lớn


nhưng cũng phải đối mặt với những thách thức không nhỏ. Vì vậy trong điều kiện
hiện nay, những mụ tiêu đó càng trở nên quan trọng dối với nền kinh tê nước ta .
Một nền kinh tế ổn định, bền vững thì mới có thể phát triển, tăng trưởng và mới
có thể chống lại những nguy cơ đe doạ khi chúng ta gia nhập sân khấu quốc tế. Có
thẻ nói ổn định là mục tiêu rất quan trọng đối với nền kinh tế trong mọi thời kì.
Trong từng giai đoạn và từng thời kì khác nhau do điều kiện, hoàn cảnh khác
nhau thì việc thực hiện mục tiêu này cũng khác nhau. Dưới đây ta sẽ đi tìm hiểu
một số nét về việc thực hiện mục tiêu ổn định trong thời kì 2000-2005. Đây là
thời kì sau khi đất nước trải qua một thời kì dài lạm phát, chịu ảnh hưởng của
cuộc khủng hoảng châu Á năm 1997, kinh tế đất nước còn gặp rất nhiều khó
khăn. Sau hơn 10 năm đổi mới, chuyển đổi từ nền kinh tế bao cấp sang kinh tế thị
trường, kinh tế Việt Nam cũng đạt được một số thành tựu đáng kể. Trong thời kì
mở cửa, hội nhập, chính sách của CP có những thay đổi nhất định so với thời kì
trước đặc biệt là chính sách kinh tế đối ngoại. Đối với nước ta một nước nghèo
kém phát triển,nông nghiệp lạc hậu, trang bị kĩ thuật và kết cấu hạ tầng-xã hội còn
thấp , nhưng có nhưng có những tiềm năng chưa được khai thác. Để đảm bảo
đường lối xây dựng đát nước theo định hướng XHCN phát triển ngoại thương, mở
rộng hợp tác kinh tế, khoa học và công nghệ với nước ngoài là một tất yếu khách
quan và là một yêu cầu cấp bách. Chúng ta sẽ cùng tìm hiểu dưới đây tình hình
kinh tế-xã hội, lí do và cách thức thực hiện chính sách kinh tế đối ngoại vì mục
tiêu ổn định kinh tế của CP.
2
2.Nội dung chính:
Chương 1:
Lí thuyết về các mục tiêu kinh tế vĩ mô chủ yếu
a. Giới thiệu môn học ,vị trí môn học trong chương trình đại học
- Kinh tế học:
Kinh tế học là môn khoa học nghiên cứu xem xã hội sử dụng như thế nào
nguồn tài nguyên khan hiếm để sản xuất hàng hoá và dịch vụ thoả mãn nhu cầu
của cá nhân và của cả xã hội .

Kinh tế học được phân thành 2 ngành: kinh tế học vĩ mô và kinh tế học vi
mô.
- Kinh tế học vĩ mô:
Kinh tế học vĩ mô là một bộ phận của khoa học kinh tế, nghiên cứu sự vận
động và những mối quan hệ kinh tế chủ yếu của một đất nước trong phạm vi toàn
bộ nền kinh tế quốc dân của một đất nước nghĩa là kinh tế học vĩ mô nghiên cứu
sự lựa chọn của mỗi quốc gia trước các vấn đề kinh tế cơ bản bao gồm: tăng
trưởng, thất nghiệp, phát, xuất nhập khẩu, sự phân phối nguồn lực và thu nhập
giữa các thành viên trong nền kinh tế
Loại hình này tương phản với kinh tế học vi mô chỉ nghiên cứu về cách ứng
xử kinh tế của cá nhân người tiêu dùng, nhà máy, hoặc một loại hình công nghiệp
nào đó.
Những vấn đề then chốt được kinh tế học vĩ mô quan tâm nghiên cứu bao
gồm mức sản xuất, thất nghiệp, mức giá chung và cán cân thương mại của một
nền kinh tế. Phân tích kinh tế học vĩ mô hướng vào giải đáp các câu hỏi như: Điều
gì quyết định giá trị hiện tại của các biến số này? Điều gì quy định những thay đổi
của các biến số này trong ngắn hạn và dài hạn? Thực chất chúng ta khảo sát mỗi
biến số này trong những khoảng thời gian khác nhau: hiện tại, ngắn hạn và dài
hạn. Mỗi khoảng thời gian đòi hỏi chúng ta phải sử dụng các mô hình thích hợp
để tìm ra các nhân tố quyết định các biến kinh tế vĩ mô này.
Tăng trưởng, ổn định, phân phối công bằng và các chính sách kinh tế vĩ mô
để thực hiện những mục tiêu đó. Tổng cầu, tổng cung và sản lượng cân bằng, mức
giá chung. Thất nghiệp, lạm phát, và mối quan hệ giữa chúng cũng được đề cập.
Không chỉ nghiên cứu kinh tế vĩ mô trong nền kinh tế đóng mà ngày nay để phù
hợp với điều kiện mới còn phải nghiên cứu trong điều kiện mở. Tất các vấn đề
trên đều được đề cập trong môn học kinh tế vĩ mô.
3
b. Phân tích các chức năng của chính phủ và các mục tiêu kinh tế vĩ mô
chủ yếu
• Chức năng của chính phủ:

- Hiệu quả:
+ Trong nền kinh tế thị trường (kttt) tự do cạnh tranh có những doanh
nghiệp(DN) có kĩ thuật tốt hơn sẽ tìm được cách để giảm thiểu chi phí sản
xuất,bán sản phẩm với giá thấp để cạnh tranh với DN khác,dần dần loại bỏ các
đối thủ ra khỏi thị truờng để trở thành nguời bán duy nhất.Như vậy độc quyền đã
xuất hiện,nó gây ra hiện tượng mất không do sức mạnh độc quyền ,do nhà độc
quyền đặt giá cao và hạn chế sản lượng. Để đảm hiệu lực của thị trường tự do
cạnh tranh, CP phải can thiệp bằng cách đề ra đạo luật chống độc quyền.
+ “Những tác động bên ngoài ”(ngoại ứng ,ngoại tác) do các DN hoặc cá
nhân gây ra nhưng không phải trả chi phí hoặc không nhận đúng số tiền lẽ ra được
hưởng,bao gồm: tác động tiêu cực (như ô nhiếm môi trường…),tác động tích cực
(như hành động bảo vẹ môi trường …)
Để hạn chế những tác động tiêu cực từ bên ngoài thì CP phải đề ra đạo luật
chống ô nhiếm môi trường, chống khai thác đến cạn kiệt tài nguyên khoáng sản
+ “Hàng hoá công cộng” là những loại hàng hoá mà mọi người có thể sử
dụng nhưng chi phí về vốn rất lớn hoặc không thể thu được lợi nhuận nên các DN
tư nhân không có động cơ sản xuất ví vậy CP phải tham gia sản xuất hàng hoá
công cộng và cung cấp cho xã hội ,mọi người sử dụng hàng hoá công cộng và trả
tiền bằng cách nộp thuế
- Công bằng
Trong nền kttt, hàng hoá được đặt vào tay những người có nhiều tiền nhất
chứ không phải theo nhu cầu lớn nhất. Vì vậy ngay cả trong nền kttt hoạt động có
hiệu quả vẫn có thể tồn tại sự bất bình đẳng về mức sống và thu nhập. CP phải
thực hiện chức năng công bằng bằng cách đánh thuế (thuế luỹ tiến ) cụ thể là thuế
thu nhập.
Thực chất của chức năng công bằng là CP lấy được một phần thu nhập của
những người có thu nhập cao rồi chuyển trả lại cho những người có thu nhập thấp
hơn dưới dạng trợ cấp.
- Ổn định
Lịch sử phát triển kinh tế cho thấy có những thời điểm nền kinh tế phát đạt

với tỉ lệ lạm phát tương đối cao nhưng cũng có thời điểm nền kinh tế suy thoái
nặng nề kèm theo tỉ lệ thất nghiệp ngày càng tăng. Để ổn định nền kinh tế, CP
4
phải thực hiện các chính sách kinh tế vĩ mô phù hợp nhằm giữu được đà tăng
trưởng và ổn định trật tự xã hội
• Các mục tiêu kinh tế vĩ mô chủ yếu
- Các mục tiêu tổng quát
Mục tiêu kinh tế vĩ mô cơ bản là đạt được sự ổn định trong ngắn hạn, tăng
trưởng nhanh trong dài hạn, và phân phối của cải một cách công bằng
+Sự ổn định: là kết quả của việc giải quyết những vấn đề kinh tế cấp bách
như lạm phát, thất nghiệp
+ Tăng trưởng kinh tế: đòi hỏi giải quyết các vấn đề dài hạn hơn liên quan
đến sự phát triển kinh tế
+ Phân phối công bằng: là vấn đề nền kinh tế phải giải quyết thường
xuyên để đảm bảo sự ổn định và tăng trưởng
- Các mục tiêu cụ thể:
+ sản lượng:
Trong ngắn hạn: đạt được sản lượng thực tế cao tương ứng với sản lượng
tiềm năng
Trong dài hạn: làm tăng sản lượng tiềm năng để đảm bảo tốc độ tăng trưởng
kinh tế cao và bền vững
+ Việc làm: tạo được nhiều việc làm có thu nhập cao
+ Ổn định giá cả: giữ được giá cả không tăng hoặc không giảm quá nhanh
trong điều kiện kinh tế tự do
+ Kinh tế đối ngoại : ổn định tỉ giá hối đoái, đạt được cân bằng cán cân
thanh toán quốc tế và cán cân thương mại
+ Phân phối công bằng: Một số nước coi mục tiêu này là một trong các
mục tiêu quan trọng
Nhận xét: Những mục tiêu trên thể hiện nền kinh tế ở trạng thái lí tưởng
trong đó sản lượng ở mức toàn dụng nhân công, không có lạm phát, cán cân thanh

