Tải bản đầy đủ (.pdf) (160 trang)

Nghiên cứu cơ sở khoa học về tiêu chuẩn phế liệu về đề xuất giải pháp kiểm soát ô nhiễm trong hoạt động nhập khẩu phế liệu làm nguyên liệu sản xuất

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (4.9 MB, 160 trang )


1





































BỘ TÀI NGUYÊN VÀ MÔI TRƯỜNG
TỔNG CỤC MÔI TRƯỜNG








BÁO CÁO TỔNG KẾT KHOA HỌC





ĐỀ TÀI


NGHIÊN CỨU CƠ SỞ KHOA HỌC VỀ TIÊU CHUẨN PHẾ LIỆU VÀ ĐỀ XUẤT
CÁC GIẢI PHÁP KIỂM SOÁT Ô NHIỄM TRONG HOẠT ĐỘNG NHẬP KHẨU
PHẾ LIỆU LÀM NGUYÊN LIỆU SẢN XUẤT






CHỦ NHIỆM ĐỀ TÀI
:TS. NGUYỄN ANH TUẤN








8135



HÀ NỘI, 2009

2






































BỘ TÀI NGUYÊN VÀ MÔI TRƯỜNG
TỔNG CỤC MÔI TRƯỜNG






BÁO CÁO TỔNG KẾT KHOA HỌC



ĐỀ TÀI


NGHIÊN CỨU CƠ SỞ KHOA HỌC VỀ TIÊU CHUẨN PHẾ LIỆU VÀ ĐỀ XUẤT
CÁC GIẢI PHÁP KIỂM SOÁT Ô NHIỄM TRONG HOẠT ĐỘNG NHẬP KHẨU
PHẾ LIỆU LÀM NGUYÊN LIỆU SẢN XUẤT

Hà Nội, ngày …… tháng …… năm 20…
CHỦ NHIỆM ĐỀ TÀI







TS. Nguyễn Anh Tuấn
Hà Nội, ngày …… tháng …… năm 20…
CƠ QUAN CHỦ TRÌ ĐỀ TÀI
TỔNG CỤC MÔI TRƯỜNG
TỔNG CỤC TRƯỞNG






Bùi Cách Tuyến
Hà Nội, ngày …… tháng …… năm 20…
CHỦ TỊCH HỘI ĐỒNG ĐÁNH GIÁ
NGHIỆM THU







Nguyễn Duy Hùng
Hà Nội, ngày …… tháng …… năm 20…
TL. BỘ TRƯỞNG
BỘ TÀI NGUYÊN VÀ MÔI TRƯỜNG
VỤ TRƯỞNG VỤ KHOA HỌC VÀ
CÔNG NGHỆ





TS. Nguyễn Đắc Đồng



HÀ NỘI, 2009

3
MỤC LỤC

CHƯƠNG I: TỔNG QUAN VỀ PHẾ LIỆU VÀ PHẾ LIỆU NHẬP KHẨU 10
I. Khái niệm và định nghĩa pháp lý của phế liệu 10
II. Phế liệu và môi trường 13
2.1. Tác động tích cực của việc thu hồi, tái chế phế liệu 13
a) Tái chế sắt, thép phế liệu 14
b) Tái chế nhựa phế liệu 14
c) Tái chế giấy phế liệu 18
2.2. Tác động tiêu cực của phế
liệu 19
a) Tái chế thép phế liệu 19
b) Tái chế nhựa phế liệu 28
III. Nhu cầu nhập khẩu phế liệu làm nguyên liệu sản xuất 32
3.1. Thị trường thép phế liệu trong nước và quốc tế 32
3.2. Thị trường nhựa phế liệu trong nước và quốc tế 33
3.3. Thị trường giấy phế liệu trong nước và quốc tế 40
CHƯƠNG II: TIÊU CHUẨN VÀ QUY ĐỊNH VỀ QUẢN LÝ PHẾ LIỆ
U 41
I. Tiêu chuẩn và quy định về quản lý phế liệu quốc tế 41
1.1. Quy định quản lý phế liệu của Trung Quốc 41
1.2. Quy định về nhập khẩu nhựa phế liệu tại Ấn Độ 43
1.3. Quy định quản lý phế liệu của Mỹ 44
1.4. Quy định quản lý phế liệu của Châu Âu 45
1.5. Quy định về An toàn sinh học đối với phế liệu nhập khẩu của Úc
và New Zealand 49
1.6. Công ướ

c Basel và thỏa thuận về bảo vệ môi trường liên quan 50
II. Quy định quản lý phế liệu nhập khẩu của Việt Nam: 51
CHƯƠNG III: HIỆN TRẠNG KIỂM SOÁT Ô NHIỄM ĐỐI VỚI PHẾ LIỆU 55
I. Hiện trạng về kiểm soát ô nhiễm trong nhập khẩu phế liệu 55
II. Hiện trạng về kiểm soát ô nhiễm trong sử dụng phế liệu 59
III. Đề xuất phương án giải quyết các vấ
n đề tồn tại 65
CHƯƠNG IV: ĐỀ XUẤT CÁC GIẢI PHÁP KIỂM SOÁT Ô NHIỄM
TRONG NHẬP KHẨU PHẾ LIỆU 69
I. Xây dựng các quy định pháp lý về quản lý phế liệu nhập khẩu 69
1.1. Xây dựng Quyết định của Thủ tướng Chính phủ
về quản lý phế liệu nhập khẩu 69
1.2. Xây dựng các quy định quản lý chuyên ngành 70
II. Đề xuất về tăng cường năng lực kỹ thuật trong qu
ản lý phế liệu nhập khẩu 71

4
2.1. Tăng cường năng lực giám định chất lượng phế liệu 71
2.2. Tăng cường năng lực quản lý ô nhiễm môi trường tại cảng 71
2.3. Tăng cường năng lực quản lý ô nhiễm môi trường
tại doanh nghiệp sản xuất, kinh doanh phế liệu 72
III. Đánh giá tác động của dự thảo quy định pháp lý 73
3.1. Nội dung của quy định cần đánh giá tác động 73
3.2. Quá trình tham vấn ý kiến để
đánh giá tác động của quy định 73
3.3. Phân tích rủi ro chính sách: 79
3.4. Phân tích các lĩnh vực và nhóm chịu ảnh hưởng 82
a) Các lĩnh vực chịu tác động do quy định 82
b) Các nhóm lợi ích bị ảnh hưởng do quy định 85
3.5. Phân tích về thực hiện và giám sát thực hiện các quy định 86

a) Nguyên tắc hỗ trợ tuân thủ 86
b) Yếu tố tuân thủ trong các dự thảo quy định 87
c) Phân tích các khó khăn trong việc tuân thủ quy định: 89
CHƯƠNG V: ĐỀ XUẤT CÁC BI
ỆN PHÁP DÀI HẠN ĐỂ PHÒNG NGỪA
VÀ KIỂM SOÁT Ô NHIỄM ĐỐI VỚI PHẾ LIỆU NHẬP KHẨU 91
I. Đặc điểm về kinh tế và môi trường liên quan đến phế liệu 91
1.1. Lợi ích của việc sử dụng phế liệu 91
1.2. Rủi ro do sử dụng phế liệu 92
II. Đề xuất biện pháp dài hạn để kiểm soát phế liệu nhập khẩu 94
2.1. Chính sách về hài hòa các quy định quốc t
ế: 94
2.2. Chính sách về tăng cường năng lực kỹ thuật 96
2.3. Chính sách về giá trị đạo đức “xanh” 97
2.4. Chính sách về tăng cường năng lực thể chế 92
CHƯƠNG VI: KẾT LUẬN 103
PHỤ LỤC 104
Phụ lục I. Dự thảo Quy chế quản lý phế liệu nhập khẩu và Tờ trình
(đã trình Thủ tướng Chính phủ)
Phụ lục II. Dự thảo Thông tư
ban hành các Quy chuẩn kỹ thuật quốc gia về
(1) Thép phế liệu, (2) Nhựa phế liệu, (3) Giấy phế liệu
Phụ lục III. Hướng dẫn kỹ thuật Kiểm soát ô nhiễm đối với phế liệu nhập khẩu
Phụ lục IV. Tổng hợp ý kiến góp ý của các Bộ, ngành, địa phương, tổ chức, cá nhân
đối với nội dung Dự thảo Quy chế quản lý phế liệu nhập kh
ẩu
Phụ lục V. Tài liệu tham khảo






