Tải bản đầy đủ (.pdf) (31 trang)

chính trị học đại cương , tư tưởng hồ chí minh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (870.41 KB, 31 trang )

HỌC VIỆN BÁO CHÍ VÀ TUYÊN TRUYỀN
KHOA CHÍNH TRỊ HỌC

TIỂU LUẬN
HỌC PHẦN CHÍNH TRỊ HỌC ĐẠI CƯƠNG
Đề tài: Tư tưởng Hồ Chí Minh về Đại đồn kết dân tộc

Sinh viên thực hiện: Nguyễn Thành Hưng
Lớp: Chính Sách Cơng K41
Giảng viên: TS. Dương Thị Thục Anh

HÀ NỘI – 2021


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ............................................................................................................................... 2
NỘI DUNG ........................................................................................................................... 4
1.

TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ ĐẠI ĐỒN KẾT DÂN TỘC ............................. 4
1.1. Cơ sở hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đoàn kết dân tộc. ......................... 4
1.1.1 Nền tảng văn hóa truyền thống Việt Nam, tinh thần yêu nước gắn liền với ý
thức cộng đồng, ý thức cố kết dân tộc trải qua hàng nghìn năm lịch sử đấu tranh dựng
nước và giữ nước trở thành truyền thống bền vững, thấm sâu vào tư tưởng, tình cảm,
tâm hồn người Việt Nam. ............................................................................................... 4
1.1.2. Hồ Chí Minh kế thừa tư tưởng đồn kết trong kho tàng văn hóa nhân loại ......... 4
1.1.3. Sự tổng kết những kinh nghiệm thực tế của phong trào cách mạng Việt Nam và
phong trào giải phóng dân tộc ở các nước thuộc địa. ..................................................... 5
1.1.4. Yếu tố chủ quan của Hồ Chí Minh .................................................................. 6

2.



Nội dung tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đồn kết dân tộc ........................................ 7
2.1. Đại đoàn kết toàn dân tộc là vấn đề có ý nghĩa chiến lược, quyết định thành cơng
của cách mạng .................................................................................................................... 7
2.2. Đại đồn kết tồn dân tộc là một mục tiêu, nhiệm vụ hàng đầu của cách mạng Việt
Nam 7
2.3. Đại đoàn kết dân tộc là đại đoàn kết toàn dân......................................................... 8
2.4. Đại đoàn kết dân tộc trong Mặt trận dân tộc thống nhất. ...................................... 10
2.5. Đại đồn kết phải có tổ chức, có lãnh đạo ............................................................ 11
2.6. Đoàn kết dân tộc phải gắn liền với đoàn kết quốc tế: ........................................... 13

3.

Nguyên tắc đại đoàn kết dân tộc của Chủ tịch Hồ Chí Minh ................................. 14

4. Những thắng lợi của cách mạng Việt Nam dưới sức mạnh đồn kết dân tộc của
Hồ Chí Minh ....................................................................................................................... 17
5.

Giá trị lý luận và thực tiễn của tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đồn kết ............... 21
5.1. Về giá trị lý luận .................................................................................................... 21
5.2. Thực tiễn ............................................................................................................... 22

KẾT LUẬN......................................................................................................................... 27
TÀI LIỆU THAM KHẢO ................................................................................................. 28


MỞ ĐẦU
1. Lý do nghiên cứu đề tài
Ðại đoàn kết toàn dân tộc là truyền thống quý báu của dân tộc ta, được hun

đúc qua hàng nghìn năm dựng nước và giữ nước. Chủ tịch Hồ Chí Minh, đã
để lại cho chúng ta một di sản tinh thần vô giá, một hệ thống tư tưởng về
nhiều mặt. Trong đó tư tưởng về đại đoàn kết là tư tưởng nổi bật, có giá trị
trường tồn đối với q trình phát triển của dân tộc ta và của tồn nhân loại.
Đó là tư tưởng xuyên suốt và nhất quán trong tư duy lý luận và trong hoạt
động thực tiễn của Hồ Chí Minh và đã trở thành chiến lược cách mạng của
Đảng, gắn liền với những thắng lợi vẻ vang của dân tộc. Từ khi ra đời, Ðảng
luôn luôn coi trọng việc xây dựng, củng cố và mở rộng khối đại đoàn kết toàn
dân tộc. Dưới sự lãnh đạo của Ðảng, các tầng lớp nhân dân không phân biệt
thành phần, giai cấp, dân tộc, tơn giáo, tập hợp đồn kết trong Mặt trận Dân
tộc thống nhất Việt Nam, tạo nên sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc giành
thắng lợi lịch sử trong Cách mạng Tháng Tám năm 1945 và các cuộc kháng
chiến cứu nước, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Ngày nay, sức mạnh của khối
đại đoàn kết toàn dân tộc đang tiếp tục phát huy cao độ, trở thành động lực
của cơng cuộc đổi mới cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Ðại đồn kết
tồn dân tộc là đường lối chiến lược, là bài học lớn của cách mạng nước ta.
em xem đây là một nội dung đáng để quan tâm, cần thiết làm và hiểu rõ tư
tưởng này của Chủ tịch Hồ Chí Minh
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu:
2.1. Mục đích nghiên cứu : Giúp mọi người nhận thức được tầm quan
trọng của lòng yêu nước , của nhân nghĩa , tin yêu con người . Từ đó
mỗi cá nhân sẽ tự phát huy hơn nữa long nhân nghĩa của bản thân
mình để sống tốt hơn có ý nghĩa hơn
2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu:
Nghiên cứu những vấn đề lý luận và thực tiễn của đề tài
3. Đối tượng nghiên cứu :

2



Tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đồn kết tồn dân phải kế thừa truyền thống
nồng nàn yêu nước – nhân nghĩa – đoàn kết dân tộc; đồng thời phải có lịng
khoan dung , độ lượn , tin vào nhân dân , tin vào con người .
4. Phương pháp nghiên cứu:
Phương pháp nghiên cứu tài liệu ,Phương pháp thu thập và xử lý thơng
tin,Phương pháp phân tích, tổng hợp, lịch sử.
5. .Kết cấu :
Mục lục , Mở Đầu ,Nội Dung ,Kết Luận , Tài Liệu Tham Khảo

3


NỘI DUNG
1. TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ ĐẠI ĐỒN KẾT DÂN TỘC
1.1.

Cơ sở hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đồn kết dân tộc.

1.1.1

Nền tảng văn hóa truyền thống Việt Nam, tinh thần yêu nước
gắn liền với ý thức cộng đồng, ý thức cố kết dân tộc trải qua hàng
nghìn năm lịch sử đấu tranh dựng nước và giữ nước trở thành
truyền thống bền vững, thấm sâu vào tư tưởng, tình cảm, tâm hồn
người Việt Nam.