toán quốc tế cân bằng, tỉ giá hối đoái ổn định. Trên thực tế các chính sách kinh tế
vĩ mô chỉ có thế tối thiểu hoá các sai lệch so với trạng thái lí tưởng.
Các cặp mục tiêu trên có thể bổ sung cũng có thể mâu thuẫn nên trong quá
trính thực hiện các mục tiêu người ta phải sắp xếp thứ tự ưu tiên, nghĩa là lựa
chọn một mục tiêu và chấp nhận hi sinh các mục tiêu khác
Trong dài hạn, thứ tự ưu tiên các mục tiêu cũng khác nhau. ở các nước kém
phát triển thì mục tiêu ưu tiên hàng đầu là sản lượng và việc làm.
Ví dụ: năm 1987, chỉ số lạm phát của VN là 700%
5
Chọn mục tiêu ổn định giá cả: CP thực hiện chính sách tiền tệ, tăng lãi suất
(12%/tháng). kết quả C giảm,I giảm dẫn đến tổng cầu AD giảm làm cho giá giảm
(kiểm soát được lạm phát) nhưng Q giảm (kinh tế suy thoái)
Chọn mục tiêu sản lượng: CP thực hiện chính sách tiền tệ , giảm lãi suất
(giảm từ 10,4% xuống 0,5%). kết quả C tăng ,I tăng dấn đến tổng cầu tăng, sản
lượng tăng (kinh tế thoát khỏi suy thoái)
c. Trình bày các chính sách kinh tế vĩ mô nhằm mục tiêu ổn định và
phương thức tác động của mỗi chính sách đối với nền kinh tế trong điều kiện
suy thoái và lạm phát.
• Chính sách tài khoá
- ĐN: chính sách tài khoá là việc CP dúng thuế khoá và chi tiêu công cộng
để tác động đến nền kinh tế hướng nền kinh tế đến mức sản lượng và việc làm
mong muốn
- Công cụ: chi tiêu chính phủ (G) và thuế (T)
- Đối tượng: Quy mô của chi tiêu công cộng ,chi tiêu của khu vực tư nhân,
sản lượng
- Mục tiêu:
Trong ngắn hạn: tác động đến sản lượng thực tế và lạm phát nhằm ổn định
nền kinh tế.
Trong dài hạn: tác động đến sản lượng tiềm năng thông qua việc làm thay
đổi cơ cấu sản xuất nền kinh tế, hướng nền kinh tế đến sự phát triển lâu dài.

- Phương thức tác động nền kinh tế:
Trong điều kiện lạm phát: tăng thuế và giảm chi tiêu CP hoặcthựchiện đồng
thời cả hai thì tổng cầu giảm dẫn đến sản lượng giảm ,giágiảm và nền kinh tế
thoát khỏi lạm phát
Trong nền kinh tế suy thoái: giảm thuế và tăng chi tiêu CP thì tổng cầu tăng
dẫn đến sản lượng tăng, tỉ lệ thất nghiệp giảm và nền kinh tế thoát khỏi lạm phát
• Chính sách tiền tệ
- ĐN: là chính sách tác dộng đến đầu tư tư nhân, hướng nền kinh tế tới mức
sản lượng và việc làm mong muốn
- Công cụ: mức cung tiền (MS) và lãi suất (i)
- Đối tượng: đầu tư, chi tiêu của các hộ gia đình, tiết kiệm,tỷ giá hối đoái
- Mục tiêu: giống chính sách tài khoá
- Phương thức tác động đến nền kinh tế:
6
Trong điều kiện lạm phát: tăng lãi suất, giảm mức cung tiền hoặc thực hiện
đồng thời cả hai sẽ làm tổng cầu giảm, sản lượng giảm, giá giảm và nền kinh tế
thoát khỏi lạm phát
Trong điều kiện suy thoái: giảm lãi suất và tăng mức cung tiền hoặc thực
hiện đồng thời cả hai sẽ làm tăng tổng cầu, tăng sản lượng , tỉ lệ thất nghiệp giảm
và nền kinh tế thoat khỏi suy thoái
• Chính sách thu nhập
- ĐN: bao gồm các biện pháp mà CP sử dụng nhằm tác động trực tiếp đến
tiền công, giá cả và để kiềm chế lạm phát
- Công cụ: tiền lương danh nghĩa (Wn)
- Đối tượng tác động: chi tiêu của các hộ gia đình và tổng cung nhắn hạn
- Mục tiêu: để kiềm chế lạm phát
- Phương thức tác động đến nền kinh tế:
Trong điều kiện lạm phát: cố định tiền lương danh nghĩa trong một thời kì
để kiềm chế lạm phát
Chính sách này sử dụng nhiều lọai công cụ, từ các công cụ có tính chất cứng

rắn như giá, đồng lương, những chỉ dẫn chung để ấn định tiền công và giá cả,
những quy tắc pháp lý ràng buộc sự thay đổi giá cả và tiền lương… đến những
công cụ mềm dẻo hơn như việc hướng dẫn, khuyến khích bằng thuế thu nhập
VD : W tăng => Ctăng => AD tăng => Q tăng => thất nghiệp giảm, P tăng.
Mặt khác, W tăng => SAS giảm => Q giảm => U tăng => P tăng.
Tóm lại W tăng => P tăng => để khắc phục phải cố định lương trong 1
khoảng thời gian nào đó.
• Chính sách kinh tế đối ngoại
- ĐN: là chính sách nhằm ổn định tỉ giá hối đoái giữ cho thâm hụt cán cân
thanh toán quốc tế ở mức có thể chấp nhận được
- Công cụ: thuế quan, hạn ngạch, tỷ giá hối đoái
- Đối tượng tác động: hoạt động xuất nhập khẩu và đầu tư nước ngoài
- Mục tiêu: chống suy thoái và lạm phát, ổn định tỉ giá hối đoái và các cân
thanh toán quốc tế
- Phương thức tác động đến nền kinh tế:
Trong điều kiện lạm phát: giảm tỉ giá đòng nước ngoài sa với đòng Việt
Nam, tăng nhập siêu nhưng trong giới hạn cho phép…
Trong điều kiện suy thoái: tăng tỉ giá đồng nước ngoài so với đồng Việt
Nam, giảm nhập siêu…
7
VD: để chống suy thoái, quyết định phá giá đồng Việt Nam => e giảm => X
tăng, IM giảm => xuất khẩu ròng : NX tăng => X tăng , IM giảm => AD tăng =>
Q tăng, U giảm, P tăng.
Để chống lạm phát, quyết định tăng giá đồng Việt Nam => e tăng => X
giảm, IM tăng => NX giảm => AD giảm => Q giảm, U tăng, P giảm.
d. Phân tích cú sốc cầu và cú sốc cung để rút ra bản chất của kinh tế và
các chính sách thích ứng
 Cú sốc cầu
- ĐN: cú sốc cầu là sự thay đổi tổng cầu một cách đột biến do các tác nhân
bên trong và bên ngoài hệ thống kinh tế gây ra

Giả sử nền kinh tế đang cân bằng ổn định tại E tương ứng với mức sản
lượng Q
o
và mức giá chung P
o
như hình vẽ:
• Cú sốc làm tăng tổng cầu
Giả sử các tác nhân kinh tế lạc quan hơn về sự phát triển kinh tế, quy định
chỉ tiêu nhiều hơn làm tổng cầu tăng nhanh. Đường tổng cầu dịch chuyển sang
phải từ AD sang AD
1
xác lập điểm cân bằng mới E
1
tương ứng với mức sản lượng
cân bằng Q
1
và mức giá chung P
1
đều tăng tạo nên cú sốc cầu
Chính phủ thực hiện chính sách tài khoá và tiền tệ thắt chặt để ổn định lại
kinh tế. Chính sách tài khoá (giảm chi tiêu ,tăng thuế hoặc thực hiện đồng thời cả
hai ). Chính sách tiền tệ (tăng lãi suất,giảm mức cung tiền hoặc đồng thời cả hai )
Kết quả tổng cầu giảm, đường tổng cầu AD
1
dịch chuyển về AD , khôi phục
điểm cân bằng E ,Q
o
,P
o
P

Q
SAS
0
AD
1
AD
AD
1
0
Q
2
Q
0
Q
1
E
1
E
E
2
P
1
P
0
P
2
LAS
8
• Cú sốc làm giảm tổng cầu
Giả sử các tác nhân kinh tế bi quan về sự phát triển và kinh tế và quyết định

cắt giảm các khoản chi tiêu làm cho tổng cầu giảm. Đường tổng cầu dịch chuyển
sang trái từ AD sang AD
2
xác lập điểm cân bằng mới E
2
tương ứng với P
2
và Q
2
đề giảm
Chính phủ thực hiện chính sách tài khoá và chính sách tiền tệ nới lỏng hay
mở rộng.Chính sách tài khoá (tăng chi tiêu, giảm thuế hoặc đồng thời cả hai.
Chính sách tiền tệ (giảm lãi suất, tăng mức cung tiền hoặc đồng thời cả hai)
Kết quả là tổng cầu tăng dần, đường tổng cầu AD
2
dịch chuyển dần trở về
AD, xác lập lại điểm cân bằng E, Q
o
, P
o
 cú sốc cung
- ĐN: cú sốc cung là sự thay đổi đột biến của tổng cung do các nguyên
nhân bên trong và bên ngoài hệ thống gây ra, thường do sự thay đổi giá của các
yếu tổ sản xuất
giả sử nền kinh tế đang cân bằng ổn định tại E tương ứng với mức giá chung
P
o
và mức sản lượng Q
o
• cú sốc cung có lợi: là cú sốc cung làm tăng tổng cung

• cú sốc cung bất lợi: là cú sốc cung làm giảm tổng cầu
Giả sử giá dầu thế giới tăng làm cho chi phí sản xuất tăng dẫn đến tổng
cung ngắn hạn giảm, dịch chuyển sang trái từ SAS
0
sang SAS
1
xác lập điểm cân
bằng mới E
1
tương ứng với mức giá chung P
1
và mức sản lượng chung Q
1
< Q
o