5
Danh sách các thành viên tham gia thực hiện
TT HỌ TÊN ĐƠN VỊ CÔNG TÁC
1 TS. Nguyễn Anh Tuấn Cục Kiểm soát ô nhiễm - Tổng cục Môi trường
2 TS. Trần Thế Loãn Cục Kiểm soát ô nhiễm - Tổng cục Môi trường
3 ThS. Nguyễn Hoàng Đức Cục Kiểm soát ô nhiễm - Tổng cục Môi trường
4 TS. Nguyễn Khắc Kinh Hội ĐTM Việt Nam
5 ThS. Đỗ Thanh Bái Trung tâm Bảo vệ Môi trường và An toàn hóa chất
6 Nguyễn Thượng Hiền Cục Quản lý chất thải và Cải thiện Môi trường
7 Nguyễn Hồng Minh Cục Kiểm soát ô nhiễm - Tổng cục Môi trường
8 ThS. Trần Thị Hiền Hạnh Cục Kiểm soát ô nhiễm - Tổng cục Môi trường
9 ThS. Nguyễn Trường Huynh Cục Kiểm soát ô nhiễm - Tổng cục Môi trường
10 ThS. Vũ Tất Đạt Cục Kiểm soát ô nhiễm - Tổng cục Môi trường
11 CN. Phan Thị Hà Cục Kiểm soát ô nhiễm - Tổng cục Môi trường
12 CN. Nguyễn Thị Hồng Hà Cục Kiểm soát ô nhiễm - Tổng cục Môi trường




















6
DANH MỤC CÁC HÌNH VẼ

Hình 1: Các loại nhựa phế liệu 14
Hình 2: Các loại bao bì dạng màng nhựa
15
Hình 3: Quá trình sản xuất nhựa từ nhựa phế liệu và nguyên liệu nhựa
16
Hình 4: Thu nhiệt trị từ quá trình sản xuất nhựa
17
Hình 5: Mô hình lò hồ quang (EAF) truyền thống
22
Hình 6: Sơ đồ máy đùn nhựa
30
Hình 7: Dòng nguyên liệu từ nhựa phế liệu
33
Hình 8: Nhựa phế liệu có thể tái chế 34
Hình 9: Nguyên liệu từ nhựa phế liệu (2003)
35
























7
MỞ ĐẦU
Hiện nay, ở các nước công nghiệp phát triển, tái chế và sử dụng nguyên
liệu tái chế có mặt trong rất nhiều các lĩnh vực sản xuất và đời sống, đóng vai trò
là một nguồn cung cấp nguyên, vật liệu quan trọng cho các chu trình sản xuất
tiếp theo. Thành công của các nước này trong thu gom, tái chế rác thải thành
nguyên liệu là nhờ các chính sách đồng bộ, nhất quán và hiệu quả của chính phủ,
sự tham gia tích cực của doanh nghi
ệp và ý thức của người dân trong việc phân
loại rác từ nguồn.
Tháng 4 năm 2005, Hội nghị Bộ trưởng Môi trường các nước Châu  –
Thái Bình Dương đã được tổ chức tại Tokyo, Nhật Bản để thông quan Sáng

kiến “3R” (Thu hồi/ giảm thiểu - Tái chế - Tái sử dụng) đối với chất thải, hướng
tới việc xây dựng “xã hội tái chế” để bảo vệ môi trường, tiết kiệm tài nguyên
thiên nhiên và phát tri
ển bền vững. Việt Nam đã tham gia Hội nghị này và cam
kết đẩy mạnh triển khai các biện pháp cần thiết để thúc đẩy sự phát triển “xã hội
tái chế” tại Việt Nam, trong khu vực và trên toàn cầu.
Để ngăn chặn chuyển khẩu chất thải, đồng thời khuyến khích tái sử dụng
phế liệu làm nguyên liệu sản xuất một cách an toàn, một số nươc trong khu vực
như Hồng Kong – Trung Quố
c, Malaysia, Thái Lan đã nghiên cứu và ban hành
một số quy định về điệu kiện và tiêu chuẩn phế liệu được phép nhập khẩu làm
nguyên liệu sản xuất như: quy định về chất thải điện – điện tử của HongKong,
Tiêu chuẩn nhựa phế liệu của Malaysia, v.v…
Tại các nước phát triển, các nghiên cứu về tái sử dụng chất thải, phế liệu
cũng được đ
ã và đang thực hiện rộng rãi, trong đó bao gồm cả các nghiên cứu về
cơ chế chính sách do Chính phủ thực hiện, các nghiên cứu về tác động môi
trường do các nhóm nghiên cứu về môi trường thực hiện hoặc các nghiên cứu do
các công ty công nghiệp thực hiện.
Bên cạnh đó, do việc sử dụng nguyên liệu tái chế hay phế liệu làm nguyên
liệu sản xuất là một xu hướng chung trên thế giới, các diễn đàn, tổ chứ
c kinh tế
thế giới cũng rất quan tâm, hỗ trợ phát triển các họat động kinh doanh này. Các
tổ chức Kinh tế Thế giới (WTO) hay AFTA đều có các điều khoản về kinh
doanh phế liệu, nguyên liệu tái chế. Tuy nhiên, do chưa có sự thống nhất, đồng
bộ giữa các quy định pháp lý giữa các tổ chức kinh tế toàn cầu, kinh tế khu vực
và từng nước thành viên nên việc kiểm soát, quản lý, hỗ trợ các họat đ
ông xuất
nhập khẩu phế liệu còn nhiều bất cập. Bên cạnh đó, vẫn tồn tại việc lợi dụng sự
thiếu chặt chẽ về pháp lý và cơ chế tổ chức trong quản lý xuất nhập khẩu phế

liệu để nhập khẩu các loại chất thải vào các nước đang hoặc chậm pháp triển,
trong đó có Việt Nam. Trong những năm gần đây, hàng tr
ăm công-ten-nơ chất
thải đã nhập cảng vào Việt Nam, bao gồm ắc quy chì axit thải, thiết bi văn
phòng thải, cac loại nhựa phế liệu không đủ tiêu chuẩn, v.v Bên cạnh đó, do
nhiều nước phát triển triển trên thế giới tăng sức ép về bảo vệ môi trường, có
quy định pháp lý về bảo vệ môi trường chặt chẽ và chi phí xử lý chất thải cao,
việc vận chuyển chất th
ải sang các nước đang và chậm phát triển có xu hướng
gia tăng nhanh chóng.