Dân tộc ta hình thành, tồn tại và phát triển suốt bốn ngàn năm lịch sử, gắn
liền với yếu tố cố kết cộng đồng dựng nước và giữ nước.Để tồn tại và phát
triển, dân ta phải chống thiên tai, thường xuyên và liên tục, trị thủy các con
sông lớn, cải tạo xây dựng đồng ruộng, trồng lúa nước .Văn minh nông

nghiệp trồng lúa nước chính là văn hóa tạo ra sự cấu kết cộng đồng của những
người cùng sống trên một dải đất, có chung một kiểu sinh hoạt kinh tế, cùng
một tâm lý. Nghĩa là cố kết thành dân tộc. Mặt khác, dân ta phải thường
xuyên đương đầu với các thế lực ngoại bang hung bạo. Để chiến thắng dân ta
phải xiết chặt muôn người như một, chống xâm lược tạo nên truyền thống
đoàn kết quý báo của dân tộc.Yêu nước, nhân nghĩa, trọng đạo lý làm người,
đề cao trách nhiệm cá nhân đối với XH, lấy dân làm gốc, coi trọng lịng khoan
dung độ lượng, hịa hiếu, khơng gây thù oán, cố kết cộng đồng đã trở thành
tình cảm tự nhiên của mỗi con người Việt Nam.Chủ nghĩa yêu nước cố kết
cộng đồng và triết lý nhân sinh, được khái quát thành tư duy chính trị, phép
ứng xử của con người trong tình làng nghĩa nước: “Nước mất thì nhà tan, giặc
đến nhà thì đàn bà cũng đánh.” Bác tổng kết: “Dân tộc ta có một lịng nồng
nàn u nước, đó là truyền thống quý báu của ta. Từ xưa đến nay, mỗi khi tổ
quốc bị xâm lăng thì tinh thần ấy lại sơi nổi, nó kết thành một làn sóng vơ
cùng mạnh mẽ, to lớn, lướt qua mọi khó khăn, nó nhấn chìm tất cả lũ bán
nước và cướp nước. . .”
1.1.2. Hồ Chí Minh kế thừa tư tưởng đồn kết trong kho tàng văn hóa
nhân loại
Bác gạn đục khơi trong, tiếp thu tư tưởng đại đồng, nhân ái, thương người
như thương mình, nhân, nghĩa, trong học thuyết Nho giáo. Tiếp thu tư tưởng
4


lục hòa, cư xử hòa hợp giữa người với người, cá nhân với cộng đồng, con
người với môi trường tự nhiên của phật giáo (năm điều cấm: nói dối, sát sinh,
tà dâm, uống rượu, trộm cướp).Tiếp thu tư tưởng đoàn kết của Tôn Trung
Sơn, nhất là Chủ nghĩa Tam dân, chủ trương đồn kết 400 dịng học người
Trung Quốc, khơng phân biệt giàu nghèo, chống thực dân Anh, chủ trương
liên Nga, dung Cộng, ủng hộ công nông.
1.1.3. Sự tổng kết những kinh nghiệm thực tế của phong trào cách

mạng Việt Nam và phong trào giải phóng dân tộc ở các nước thuộc địa.
Về mặt thực tiễn, tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đồn kết dân tộc được hình
thành trên cơ sở tổng kết những kinh nghiệm của phong trào cách mạng ở
trong và ngoài nước, nhất là phong trào giải phóng dân tộc ở các nước thuộc
địa đã đem lại bài học bổ ích về việc tập hợp lực lượng yêu nước tiến bộ từ đó
tiến hành cách mạng.Từ việc tổng kết các phong trào yêu nước cách mạng
Việt Nam, Hồ Chí Minh rút ra kết luận: vận mệnh của đất nước địi hỏi phải
có một lực lượng lãnh đạo mới, có khả năng đề ra đường lối đấu tranh đúng
đắn và phương pháp cách mạng phù hợp; cần huy động, tập hợp lực lượng
của các giai cấp, các tầng lớp nhân dân vào cuộc đấu tranh chống thực dân
phong kiến; cần củng cố khối đại đoàn kết dân tộc bền vững và xây dựng khối
đoàn kết quốc tế để tạo thành sức mạnh tổng hợp của toàn dân tộc.Nghiên
cứu, tổng kết các phong trào cách mạng thế giới, Người rút ra kết luận: Cách
mạng tư sản Pháp, cách mạng tư sản Mĩ là những cuộc cách mạng “chưa đến
nơi”; cuộc đấu tranh của các dân tộc thuộc địa tiềm ẩn một sức mạnh to lớn
tuy nhiên họ lại chưa biết tổ chức, chưa có sự lãnh đạo và chưa lien kết chặt
chẽ với nhau.
Chính vì vậy, u cầu đặt ra cần có một tổ chức để lãnh đạo và tổ chức để
đưa cách mạng dược thực hiện. Cách mạng vô sản Nga là cuộc cách mạng
triệt để nhất để từ đây Người đưa ra quan điểm: lấy liên minh công – nông
làm gốc xây dựng được khối đại đồn kết, cần có một đảng lãnh đạo và phải
đồn kết được toàn dân. Tiếp thu quan điểm CN Mác-Lê Nin về đoàn kết lực
lượng trong cách mạng xã hội chủ nghĩa.
Chủ nghĩa Mác-Lênin cho rằng, cách mạng là sự nghiệp của quần chúng,
nhân dân là người sáng tạo lịch sử; giai cấp vơ sản muốn thực hiện vai trị là
5


lãnh đạo cách mạng phải trở thành dân tộc, liên minh công nông là cơ sở để
xây dựng lực lượng to lớn của cách mạng. Chủ nghĩa Mác-lênin đã chỉ ra cho

các dân tộc bị áp bức con đường tự giải phóng. Lênin cho rằng, sự liên kết
giai cấp, trước hết là liên minh giai cấp công nhân với nông dân là hết sức cần
thiết, bảo đảm cho thắng lợi của cách mạng vơ sản. Rằng nếu khơng có sự
đồng tình và ửng hộ của đa số nhân dân lao động với đội ngũ tiên phong của
nó, tức giai cấp vơ sản, thì cách mạng vơ sản khơng thể thực hiện được.Đó là
những quan điểm lý luận hết sức cần thiết để Hồ Chí Minh có cơ sở khoa học
trong sự đánh giá chính xác yếu tố tích cực cũng như những hạn chế trong các
di sản truyền thống, trong tư tưởng tập hợp lực lượng của các nhà yêu nước
Việt Nam tiền bối và các nhà cách mạng lớn trên thế giới, từ đó hình thành tư
tưởng Hồ Chí Minh về đại đoàn kết dân tộc.
1.1.4. Yếu tố chủ quan của Hồ Chí Minh
Là người có lịng u nước thương dân vơ bờ bến, trọng dân, tin dân, kính
dân, hiểu dân, trên cơ sở nắm vững dân tình, dân tâm, dân ý. Người luôn chủ
trương thực hiện dân quyền, dân sinh, dân trí, dân chủ. Vì vậy người được
dân u, dân tin, dân kính phục. Đó chính là cơ sở của mọi tư tưởng sáng tạo
của Hồ Chí Minh, trong đó có tư tưởng đại đồn kết của Người.