P
1
>P
o
, nền kinh tế suy thoái và lạm phát.
Q
P
2
P
1
P
0
SAS
1

SAS
0


AD
1
AD
0
E
E
1
E
2
9

P
Q2 Q
0
LAS
Nếu CP chọn mục tiêu sản lượng thì sử dụng chính sách tài khoá và tiền
tệ mở rộng. Kết quả tăng sản lượng,Q
1
tiến dần về mức sản lượng tiềm năng Q
o
,
đường cầu dịch chuyển sang phải từ AD

sang AD
1
,xác lập cị trí cân bằng mới E

2
giải quyết được vấn đề sản lượng nhưng giá P
2
>P
1
dẫn đến lạm phát hơn
Nếu CP chọn mục tiêu ổn định giá cả thì sủ dụng chính sách tài khoá
và tiền tệ thắt chặt. Kết quả giảm giá P
1
về P
o,
tổng cầu dịch chuyển sang trái từ
AD sang AD
2
, xác lập vị trí cân bằng mới E
3
giải quyết được vấn đề ổn định giá
cả nhưng Q
2
< Q
1
, nền kinh tế càng suy thoái.
Vậy khi nền kinh tế gặp cú sốc cung bất lợi thì xảy ra hiện tượng suy
thoái kèm theo lạm phát, các nhà hoạch định chính sách không thể dịch chuyển
đường tổng cầu theo hường triệt tiêu sự sụt giảm của sản lượng và sự gia tăng của
mức giá.
Tóm lại: Những biến động của nền kinh tế có thể coi là những dao động
ngắn hạn xung quanh đường xu hướng trong dài hạn. Nền kinh tế có thể bị tác
động của nhiều cú sốc.Các cú sốc như vậy có thể tạo ra những biến động không
hiệu quả. Do đó CP có thể sử dụng các chính sách ổn định để chống lại chu kì

kinh doanh.
Chương 2
Đánh giá việc thực hiện mục tiêu ổn định kinh tế của của Việt Nam thời
kì 2001-2005.
a.Nhận xét chung tình hình kinh tế - xã hội của Việt Nam để đưa ra lí do
phải thực hiện mục tiêu ổn định kinh tế

Nền kinh tế Việt Nam còn nhiều mặt yếu kém, đã trải qua hầu hết các
loại lạm phát như lạm phát phi mã trong thời kỳ 1986-1988 với tỷ lệ lạm phát
trung bình năm đạt 463,9%/năm; lạm phát cao trong thời kỳ 1989 - 1992, với tỷ lệ
lạm phát bình quân năm tương ứng là 46,7%/năm; lạm phát thấp trong thời kỳ
1996 - 1999 và 2001 - 2003 với tỷ lệ lạm phát tương ứng là 4,4%/năm và
4,3%/năm
Năm 2000 là năm đầu tiên Hiệp định Thương mại Song phương Việt-
Mỹ vừa mới được ký kết (tháng 7/2000), cho nên được hy vọng là sẽ tạo ra “cú
hích” đẩy nền kinh tế nước ta phát triển vượt bậc nhờ hai nguồn động lực. Đó
trước hết là xuất khẩu sẽ tăng đột biến nhờ thị trường nhập khẩu có thể ví như
“chiếc thùng không đáy” so với năng lực xuất khẩu cực kỳ nhỏ của nước ta (kim
10
ngạch xuất khẩu của nước ta ở thời điều này chỉ bằng 1,12% kim ngạch xuất khẩu
của Mỹ).
Tiếp theo, đó là chỉ cần một phần rất nhỏ trong nguồn vốn đầu tư cũng
cực kỳ lớn của “người khổng lồ” này cũng có thể khiến nền kinh tế nước ta tăng
tốc. Mục tiêu tăng trưởng vượt bậc 7,5% năm 2001 của các nhà quản lý sau khi
nền kinh tế thoát khỏi tình trạng liên tục “tụt dốc” do những ảnh hưởng của cuộc
khủng hoảng kinh tế khu vực đạt được tốc độ phát triển ngoạn mục 6,79% năm
2000 có lẽ không ngoài ý tưởng nắm bắt thời cơ này để “thừa thắng xông lên”.
Tuy nhiên, trên thực tế, sự kiện ngày 11/9 đúng vào lúc nền kinh tế thế giới đang
trên đà giảm tốc chính là “thủ phạm chính” khiến cho mục tiêu này đã không trở
thành hiện thực.

Trước hết, các số liệu thống kê xuất khẩu hàng hoá của nước ta cho
thấy, tính đến hết tháng 8/2001, tốc độ tăng của đầu ra này vẫn còn đạt 11,5% và
với “tập quán đủng đỉnh” trong những tháng đầu năm, để rồi tăng tốc vào những
tháng cuối năm, chúng ta có thể hy vọng đạt được mục tiêu tăng 16% cả năm,
nhưng ngay trong tháng 9, tốc độ tăng xuất khẩu đã bắt đầu “rơi tự do” và cứ sau
mỗi tháng lại “tụt dốc” thêm một bậc.
Hiển nhiên, tuy thị trường Mỹ khổng lồ nhất thế giới, nhưng ở thời điểm
này, tác động trực tiếp của nó đối với việc xuất khẩu của nước ta “rơi tự do” như
vậy là rất nhỏ, bởi hai lẽ. Trước hết, xét về quy mô, kim ngạch xuất khẩu của
nước ta sang thị trường Mỹ năm 2001 chỉ mới đạt 1,065 tỷ USD và chỉ chiếm
7,09% tổng kim ngạch xuất khẩu.
Những điều đó có nghĩa là, những tác động gián tiếp của sự kiện 11/9
đến sự “tụt dốc” của “đoàn tàu xuất khẩu” nước ta mới là chủ yếu. Bởi lẽ, trong
khi kim ngạch xuất khẩu của nước ta sang thị trường Mỹ tăng phi mã như vậy, thì
xuất khẩu sang hầu như tất cả các thị trường khác, trước hết là các thị trường chủ
yếu ở khu vực châu Á, hoặc là giảm, hoặc “giậm chân tại chỗ hoặc chỉ giảm nhẹ.
Sở dĩ như vậy là do xuất khẩu của hầu hết các quốc gia này cũng có “đích đến” rất
quan trọng là thị trường Mỹ, và một khi “đích đến” này bị thu nhỏ, tất yếu sẽ gây
ra tình trạng trì trệ dây chuyền. Việc tổng kim ngạch xuất khẩu toàn cầu năm
2000 tăng phi mã 13,28%, nhưng năm 2001 đột ngột giảm 3,86%, còn thị trường
Mỹ chiếm tới 19-19,5%, “rổ hàng hoá nhập khẩu” này thì cặp số liệu tương ứng là
18,74% và -6,15% cho thấy rất rõ điều đó.
Bên cạnh đó, khoảng thời gian hơn một năm cũng là quá ngắn để các nhà
đầu tư Mỹ có thể tăng vốn đầu tư vào thị trường nước ta.
11
Bằng chứng là, sau khi sự kiện 11/9 khiến cả thế giới rung chuyển đã diễn ra
được gần 3 tuần lễ, nhưng dựa trên tốc độ xuất khẩu ước thực hiện 10,5% của 9
tháng, Tổng cục Thống kê vẫn cho rằng sẽ không diễn ra các bước “tụt dốc” nói
trên, cho nên đã dự báo cả năm 2001 đạt 16 tỷ USD, tương ứng với tốc độ tăng
“không tưởng” 10,7%, nhưng thực tế chỉ đạt xấp xỉ 3,8% và đây cũng là một căn

cứ rất quan trọng để đưa ra một dự báo “không tưởng” khác là tốc độ tăng GDP
cả năm sẽ đạt 7,1% (thực tế chỉ đạt 6,89%), bởi khoản kim ngạch xuất khẩu bị
“hụt” so với dự báo gần 1 tỷ USD, tương ứng với 3,05% GDP của năm này.
Trong khi đó, cảnh báo về tác động dây chuyền khiến tốc độ xuất khẩu của
nước ta “rơi tự do” dẫn đến sự giảm tốc của nền kinh tế thì bị coi là “lạc lõng”, là
dự báo bi quan.
Ước tổng vốn đầu tư đưa vào nền kinh tế 4 năm 2001-2004 (tính theo giá
2000) khoảng 731.000 tỷ đồng, đạt khoảng 88% kế hoạch 5 năm đề ra. Trong đó,
vốn đầu tư thuộc ngân sách nhà nước chiếm 21,9%; vốn tín dụng đầu tư của nhà
nước chiếm 14,7%, vốn đầu tư của doanh nghiệp nhà nước chiếm 17,7%; vốn đầu
tư của tư nhân và dân cư chiếm 25,7%; vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài chiếm
17,3%. Trong 4 năm 2001-2004 cam kết ODA dự kiến đạt khoảng 10,5tỷ USD;
giải ngân ODA ước đạt khoảng 6,2 tỷ USD.
Các quan sát viên kinh tế thế giới đã nhìn thấy những dấu hiệu từ cuối năm
2000 về tăng trưởng chậm lại trên toàn cầu, mà chủ yếu là do kinh tế Mỹ tăng
chậm lại đáng kể, những quan ngại về sự phục hồi trong kinh tế Nhật Bản, viễn
cảnh tăng trưởng ở mức vừa phải của châu Âu, và khả năng suy giảm tăng trưởng
ở một số nền kinh tế mới nổi, đặc biệt là những nền kinh tế có mối liên hệ mật
thiết với công nghệ và viễn thông toàn cầu, sau cuộc sụt giá nặng nề của các cổ
phiếu trong ngành công nghệ thông tin và viễn thông từ tháng 3-2000, nhất là sau
biến cố khủng bố tại Mỹ vào ngày 11-9-2001. Do đó, mức tăng trưởng cho nền
kinh tế thế giới năm 2001 đã liên tục được ước lượng thấp đi, từ 3,4% (ước lượng
tháng 4-2001 bởi IMF) xuống chỉ còn 2,4% vì ảnh hưởng của khủng bố, theo tính
toán sau cùng (tháng 12-2001) của IMF, so với mức tăng của năm 2000 là 5%, và
năm 1998 với khủng hoảng tài chính châu Á là 6%.
Trong nước, vấn đề ngoại thương còn nhiều yếu kém:quy mô còn nhỏ bé, cơ
cấu xuất khẩu lạc hậu, thị trường bấp bênh, nhiều doanh nghiệp chưa giữ được
chữ tín với doanh nghiệp nước ngoài, công tác quản lí còn nhiều bất cập. Bên
cạnh đó phải nói đến chất lượng các mặt hàng xuất khẩu của Việt Nam còn kém .
Về tình hình thiên tai; lũ lụt đặc biệt ở các tỉnh miền Trung năm nào cũng