8
Nhằm mục đích hạn chế việc vận chuyển, trung chuyển trái phép chất thải,
đăc biệt là các chất thải nguy hại, cộng đồng quốc tế đã thông qua một thỏa
thuận chung về việc vận chuyển và tiêu hủy chất thải nguy hại, thường được biết
đến với tên gọi là Công ước Basel. Việt Nam là một thành viên của Công ước
Basel và đã phê chuẩn Công ước từ năm 1995. Các quy định c
ủa Công ước
Basel về vận chuyển và tiêu hủy chất thải nguy hại cũng đã được nghiên cứu để
hình thành các quy định pháp lý của Việt Nam trong quản lý chất thải như Quyết
định 155/1999/QĐ-TTg ngày 16-7-1999 của Thủ tướng Chinh phủ hay một số
điều khoản trong Chương VIII, Mục II của Luật bảo vệ môi trường năm 2005.
Việt Nam cũng tham gia tích cực trong Mạng lưới thông tin, cảnh báo về vận
chuyển chất thải của các nước khu vực Châu Á-Thái Bình Dương.
Mặc dù nước ta đã tham gia vào một số các thỏa thuận, hiệp ước quốc tế
về kinh tế và bảo vệ môi trường, các quy định của các hiệp ước này đã và đang
được nội luật hóa để áp dụng tại Việt Nam, tuy vậy vẫn còn tồn tại sự thiếu đồng
bộ trong hệ thống pháp lý, đặc biệt là các vấ
n đề liên quan đến xuất nhập khẩu
phế liệu. Mức độ phổ biến và áp dụng các quy định đã được nội luật hóa này

cũng còn hạn chế. Thực tế cho thấy, việc áp dụng các quy định trong quản lý
kinh doanh phế liệu, kiểm soát xuất nhập khẩu chất thải ở Việt Nam cũng còn
khó khăn về nhiều mặt. Hiện nay, Việt Nam đang trong quá trình tiếp tục xây
dự
ng, bổ sung và hoàn thiện các quy định pháp lý và hướng dẫn kỹ thuật, đồng
thời cải cách thể chế và tăng cường năng lực để quản lý kinh doanh phế liệu
nhập khẩu và kiểm soát chất thải và chất thải nguy hại an toàn, hiệu qủa hơn.
Khảo sát ban đầu về họat động kinh doanh, nhập khẩu phế liệu cũng cho
thấy, nhận thức và hiểu biết của nhiều doanh nghi
ệp về bảo vệ môi trường trong
kinh doanh phế liệu còn rất hạn chế.
Vì vậy, việc nghiên cứu về các tiêu chuẩn phế liệu và xây dựng hướng dẫn
thuật kiểm soát ô nhiễm trong hoạt động xuất nhập khẩu một số loại phế liệu
dùng làm nguyên liệu sản xuất là hết sức cần thiết và có ý nghĩa thực tế cao. Kết
quả nghiên cứu sẽ đóng góp gi
ải quyết những vấn đề bức xúc hiện nay là quản lý
hiệu quả việc nhập khẩu phế liệu để hỗ trợ phát triển kinh tế, kiểm soát được
nhập khẩu chất thải vào Việt Nam và xử lý các vấn đề môi trường liên quan đến
họat động kinh doanh phế liệu, phế thải.
Đề tài nghiên cứu này được thực hiện nhằm góp phần giải quyết những vấn
đề nêu trên. Các mục tiêu cụ thể của Đề tài gồm:
1. Đánh giá được tổng thể các vấn đề pháp lý và kỹ thuật trong kinh doanh
và sử dụng phế liệu làm nguyên liệu sản xuất trên thế giới;
2. Xây dựng được một số loại hướng dẫn kỹ thuật kiểm soát ô nhiễm trong
kinh doanh phế liệu làm nguyên liệu sản xuất tuân thủ pháp luật Việt Nam và
phù hợp với quy định, thông lệ quốc t
ế.
Để đáp ứng mục tiêu nêu trên, Đề tài đã thực hiện các hoạt động tổng hợp
thông tin trong nước và quốc tế, khảo sát thực tế, xây dựng các dự thảo quy định,
đánh giá tác động của các quy định, lấy ý kiến rộng rãi của các cơ quan, tổ chức,


9
cá nhân liên quan và trình các cấp có thẩm quyền xem xét các nội dung dự thảo
để phê duyệt và ban hành quy định mới. Các kết quả cụ thể của Đề tài bao gồm:
1. Các báo cáo tổng quan về phế liệu và sử dụng phế liệu quốc tế và trong
nước, bao gồm cả các vấn đề về kỹ thuật và pháp lý (Chương I);
2. Đánh giá về tiêu chuẩn, quy định quản lý phế liệu quốc tế và của Việt
Nam (Chương II);
3. Phân tích các vấn đề về sử dụng phế liệu và bảo vệ môi trường
(Chương III);
4. Xây dựng các dự thảo hướng dẫn kỹ thuật và quy định về quản lý phế
liệu nhập khẩu; đánh giá tác động của quy định; đánh giá rủi ro khi
triển khai quy định (Chương IV);
5. Dự thảo các quy định, hướng dẫn kỹ thuật để trình các cấp có th
ẩm
quyền xem xét (Phụ luc), bao gồm:
a. Dự thảo Quy chế quản lý phế liệu nhập khẩu (đã trình Thủ tướng
Chính phủ).
b. Dự thảo Thông tư ban hành các Quy chuẩn kỹ thuật quốc gia về
(1) Thép phế liệu, (2) Nhựa phế liệu, (3) Giấy phế liệu;
c. Dự thảo Hướng dẫn kỹ thuật Kiểm soát ô nhiễm đối với phế liệu
nh
ập khẩu

























10
CHƯƠNG I

TỔNG QUAN VỀ PHẾ LIỆU VÀ PHẾ LIỆU NHẬP KHẨU


I. Khái niệm và định nghĩa pháp lý của phế liệu
Tại Việt Nam, về pháp lý, khái niệm phế liệu được định nghĩa trước hết
tại khoản 1 Điều 3 Quyết định số 03/2004/QĐ-BTNMT ngày 02/4/2004 của Bộ
trưởng Bộ Tài nguyên và Môi trường về việc ban hành Quy định về bảo vệ môi
trườ
ng đối với phế liệu nhập khẩu làm nguyên liệu sản xuất, trong đó nêu rõ
"Phế liệu là sản phẩm, vật liệu được loại ra từ quá trình sản xuất hoặc tiêu dùng

nhưng đáp ứng yêu cầu làm nguyên liệu sản xuất". Khái niệm phế liệu tiếp tục
được Luật Bảo vệ môi trường 2005 (Luật BVMT 2005) định nghĩa tại khoản 13
Điều 3: "Phế liệu là sản ph
ẩm, vật liệu bị loại ra từ quá trình sản xuất hoặc tiêu
dùng được thu hồi để dùng làm nguyên liệu sản xuất". Mặc dù có sự khác biệt về
việc sử dụng một số từ ngữ trong hai định nghĩa này nhưng giữa các định nghĩa
này không có sự khác biệt về bản chất pháp lý.
Theo các định nghĩa trên, vật chất sẽ trở thành phế liệu khi đáp ứng đầy
đủ
các tiêu chí sau [1]:
Thứ nhất: Là sản phẩm hoặc vật liệu
“Sản phẩm” là những thứ do lao động của con người tạo ra. Các sản phẩm
mà con người tạo ra có thể tồn tại dưới dạng vật thể hoặc phi vật thể. Dưới giác
độ luật môi trường thì đó chỉ có thể là những sản phẩm tồn tại dưới dạng vật thể
thuộc thành phầ
n môi trường. Do đó, những sản phẩm phi vật thể không thuộc
khái niệm phế liệu.
“Vật liệu” là những vật để làm cái gì đó. Như vậy, vật liệu có thể là những
vật chất từ tự nhiên hoặc đã qua chế biến để có thể sử dụng trong sản xuất.
Thứ hai: Bị loại ra từ quá trình sản xuất hoặc tiêu dùng
"Bị loại ra" được hi
ểu là các sản phẩm hoặc vật liệu được đưa ra khỏi quá
trình sản xuất hoặc tiêu dùng. Đối với hoạt động tiêu dùng, được coi là “được
loại ra” khi chủ sở hữu không đưa nó vào khai thác giá trị, công dụng của vật
chất đó. Trong trường hợp sản xuất, hành vi “loại ra” cần có sự phân biệt giữa
hành vi của người trực tiếp sản xuất (công nhân) với hành vi loại ra của chủ sở

hữu hoặc người đại diện hợp pháp của chủ sở hữu. Chỉ được nhìn nhận là “được
loại ra” khỏi quá trình sản xuất khi chủ sở hữu hoặc người đại diện chủ sở hữu
chủ động từ bỏ ý định sử dụng sản phẩm hoặc vật liệu đó vào quá trình sản xuất

và tiêu dùng. Điều này có nghĩa là một vật ch
ất tồn tại dưới dạng phế liệu hay
không phụ thuộc vào hành vi của chủ sở hữu (hoặc người đại diện hợp pháp) sản
phẩm hoặc vật liệu đó. Hành vi từ bỏ của chủ sở hữu có thể được thể hiện bằng
hành động hoặc không hành động.