Hình Chủ tịch Hồ Chí Minh tại Đại hội thành lập Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, tổ chức tại Hà Nội,
ngày 10/09/1955 – Nguồn: Thông tấn xã Việt Nam.

6


2. Nội dung tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đoàn kết dân tộc
2.1.

Đại đoàn kết toàn dân tộc là vấn đề có ý nghĩa chiến lược, quyết
định thành cơng của cách mạng

Theo Hồ Chí Minh, muốn đưa ra cách mạng thành cơng thì phải có định

lượng mạng đủ sức mạnh để chiến thắng kẻ thù và xây dựng thành cơng xã
hội mới; muốn có hệ thống mạng định lượng mạnh mẽ phải thực hiện liên
kết, quy tụ mọi lực lượng trong mạng thành một khối vững chắc. Do đó, tư
tưởng đại đồn kết dân tộc của Hồ Chí Minh trở thành vấn đề có ý nghĩa
chiến lược, nó làm tư tưởng cơ bản, quán và xuyên suốt quá trình mạng Việt
Nam. Đó là chiến lược tập hợp mọi lực lượng có thể tập hợp được, nhằm
mục tiêu thành sức mạnh của toàn dân tộc trong cuộc đấu tranh chống kẻ
thù. Tiếp tục, đại đoàn dân tộc là các vấn đề của cách mạng. Tuy nhiên
trong từng thời kỳ, từng đoạn mạng, có thể và bắt buộc phải điều chỉnh các
tập tin chính sách và phương pháp để phù hợp với các đối tượng khác nhau.
Hồ Chí Minh nêu ra những điểm có tính chất liên kết như: “Đồn kết là sức
mạnh của chúng ta”; “Đoàn kết là sức mạnh, đoàn kết là thắng lợi”; “Đoàn
kết là sức mạnh, là then chốt của thành công”… và đặc biệt là câu nói
“Đồn kết, đồn kết, đại đồn kết - Thành cơng, thành cơng, đại thành
cơng” .Hồ Chí Minh ln nhắc nhở người quản lý bộ quản lý, ủy viên phải
thấm nước điểm sức mạnh của mạng là sức mạnh của nhân dân. Đồng thời,
Người lưu ý rằng, nhân dân bao gồm nhiều tuổi, nhiều nghề, nhiều tầng,
nhiều tầng, nhiều dân tộc, tơn giáo, do đó phải tổ chức các dân tộc trong hệ
thống dân tộc nhất. Muốn vậy, Đảng yêu cầu, Nhà nước phải có chủ trương,
chính sách đúng đắn, phù hợp với các cấp, tầng, trên cơ sở lấy lợi ích chung
của Tổ quốc và các quyền lợi của nhân dân lao động, làm việc “số chung
mẫu ”cho liên kết. Đại đồn dân tộc khơng chỉ là mục tiêu, nhiệm vụ hàng
đầu của Đảng, mà là mục tiêu, nhiệm vụ hàng đầu của cả dân tộc. By đại
đoàn kết dân tộc chỉ có được khi nó là người hỏi khách quan của bản thân
họ. Chỉ khi quần chúng nhân dân nhận thức được, muốn hồn thành cách
mạng của mình, do mình và vì mình, trước hết mình phải đồn kết lại, phải
đồng tâm nhất trí thì khối đại đồn kết dân tộc mới trở thành hiện thực thực.
2.2. Đại đoàn kết toàn dân tộc là một mục tiêu, nhiệm vụ hàng đầu của
cách mạng Việt Nam


7


Đối với Hồ Chí Minh, yêu nước phải thể hiện thành thương dân, khơng
thương dân thì khơng thể có tinh thần yêu nước. Dân ở đây là số đông, phải
làm cho số đơng ấy ai cũng có cơm ăn, áo mặc, ai cũng được học hành, sống
tự do, hạnh phúc. Tư tưởng đại đoàn kết dân tộc phải được quán triệt trong
mọi, đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng, lực lượng lãnh đạo duy nhất
đối với cách mạng Việt Nam. Đoàn kết là sức mạnh, là mạch nguồn của mọi
thắng lợi. Do đó, đại đồn kết dân tộc phải được xác định là nhiệm vụ hàng
đầu của Đảng, phải được quán triệt trong tất cả mọi lĩnh vực. Điều này được
thấy rõ trong Lời kết thúc buổi ra mắt của Đảng lao động Việt Nam ngày 3-31951, Hồ Chí Minh đã thay mặt Đảng tuyên bố trước toàn thể dân tộc :”Mục
đích của Đảng Lao động Việt Nam có thể gồm 8 chữ là : Đoàn kết toàn dân,
phụng sự tổ quốc”.Cách mạng muốn thành cơng nếu chỉ có đường lối đúng
chưa đủ mà trên cơ sở của đường lối đúng, Đảng phải cụ thể hóa thành những
mục tiêu, nhiệm vụ và phương pháp cách mạng phù hợp với từng giai đoạn
lịch sử để lôi kéo, tập hợp quần chúng, tạo thực lực cho cách mạng, thực lực
đó chính là khối đại đồn kết dân tộc. Hay nói cách khác đại đồn kết dân tộc
chính là địi hỏi khách quan của quần chúng nhân dân. Trong cuộc đấu tranh
để tự giải phóng, Đảng có nhiệm vụ thức tỉnh, tập hợp, hướng dẫn quần chúng
đấu tranh một cách tự giác, có tổ chức thành sức mạnh vơ địch trong cuộc đấu
tranh vì độc lập cho dân tộc, tự do cho nhân dân, hạnh phúc cho con người.
Vào năm 1963, khi nói chuyện với cán bộ tuyên huấn miền núi về cách mạng
xã hội chủ nghĩa, Người chỉ rõ : Trước cách mạng Tháng Tám và trong kháng
chiến, thì nhiệm vụ tuyên huấn là làm sao cho đồng bào các dân tộc hiểu được
mấy việc. Một là đoàn kết. Hai là làm cách mạng hay kháng chiến để đòi độc
lập. Chỉ đơn giản thế thơi . Bây giờ mục đích tun truyền huấn luyện là :
“Một là đoàn kết. Hai là xây dựng chủ nghĩa xã hội. Ba là đấu tranh thống
nhất nước nhà ”. Đại đồn kết dân tộc khơng phải chỉ là mục tiêu, mục đích
hàng đầu của Đảng mà cịn là mục tiêu, mục đích hàng đầu của cả dân tộc.

Như vậy, đại đồn kết dân tộc chính là đòi hỏi khách quan của bản thân quần
chúng nhân dân trong cuộc đấu tranh để tự giải phóng, là sự nghiệp của quần
chúng, do quần chúng, vì quần chúng. Đảng có sứ mệnh thức tỉnh, tập hợp,
hướng dẫn, chuyển những đòi hỏi khách quan, những đòi hỏi tự giác thành
hiện thực có tổ chức , thành sức mạnh vơ địch trong cuộc đấu tranh vì độc lập
cho dân tộc , tự do cho nhân dân và hành phúc con người.
2.3.