gây ra những mất mát rất lớn về tính mạng và tài sản cho nhân dân nơi đây. Các
12
đợt nắng nóng ở miền Bắc làm ảnh hưởng đến sản lượng lúa, ảnh hưởng đến đới
sống nông dân.
Việc thực hiện thắng lợi kế hoạch 5 năm 2001-2005 với phương hướng, mục
tiêu và các nhiệm vụ nêu trên có ý nghĩa rất quan trọng vì đây không những là kế
hoạch tiếp tục thực hiện Chiến lược đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất
nước đã được đề ra từ Đại hội Đảng lần thứ VIII, mà còn là kế hoạch 5 năm đầu
tiên thực hiện Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 10 năm 2001-2010.
Khi triển khai thực hiện kế hoạch 5 năm này, thuận lợi cơ bản là sau 15 năm
đổi mới và hội nhập quốc tế, thế và lực của nước ta cũng như kinh nghiệm tổ chức,
quản lý và điều hành nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa đều đã tăng
lên đáng kể. Những thuận lợi này tạo nên sức mạnh tổng hợp về vật chất và tinh
thần để tiếp tục sự nghiệp đổi mới nói chung và triển khai kế hoạch phát triển kinh
tế - xã hội 2001-2005 nói riêng. Tuy nhiên, khó khăn cũng không phải là ít. Trong
khi nền kinh tế còn nhiều mặt yếu kém, thì giá cả của nhiều loại vật tư nguyên vật
liệu đầu vào quan trọng như xăng dầu, sắt thép, phân bón, chất dẻo liên tục tăng;
thiên tai (hạn hán, bão lũ) và dịch bệnh (dịch SARS, dịch cúm gia cầm) lại xảy ra
trên diện rộng. Thêm vào đó, môi trường kinh tế thế giới và khu vực diễn biến hết
sức phức tạp do tác động tiêu cực của thảm hoạ môi trường; mâu thuẫn tôn giáo, sắc
tộc và khủng bố quốc tế.
Những thuận lợi cùng với khó khăn nêu trên đã làm cho tình hình kinh
tế - xã hội 5 năm 2001-2005 của nước ta vừa diễn biến theo chiều hướng tích cực với
nhiều thành tựu mới, vừa bộc lộ rõ những mặt hạn chế và bất cập. Trên cơ sở số liệu
đã thu thập và tổng hợp được, Tổng cục Thống kê khái quát động thái và thực trạng
kinh tế - xã hội 2001-2005 của nước ta bằng một số chỉ tiêu định lượng.
Tóm lại: nền kinh tế việt nam trong giai đoạn này tuy có nhiều điều kiện
thuận lợi hơn các giai đoạn trước nhưng cũng có nhiều khó khăn cần khắc phục.
Lạm phát tuy đã giảm nhưng vẫn còn ảnh hưởng đén nền kinh tế, nền kinh tế vẫn
còn yếu kém, đời sống nhân dân còn nhiều khó khăn. Hơn nữa đây là giai đoạn

chịu nhiều ảnh hưởng của tình hình thế giới, đặc biệt về lĩnh vực kinh tế ngoại
thương thì càng chịu nhiều ảnh hưởng do các đối tác nước ngoài của chúng ta rơi
vào khó khăn. Vì có những bất ổn về kinh tế như vậy, CP Việt Nam phải kịp thời
đưa ra các chính sách kinh tế vĩ mô đặc biệt chính sách kinh tế đối ngoại trong
giai đoạn này là rất cần thiết để vừa giữ gìn sự ổn định của nền kinh tế vừa thực
hiện mục tiêu tăng trưởng, vừa hội nhập, mở rộng quan hệ hợp tác quốc tế vừa
bảo vệ nền kinh tế nước nhà trước những cơn biến động của thế giới.
b. Thu thập các thông tin về các chính sách mà CP Việt Nam sử dụng để
ổn định nền kinh tế và phân tích kết quả thực tế thu được
Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng họp tại thủ đô Hà Nội từ ngày
19 tháng 4 năm 2001 đến ngày 22 tháng 4 năm 2001 đã thảo luận và nhất trí thông
qua các văn kiện quan trọng, trong đó có Phương hướng, nhiệm vụ kế hoạch phát
triển kinh tế - xã hội 5 năm 2001-2005 với mục tiêu tổng quát là: Tăng trưởng kinh tế
13
nhanh và bền vững, ổn định và cải thiện đời sống nhân dân. Chuyển dịch mạnh cơ
cấu kinh tế, cơ cấu lao động theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Nâng cao rõ
rệt hiệu quả và sức cạnh tranh của nền kinh tế. Mở rộng kinh tế đối ngoại. Tạo
chuyển biến mạnh về giáo dục và đào tạo, khoa học và công nghệ, phát huy nhân tố
con người. Tạo nhiều việc làm; cơ bản xoá đói; giảm số hộ nghèo; đẩy lùi các tệ nạn
xã hội. Tiếp tục tăng cường kết cấu hạ tầng kinh tế, xã hội; hình thành một bước
quan trọng thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Giữ vững ổn định
chính trị và trật tự an toàn xã hội, bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, toàn vẹn
lãnh thổ và an ninh quốc gia.
Trên cơ sở phương hướng, mục tiêu tổng quát và các nhiệm vụ chủ
yếu, Đại hội cũng đã đưa ra một số chỉ tiêu định hướng phát triển kinh tế trong 5 năm
2001-2005 là:
 Đưa tổng sản phẩm trong nước năm 2005 gấp 2 lần so với năm 1995.
 Nhịp độ tăng trưởng tổng sản phẩm trong nước bình quân hàng năm
thời kỳ 5 năm 2001-2005 là 7,5%, trong đó nông, lâm, ngư nghiệp
tăng 4,3%; công nghiệp và xây dựng tăng 10,8%; dịch vụ tăng 6,2%.

 Giá trị sản xuất nông, lâm, ngư nghiệp tăng 4,8%/năm; giá trị sản
xuất ngành công nghiệp tăng 13%/năm; giá trị dịch vụ tăng
7,5%/năm.
 Tổng kim ngạch xuất khẩu tăng 16%/năm.
 Đến năm 2005 tỷ trọng nông, lâm, ngư nghiệp trong tổng sản phẩm
trong nước chiếm 20-21%; tỷ trọng công nghiệp và xây dựng chiếm
38-39%; tỷ trọng các ngành dịch vụ chiếm 41-42%.
 Tạo việc làm, giải quyết thêm việc làm cho khoảng 7,5 triệu lao
động, bình quân 1,5 triệu lao động/năm; nâng tỷ lệ lao động qua đào
tạo lên 30% vào năm 2005.
 Cơ bản xoá hộ đói, giảm tỷ lệ hộ nghèo xuống còn 10% vào năm
2005.
Các chính sách mà CP Việt Nam sử dụng
- Đường lối đối ngoại của Việt Nam trong thời kì hội nhập:
Thực hiện đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ ,rộng mở,đa dạng hóa, đa
phương hóa quan hệ quốc tế ,chủ động hội nhập quốc tế với phương châm “ Việt
Nam sẵn sàng là bạn là đối tác tin cậy của tất cả các nước trong cộng đồng thế
giới phấn đấu vì hòa bình, độc lập và phát triển”. Việt Nam đặt ưu tiên cao cho
việc mở rộng quan hệ kinh tế đối ngoại, mở rộng và đa dạng hoá thị trường, tranh
thủ vốn, kinh nghiệm quản lý và khoa học công nghệ tiên tiên cho sự nghiệp công
nghiệp hoá và hiện đại hoá đất nước.
- Tỷ giá hối đoái:
14
Trong quá trình hội nhập vào nền kinh tế thế giới, trên nền tảng cơ chế tỷ
giá đã lựa chọn, việc điều hành chính sách tỷ giá phải theo hướng ngày càng linh
hoạt hơn. NHNN đang thực thi lộ trình linh hoạt hóa tỷ giá kể từ năm 2004 qua
nhiều bước. Trước hết là bãi bỏ các trần cố định về tỷ giá kỳ hạn để thay bằng
chênh lệch lãi suất (tháng 5-2004). Tiếp đến là thừa nhận tính tự do chuyển đổi
của các ngoại tệ mạnh, cho phép chuyển đổi giữa các ngoại tệ không cần chứng
từ, chính thức áp dụng quyền chọn ngoại tệ (tháng 11-2004). Các ngân hàng

thương mại tiến hành thí điểm quyền chọn đô la Mỹ và tiền đồng trong điều kiện
được tự do thỏa thuận phí quyền chọn (tháng 6-2005). Những bước đi này có
dụng ý để thị trường tự điều chỉnh tỷ giá chừng nào mà Việt Nam chưa thể áp
dụng cơ chế tỷ giá thả nổi hoàn toàn (independent floating ). Rõ ràng trong điều
hành chính sách tỷ giá, NHNN luôn coi trọng tính thị trường, đã cung ứng cho thị
trường nhiều công cụ để xác lập tỷ giá cân bằng. Điều này chứng minh rằng
NHNN không hề có ý định và cũng không thể “ém” tỷ giá như một số nhận định.
Hiệu quả điều hành chính sách suy cho cùng là những hệ quả mà chính sách đó
mang lại: thị trường ngoại hối ổn định, cán cân thương mại được cải thiện, dự trữ
quốc tế ròng tăng mạnh là những vấn đề cần được tham chiếu khi đánh giá
chính sách tỷ giá. Có thể nói trong “dung dịch thả nổi có điều tiết” của cơ chế tỷ
giá đã lựa chọn thì “nồng độ thả nổi” ngày càng tăng lên và vai trò “điều tiết” đích
thực của NHNN chỉ là tạo điều kiện cho thị trường có được một kỳ vọng hợp lý.
Việt Nam đã ổn định được VND so với đồng USD bằng cách áp dụng chính
sách tỷ giá hối đoái giới hạn biên độ giao dịch, theo đó, VND được phép dao
động trong một biên độ hẹp. Việt Nam cũng duy trì kiểm soát giá cả đối với các
mặt hàng chủ chốt và thuế quan. Nhờ vào chính sách như vậy mà nền kinh tế Việt
Nam đã có được sự ổn định về mặt giá cả trong thời gian dài.
Tỷ giá VND/USD hàng ngày được xác định bằng cách cho phép tỷ giá
liên ngân hàng cố định trong ngày hôm trước được dao động trong biên độ tối đa
+/- 0.25%. Cơ chế này có thể được coi là “thả nổi có quản lý” và trong những
tháng gần đây nó đã đòi hỏi phải can thiệp nhiều hơn.Mặc dù vậy, dự trữ ngoại
hối tiếp tục tăng trong vòng vài tháng qua.
- Tài Chính và Tiền Tệ:
Tiếp tục đổi mới và lành mạnh hoá hệ thống tài chính - tiền tệ, tăng tiềm lực và khả
năng tài chính quốc gia, thực hành triệt để tiết kiệm; tăng tỷ lệ chi ngân sách dành
cho đầu tư phát triển; duy trì ổn định các cân đối vĩ mô; phát triển thị trường vốn
đáp ứng nhu cầu phát triển kinh tế - xã hội.
15
- Xuất nhập khẩu:

Nhà nước dảm bảo tín dụng xuất khẩu : là hình thức khuyến khích xuất khẩu
bằng cách nhà nước đứng ra lập các quỹ bảo hiểm xuất khẩu, quỹ này thực hiẹn
đảm bảo gánh vác mọi rủi ro, mạo hiểm mà các nhà xuất khẩu bán hàng hóa cho
nước ngoài với phương thức thanh toán trả chậm hoặc tín dụng dài hạn. hình thức
này hiện nay được thực hiện khá phổ biến ở nhiều nước trên thế giới để mở rộng
xuất khẩu thâm nhập thị trường mới. đặc biệt xuất khẩu thiết bị máy móc thời hạn
bảo đảm tín dụng có khi tới 15 năm hoặc 20 năm.
Nhà nước thực hiện tín dụng xuất khẩu.:mở rộng xuất khẩu bằng cách nhà
nước cho nước ngoài vay vốn với quy mô lớn ( lãi suất ưu đãi ) để nước vay sử
dụng số tiền đó mua hàng hóa của nước cho vay. nguồn vốn vay thường lấy từ
ngân sách nhà nước và việc cho vay thường kem theo các điều kiện chính trị và
kinh tế có lợi cho nước cho vay.
+ ) trợ cấp xuất khẩu : khuyến khích xuất khẩu bằng cách nhà nước dành sự
ưu đãi về mặt tài chính cho nhà xuất khẩu thông qua trợ cấp trực tiếp hoặc gián
tiếp.
+) bán phá giá hàng hóa : chiếm lĩnh thị trường xuất khẩu bằng cách bán
hàng theo giá rẻ hơn giá cả cầu thị trường thế giới. nhiều trường hợp giá bán hàng
xuất khẩu còn thấp hơn gía trị thực của hàng hóa. Đây là hình thức đánh bại đối
thủ cạnh tranh trên thị trường nước ngoài. về lâu dài có thể thu được lợi nhuận tối
đa nhưng trước mắt lợi nhuận bị giảm hoặc thua lỗ. nguồn tài chính chủ yếu để
thực hiện bán phá giá sản phẩm xuất khẩu là nguồn ngân sách nhà nước tài trợ.
+) bán phá giá hối đoái.
Bán phá gía hối đoái thể hiện việc xúat khẩu hàng hóa với giá thấp hơn giá
cả đối thủ cạnh tranh do sử dụng lợi nhuận phụ thu thêm được do sự mất gía của
đồng tiền. khác với bán phá giá hàng hóa, trong phá giá hối đoái
+) miễn giảm thuế và hoàn thuế.
Chủ trương dành ưu tiên cao nhất cho xuất khẩu; tạo nguồn hàng có chất
lượng, có giá trị gia tăng và sức cạnh tranh cao để xuất khẩu; góp phần giải quyết
việc làm cho xã hội, tạo nguồn dự trữ ngoại tệ, đáp ứng yêu cầu công nghiệp hoá,
hiện đại hoá đất nước; nhanh chóng rút ngắn khoảng cách phát triển kinh tế giữa

nước ta và các nước trong khu vực.
Chú trọng nâng cao giá trị gia công và chất lượng từng sản phẩm xuất khẩu;
giảm xuất khẩu hàng chế biến thô, tăng tỷ trọng hàng chế biến sâu bằng công
nghệ mới; giảm gia công, đẩy mạnh sản xuất hàng xuất khẩu sử dụng nguyên, vật
liệu chất lượng cao trong nước với công nghệ mới; cải thiện hệ thống hạ tầng cơ
sở nuôi, trồng, sử dụng các loại giống cây, con có sản lượng, chất lượng cao và
công nghệ chế biến thích hợp đi đôi với các biện pháp bảo vệ môi trường; phải có
quy hoạch vùng nguyên liệu cho từng nhóm sản phẩm; quy trình quản lý sản xuất
phải được tổ chức lại một cách khoa học và tiết kiệm nhất; từng bước xây dựng
tiêu chuẩn chất lượng quốc gia cho các loại hàng hóa xuất khẩu với nhãn hiệu
''sản xuất tại Việt Nam''.
16
Sản phẩm xuất khẩu phải đáp ứng được những yêu cầu đa dạng của thị
trường thế giới, đặc biệt là yêu cầu về chất lượng, mẫu mã hàng hoá. Mỗi loại
hàng hóa phải hình thành được các thị trường chính, chủ lực và tập trung khả
năng mở rộng các thị trường này, đồng thời chủ động mở rộng sang các thị trường
khác theo hướng đa phương hoá, đa dạng hoá quan hệ buôn bán; phải có đối sách
cụ thể với từng thị trường và từng bước giảm dần việc xuất khẩu qua các thị
trường trung gian. Định hướng chung là tận dụng mọi khả năng để duy trì tỷ trọng
xuất khẩu hợp lý vào các thị trường đã có ở châu á, đặc biệt là thị trường Nhật,
đẩy mạnh hơn nữa xuất khẩu trực tiếp vào các thị trường có sức mua lớn như Mỹ,
Tây Âu, thâm nhập, tăng dần tỷ trọng xuất khẩu vào các thị trường Đông Âu,
Nga, SNG và khu vực châu Mỹ, châu Phi.
Hạn chế việc nhập khẩu các sản phẩm trong nước đã sản xuất được và
sản xuất có chất lượng, đạt tiêu chuẩn quốc gia, quốc tế; tăng cường tiếp cận các
thị trường cung ứng công nghệ nguồn và có khả năng đầu tư hiệu quả như Tây
Âu, Mỹ, Nhật Bản
- Hạn ngạch, thuế quan:
Bộ Thương mại thực hiện phân bổ các hạn ngạch đối với các mặt hàng
xuất khẩu cho các doanh nghiệp đặc biệt là ngành dệt may. Đây cũng là biện pháp

nhằm sử dụng có hiệu quả tối đa nguồn hạn ngạch và tăng kim ngạch xuất khẩu.
Năm 2005, bộ thương mại quyết dịnh bổ sung các hạn ngạch cho ngành dệt may
Việt Nam để giảm tình trạng doanh nghiệp muốn xuất khẩu nhưng lại thiếu quota.
● Cụ thể theo báo cáo tình hình kinh tế của tổng cục thống kê nhà nước giai
đoạn 2001 – 2005 như sau:
Những thành tựu mới
Kinh tế tăng trưởng với tốc độ tương đối cao, vượt qua thời kỳ
suy giảm về tốc độ tăng trưởng; cơ cấu kinh tế tiếp tục chuyển
dịch theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá.
Cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ trong khu vực xảy ra cuối năm 1997
đã tác động tiêu cực đến nền kinh tế nước ta. Tổng sản phẩm trong nước trong
những năm 1992-1997 thường đạt mức tăng trưởng hàng năm 8-9% đã đột ngột
giảm xuống chỉ còn tăng 5,8% vào năm 1998 và tăng 4,8% vào năm 1999. Nhưng
từ năm 2000 đến nay, nền kinh tế nước ta đã lấy lại được đà tăng trưởng với tốc độ
tăng năm sau luôn luôn cao hơn năm trước (Năm 2000 tăng 6,79%; năm 2001 tăng
6,89%; năm 2002 tăng 7,08%; năm 2003 tăng 7,34%; năm 2004 tăng 7,79% và năm
2005 ước tính tăng 8,43%). Tính ra trong 5 năm 2001-2005, bình quân mỗi năm
17
tổng sản phẩm trong nước tăng 7,51%, đưa quy mô nền kinh tế năm 2005 gấp 1,44
lần năm 2000.
Tốc độ tăng tổng sản phẩm trong nước bình quân mỗi năm trong 5 năm
2001-2005 đạt 7,51% không những cao hơn hẳn tốc độ tăng bình quân 6,95% mỗi
năm trong kế hoạch 5 năm 1996-2000 mà còn đứng vào hàng các nền kinh tế có
tốc độ tăng trưởng cao của khu vực và thế giới (Theo số liệu của Ngân hàng Thế
giới và ESCAP thì tốc độ tăng tổng sản phẩm trong nước bình quân mỗi năm trong
những năm 2000-2004 của Trung Quốc là 8,5%; Hàn Quốc 5,5%; Thái Lan và
Ma-lai-xi-a 5,0%; In-đô-nê-xi-a 4,6%; Phi-li-pin 4,5%; Xin-ga-po 4,1%).
Tốc độ tăng tổng sản phẩm trong nước
5 năm 2001-2005
%