11
Thứ ba: Được thu hồi dùng làm nguyên liệu
Sản phẩm hoặc vật liệu có trở thành phế liệu hay không phụ thuộc vào
việc đánh giá trên thực tế đối với hành vi "từ bỏ ý định khai thác giá trị, công
dụng" của chủ sở hữu và phải được xem xét một cách cụ thể đối với từng trường
hợp, như thu hồi để bán dưới hình thức hàng hóa, để sử dụng làm nguyên liệ
u
hoặc để xử lý.
Cùng với các định nghĩa pháp lý về phế liệu và chất thải, chúng ta cũng có
các định nghĩa, khái niệm khác có liên quan đến phế liệu được hiểu như sau:
Tạp chất: Là các chất, vật liệu không cùng loại với phế liệu nhập khẩu, bị
lẫn trong phế liệu.
Tạp chất nguy hại: Là các tạp chất có tên trong Danh mục chất thải nguy
hại do Bộ
Tài nguyên và Môi trường ban hành, bị lẫn trong phế liệu.
Giấy xác nhận đủ điều kiện nhập khẩu phế liệu: Là Giấy xác nhận do Sở
Tài nguyên và Môi trường địa phương cấp cho thương nhân nhập khẩu phế liệu
theo quy định (theo Thông tư liên tịch 02/2007/TTLT-BCT-BTNMT).
Lô hàng kiểm tra: Là lượng phế liệu được thương nhân nhập khẩu phế
liệu đăng ký kiểm tra.
Cơ quan kiểm tra: Là tên g
ọi chung cho các các cơ quan thực hiện việc
kiểm tra về bảo vệ môi trường trong hoạt động nhập khẩu phế liệu, bao gồm: Cơ

quan hải quan cửa khẩu, Tổng cục Môi trường, Sở Tài nguyên và Môi trường
hoặc Cơ quan cảnh sát môi trường.
Thương nhân nhập khẩu: Là tổ chức, cá nhân thực hiện hoạt động nhập
khẩu phế liệu bao gồm các thương nhân nhập khẩu phế
liệu trực tiếp để sản
xuất, thương nhân nhập khẩu ủy thác và thương nhân nhập khẩu để kinh doanh.
Tổ chức giám định: Là tổ chức có chức năng và đủ năng lực được cơ quan
kiểm tra hoặc thương nhân đề nghị giám định phế liệu.
Tiêu chuẩn: là quy định về đặc tính kỹ thuật và yêu cầu quản lý dùng làm
chuẩn để phân loại, đánh giá sả
n phẩm, hàng hoá, dịch vụ, quá trình, môi trường
và các đối tượng khác trong hoạt động kinh tế - xã hội nhằm nâng cao chất
lượng và hiệu quả của các đối tượng này. Tiêu chuẩn do một tổ chức công bố
dưới dạng văn bản để tự nguyện áp dụng.
Quy chuẩn kỹ thuật: là quy định về mức giới hạn của đặc tính kỹ thuật và
yêu cầu quản lý mà sản phẩm, hàng hoá, d
ịch vụ, quá trình, môi trường và các
đối tượng khác trong hoạt động kinh tế - xã hội phải tuân thủ để bảo đảm an toàn,
vệ sinh, sức khoẻ con người; bảo vệ động vật, thực vật, môi trường; bảo vệ lợi
ích và an ninh quốc gia, quyền lợi của người tiêu dùng và các yêu cầu thiết yếu
khác. Quy chuẩn kỹ thuật do cơ quan nhà nước có thẩm quyền ban hành dưới
dạng văn bản để bắ
t buộc áp dụng.
Cùng với khái niệm phế liệu, Luật Bảo vệ môi trường 2005 đề cập tới khái
niệm chất thải như là một khái niệm độc lập với khái niệm phế liệu. Luật môi

12
trường Việt Nam đã đưa ra định nghĩa chất thải tại khoản 10 Điều 3 Luật BVMT
2005 như sau: "Chất thải là vật chất ở thể rắn, lỏng, khí được thải ra từ sản xuất,
dịch vụ, sinh hoạt hoặc hoạt động khác”. Theo định nghĩa này, vật chất sẽ trở

thành chất thải khi đáp ứng đầy đủ các tiêu chí sau:
Thứ nhất,
chất thải là vật chất, có thể tồn tại dưới những dạng như rắn,
lỏng, khí hoặc các dạng khác. Những yếu tố phi vật chất không thể là chất thải.
Điều này cũng hoàn toàn phù hợp với những yếu tố cấu thành môi trường theo
pháp luật môi trường.
Thứ hai, vật chất bị chủ sở hữu thải ra trong các hoạt động của mình, cả
trườ
ng hợp chủ động và bị động, sẽ trở thành chất thải.
Thứ ba, vật chất sẽ tồn tại dưới dạng chất thải kể từ khi chủ sở hữu hoặc
người sử dụng hợp pháp thải ra cho tới khi con người đưa nó vào sử dụng trong
một chu trình sản xuất hoặc chu trình sử dụng khác.
Cách tiếp cận của Luật Bảo vệ môi trườ
ng 2005, nếu đưa ra được những
tiêu chí rõ ràng cho việc phân biệt chất thải với phế liệu, sẽ tạo điều kiện thuận
lợi cho quá trình xây dựng và áp dụng các quy định trong hoạt động quản lý chất
thải, phế liệu, trong đó có hoạt động nhập khẩu phế liệu. Từ những phân tích ở
trên, khái niệm chất thải và khái niệm phế liệu được đề cập tại Lu
ật Bảo vệ môi
trường 2005 có những sự khác biệt sau đây:
Thứ nhất, các yếu tố có thể trở thành chất thải bao gồm các loại vật chất
trong đó có sản phẩm và vật liệu, là yếu tố có thể trở thành phế liệu.
Thứ hai, với trường hợp trở thành phế liệu, việc từ bỏ giá trị, công dụng
của chủ sở hữu v
ật chất mang tính chủ động. Trong trường hợp chất thải, việc từ
bỏ giá trị công dụng của chủ sở hữu vật chất bao gồm cả trường hợp chủ động
và bị động.
Thứ ba, khái niệm chất thải không đề cập tới mục đích sau quá trình thải
ra và pháp luật coi thu hồi là một trong những nghĩa vụ của người sản sinh chất
thả

i. Trong khi đó, mục đích "được thu hồi dùng làm nguyên liệu sản xuất" là
một tiêu chí của khái niệm phế liệu. Tiêu chí "được thu hồi dùng làm nguyên
liệu sản xuất" là tiêu chí mang tính định tính.
Thực tế, chúng ta khó có thể đánh giá được một chất thải cụ thể được thu
hồi có thể "dùng làm nguyên liệu" cho một chu trình sản xuất nào đó, được thực
hiện ở đâu đó trên lãnh thổ Việt Nam hoặc trên thế giớ
i hay không. Pháp luật
quốc tế về môi trường và pháp luật các quốc gia không sử dụng tiêu chí này để
xác lập khái niệm phế liệu và từ đó không phân biệt phế liệu với chất thải mà chỉ
sử dụng khái niệm duy nhất: chất thải (tiếng Anh: waste, tiếng Đức: Abfall), kể
cả trong trường hợp thu hồi để tái chế, tái sử dụng và trường hợp thu hồi để xử
lý. Theo Phụ lục I của Công ước Basel về kiểm soát vận chuyển chất thải nguy
hiểm qua biên giới và việc tiêu hủy chúng, hoạt động thu hồi để tái sử dụng cũng
là một công việc tiêu hủy và vì vậy vật chất thải ra của các hoạt động khác nhau
nhưng được thu hồi "dùng làm nguyên liệu" cũng là chất thải.