Đại đoàn kết dân tộc là đại đoàn kết toàn dân.
8


Để phát huy sức mạnh của khối đại đoàn kết tồn dân và nhân nguồn sức
mạnh đó lên, Chủ tịch Hồ Chí Minh ln coi trọng việc giác ngộ, tập hợp
nhân dân vào hàng ngũ cách mạng, bổ sung và phát huy vai trò của họ, làm
cho họ trở thành một động lực cách mạng quan trọng; đồng thời khẳng định
liên minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp nơng dân và tầng lớp trí thức là
nền tảng của khối đại đoàn kết toàn dân.Người chỉ rõ “Đại đoàn kết tức là
trước hết phải đoàn kết đại đa số nhân dân, mà đại đa số nhân dân ta là công
nhân, nông dân và các tầng lớp nhân dân lao động khác. Đó là nền gốc của đại
đồn kết. Nó cũng như cái nền của nhà, gốc của cây."
Thực tế cho thấy, liên minh cơng-nơng-trí (trí thức) khơng những là yêu cầu
khách quan về chính trị, làm nền tảng vững chắc cho sự nghiệp xây dựng và
bảo vệ đất nước mà còn là yêu cầu khách quan để phát triển bền vững kinh tế,
vǎn hóa, xã hội của đất nước.
Đây cũng chính là cơ sở để Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng Cộng sản Việt
Nam thành lập và lãnh đạo Mặt trận Tổ quốc Việt Nam. Trải qua các thời kỳ
cách mạng với những hình thức tổ chức và tên gọi khác nhau, Mặt trận Tổ
quốc Việt Nam không ngừng lớn mạnh và có những đóng góp to lớn vào
thắng lợi vĩ đại của dân tộc, trở thành một nhân tố quyết định thắng lợi của

cách mạng Việt Nam.Với chức năng tập hợp, đoàn kết các giai cấp, tầng lớp,
dân tộc, tôn giáo và các thành phần trong xã hội, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam
đã hiệu triệu, quy tụ nhân dân thành khối đại đoàn kết toàn dân tộc vững chắc,
chung sức, chung lòng làm nên những thắng lợi vĩ đại, viết nên những trang
sử hào hùng của cả dân tộc, đưa nhân dân ta từ thân phận nô lệ, trở thành chủ
nhân của đất nước; mở ra kỷ nguyên mới - kỷ nguyên độc lập, thống nhất,
toàn vẹn lãnh thổ.Tại Đại hội thành lập Mặt trận Tổ quốc Việt Nam ngày
10/9/1955, Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: "Lịch sử trong những năm qua
đã tỏ rõ lực lượng đồn kết của nhân dân là vơ địch. Mặt trận Việt Minh đã
giúp Cách mạng Tháng Tám thành công. Mặt trận Thống nhất Việt MinhLiên Việt đã giúp kháng chiến thắng lợi. Chúng ta có thể tin chắc rằng: với sự
cố gắng của mỗi người và sự ủng hộ của tồn dân, Mặt trận Tổ quốc sẽ làm
trịn nhiệm vụ vẻ vang là giúp xây dựng một nước Việt Nam hồ bình, thống
nhất, độc lập dân chủ và giàu mạnh."Thực hiện xuyên suốt và nhất quán chiến
lược đại đoàn kết dân tộc, trong chín thập kỷ qua, Đảng Cộng sản Việt Nam
đã tập hợp, đoàn kết và phát huy sức mạnh toàn dân tộc làm nên những thắng
lợi vĩ đại trong sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc, tiến hành thắng lợi
9


cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và kháng chiến chống Mỹ, cứu nước,
giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước, rồi cùng nhau xây dựng “đất nước
ta đàng hoàng hơn, to đẹp hơn” như mong ước của Chủ tịch Hồ Chí Minh.
2.4. Đại đồn kết dân tộc trong Mặt trận dân tộc thống nhất.
- Ngay từ đầu Hồ Chí Minh tập hợp mọi người vào các hội, nghiệp đoàn.
Người sáng lập ra Mặt trận dân tộc thống nhất Đông Dương, quy tụ người
Việt Nam yêu nước cả trong và ngoài nước.
- Mặt trận dân tộc thống nhất phải được xây dựng theo những nguyên tắc:
+ Trên nền tảng liên minh cơng nơng (sau thêm lao động trí óc) dưới sự
lãnh đạo của Đảng.
+ Mặt trận hoạt động theo nguyên tắc hiệp thương dân chủ, lấy việc

thống nhất lợi ích tối cao của dân tộc với lợi ích của các tầng lớp nhân dân
làm cơ sở để củng cố và khơng ngừng mở rộng.
+ Đồn kết lâu dài, chặt chẽ, đoàn kết thật sự, chân thành, thân ái giúp
đỡ nhau cùng tiến bộ.
- Phương châm đoàn kết các giai cấp, tầng lớp khác nhau của Hồ Chí
Minh là “cầu đồng tồn dị”.
Năm 1962, tại lớp bồi dưỡng cán bộ về cơng tác Mặt trận, Người nói:
“Chúng ta phải đồn kết chặt chẽ các tầng lớp nhân dân... Phải đoàn kết tốt
các đảng phái, các đoàn thể, các nhân sĩ trong mặt trận Tổ quốc Việt Nam,
thực hiện hợp tác lâu dài, giúp đỡ lẫn nhau, cùng nhau tiến bộ. Phải đoàn kết
các dân tộc anh em, cùng nhau xây dựng Tổ quốc... Phải đoàn kết chặt
chẽ giữa đồng bào lương và đồng bào các tôn giáo, cùng nhau xây dựng đời
sống hòa thuận ấm no, xây dựng Tổ quốc”.
- Tư tưởng đồn kết của Hồ Chí Minh là đồn kết phải bao gồm đấu tranh,
đấu tranh để đoàn kết tốt hơn.
Người viết: “Đồn kết thật sự nghĩa là mục đích phải nhất trí và lập trường
cũng phải nhất trí. Đồn kết thật sự nghĩa là vừa đoàn kết, vừa đấu tranh, học
những cái tốt của nhau, phê bình những cái sai của nhau và phê bình trên lập
trường thân ái, vì nước, vì dân”.
Trong quá trình xây dựng, củng cố và phát triển Mặt trận dân tộc thống
nhất, Đảng ta luôn luôn đấu tranh trên hai mặt trận chống khuynh hướng cơ
độc, hẹp hịi, coi nhẹ việc tranh thủ tất cả những lực lượng có thể tranh thủ
được; đồng thời chống khuynh hướng đoàn kết một chiều đoàn kết mà khơng
có đấu tranh đúng mức trong nội bộ Mặt trận.
10


2.5.