2001 2002 2003 2004
Ước
tính
2005
BQ mỗi
năm
2001-
2005
Tổng số 6,89 7,08 7,34 7,79 8,43 7,51
- Nông lâm nghiệp và thuỷ sản 2,98 4,17 3,62 4,36 4,04 3,83
- Công nghiệp và xây dựng 10,39 9,48 10,48 10,22 10,65 10,24
- Dịch vụ 6,10 6,54 6,45 7,26 8,48 6,96
Sở dĩ tổng sản phẩm trong nước đạt được tốc độ tăng trưởng như trên là do hầu
hết các ngành, các lĩnh vực then chốt của nền kinh tế đều có mức tăng trưởng khá cao.
Ước tính năm 2005 so với năm 2000, giá trị sản xuất nông lâm nghiệp và thuỷ sản
tăng 30% với tốc độ tăng bình quân mỗi năm 5,42%, trong đó nông nghiệp tăng
4,11%/năm, lâm nghiệp tăng 1,37%/năm, thuỷ sản tăng 12,12%/năm; giá trị sản xuất
công nghiệp gấp 2,1 lần, bình quân mỗi năm tăng 16,02%, trong đó công nghiệp Nhà
nước gấp 1,73 lần, bình quân mỗi năm tăng 11,53%; công nghiệp ngoài Nhà nước
gấp 2,69 lần, bình quân mỗi năm tăng 21,91%; công nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp
của nước ngoài gấp 2,17 lần, bình quân mỗi năm tăng 16,8%; tổng mức bán lẻ hàng
hoá và doanh thu dịch vụ tiêu dùng theo giá thực tế gấp 1,96 lần; tổng mức lưu
chuyển hàng hoá ngoại thương gấp 2,3 lần, bình quân mỗi năm tăng 18,18%, trong đó
xuất khẩu gấp 2,24 lần, bình quân mỗi năm tăng 17,5% nhập khẩu gấp gần 2,36 lần,
bình quân mỗi năm tăng 18,58%.
Tốc độ tăng của một số ngành
và một số lĩnh vực kinh tế 2001-2005
Năm Tốc độ tăng
18

2005 so
với
năm
2000
(Lần)
bình quân
mỗi năm
trong 5 năm
2001-2005
(%)
- Tổng sản phẩm trong nước theo giá so sánh 1994 1,44 7,51
- Giá trị sản xuất nông lâm nghiệp và thuỷ sản theo giá so sánh 1994 1,32 5,42
- Giá trị sản xuất công nghiệp theo giá so sánh 1994 2,10 16,02
- Tổng mức bán lẻ hàng hoá và doanh thu dịch vụ theo giá thực tế 1,96 14,41
- Tổng mức lưu chuyển hàng hoá ngoại thương theo giá thực tế 2,30 18,18
Trong 5 năm 2001-2005, kinh tế nước ta không những tăng trưởng tương đối
cao mà cơ cấu kinh tế còn tiếp tục chuyển dịch theo hướng công nghiệp hoá, hiện
đại hoá. Nếu phân chia nền kinh tế thành 3 khu vực: (1) Nông lâm nghiệp và thuỷ
sản; (2) Công nghiệp và xây dựng; (3) Dịch vụ, thì tỷ trọng giá trị tăng thêm theo
giá thực tế chiếm trong tổng sản phẩm trong nước của khu vực công nghiệp và xây
dựng đã tăng từ 36,73% năm 2000 lên 38,13% năm 2001; 38,49% năm 2002;
39,47% năm 2003; 40,21% năm 2004 và năm 2005 ước tính chiếm 41,04%. Khu
vực nông lâm nghiệp và thủy sản tuy đạt tốc độ tăng bình quân hàng năm 5,42% về
giá trị sản xuất và 3,83% về giá trị tăng thêm, nhưng tỷ trọng trong tổng sản phẩm
trong nước đã giảm từ 24,53% năm 2000 xuống 23,24% năm 2001;
23,03% năm 2003; 21,81% năm 2004 và ước tính năm 2005 chỉ còn 20,89%. Khu
vực dịch vụ vẫn duy trì được tỷ trọng chiếm trên dưới 38% tổng sản phẩm trong
nước. Tỷ trọng của ba khu vực qua các năm như trên đã thể hiện rất rõ nền kinh tế
tiếp tục chuyển dịch theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá.
Chúng ta xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa nên sự

chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá phải giữ vững
vai trò chủ đạo của kinh tế Nhà nước. Yêu cầu có tính nguyên tắc này đã được bảo
đảm trong suốt quá trình cơ cấu lại nền kinh tế những năm vừa qua. Mặc dù trong
những năm 2001-2005, số lượng doanh nghiệp Nhà nước đã giảm đáng kể do tổ
chức, sắp xếp lại và thực hiện cổ phần hoá, nhưng tỷ trọng của khu vực kinh tế Nhà
nước trong tổng sản phẩm trong nước vẫn duy trì ở mức trên 38% (Năm 2001 chiếm
38,40%, năm 2002 chiếm 38,38%; 2003 chiếm 39,08%; 2004 chiếm 39,10%; năm
2005 ước tính chiếm 38,42%). Kinh tế ngoài Nhà nước được khuyến khích phát
triển nên thường xuyên tạo ra 46-47% tổng sản phẩm trong nước. Khu vực có vốn
đầu tư nước ngoài vẫn tiếp tục giữ vị trí quan trọng. Năm 2000 khu vực này tạo ra
13,28% tổng sản phẩm trong nước và đến năm 2005 đã tạo ra 15,89%.
Cơ cấu tổng sản phẩm trong nước năm 2001-2005
theo giá thực tế phân theo thành phần kinh tế
%
2001 2002 2003 2004 2005
Tổng số 100,00 100,00 100,00 100,00 100,00
Kinh tế Nhà nước 38,40 38,38 39,08 39,10 38,42
Kinh tế ngoài Nhà nước 47,84 47,86 46,45 45,77 45,69
19
Kinh tế tập thể 8,06 7,99 7,49 7,09 6,83
Kinh tế tư nhân 7,94 8,30 8,23 8,49 8,91
Kinh tế cá thể 31,84 31,57 30,73 30,19 29,95
Kinh tế có vốn ĐTNN 13,76 13,76 14,47 15,13 15,89
Huy động vốn đầu tư đạt kết quả cao, tạo nguồn lực tăng cường kết cấu hạ
tầng kinh tế-xã hội
Đầu tư phát triển là một trong những yếu tố quyết định tăng trưởng kinh tế và
giải quyết nhiều vấn đề xã hội vì hoạt động này trực tiếp làm tăng tài sản cố định, tài
sản lưu động, tài sản trí tuệ và số lượng cũng như chất lượng nguồn nhân lực; đồng thời
góp phần quan trọng vào việc thực hiện các chương trình mục tiêu quốc gia nhằm nâng
cao mức sống dân cư và mặt bằng dân trí; bảo vệ môi trường sinh thái và đưa các

chương trình phát triển kinh tế - xã hội khác vào cuộc sống.
Do nhận thức được vai trò quan trọng của đầu tư phát triển như vậy nên
trong những năm vừa qua đã có nhiều chính sách và giải pháp khơi dậy nguồn
nội lực và tranh thủ các nguồn lực từ bên ngoài để huy động vốn cho đầu tư phát
triển. Nhờ vậy, tổng số vốn đầu tư phát triển 5 năm 2001-2005 theo giá thực tế
đã đạt trên 1200 nghìn tỷ đồng, gấp trên 2 lần tổng số vốn đầu tư phát triển huy
động được trong kế hoạch 5 năm 1996-2000. Tính ra, vốn đầu tư phát triển bình
quân mỗi năm trong 5 năm 2001-2005 đạt trên 240 nghìn tỷ đồng, bằng 201,6%
mức bình quân mỗi năm trong kế hoạch 5 năm 1996-2000.
Tỷ lệ vốn đầu tư so với tổng sản phẩm trong nước đã tăng từ 35,42% năm
2001 lên 37,16% năm 2002; 37,76% năm 2003; 38,45% năm 2004 và ước tính
năm 2005 là 38,67%. Tỷ lệ đầu tư của nước ta hiện nay chỉ thấp hơn Trung
Quốc, còn cao hơn hầu hết các nước trong khu vực (Tỷ lệ đầu tư so với tổng sản
phẩm trong nước năm 2004 của Trung Quốc là 45,7%; Hàn Quốc 29,3%; Thái
Lan 37,8%; Ma-lai-xi-a 22,5%; Phi-li-pin 19,6%; In-đô-nê-xi-a 19,5%;
Xin-ga-po 15,3%.
Tỷ lệ vốn đầu tư so với
tổng sản phẩm trong nước 2001 - 2005
Tỷ đồng

Vốn đầu tư
theo giá thực
tế
Tổng sản phẩm
trong nước theo
giá thực tế
Tỷ lệ vốn đầu tư
so với tổng sản
phẩm trong nước
(%)

Tổng số 5 năm 2001 - 2005 1 200 217 3 183 665 37,70
2001 170 496 481 295 35,42
2002 199 105 535 762 37,16
2003 231 616 613 443 37,76
So bộ 2004 275 000 715 307 38,45
20
Ước tính 2005 324 000 837 858 38,67
Trong tổng số vốn đầu tư 5 năm 2001-2005 thì vốn đầu tư trong nước chiếm
tới 84%, cao hơn hẳn tỷ lệ 78,6% của những năm 1996-2000. Sở dĩ có được kết
quả này một mặt do Nhà nước tăng cường đầu tư, nhưng mặt khác còn do các
chính sách khuyến khích kinh tế ngoài Nhà nước phát triển, trong đó có Nghị
quyết Trung ương 5 (Khoá IX) về kinh tế tập thể và kinh tế tư nhân đã góp phần
rất quan trọng. Trong 5 năm 2001-2005 đã có gần 14 vạn doanh nghiệp dân doanh
đăng ký thành lập với tổng số vốn đăng ký lên tới 294 nghìn tỷ đồng. Nhờ vậy số
vốn của khu vực này chiếm trong tổng vốn đầu tư toàn xã hội đã tăng từ 22,6%
năm 2001 lên 26,2% năm 2002; 29,7% năm 2003; 30,9% năm 2004 và ước tính
năm 2005 là 32,4%.
Cùng với việc triển khai nhiều giải pháp huy động các nguồn vốn trong
nước, việc thu hút các nguồn vốn từ bên ngoài tiếp tục được chú trọng, nhất là thu
hút vốn FDI và vốn ODA. Trong 5 năm 2001-2005 đã cấp giấy phép cho 3745 dự
án đầu tư trực tiếp của nước ngoài với số vốn đăng ký 19,9 tỷ USD. Đến nay trên
lãnh thổ nước ta đã có các nhà đầu tư của trên 70 quốc gia và vùng lãnh thổ, trong
đó có 100 công ty đa quốc gia. Số vốn ODA do các nhà tài trợ cam kết dành cho
nước ta trong 5 năm 2001-2005 cũng lên tới trên 15 tỷ USD, đưa tổng số vốn ODA
cam kết trong 13 Hội nghị quốc tế về ODA dành cho Việt Nam từ năm 1993 đến nay
lên trên 32 tỷ USD. Số vốn ODA cam kết này đã được hiện thực hoá bằng nhiều hiệp
định cụ thể với tổng trị giá 24 tỷ USD và thực tế đã giải ngân được 16 tỷ USD, trong
đó 5 năm 2001-2005 giải ngân được 8 tỷ USD.
Nhờ đẩy mạnh đầu tư nên năng lực của hầu hết các ngành, các lĩnh vực đều
tăng lên đáng kể. Tính chung trong 5 năm 2001-2005, công suất điện tăng