13
Trong thực tế cuộc sống, phế liệu là một khái niệm quen thuộc, phổ biến.
Hệ thống thu gom, tái chế, tái sử dụng vật liệu tồn tại ở hầu hết các xã hội, các
vùng trên thế giới, là một quá trình sản xuất, sinh hoạt đã có từ rất lâu. Xưa kia,
ông cha ta đã tận dụng than xương động vật trong sản xuất đường hay tái sử
dụng sắt vụn, đồng v
ụn trong sản xuất nông cụ và vật dụng sinh hoạt. Những
hoạt động tái chế sơ khai này đã góp phần làm giảm giá thành và giúp giải quyết
vấn đề khan hiếm nguyên liệu sản xuất thời đó. Ngày nay, trong bối cảnh cạnh
tranh khốc liệt, tái chế đóng vai trò như là nguồn cung cấp nguyên, nhiên vật
liệu giá rẻ càng trở nên quan trọng hơn. Các hệ thống kinh doanh phế liệu, mà
thường được gọi d
ưới tên dân dã là “ve chai”, đã tồn tại, hoạt động hiệu quả về
mặt thu hồi vật liệu, tuy nhiên cũng phát sinh nhiều vấn đề về môi trường và sức

khỏe cộng đồng.
Ở nước ta, Luật Bảo vệ môi trường cấm nhập khẩu rác thải, nhưng
phế liệu chủ yếu lại được lựa chọn từ chất thải, nên việc cho phép nhập khẩu các
loạ
i phế liệu nào để tận dụng làm nguyên liệu sản xuất thì cần phải cân nhắc để
phù hợp với yêu cầu của bảo vệ môi trường và quy định các loại tiêu chuẩn phế
liệu nhập khẩu, phải chặt chẽ hơn yêu cầu đối với các loại phế liệu lựa chọn từ
các loại chất thải ở trong nước. Thực tế, Việt Nam đã cho phép các doanh
nghi
ệp nhập khẩu phế liệu với quy định về điều kiện khá cụ thể, chặt chẽ. Tuy
vậy, do khác biệt về cách hiểu của mỗi nước và sự khó phân định về khái niệm
phế liệu, chất thải trong cuộc sống, trong cộng đồng, đã dẫn đến những bất cập
trong việc quản lý và sử dụng phế liệu, phục vụ sản xu
ất trong thời gian qua. Tới
nay, việc xây dựng hành lang pháp lý đầy đủ, rõ ràng để tạo điều kiện thuận lợi
cho sản xuất, kinh doanh, phát triển kinh tế và đồng thời bảo vệ được môi
trường vẫn là bài toán khó, chưa có được giải pháp hiệu quả cuối cùng.
II. Phế liệu và môi trường
2.1. Tác động tích cực của việc thu hồi, tái chế phế liệu
Phế liệu hay nguồn nguyên liệu từ tái chế
có thể coi là vô tận, vì có sản
xuất là có phế thải và có cơ hội cho tái chế. Mặc khác, tái chế còn là một giải
pháp hữu hiệu làm giảm chi phí sản xuất, giảm chi phí xử lý chất thải và do đó
hạ giá thành sản phẩm. Bên cạnh những lợi ích kinh tế, tái chế góp phần làm
giảm các thiệt hại môi trường do chất thải gây ra, đồng thời nâng cao uy tín và
giúp cho việc gắn mác sinh thái trên các sản phẩm của nhà sản xuất. Xét về
tổng
thể, thực hiện tốt biện pháp tái chế đem lại môi trường trong sạch hơn, cải thiện
sức khỏe cộng đồng và là một trong những giải pháp quan trọng đảm bảo sự
phát triển bền vững của xã hội. Ở các nước công nghiệp phát triển, hệ thống tái

chế có mặt trong khắp các lĩnh vực sản xuất và đời sống, đóng vai trò là một
nguồ
n cung cấp nguyên, vật liệu quan trọng cho các chu trình sản xuất tiếp theo.
Thành công của các nước này trong tái chế phế thải là nhờ các chính sách đồng
bộ và nhất quán của chính phủ cùng ý thức tự giác của người dân trong việc
phân loại rác, chất thải trước khi vứt bỏ.
Ở một khía cạnh khác, nhiều nghệ sỹ còn sử dụng rác thải làm chất liệu
cho các sáng tác của mình, chẳng hạn giấy vẽ làm từ giấy tái chế, tranh làm t


14
thẻ điện thoại hay tượng làm từ các mảnh kim loại, tượng từ vật liệu sắt thép thải
bỏ, v.v… Dĩ nhiên, đây không phải là một biện pháp hữu hiệu để giải quyết vấn
đề rác thải, nhưng điều đáng nói là cách nhìn nhận của nghệ sỹ và công chúng
đối với rác thải đã thay đổi, rác đã không còn bị coi là đồ bỏ đi nữa mà đã được
s
ử dụng vào các mục đích có ích [2].
a) Tái chế sắt, thép phế liệu
Đối với sắt, thép phế liệu, một trong những loại phế liệu phổ biến nhất,
việc sử dụng thép phế liệu để sản xuất thép mang lại những hiệu quả kinh tế và
xã hội rất to lớn. Viện Nghiên cứu công nghiệp tái chế phế liệu của Mỹ (Institute
of Scrap Recycling Industries – ISRI) đã tổng kết các lợ
i ích của việc sử dụng
thép phế liệu sản xuất thép so với công nghệ khai thác quặng sắt – Lò cao – Lò
thép như sau [2]
- Tiết kiệm năng lượng: 74%
- Tiết kiệm khoáng sản: 90%
- Giảm ô nhiễm không khí: 86%
- Giảm sử dụng nước: 40%
- Giảm ô nhiễm nước: 76%.

- Giảm tiêu thụ nước trong khai mỏ: 97%
- Giảm phế thải phát sinh so với sử dụ
ng quặng do lượng Fe có trong
thép phế cao hơn nhiều so với quặng.
Và tất nhiên là việc tái sử dụng thép phế là tiết kiệm tài nguyên sắt thép từ
tự nhiên. Riêng ở Mỹ, lợi ích kinh tế thuần túy hàng năm từ sắt thép phế liệu là
khoảng 2 tỷ USD mỗi năm. Thị trường sắt, thép phế liệu quốc tế là một thị
trường lớn, ước tính lên đến hàng chục tỷ USD mỗi nă
m và chúng ta cũng cần
lưu ý là đây là một thị trường toàn cầu, hòa nhập rất sâu trong xu thế toàn cầu
hóa hiện nay.

b) Tái chế nhựa phế liệu
Về nhựa, chúng ta đều nhận thấy rằng sản phẩm nhựa là một trong những
mặt hàng thiết yếu của nền kinh tế. Cùng với sự tiến bộ của khoa học và công
nghệ, ngày càng có nhiều loại vật liệu và sản phẩm với xuất xứ từ Nhựa được
hình thành và phát triển có thể thay thế một phần vật liệu truyền th
ống như sắt,
thép, gỗ, sợi bông v.v… Sản phẩm nhựa có mặt xung quanh ta từ những đồ gia
dụng đơn giản đến những chi tiết được chế tạo với những tính năng đặc biệt
dùng trong hàng không, vũ trụ.
Nhựa phế liệu thường được phân loại, thu gom, làm sạch sau đó được đưa
vào một quy trình tái sinh. Các nguyên liệu sợi công nghiệp làm từ nhựa tái chế
được dùng để chế t
ạo ra nhiều loại sản phẩm khác nhau: quần áo, giày, khăn tắm,
chăn, … Các vật liệu composite vốn được xem là loại vật liệu khó tái chế. Tuy

15
nhiên một số công nghệ mới phát triển đã sử dụng composit cùng với thủy tinh
trong sản xuất gạch lát vỉa hè.