Đại đồn kết phải có tổ chức, có lãnh đạo


Tư tưởng Đại đoàn kết dân tộc chỉ mang sức mạnh thực sự khi nó được hiện
thực hố khi tồn dân được giác ngộ về mục tiêu chiến đấu chung, được tổ
chức chặt chẽ, có đường lối chính trị đúng đắn, nội dung, hình thức, phương
thức hoạt động phù hợp. Nếu khơng, quần chúng nhân dân dù có hàng triệu,
hàng triệu con người cũng chỉ là một số đơng khơng có sức mạnh. Thất bại
của các phong trào yêu nước trước kia đã chứng minh rất rõ vấn đề này.
- Xác định, xây dựng hình thức tập hợp, nội dung và phương thức hoạt động
phù hợp với từng đối tượng, từng bước phát triển của phong trào.
Tuỳ theo từng thời kỳ, từng giai đoạn cách mạng, Mặt trận dân tộc thống nhất
có thể có những tên gọi khác nhau, (Hội phản đế đồng minh - 1930; Mặt trận
Dân chủ - 1936; Mặt trận Việt Minh - 1941; Mặt trận Liên Việt - 1946, Mặt
trận dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam - 1960; Mặt trận Tổ quốc Việt
Nam - 1955, 1976 )nhưng thực chất chỉ là một - đó là tổ chức chính trị rộng
rãi, tập hợp đơng đảo các giai cấp, tầng lớp, dân tộc, tôn giáo, đảng phái, các
tổ chức và cá nhân yêu nước ở trong và ngồi nước, phấn đấu vì mục tiêu
chung là độc lập, thống nhất của Tổ quốc và tự do, hạnh phúc của nhân dân.
Mặt trận phải có cương lĩnh, điều lệ phù hợp với yêu cầu, nhiệm vụ của từng
thời kỳ, từng giai đoạn cách mạng.
- Mặt trận dân tộc thống nhất phải được xây dựng theo những nguyên tắc sau
đây:
Thứ nhất, đồn kết phải xuất phát từ mục tiêu vì nước, vì dân, trên cơ sở yêu
nước, thương dân, chống áp bức bóc lột, nghèo nàn lạc hậu. Hồ Chí Minh cho
rằng, nước đồn kết mà dân khơng hưởng hạnh phúc, tự do, thì độc lập cũng
chẳng có nghĩa lý gì. Sự đồn kết phải lấy lợi ích tối cao của dân tộc, lợi ích
căn bản của nhân dân lao động làm mục tiêu phấn đấu
Thứ hai, phải được xây dựng trên nền tảng liên minh công - nông - lao động
trí óc, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản, từ đó mở rộng Mặt trận, làm cho
Mặt trận thực sự quy tụ được cả dân tộc, tập hợp được toàn dân, kết thành
một khối vững chắc.

Thứ ba, mặt trận hoạt động trên nguyên tắc hiệp thương dân chủ, lấy việc
thống nhất lợi ích tối cao của dân tộc với lợi ích chính đáng của các tầng lớp
nhân dân làm cơ sở để củng cố và không ngừng mở rộng, phát triển. Những
11


lợi ích riêng biệt khơng phù hợp sẽ dần dần được giải quyết bằng lợi ích
chung của dân tộc, bằng sự nhận thức ngày càng đúng đắn hơn của mỗi
người, mỗi bộ phận về mối quan hệ giữa lợi ích chung và lợi ích riêng. Vấn
đề này phải được xem xét và giải quyết thoả đáng bằng nguyên tắc hiệp
thương dân chủ, khơng áp đặt hoặc dân chủ hình thức.
Thứ tư, đoàn kết lâu dài, chặt chẽ, đoàn kết thật sự, chân thành, thân ái giúp
đỡ nhau cùng tiến bộ.
Giữa các thành viên của khối đại đoàn kết dân tộc, bên cạnh những điểm
tương đồng vẫn có những điểm khác nhau cần phải bàn bạc để đi đến nhất trí,
bên cạnh những nhân tố tích cực vẫn có những nhân tố tiêu cực cần phải khắc
phục. Để giải quyết vấn đề này, một mặt, Hồ Chí Minh nhấn mạnh phương
châm “cầu đồng tồn dị”, hướng tới cái chung, song không loại bỏ cái khác
biệt, lấy cái chung để hạn chế cái riêng, cái khác biệt; mặt khác, Người nêu rõ
“Đoàn kết phải gắn với đấu tranh, đấu tranh để tăng cường đồn kết”, khắc
phục tình trạng đồn kết xi chiều, phải nêu cao tinh thần tự phê bình và phê
bình để biểu dương mặt tốt, khắc phục mặt chưa tốt, củng cố đoàn kết nội bộ.
+Đảng Cộng sản Việt Nam vừa là thành viên của Mặt trận dân tộc thống nhất
vừa là lực lượng lãnh đạo Mặt trận.
+Đảng là thành viên hăng hái nhất, tích cực nhất, thành viên hạt nhân của Mặt
trận. Đảng Cộng sản Việt Nam gắn bó chặt chẽ với phong trào yêu nước Việt
Nam ngay từ sự ra đời của Đảng, thành phần trong Đảng gồm những người
tiên tiến nhất thuộc mọi tầng lớp. Đại đoàn kết dân tộc là vấn đề máu thịt của
Đảng. Đảng đại biểu cho lợi ích của cả dân tộc. Đại bộ phận nhân dân coi
Đảng là Đảng của mình. Do đó Đảng quy tụ được cả dân tộc.

“Đảng khơng thể đòi hỏi Mặt trận thừa nhận quyền lãnh đạo của mình, mà
phải tỏ ra là một bộ phận trung thành nhất, hoạt động nhất và chân thực nhất.
Chỉ trong đấu tranh và công tác hàng ngày, khi quần chúng rộng rãi thừa nhận
chính sách đúng đắn và năng lực lãnh đạo của Đảng, thì Đảng mới giành được
địa vị lãnh đạo”.
+ Đảng lãnh đạo Mặt trận bằng việc xác định chính sách Mặt trận; theo
nguyên tắc hiệp thương dân chủ: vận động, giáo dục, thuyết phục, nêu
gương, lấy lòng chân thành để đối xử, cảm hóa, khêu gợi tinh thần tự giác,
tự nguyện. Trong công tác mặt trận, Đảng “phải thành thực lắng nghe ý
kiến của người ngoài Đảng. Cán bộ và đảng viên không được tự cao tự đại,
12


cho mình là tài giỏi hơn mọi người, trái lại phải học hỏi điều hay điều tốt
của mọi người... Cán bộ và đảng viên có quyết tâm làm như thế thì cơng
tác Mặt trận nhất định sẽ tiến bộ nhiều”
2.6.