4863MW, trong đó thủy điện 720MW, nhiệt điện than tăng 800MW, nhiệt điện
khí tăng 3343MW; công suất khai thác than tăng 15,4 triệu tấn; công suất khai
thác dầu thô tăng 2,2 triệu tấn; công suất khai thác khí đốt tăng 5,1 tỷ m
3
; công
suất cán thép tăng 2390 nghìn tấn; công suất sản xuất xi măng tăng 10,1 triệu tấn;
công suất sản xuất phân hoá học tăng 760 nghìn tấn; năng lực tưới của các công
trình thuỷ lợi tăng 595 nghìn ha và năng lực tiêu tăng 235 nghìn ha; công suất
cung cấp nước sạch tăng 1,8 triệu m3; các khách sạn tăng 26,5 nghìn phòng.
Ngành giao thông vận tải đã làm mới, nâng cấp và cải tạo được 4575 km
quốc lộ và trên 65 nghìn km đường giao thông nông thôn; năng lực thông qua
cảng biển tăng 23,4 triệu tấn; năng lực thông qua cảng sông tăng 17,2 triệu tấn và năng
lực thông qua của các sân bay tăng 8 triệu lượt hành khách. Ngành bưu điện tiếp tục đầu
tư cơ sở hạ tầng và đổi mới công nghệ nên. Mạng viễn thông phát triển nhanh. Đến cuối
năm 2005 cả nước đã có trên 15,8 triệu thuê bao điện thoại, trong đó 8,7 triệu thuê
bao di động và 7,1 triệu thuê bao cố định, nâng số máy điện thoại cố định bình
quân 100 dân từ 4,2 máy năm 2000 lên 19,1 máy năm 2005.
Một phần vốn đầu tư đã dành cho chương trình phát triển kinh tế-xã hội và
xây dựng cơ sở hạ tầng, dịch vụ tại các xã đặc biệt khó khăn. Tính chung từ năm
1999 đến hết năm 2005 chương trình đã được đầu tư trên 8850 tỷ đồng. Nhờ vậy,
đến hết năm 2004 đã có 97% số xã đặc biệt khó khăn có đường ô tô đến trung tâm
xã; 100% số xã có trạm y tế; 70% số xã có điểm bưu điện văn hoá; 90% số xã có
21
trạm truyền thanh; 65% số xã có công trình nước sạch và 50% số hộ được sử dụng
nước sạch.
Ngoài những công trình đã hoàn thành và đưa vào sử dụng với những năng lực
tăng thêm nêu trên, trong những năm 2001-2005 còn khởi công hàng trăm công trình
nhóm A và hàng nghìn công trình nhóm B và nhóm C, trong đó có những công trình
quan trọng như cầu Bãi Cháy, cầu Thanh Trì, cầu Vĩnh Tuy, cầu Cần Thơ, đường Hồ
Chí Minh, nhà máy lọc dầu Dung Quất, nhà máy thủy điện Sơn La Trong số này,

nhiều công trình sẽ hoàn thành và đưa vào sử dụng trong những năm tới, chắc chắn sẽ
phát huy tác dụng tích cực đối với việc thực hiện kết hoạch phát triển kinh tế - xã hội
2006-2010 và những năm tiếp theo.
Đời sống các tầng lớp dân cư tiếp tục được cải thiện; sự nghiệp văn hoá giáo
dục, chăm sóc sức khoẻ dân cư và một số lĩnh vực khác có những tiến bộ đáng
kể.
Do kinh tế tăng trưởng với tốc độ tương đối khá và việc điều chỉnh mức lương tối
thiểu từ 180 nghìn đồng cuối năm 2000 lên 210 nghìn đồng đầu năm 2001; 240 nghìn
đồng năm 2002; 290 nghìn đồng đầu năm 2003 và 350 nghìn đồng năm 2005 cùng với
việc triển khai nhiều chương trình tạo việc làm, phát triển nông nghiệp và nông thôn,
xoá đói giảm nghèo nên đời sống các tầng lớp dân cư ở cả thành thị và nông thôn nhìn
chung tiếp tục được cải thiện.
Kết quả các cuộc điều tra mức sống hộ gia đình do Tổng cục Thống kê tiến hành
những năm vừa qua cho thấy thu nhập bình quân một người một tháng theo giá thực tế đã
tăng từ 295 nghìn đồng/người/tháng năm 1999 lên 356,1 nghìn đồng/người/tháng năm
2001-2002 và 484,4 nghìn đồng/người/tháng năm 2003-2004. Tính ra, thu nhập bình quân
một người một tháng theo giá thực tế năm 2003-2004 đã tăng 64,2% so với năm
1999. Thu nhập tăng đã tạo điều kiện tăng tiêu dùng cho đời sống và tăng tích luỹ.
Chi tiêu cho đời sống bình quân một người một tháng đã tăng từ 221,1 nghìn đồng
năm 1999 lên 269,1 nghìn đồng năm 2001-2002 và 359,7 nghìn đồng năm 2003-2004.
Đáng chú ý là thu nhập cũng như chi tiêu đều tăng ở cả khu vực thành thị và
nông thôn, ở tất cả 8 vùng sinh thái và tất cả 5 nhóm thu nhập. Thu nhập bình quân
một người một tháng năm 2003-2004 của nhóm thu nhập thấp nhất đạt 141,8 nghìn
đồng, tăng 3,1% so với mức bình quân 2001-2002; nhóm thu nhập dưới trung bình
đạt 240,7 nghìn đồng, tăng 35%; nhóm thu nhập trung bình đạt 347 nghìn đồng, tăng
38,2%; nhóm thu nhập khá đạt 514,2 nghìn đồng, tăng 38,8%; nhóm thu nhập cao
nhất đạt 1182,3 nghìn đồng, tăng 35,4%.
Thu nhập và chi tiêu bình quân một người một tháng
theo giá thực tế phân theo thành thị, nông thôn
Nghìn đồng

Chung
Chia ra
Thành thị Nông thôn
Thu nhập bình quân
1999 295,0 516,7 225,0
2001-2002 356,1 622,1 275,1
2003-2004 484,4 815,4 378,1
Chi tiêu cho đời sống bình quân
22
1999 221,1 373,4 175,0
2001-2002 269,1 460,8 211,1
2003-2004 359,7 595,4 283,5
Những hộ có thu nhập tương đối cao ngoài chi tiêu cho đời sống hàng ngày
còn có tích luỹ xây dựng nhà ở, mua sắm đồ dùng lâu bền, sử dụng điện, nước máy
và chi các khoản khác, góp phần nâng cao chất lượng cuộc sống. Theo kết quả các
cuộc điều tra mức sống hộ gia đình nêu trên thì tỷ lệ hộ có nhà kiên cố đã tăng từ
17,2% năm 2001-2002 lên 20,8% năm 2003-2004; tỷ lệ hộ có nhà bán kiên cố vào 2
thời điểm tương ứng là 58,3% và 58,8%; tỷ lệ nhà tạm giảm từ 26% năm 1997-1998
xuống còn 24,6% năm 2001-2002 và 20,4% năm 2003-2004. Diện tích nhà ở bình
quân một nhân khẩu tăng từ 9,7 m
2
năm 1997-1998 tăng lên 12,5 m
2
năm 2001-
2002 và 13,5 m
2
năm 2003-2004. Tỷ lệ hộ có xe máy tăng từ 24% năm 1997-1998
lên 32,3% năm 2001-2002 và 44,2% năm 2003-2004; tỷ lệ hộ có ti vi tăng từ 57,6%
lên 67,1% và 77,1%; tỷ lệ hộ dùng điện tăng từ 76,8% lên 86,5% và 93,4%.
Tỷ lệ hộ có một số đồ dùng lâu bền

năm 2001-2002 và 2003-2004
%
2001-2002 2003-2004
Tỷ lệ hộ có đồ dùng lâu bền 96,86 98,49
Ô tô 0,05 0,09
Xe máy 32,33 44,22
Điện thoại 10,68 27,27
Ti vi 67,10 77,10
Máy vi tính 2,44 5,01
Máy điều hoà nhiệt độ 1,13 1,98
Máy giặt, sấy quần áo 3,79 6,21
Trên cơ sở kết quả thu nhập bình quân một người một tháng thu thập được
trong các cuộc điều tra mức sống dân cư, Tổng cục Thống kê đã tính được tỷ lệ hộ
nghèo lương thực, thực phẩm tại 3 thời điểm 1999; 2001-2002 và 2003-2004. Tỷ lệ
này đã giảm từ 13,3% năm 1999 xuống còn 9,9% năm 2001-2002 và 6,9% năm
2003-2004, trong đó tỷ lệ nghèo của khu vực thành thị giảm từ 4,6% xuống 3,9% và
3,3%; của khu vực nông thôn giảm từ 16% xuống 11,9% và 8,1%.
Cũng dựa trên kết quả của cuộc điều tra nêu trên nhưng tính theo chi tiêu cho
đời sống bình quân một người một tháng của các hộ gia đình thì tính ra được tỷ lệ
nghèo chung của nước ta (bao gồm cả nghèo lương thực, thực phẩm và nghèo phi
lương thực thực phẩm) và tỷ lệ này cũng giảm từ 37,4% năm 1997-1998 xuống còn
28,9% năm 2001-2002.
Trong cuộc điều tra mức sống dân cư năm 2003-2004, Tổng cục Thống kê đã
lấy ý kiến tự đánh giá của các hộ về mức sống năm 2003-2004 so với mức năm 1999
và kết quả cho thấy có tới 84% số hộ cho rằng đời sống đã được nâng lên; 11,2% cho
rằng đời sống vẫn như cũ và chỉ có 4,8% cho rằng đời sống bị giảm sút. Trong các
Báo cáo những năm gần đây, UNDP cũng đã xếp Việt Nam vào danh sách những
quốc gia dẫn đầu các nước đang phát triển về thành tích giảm nghèo và tiêu biểu cho
nhóm các nước đang phát triển đã đạt được sự hài hoà giữa phát triển kinh tế với phát
triển các chính sách xã hội vì con người. Báo cáo Phát triển Con người năm 2005 của