Một số nhà sản xuất còn đi xa hơn nữa trong nỗ lực tái sử dụng và tái chế
các sản phẩm của mình nhằm hạ giá thành sản phẩm và thu hút sự chú ý của
những khách hàng quan tâm đến vấn đề môi trường. Ví dụ, kể từ năm 1992,
công ty FujiFilm đã quyết định thiế
t kế lại sản phẩm máy ảnh sử dụng một lần
QuickSnap của mình theo hướng tái sử dụng triệt để. Trước đó, sau khi chụp,
toàn bộ chiếc máy ảnh, trừ phim, bị vứt bỏ. Nhưng sau khi được thiết kế lại,
kính, thân máy và đèn flash được tái sử dụng, còn các bộ phận khác được tái chế
thành các hạt nhựa nguyên liệu. Việc thu gom máy ảnh đã qua sử dụng cũng rất
đơn giản: khách hàng chỉ việc mang cả máy ảnh lẫn phim đến hiệu ảnh rồi lấy
ảnh về, tất cả các công việc còn lại do cửa hiệu và hệ thống thu gom của công ty
đảm nhiệm.
Sản phẩm nhựa bao gồm nhiều loại nhựa gốc, do đó nhựa phế liệu cũng
rất đa dạng: như PE, PVC, PET, PP… [3].
Hình 1: Các loại nhựa phế liệu


Tên hóa học của các loại polimer tạo nên các sản phẩm nhưa là:
• PP: Poly Propylen
• PE: Poly Etylen
• PET: Polyetylen terephtalat, đôi khi con goi là PETE hay
PET-P
• PVC: Polyvinylclorua
• HDPE: Polyetylen cao áp
• LDPE: Polyetylen thấp áp
• PC: Polycacbonat
• PS: polystyren
• ABS: Acrylnitrylstyren
• PU: Polyuretan


16
• Nylon: Polyamid (có thể bao gồm nhiều loại Nylon thương
phẩm như Nylon 66, Nylon 12, Nylon 6…)
Nhựa phế liệu, ngoài về bản chất hóa học, còn được phân chia theo màu
sắc, công dụng của sản phẩm gốc và nguồn gốc phế liệu. Theo các quy định
quốc tế thì việc phân loại này phải gắn với những mã tương ứng.
Nhựa phế liệu thường thấy nhất trong là phế liệu chai nhựa và bao bì dưới
d
ạng màng nhựa. Vật liệu làm chai nhựa trên thị trường rất đa dạng, nhưng chủ
yếu là bao bì dạng PET và HDPE. Bao bì dạng màng nhựa là loại phổ biến nhất
trong các sản phẩm nhựa dạng màng:
Hình 2: Các loại bao bì dạng màng nhựa



Phổ biến nhất trong các chai nhựa là dạng HDPE và PP





17

Bảng 1: Các dạng bao bì màng nhựa phổ biến nhất


Loại nhựa bao bì Công dụng Chất bẩn có thể có trong phế liệu
LPDE Các loại bao bì và
film
Nhãn; thực phẩm dư, bụi đất cát, hơi ẩm,

nhiều vật liệu không thể thu hồi sau sử dụng
LLDPE Túi nilon mỏng Nhãn; thực phẩm dư, bụi đất cát, hơi ẩm
HDPE Túi cứng và dày Thực phẩm dư, nhiều vật liệu không thể thu
hồi sau sử dụng
PP Bao dứa, màng
nhựa che chắn
Nhãn; thực phẩm dư, bụi đất cát, hơi ẩm
Màng nhiều lớp Bao bì nhiều lớp Nhãn; thực phẩm dư, bụi đất cát, hơi ẩm

Từ góc độ về tài nguyên, việc tái chế nhựa đã và sẽ một hoạt động rất hữu
ích. Sơ đồ sau đây cho thấy nhựa phế liệu, nếu được thu gom và tái sử dụng sẽ là
nguyên liệu thay thế với một tỷ lệ nhất định và vô cùng quan trọng cho nhựa gốc,
được sản xuất từ nguyên liệu dầu và khí thiên nhiên, một nguồn tài nguyên hữu
hạn, đồng thời giả
m đi một lượng năng lượng đáng kể để chế biến chúng thành
nhựa gốc, thí dụ như HDPE. Trong khi đó từ nhựa phế liệu con đường đi đến
HDPE ít tốn kém hơn rất nhiều [3].
Hình 3: Quá trình sản xuất nhựa từ nhựa phế liệu và nguyên liệu nhựa



Mặt khác, trong trường hợp nhựa đem đốt để thu hồi lại nhiệt trị của
chúng thì ý nghĩa cũng rất lớn. Nhiệt trị cung cấp bởi nhựa phế liệu trong những

18
cơ sở sử dụng nhiên liệu hỗn hợp (than, dầu, nhựa thải) để tạo ra nhiệt là khoảng
ở mức 1/3 tổng năng lượng cung cấp từ hệ thống thiết bị:
Hình 4: Thu nhiệt trị từ quá trình sản xuất nhựa





Từ các kinh nghiệm sử dụng phế thải nhựa để thu hồi nhiệt có thể thấy
như sau:
- Nhựa thải là nhiên liệu có nhiệt trị cao;
- Nếu nhựa đem đốt chứa nhiều tạp chất, có thể dẫn đến nguy hiểm cho
chính lò đốt và cho môi trường;
- Khoảng 20-30% vật chất đem đốt vẫn nằm trong tro xỉ, cần được quản
lý nghiêm ngặt.

Việc tái chế từ nhựa phế liệu thay thế nhựa gốc để sản xuất các sản phẩm
nhựa phục vụ cho những mục đích khác nhau cua công nghiệp và dân sinh lại
phụ thuộc rất nhiều yếu tố:
- Nhu cầu và giá cả của thị trường:
+ dầu mỏ, nhựa gốc
+ nhu cầu xã hội
- Mầu sắc/ độ trong của nhựa phế li
ệu;
- Mức độ nhiễm bẩn của nhựa phế liệu;
- Mức độ phân loại;
- Khối lượng/tỷ trọng.

c) Tái chế giấy phế liệu
Những nghiên cứu về việc tái chế giấy cho thấy, khi tái chế một tấn giấy
sẽ tiết kiệm được 2.200 kWh năng lượng điện. Số năng lượng này đủ dùng cho 1
hộ
gia đình có 4 người trong một năm. Đồng thời tái chế một tấn giấy cũng sẽ
giúp giảm khai thác 17 cây xanh, 26,5 m
3
nước và 3,3 m

3
đất để chôn lấp chất
thải, tính về mặt bảo vệ môi trường. So sánh với việc để sản xuất một tấn bột

19
giấy cần đến 5 m
3
gỗ và 100 m
3
nước. Vì vậy nếu phân loại và tái chế giấy tốt sẽ
giúp tài nguyên rừng và nước được bảo vệ lâu dài.
Trên thế giới, việc tái chế giấy là một ngành công nghiệp lớn, và là một
thị trường toàn cầu.
Tại Việt Nam, theo Viện kỹ thuật nhiệt đới và bảo vệ môi trường TP
HCM, trong năm 2008, các nhà sản xuất làm ra hơn 760 nghìn tấn bao bì nhựa
và 800 nghìn tấn bao bì giấy, “Trong khi phải mất đến 400 năm t
ự nhiên mới có
thể phân hủy hết loại rác thải nguy hại này” [4]. Thực tế tại Việt Nam cũng cho
thấy, hệ thống “ve chai” đã hoạt động khá hiệu quả để thu hồi các sản phẩm giấy
thải loại, lượng giấy bị chôn lấp tại các bãi rác là không nhiều. Tuy nhiên, do
việc phân loại rác tại nguồn kém nên hiệu quả thu gom, tái chế, sử dụng giấy
loại là không cao, ước tính chỉ khoảng 25% trên t
ổng số giấy thải, còn lại bị
phân hủy trong môi trường.
Ngoài ra, còn có các loại phế liệu đặc thù khác như pin-ắc quy, bông vải,
chất thải sinh học v.v…, cũng chứa những vật liệu có thể tái chế để làm nguyên
liệu sản xuất.
Các lợi ích của việc tái chế rác thải không chỉ dừng lại ở khâu sản xuất,
nhiều khi những lợi ích môi trường và xã hội gián tiếp còn to lớn hơ
n những lợi