Đồn kết dân tộc phải gắn liền với đoàn kết quốc tế:

- Hồ Chí Minh khẳng định: yêu nước chân chính phải gắn liền với chủ nghĩa
quốc tế trong sáng của giai cấp cơng nhân.Chuẩn bị thành lập Đảng, Hồ Chí
Minh xác định: “phải có đảng cách mệnh, để trong thì vận động và tổ chức
dân chúng, ngồi thì liên lạc với dân tộc bị áp bức và vô sản giai cấp mọi
nơi”.
- Hồ Chí Minh ln ln khẳng định “Cách mạng Việt Nam là một bộ phận
của cách mạng thế giới”, “Cách mạng Việt Nam chỉ giành được thắng lợi khi
đoàn kết chặt chẽ với phong trào cách mạng thế giới”. Người là hình mẫu của
những hoạt động khơng mệt mỏi vì sự đồn kết giai cấp cơng nhân, Đảng
cộng sản và các dân tộc trên thế giới.

Đại đoàn kết dân tộc phải đi đến đại đoàn kết quốc tế và là cơ sở cho việc
thực hiện đoàn kết quốc tế. Ngược lại, đại đoàn kết quốc tế là một nhân tố hết
sức quan trọng giúp cho cách mạng Việt Nam hồn thành sự nghiệp giải
phóng dân tộc, thống nhất đất nước, đưa cả nước quá độ lên chủ nghĩa xã hội.
Tư tưởng đại đồn kết khơng phải là thủ đoạn chính trị nhất thời, khơng phải
là sách lược mà là vấn đề mang tính chiến lược. Người xác định “đoàn kết là
lẽ sinh tồn dân tộc ta, lúc nào dân ta đồn kết mn người như một thì nước ta
độc lập tự do, trái lại thì nước ta bị xâm lấn. Đồn kết trên lập trường giai cấp
cơng nhân nghĩa là bao hàm cả đoàn kết quốc tế, tạo sự thống nhất giữa lợi
ích dân tộc với lợi ích quốc tế, chủ nghĩa yêu nước chân chính gắn với chủ
nghĩa quốc tế trong sáng. Cách mạng giải phóng dân tộc và các mạng xã hội
chủ nghĩa ở nước ta muốn thành cơng địi hỏi phải đồn kết quốc tế để tạo sức
mạnh đồng bộ và tổng hợp. Thực hiện đoàn kết quốc tế, HCM quan tâm đoàn
kết cách mạng nước ta với các phong trào Cộng sản và công nhân quốc tế, với
các phong trào giải phóng dân tộc ở các nước trên thế giới, các phong trào đấu
tranh cho hịa bình, dân chủ tiến bộ. Người đặc biệt chú trọng xây dựng khối
đồn kết 3 nước đơng dương, mặt trận Việt Nam -Lào -Campuchia, mặt trận
nhân dân thế giới đoàn kết với Việt Nam.

13


Nêu cao tư tưởng đại đoàn kết dân tộc và đồn kết quốc tế, Hồ Chí Minh
khơng những được cả nước tôn vinh là lãnh tụ vĩ đại, anh hùng giải phóng dân
tộc Việt Nam mà cịn được thừa nhận là chiến sĩ lỗi lạc của phong trào cách
mạng thế giới, danh nhân văn hóa nhân loại.
3. Nguyên tắc đại đồn kết dân tộc của Chủ tịch Hồ Chí Minh

Bác Hồ với đồng bào dân tộc thiểu số. (Ảnh tư liệu)


Thứ nhất, đại đoàn kết phải được xây dựng trên cơ sở thống nhất giữa lợi ích
của quốc gia dân tộc với quyền lợi cơ bản của các giai tầng trong xã hội.
Chủ tịch Hồ Chí Minh ln có thái độ “cầu đồng tồn dị” - chấp nhận sự khác
biệt của các giai tầng trong xã hội nhưng không trái với mục tiêu chung: Độc
lập dân tộc, tự do, hạnh phúc của nhân dân.
Trong suốt chiều dài lịch sử, dân tộc Việt Nam luôn phải đương đầu với
những kẻ thù xâm lược đến từ phương Bắc, sau này là từ phương Tây. Dựng
nước gắn liền với giữ nước. Theo Hồ Chí Minh, mẫu số chung của mọi giai
tầng trong xã hội Việt Nam, đó là khát vọng được độc lập, khát vọng vươn tới
một cuộc sống tự do, ấm no, hạnh phúc. Người khẳng định: “Người Việt Nam
14


ai cũng yêu nước, muốn nước thống nhất độc lập, ta khéo nhen chút than hồng
ấy, nó sẽ cháy lên thành ngọn lửa”.
Để xây dựng khối đoàn kết toàn dân vững mạnh, Người khun đồng bào vì
lịng u nước thương nịi, hãy xóa bỏ mọi bất hịa, thành kiến để cùng phấn
đấu cho một tương lai tươi sáng. Trong Thư gửi đồng bào Nam bộ, Người
viết: “Năm ngón tay cũng có ngón vắn, ngón dài. Nhưng vắn dài đầu hợp lại
nơi bàn tay. Trong mấy triệu con người cũng có người thế này thế khác nhưng
thế này thế khác đều dòng dõi tổ tiên ta. Vậy nên ta phải khoan hồng đại độ,
ta phải nhận ra rằng đã là con Lạc cháu Hồng thì ai cũng có ít hay nhiều lịng
ái quốc...có như thế mới thành đồn kết, có đại đồn kết thì tương lai chắc
chắn sẽ vẻ vang”.
Thứ hai, tin vào dân, dựa vào dân, phấn đấu vì quyền lợi của nhân dân.
Dân trong tư tưởng Hồ chí Minh là những người cùng chung một nước, chung
một cộng đồng, chung một lãnh thổ thống nhất. Người gọi nhân dân là “quốc
dân”, là “đồng bào”, là “người trong một nước”. Dân là những người có
chung một cội nguồn, tất cả sinh cùng một bọc, là “con Lạc cháu Hồng”, là
“con Rồng cháu Tiên”, đều là con cháu Việt Nam, đều là anh em ruột thịt. Đó

là tồn bộ đồng bào trong đại gia đình các dân tộc VN, kể cả những người ở
nước ngồi, “khơng phân biệt nịi giống, gái trai, giàu, nghèo, giai cấp, tôn
giáo”, trừ bọn tay sai cho đế quốc thực dân, bọn Việt gian, bọn phản bội lại
lợi ích Tổ quốc.
Nguyên tắc này vừa là sự kế thừa tư duy chính trị truyền thống của dân tộc
“Dân là gốc của nước”, vừa là sự quán triệt quan điểm của chủ nghĩa Mác
Lênin “cách mạng là sự nghiệp của quần chúng”. Hồ Chí Minh cho rằng: Dân
là gốc rễ, là nền tảng của đại đoàn kết. "Trong bầu trời khơng gì q bằng
Nhân dân. Trong thế giới, khơng gì mạnh bằng lực lượng đồn kết của Nhân
dân". Dân là chủ thể của đại đoàn kết. Dân là nguồn sức mạnh vơ tận, vơ địch
của khối đại đồn kết. Dân là chỗ dựa vững chắc của Đảng Cộng sản và hệ
thống chính trị. Do đó, cần phát huy sức mạnh của Nhân dân. Đoàn kết phải
thực sự tạo thành sức mạnh vật chất và tinh thần. Đoàn kết phải thông qua các
tổ chức chặt chẽ để tập hợp các tầng lớp Nhân dân. Trong Di chúc Người căn
dặn: “Đoàn kết là một truyền thống cực ký quý báu của Đảng và Nhân dân
ta”.
Năm 1950, Bác Hồ đến thăm và nói chuyện với lớp đào tạo cán bộ Tư pháp.
Đó là một đêm mùa Hè ở vùng núi chiến khu Việt Bắc, tiết trời rất nóng nực.
15