23
tổ chức này đã xếp Việt Nam ở vị trí 108/177 nước được xếp hạng, tăng 4 bậc so với
bảng xếp hạng năm 2004.
Sự nghiệp giáo dục đào tạo có những mặt tiến bộ. Đến cuối năm 2005 đã cơ
bản hoàn thành chương trình kiên cố hoá trường học, lớp học. Tỷ lệ trẻ em từ 3-5
tuổi đi học mẫu giáo năm 2005 đạt 58,9%, vượt mục tiêu đề ra là đạt 58%; tỷ lệ đi
học đúng độ tuổi cấp tiểu học tăng từ 92,7% năm học 2000-2001 lên 93,9% năm học
2004-2005, trung học cơ sở tăng từ 71,2% lên 77,7% và trung học phổ thông tăng từ
33,6% lên 40%. Đến nay tất cả 64 tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương đã hoàn
thành phổ cập giáo dục tiểu học, trong đó 24 địa phương đạt tiêu chuẩn phổ cập tiểu
học đúng độ tuổi và 26 địa phương đạt chuẩn phổ cập trung học cơ sở. Đào tạo đại
học, cao đẳng, trung học chuyên nghiệp và nhất là dạy nghề được củng cố và có bước
phát triển nhất định. Năm học 2004-2005 cả nước có 230 trường đại học và cao đẳng;
285 trường trung học chuyên nghiệp; 236 trường dạy nghề và 1,5 nghìn cơ sở dạy
nghề. So với năm 2000, số trường dạy nghề tăng 70% với quy mô đào tạo tăng 40%.
Trong Báo cáo Giám sát Giáo dục Toàn cầu năm 2005, UNESCO đánh giá về tiến
độ thực hiện mục tiêu “Giáo dục cho tất cả đến năm 2015” do Liên Hợp quốc đề
ra, Chỉ số giáo dục cho tất cả của nước ta được xếp vị trí 64/127, đứng trên một số
nước trong khu vực như In-đô-nê-xi-a, Phi-li-pin, Ấn Độ
Công tác y tế và chăm lo sức khoẻ cộng đồng không ngừng mở rộng mạng lưới
phục vụ. Đến hết năm 2004 cả nước đã có 97,6% số xã, phường và thị trấn có trạm y
tế. Số bác sĩ tại các cơ sở khám chữa bệnh công lập năm 2004 tăng 27,8% so với năm
2000, bình quân 1 vạn dân 6,1 bác sĩ, tăng 1,1 bác sĩ so với mức bình quân năm 2000.
Tỷ lệ suy dinh dưỡng trẻ em dưới 5 tuổi theo cân nặng đã giảm từ 33,1% năm 2000
xuống 26,6% năm 2004 và 25,2% năm 2005. Đáng chú ý là năm 2003 nước ta đã
khống chế được dịch viêm đường hô hấp cấp (SARS), được Tổ chức Y tế Thế giới
công nhận là quốc gia đầu tiên khống chế thành công dịch bệnh này. Những năm
2004-2005 cũng đã khống chế được sự lây lan của dịch cúm gia cầm H5N1. Hoạt
động của ngành Y tế những năm vừa qua đã góp phần đưa tuổi thọ bình quân của dân
số nước ta tăng từ 67,8 tuổi trong năm 2000 lên 69,0 tuổi năm 2002; 70,5 tuổi năm

2003 và 71,5 tuổi năm 2005.
Các hoạt động văn hoá thông tin triển khai tương đối rộng khắp, nhất là phong
trào toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hoá ở cơ sở. Đến cuối năm 2004 cả
nước đã có 38% số thôn, ấp, bản, tổ dân phố và cụm dân cư được công nhận là thôn,
ấp, bản, tổ dân phố, cụm dân cư văn hoá và đến cuối năm 2005 đã có 12,5 triệu gia
đình đạt tiêu chuẩn gia đình văn hoá. Việc bảo tồn, tôn vinh văn hoá truyền thống,
nhất là văn hoá truyền thống của đồng bào các dân tộc ít người được chú trọng đặc
biệt. Trong những năm vừa qua đã giới thiệu và được thế giới công nhận thêm Nhã
nhạc cung đình Huế, Không gian văn hoá cồng chiêng Tây Nguyên là Di sản Văn hoá
Thế giới.
Công tác xuất bản, phát thanh truyền hình, hoạt động thể dục thể thao cũng có
những kết quả tích cực. Năm 2005 đã xuất bản 17,1 nghìn cuốn sách với 240,2 triệu
bản, tăng 79,8% về số đầu sách và tăng 35,2% về số bản in so với năm 2000. Việc
phủ sóng phát thanh và truyền hình tiếp tục được triển khai đến vùng sâu, vùng xa
nên đã có 95% số hộ gia đình trên phạm vi cả nước được nghe Đài Tiếng nói Việt
Nam và 90% số hộ được xem các chương trình của Truyền hình Trung ương. Tỷ lệ
dân số luyện tập thể dục thể thao tăng từ 16,4% năm 2002 lên 17,6% năm 2003 và
24
18,7% năm 2004. Thể thao thành tích cao tiếp tục xác lập được vị thế trên đấu
trường quốc tế và khu vực. SEA Games 22 (2003) giành được 343 huy chương, gấp
trên 5 lần SEA Games 20 (1999) và tại SEA Games 23 (2005) giành vị trí thứ 3 toàn
đoàn với 228 huy chương các loại.
Hạn chế và bất cập
Bên cạnh những thành tựu đạt được nêu trên, diễn biến và thực trạng kinh tế -
xã hội 5 năm 2001-2005 cho thấy nền kinh tế nước ta đang tồn tại nhiều hạn chế và
yếu kém, thể hiện trên một số điểm chủ yếu sau:
Nền kinh tế vẫn trong tình trạng kém phát triển, sức cạnh tranh thấp và
chứa đựng nhiều mặt mất cân đối.
Những năm 2001-2005 vừa qua nền kinh tế nước ta tăng trưởng bình quân
mỗi năm 7,51% là một thành công, nhưng do xuất phát điểm thấp nên quy mô

của nền kinh tế còn nhỏ bé, giá trị tăng thêm của 1% tăng lên không cao và do vậy
đến nay nước ta vẫn chưa ra khỏi danh sách các nước đang phát triển có thu nhập
thấp. Theo phân loại của Ngân hàng Thế giới năm 2003 về thu nhập, các quốc gia
và vùng lãnh thổ được chia thành 4 nhóm: (1) Thu nhập thấp, bao gồm các nước
và vùng lãnh thổ có tổng sản phẩm trong nước bình quân từ 765 USD/người/năm
trở xuống; (2) Thu nhập trung bình thấp 766-3035 USD/người/năm; (3) Thu nhập
bình quân cao 3036-9385 USD/người/năm; (4) Thu nhập cao từ 9386 USD
người/năm trở lên, trong khi đó bình quân đầu người của nước ta năm 2005 chỉ
đạt 638 USD, tuy tăng 58,7% so với năm 2000 nhưng mới bằng 83,4% cận trên
của nhóm thu nhập thấp.
Tổng sản phẩm trong nước bình quân đầu người tính bằng đô la Mỹ theo tỷ
giá hối đoái năm 2004 của nước ta chỉ bằng 53,2% của Phi-li-pin; 46,4% của In-
đô-nê-xi-a; 43,6% của Trung Quốc; 21,8% của Thái Lan và bằng 12% của
Ma-lai-xi-a. Nếu tính theo sức mua tương đương thì cũng có tình trạng thấp thua
tương tự. Chính do tổng sản phẩm trong nước bình quân đầu người thấp nên mặc
dù chỉ số tuổi thọ trung bình và chỉ số giáo dục tương đối cao nhưng chỉ số HDI
vẫn rất thấp (Trong báo cáo Phát triển Con người năm 2005 của UNDP về các
thành tố cấu thành chỉ số HDI thì chỉ số tuổi thọ trung bình của nước ta đạt 0,76;
chỉ số giáo dục đạt 0,82, nhưng chỉ số tổng sản phẩm trong nước chỉ đạt 0,54%
nên chỉ số HDI bị kéo xuống mức 0,704).
Tổng sản phẩm trong nước bình quân đầu người
của Việt Nam so với một số nước trong khu vực
Năm 2004 tính theo tỷ
giá hối đoái
Năm 2003 tính theo sức mua tương
đương
Mức đạt được
(USD)
Việt Nam so với
các nước (%)

Mức đạt được
(USD)
Việt Nam so với
các nước (%)
Việt Nam 554 - 2490 -
Phi-li-pin 1 042 53,2 4321 57,6
In-đô-nê-xi-a 1 193 46,4 3361 74,1
Thái Lan 2 535 21,8 7595 32,8
Ma-lai-xi-a 4 625 12,0 9512 26,2
Trung Quốc 1 272 43,6 5003 49,8
25

×