ích kinh tế đo đếm được. Chẳng hạn, tái chế giúp khôi phục và duy trì một môi
trường trong sạch và lành mạnh, nhờ vậy giảm các chi phí chữa bệnh và chi phí
do nghỉ ốm. Môi trường trong lành cũng giúp phát triển ngành du lịch, kéo theo
là các hoạt động kinh tế khác như nhà hàng, khách sạn, thương mại, cơ sở hạ
tầng, v.v Về lâu dài, việc duy trì sự phát triển bền vững quan trọng hơn nhiều
so với tăng tr
ưởng nóng trong một thời gian ngắn với chất lượng phát triển thấp,
gây áp lực lớn lên hệ thống cơ sở hạ tầng và gây ra những vấn đề môi trường
trầm trọng. Một xã hội phát triển bền vững là xã hội không những đảm bảo được
các nhu cầu hiện tại của mình mà còn có khả năng đảm bảo nhu cầu cho các thế
hệ tương lai. Điều này chỉ có thể
thực hiện được khi các nguồn tài nguyên được
sử dụng một cách hiệu quả và quan trọng hơn là chúng có thể được tái sinh.
Trong sản xuất bền vững lý tưởng, các nguyên, vật liệu được sử dụng trong
những vòng khép kín với số chu kỳ vô hạn. Điều hiển nhiên là chúng ta chỉ có
thể tiệm cận chứ không bao giờ đạt tới khái niệm sản xuất bền vững lý tưởng
này. Nhưng "tiệ
m cận" đã là rất tốt so với tình hình hiện nay, và là mục tiêu mà
các biện pháp quản lý hướng tới.
2.2. Tác động tiêu cực của phế liệu
Việc thu gom, tái chế, tái sử dụng phế liệu và chất thải có thể mang lại
những lợi ích to lớn cho phát triển kinh tế và bảo vệ môi trường, nhưng cũng có
thể góp phần hủy hoại môi trường. Điều này là do bản chất của phế liệ
u và quá
trình thu gom, tái chế, tái sử dụng phế liệu tiềm ẩn nhiều rủi ro. Dưới đây chúng
tôi sẽ phân tích một số nguy cơ và nguyên nhân của những tác động tiêu cực đối
với môi trường và sức khỏe do thu hồi và sử dụng phế liệu.
a) Tái chế thép phế liệu

20

Trước hết, về bản chất phế liệu sắt, thép phế liệu có thể chứa những chất
gây ô nhiễm rất đa dạng, bao gồm cả kim loại và phi kim, tùy theo nguồn thu
gom. Các nguồn thu gom chứa chất ô nhiễm có thể bao gồm (xem bảng dưới):
Foreign materials - vật lạ; Electrical components – linh kiện điện, Bearings –
vòng bạc, ổ bi; Galvanising – lớp phủ kim loại, Plating – lớp mạ điện, Paints,
coatings & glazes – vật liệu có sơ
n, keo hay men, Solder-mối hàn, Vehicle
scrap- ô tô cũ, Vitreous enamels- vật liệu phủ men sứ; Combustion engines,
cylinder blocks – phế thải từ động cơ, vỏ động cơ; Capacitors from electrical &
lighting fixtures – tụ điện từ cac linh kiện điện hay thiết bị chiếu sáng; Scrap
from sources involving oil use – phế liệu từ những nguồn có sử dụng dầu;
Turnings from machining – phoi cắt gọt, Any type stored on soil – tất cả vật liệu
để trên nền đất [2,3].
Bảng 2: Các nguồn thu gom phế liệu sắt thép và các chấ
t ô nhiễm tương ứng


21

Như vậy có thể thấy ngoài các tác nhân gây ô nhiễm là kim loại, trong đó
có kim loại nặng (Cd, Cu, Cr, Pb, Zn), trong thép phế liệu còn tiềm ẩn nhiều
chất phi kim loại nguy hiểm đối với môi trường và sứ khỏe, bao gồm:
- Dầu mỡ;
- Các chất hưu cơ mạch vòng (PAH);
- PCB;
- Dầu cắt gọt;
- Chất dẻo;

22
- Bụi đất cát.

Mức độ cần quan tâm, kiểm soát các dạng chất ô nhiễm lẫn trong sắt thép
phế liệu thay đổi tùy thuộc vào thời kỳ của phế liệu được thu gom:
- Phế liệu từ thời kỳ đầu thế kỷ 20, người ta quan tâm nhiều đến bụi kim
loại PAH;
- Phế liệu từ thời kỳ khoảng từ giữa thế ký 20 đến cuối thế k
ỷ 20, chất
được quan tâm là chì, thủy ngân các chất phi kim loại có hại cho môi
trường và con người;
- Gần đây người ta quan tâm nhiều đến dầu, mỡ và các chất hữu cơ, chì
và cadimi.
Thủy ngân (Hg) cũng là một vấn đề được quan tâm đặc biệt do tính độc
và khả năng tích tự sinh học của nó. Trong điều kiện nhất định thủy ngân có thể
chuyển thành methyl thủy ngân, chất này có thể đi vào chu trình dinh dưỡng và
gây độ
c cho hệ thần kinh, thận, gan Công nghiệp ôtô là một trong những
nguồn chính gây ô nhiễm thủy ngân vì người ta sử dụng thủy ngân để làm các
bộ chuyển đổi, trong cơ cấu phanh ABS, trong hệ thống chiếu sáng. Từ năm
1974 đến 2003, 217 triệu bộ công tắc chuyển mạch (switch) có chứa đến 224 tấn
Hg đã được lắp vào xe trên phạm vi toàn cầu, Tính riêng cho năm 2003 có
khoảng 8.2 tấn Hg lẫn trong xe ô tô thải, trong khoảng 3 năm có khoảng 24 tấn
Hg th
ải vào môi trường, và khoảng 117 tấn trong vòng 30 năm.
Trên thế giới người ta kiểm soát rất chặt chẽ các phế liệu có lẫn chất
phóng xạ. Theo thống kê ở Mỹ từ năm 1983 đến 2002, ít nhất có 26 vụ tai nạn
trong sản xuất luyện kim liên quan đến chất phóng xạ, mỗi một vụ phải chi tới
hàng chục triệu USD để khắc phục hậu quả. Ở Mỹ và nhiều nơi trế
n thế giới,
người ta coi việc phá dỡ các con tầu cũ dùng trong chiến tranh (đặc biệt là từ
Thế chiến thứ 2) là “mối hiểm họa nổi đối với môi trường” do có thể phát thải
PCBs và amiăng vào lưu vực sông.