Bác mặc chiếc áo sơ-mi bằng vải màu vàng đã sờn bạc, để lộ bên trong chiếc
áo may-ô nhuộm màu nâu. Dưới ánh đèn dầu le lói, một tay cầm chiếc quạt
giấy, tay kia Bác rút trong cặp ra một xếp giấy, gồm những câu hỏi mà học
viên trong lớp đã gửi lên để nhờ Bác giải đáp. Bác đọc từng câu, vừa trả lời
vừa giải thích thật cặn kẽ và dễ hiểu. Đáng nhớ nhất có câu hỏi: “Làm thế nào
để Tư pháp gần được dân?”. Bác trả lời: “Muốn gần dân thì đừng xa dân!”. Sự
ủng hộ của nhân dân là hết sức to lớn. Ví dụ: Sự ủng hộ về vật chất và tinh
thần cho Chính phủ ta sau khi CMT8 thành công, Tổng tuyển cử, “Tuần lễ
vàng”, “Hũ gạo cứu đói”

Thứ ba, đại đồn kết một cách tự giác, có tổ chức, có lãnh đạo; đồn kết lâu
dài, chặt chẽ.
Đại đoàn kết theo tư tưởng Hồ Chí Minh là đồn kết trên lập trường vơ sản,
theo ngọn cờ chủ nghĩa Mác – Lênin, đó là một tập hợp có tổ chức, dưới sự
lãnh đạo của Đảng Cộng sản, nền tảng là khối liên minh công - nơng - trí
thức.Hồ Chí Minh nêu rõ: “Đồn kết của ta khơng những rộng rãi mà cịn
đồn kết lâu dài. Đồn kết là một chính sách dân tộc, khơng phải là một thủ
đoạn chính trị. Ta đồn kết để đấu tranh cho thống nhất và độc lập của Tổ
quốc; ta cịn phải đồn kết để xây dựng nước nhà”. Đồn kết rộng rãi, chặt
chẽ, đồng thời phải củng cố. Nền có vững, nhà mới chắc chắn, gốc có tốt thì
cây mới tốt tươi.
Thứ tư, đại đoàn kết phải chân thành, thẳng thắn, thân ái; đoàn kết phải gắn
liền với tự phê bình và phê bình.
Xuất phát từ tinh thần yêu nước, lịng tự tơn dân tộc của con người Việt
Nam, Chủ tịch Hồ Chí Minh chủ trương tập hợp mọi lực lượng dân tộc trong
khối đại đoàn kết. Đồng thời, Người cho rằng, trong đồn kết có đấu tranh,
đấu tranh để củng cố đoàn kết. “Đoàn kết thật sự nghĩa là vừa đoàn kết, vừa
đấu tranh, học những cái tốt của nhau, phê bình những cái sai của nhau và phê
bình trên lập trường thân ái, vì nước, vì dân”. Do đó, trong đồn kết phải thực
hiện tự phê bình và phê bình, để khắc phục, sửa chữa khuyết điểm, phát huy
những ưu điểm, củng cố nội bộ, củng cố tổ chức, tăng cường đoàn kết.
Trong tác phẩm Di chúc, điều mong muốn cuối cùng của Người là: Toàn
đảng, toàn dân ta đoàn kết phấn đấu, xây dựng một nước Việt Nam hồ bình,
thống nhất, độc lập, dân chủ và giàu mạnh, và góp phần xứng đáng vào sự
nghiệp cách mạng thế giới.

16





Thực tiễn lịch sử cách mạng Việt Nam đã chứng minh sức sống của tư
tưởng Hồ Chí Minh về đại đoàn kết toàn dân tộc. Tư tưởng đại đoàn kết
dân tộc và việc xây dựng khối đại đoàn kết dân tộc của Người là cống
hiến đặc sắc, có giá trị lý luận và giá trị thực tiễn hết sức quan trọng.
Tinh thần đại đoàn kết được hun đúc và rèn luyện trong suốt lịch sử đấu
tranh giải phóng dân tộc, xây dựng và bảo vệ đất nước của nhân dân ta
mà người thắp nên ngọn lửa đó là Chủ tịch Hồ Chí Minh vĩ đại.

4. Những thắng lợi của cách mạng Việt Nam dưới sức mạnh đoàn kết
dân tộc của Hồ Chí Minh
Dưới sự lãnh đạo của Đảng, Mặt trận Dân tộc thống nhất Việt Nam đã ra
sức hoạt động, khơi dậy tinh thần yêu nước, phát huy sức mạnh vĩ đại của
khối đại đoàn kết dân tộc, kết hợp với sức mạnh của thời đại, góp sức đưa
con thuyền cách mạng Việt Nam đi từ thắng lợi này đến thắng lợi
khác.Trong thời kỳ đấu tranh giành độc lập dân tộc (1930 - 1945), do yêu
cầu, nhiệm vụ cách mạng, tổ chức Mặt trận mang nhiều tên gọi khác nhau,
như: Hội Phản đế đồng minh, Mặt trận Thống nhất nhân dân phản đế Đông
Dương, Mặt trận Dân chủ Đông Dương và Việt Nam Độc lập Đồng Minh,
gọi tắt là Việt Minh. Mặt trận Việt Minh đã động viên, tổ chức mọi tầng lớp
đoàn kết, làm Cách mạng Tháng Tám năm 1945 thành công, giành độc lập
dân tộc, lập nên Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà. Thắng lợi Cách
mạng Tám năm 1945 đã đập tan xiềng xích nơ lệ của thực dân Pháp trong
gần một thế kỷ, lật đổ chế độ quân chủ và ách thống trị của phát xít Nhật,
lập nên nước Việt Nam Dân chủ Cộng hịa, nhà nước dân chủ nhân dân đầu
tiên ở Đông Nam châu Á. Nhân dân Việt Nam từ thân phận nô lệ trở thành
người làm chủ đất nước, làm chủ xã hội.
Thắng lợi của Cách mạng Tám đánh dấu bước phát triển nhảy vọt của lịch sử
dân tộc Việt Nam, đưa dân tộc ta bước vào một kỷ nguyên mới: Kỷ nguyên
độc lập, tự do. Với thắng lợi của Cách mạng Tám, Đảng và nhân dân ta đã

góp phần làm phong phú thêm kho tàng lý luận của chủ nghĩa Mác-Lênin,
cung cấp thêm nhiều kinh nghiệm quý báu cho phong trào đấu tranh giải
phóng dân tộc và giành quyền dân chủ. Cách mạng Tám thắng lợi đã cổ vũ
mạnh mẽ nhân dân các nước thuộc địa và nửa thuộc địa đấu tranh chống chủ
nghĩa đế quốc, thực dân giành độc lập, tự do.Viết về thắng lợi của Cách mạng
17