23
Về mặt tái sử dụng, kim loại phế liệu bản thân là nguồn cung cấp kim loại
cơ bản rất tốt vì hàm lượng kim loại cơ bản rất cao so với quặng. Tuy nhiên tùy
thuộc vào quá trình phân loại và nguồn thu gom kim loại phế liệu mà trong thép
phế có thể chứa nhiều vật liệu ẩn chứa các yếu tố nguy hiểm hay không có lợi
cho quá trình nấu luyện về sau.
Về công nghệ sản xuất, tùy thuộ
c vào loại hình công nghệ và trình độ
công nghệ, việc tái chế phế liệu có thể phát sinh các chất ô nhiễm khác nhau.
Công nghệ phổ biến nhất để tái chế thép phế liệu là sử dụng lò hồ quang.
Công nghệ luyện thép bằng lò hồ quang là một công nghệ tiên tiến. Nguyên tắc
hoạt động của lò hồ quang là: hồ quang chuyển năng lượng điện thành nhiệt
năng có hiệu suất cao và mật độ năng lượ
ng lớn. Trong công nghệ hồ quang,
người ta phải sử dụng máy biến thế để chuyển dòng điện có điện thế cao thành
dòng điện có thế thấp (600 đến 1000V) dòng cao (55 đến 78kA). Điện cực
Graphit dẫn dòng điện và tạo hồ quang cho liệu kim loại. Trọng lượng mẻ thép
lò hồ quang ngày nay có thể lên đến 200 tấn, tạo ra sản lượng năm khoảng 1,5
triệu tấn/1 lò. Lò điệ
n hồ quang có thể sản xuất mác thép bất kì, hoàn toàn
không phụ thuộc liệu nạp (thép phế, kim loại lỏng, cũng như kết hợp của chúng).
Các phần tử cấu trúc chính của lò hồ quang là vỏ lò với hệ thống tháo thép lỏng
ở đáy lệch tâm và cửa thao tác, đỉnh lò di chuyển cùng các điện cực, và cơ cấu
nghiêng lò. Vỏ lò có lớp gạch chịu lửa. Để nạp liệu cho lò, đỉnh lò được nâng
lên và quay sang 1 bên. Thép ph

ế được chất trong các dỏ liệu lớn, nạp qua đỉnh
và đổ vào lò. Điện cực di chuyển xuống thấp, khi chạm vào thép phế sinh ngắn
mạch, tạo hồ quang sinh nhiệt để nóng chảy thép phế. Trong suốt quá trình nấu
chảy, nhiệt độ tại vùng hồ quang đạt tới 3000°C, và thép trong bể lò đạt tới
1700°C. Nhiệt độ cao cũng cho phép hòa tan chất khó nóng chảy trong thép phế.
Để cường hóa quá trình nấu chảy người ta có thể
sử dụng quá trình phun thổi
Oxy hoặc hỗn hợp khí nhiên liệu. Khi thép đạt yêu cầu về thành phần hóa học và
nhiệt độ, lò sẽ được tháo thép lỏng vào lò tinh luyện. Khí thải từ lò sẽ thoát ra
theo chụp hút đến hệ thống lọc bụi túi vải để làm sạch và thải ra ngoài môi
trường.
Hình 5: Mô hình lò hồ quang (EAF) truyền thống:



24

Công nghệ mới trong lò hồ quang là công nghệ liên tục, trong đó nguyên
liệu sẽ được sấy nóng trước bằng nhiệt của lò hồ quang.
Ô nhiễm không khí đối với các cơ sở luyện kim là mối quan tâm lớn về
môi trường, tùy thuộc vào nguyên liệu và các giải pháp kiểm soát khí thải những
vấn đề ô nhiễm không khí có thể khác nhau như được thấy ở bảng dưới đây:
Bảng3: Các nguồn và chất gây ô nhiễm có thể phát sinh t
ừ lo hồ quang


Từ bảng này có thể thấy khi nguyên liệu sử dụng là phế liệu thì vấn đề ô
nhiễm là ô nhiễm kim loại (Cd, Pb, Zn và có thể Al, Bi, B, Cr, Co, Cu, Ni, Ti) và
các chất PAHs (do sự cháy không triệt để của các chất hữu cơ như dầu, plastic)
là chắc chắn. Ngoài ra có thể phát thải dioxin và furan nếu có các chất có gốc clo

như dầu cắt gọt chứa clo, nhựa PVC, có thể phát thải PCBs nếu có tụ điện.
Trong khi đó
đối với quá trình nấu luyện kim loại từ các nguồn nguyên liệu
không phải là phế thải, như được thấy trong bảng, các vấn đề ô nhiễm hữu cơ
như PAHs, dioxin, furan PCBs là chưa chắc chắn. Đây cũng là lý do tại sao tại
các nước giầu và tiên tiến người ta không sử dụng phế liệu kim loai tạp để tái
chế mà chỉ sử dụng phế liệu đã được phân loại và làm sạch theo tiêu chuẩ
n.

25
Cần lưu ý rằng, chất lượng phế liệu, quá trình phân loại và làm sạch phế
liệu trước khi đưa vào lò nấu luyện là cực kỳ quan trọng để đảm bảo chất lượng
phôi thép và đồng thời ngăn ngừa quá trình tái tạo các chất hữu cơ nguy hiểm từ
sau quá trình cháy tại lò, đặc biệt là dioxin và furan (có thể tái hình thành trong
pha khí thải nếu có chứa clo và các chất hữu cơ trong nguyên liệu).
Trong những năm gần đ
ây, ô nhiễm do dioxin và furan phát sinh từ việc
luyện thép đang là mối quan tâm lớn trong quá trình sử dụng lò hồ quang với
kim loại phế liệu. Như đã phân tích ở trên, trong khí thải từ công đoạn nấu chảy,
nhiệt độ sẽ giảm từ từ ở nhiệt độ trên 1500
o
C xuống đến nhiệt độ khoảng 400-
700
o
C. Nhiệt độ này là môi trường thuận lợi cho việc tái tạo lại các chất
dioxin/furan nếu trong nguyên liệu có các tạp chất chứa các chất hữu cơ clo hoặc
dẫn xuất clo vô cơ; đồng thời trong pha khí thải có nhiều hơi, bụi kim loại, nhất
là oxyt đồng hoạt tính, sẽ là những chất xúc tiến quan trọng cho quá trình tái tạo
này. Bụi trong khí thải là môi trường tốt để hấp phụ các dioxin/furan hình thành,
sẽ được thải vào môi trườ

ng nếu không được giữ lại từ thiết bị lọc bụi. Bụi chứa
dioxin/furan có thể khuyếch tán vào không khí, dẫn đến ô nhiễm dioxin/furan
cho môi trường lao động, cho môi trường không khí xung quanh, cho môi
trường nước và đất khi sa lắng.
Sự tồn tại dioxin/furan phát thải vào môi trường không khí thay đổi tùy
thuộc vào công nghệ và nguyên liệu đầu vào của lò hồ quang. UNEP đã thống
kê và đưa ra hệ số phát thải dioxin/furan như sau:
- 3 µg TEQ/tấn thép lỏng khi dùng lò hồ quang EAF với thép ph
ế đã
được làm sạch và gang, công nghệ lọc túi có làm nguội khí trước lọc;
- 10 µg TEQ/ tấn thép lỏng khi dùng lò hồ quang EAF với thép phế
không được làm sạch (bẩn) có chứa dầu cắt gọt (cutting oils) và/hoặc
nhựa (plastic), dùng công nghệ sấy nguyên liệu (pre-heating), không
có thiết bị kiểm soát ô nhiễm không khí;
- 0.1 µg TEQ/tấn thép lỏng khi dùng lò hồ quang EAF với thép phế sạch
không có chứa dầu cắt gọt và các tạp bẩn khác, khí thải được xử lý đốt
th
ứ cấp, làm lạnh nhanh và lọc bụi.
Theo một nghiên cứu của các nhà khoa học Đức tại Malaysia, kết quả
phân tích lượng loại nặng, dioxin/furan từ khí thải tại các lò hồ quang nằm trong
khoảng giá trị sau đây [2, 30]:
- Trong bụi và khí thải từ EAF chứa nhiều: kim loại bay hơi (Hg, Zn, Pb,
Cu), Cl và PCDD/F;
- Hàm lượng PCDD/F trong bụi từ ống khói lò EAF dao động trong
khoảng 3.5 đến 6.7 ng TEQ/g ;
- Hàm lượng PCDD/F trong bụi từ ống khói lò EAF dao động trong
kho
ảng 0.9 to 2.5 ng TEQ/Nm3 ;

×