Tháng Tám, Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: là thắng lợi vĩ đại nhất trong
lịch sử hàng nghìn năm của dân tộc Việt Nam: “Chẳng những giai cấp lao
động và nhân dân Việt Nam ta có thể tự hào, mà giai cấp lao động và những
dân tộc bị áp bức nơi khác cũng có thể tự hào rằng: Lần này là làn đầu tiên
trong lịch sử cách mạng của các dân tộc thuộc địa và nửa thuộc địa, một
Đảng mới 15 tuổi đã lãnh đạo cách mạng thành công, đã nắm chính quyền
tồn quốc”
– Thắng lợi của kháng chiến chống thực dân Pháp (1945-1954) đã buộc thực
dân Pháp và các nước phải cơng nhận độc lập, chủ quyền, tồn vẹn lãnh thổ
của các nước Đông Dương; làm thất bại âm mưu mở rộng và kéo dài chiến
tranh của đế quốc Mỹ, kết thúc chiến tranh, lập lại hịa bình ở Đơng Dương;
giải phóng hồn tồn miền Bắc, tạo điều kiện để miền Bắc tiến lên chủ nghĩa
xã hội làm căn cứ địa, hậu phương lớn cho cuộc đấu tranh cách mạng ở miền
Nam; tăng thêm niềm tự hào dân tộc cho nhân dân ta và nâng cao uy tín của
Việt Nam trên trường quốc tế.
Đối với quốc tế, thắng lợi của kháng chiến chống thực dân Pháp đã cổ vũ
mạnh mẽ phong trào giải phóng dân tộc trên thế giới; mở rộng địa bàn, tăng
thêm lực lượng cho chủ nghĩa xã hội và cách mạng thế giới; cùng với nhân
dân Lào và Campuchia đập tan ách thống trị của chủ nghĩa thực dân cũ ở ba
nước Đông Dương, là tấm gương cổ vũ các dân tộc thuộc địa, phụ thuộc, góp
phần làm sụp đổ của chủ nghĩa thực dân cũ trên thế giới, trước hết là hệ thống
thuộc địa của thực dân Pháp.

Đánh giá về ý nghĩa lịch sử của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm
lược, Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: Lần đầu tiên trong lịch sử, một nước
thuộc địa nhỏ yếu đã đánh thắng một nước thực dân hùng mạnh, Đó là một
thắng lợi vẻ vang của nhân dân Việt Nam, đồng thời cũng lả một thắng lợi của
các lực lượng hồ bình, dân chủ và xã hội chủ nghĩa trên thế giới. Thắng lợi
đó đã chứng minh rằng một dân tộc dù đất khơng rộng, người khơng đơng,
nếu quyết tâm chiến đấu vì độc lập, tự do, có đường lối chính trị, qn sự
đúng đắn, được sự ủng hộ quốc tế thì hồn tồn có thể giành thắng lợi.
– Thắng lợi của cuộc chống Mỹ, cứu nước (1954-1975): Quân dân Việt Nam
dưới sự lãnh đạo của Đảng đã quét sạch quân xâm lược ra khỏi bờ cõi, giải
18


phóng miền Nam, giành lại độc lập, thống nhất, tồn vẹn lãnh thổ đất nước;
hoàn thành cuộc cách mạng dân tộc dân chủ trên phạm vi cả nước, mở ra kỷ
nguyên mới cho dân tộc ta, kỷ nguyên cả nước hịa bình, thống nhất, cùng
chung một nhiệm vụ chiến lược, đi lên chủ nghĩa xã hội; tăng thêm sức mạnh
vật chất, tinh thần, thế và lực cho cách mạng và dân tộc Việt Nam, để lại niềm
tự hào sâu sắc và những kinh nghiệm quý cho sự nghiệp dựng nước và giữ
nước giai đoạn sau; góp phần quan trọng và việc nâng cao uy tín của Đảng và
dân tộc Việt Nam trên trường quốc tế.
Đối với cách mạng thế giới, thắng lợi của cuộc chống Mỹ, cứu nước đã đập
tan cuộc phản kích lớn nhất của chủ nghĩa đế quốc vào chủ nghĩa xã hội và
cách mạng thế giới kể từ sau Chiến tranh thế giới thứ hai, đã làm phá sản các
chiến lược chiến tranh xâm lược của đế quốc Mỹ, gây tổn thất to lớn và tác
động sâu sắc đến nội tình nước Mỹ trước mắt và lâu dài; góp phần làm suy
yếu chủ nghĩa đế quốc, phá vỡ một phòng tuyến quan trọng của chúng ở khu
vực Đông Nam Á, mở ra sự sụp đổ không thể tránh khỏi của chủ nghĩa thực
dân mới, cổ vũ mạnh mẽ phong trào đấu tranh vì mục tiêu độc lập dân tộc,
dân chủ, tự do và hịa bình phát triển của nhân dân thế giới. Đánh giá thắng

lợi lịch sử của sự nghiệp chống Mỹ, cứu nước, Báo cáo chính trị tại Đại hội
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IV của Đảng (12-1976) khẳng định: “Năm
tháng sẽ trôi qua, nhưng thắng lợi của nhân dân ta trong sự nghiệp kháng
chiến chống Mỹ, cứu nước mãi mãi được ghi và lịch sử dân tộc như một trong
những trang chói lọi nhất, một biểu tượng sáng ngời về sự toàn thắng của chủ
nghĩa anh hùng cách mạng và trí tuệ con người, và đi vào lịch sử thế giới như
một chiến công vĩ đại của thế kỷ XX, một sự kiện có tầm quan trọng quốc tế to
lớn và có tính thời đại sâu sắc”.
– Thắng lợi của quân và dân Việt Nam trong việc chiến đấu bảo vệ chủ quyền
lãnh thổ của Tổ quốc ở biên giới Tây Nam và phía Bắc Tổ quốc là “là một
bảo đảm cực kỳ quan trọng cho nhân dân ta trong sự nghiệp xây dựng thành
công chủ nghĩa xã hội và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ
nghĩa”3 và tiếp tục tăng cường tình hữu nghị và hợp tác giữa các nước và góp
phần củng cố hồ bình, ổn định ở Đông Nam Á và trên thế giới. Sau ngày
miền Nam được hồn tồn giải phóng, đất nước thống nhất, Đại hội Mặt trận
Dân tộc Thống nhất họp từ ngày 31/01/1977 đến ngày 04/02/1977 đã quyết
định thống nhất ba tổ chức Mặt trận, lấy tên là Mặt trận Tổ quốc Việt Nam.
19



×