Tải bản đầy đủ (.pdf) (177 trang)

Nghệ thuật tự sự trong truyện ngắn Việt Nam sau 1975 (Qua truyện ngắn của Nguyễn Minh Châu, Nguyễn Khải, Ma Văn Kháng)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.58 MB, 177 trang )


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN





NGUYỄN THỊ BÍCH







NGHỆ THUẬT TỰ SỰ
TRONG TRUYỆN NGẮN VIỆT NAM SAU 1975
(QUA TRUYỆN NGẮN CỦA NGUYỄN MINH CHÂU,
NGUYỄN KHẢI, MA VĂN KHÁNG)








LUẬN ÁN TIẾN SĨ NGỮ VĂN












THÁI NGUYÊN - 2014



BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN





NGUYỄN THỊ BÍCH






NGHỆ THUẬT TỰ SỰ
TRONG TRUYỆN NGẮN VIỆT NAM SAU 1975
(QUA TRUYỆN NGẮN CỦA NGUYỄN MINH CHÂU,

NGUYỄN KHẢI, MA VĂN KHÁNG)


Chuyên ngành: Văn học Việt Nam
Mã số: 62.22.01.21


LUẬN ÁN TIẾN SĨ NGỮ VĂN




NGƢỜI HƢỚNG DẪN KHOA HỌC
1. PGS.TS. Nguyễn Bích Thu
2. PGS.TS. Đào Thủy Nguyên







THÁI NGUYÊN - 2014


i

LỜI CAM ĐOAN



Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các
kết quả nghiên cứu nêu trong luận án là trung thực và nội dung này chưa
từng được công bố trong bất kỳ công trình nghiên cứu nào trước đó.

Thái Nguyên, tháng 03 năm 2014
Tác giả luận án


Nguyễn Thị Bích













ii
MỤC LỤC
Lời cam đoan i
Mục lục ii
Danh mục chữ viết tắt iv
MỞ ĐẦU 1
1. Lý do chọn đề tài 1
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu 4

3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 4
4. Phương pháp nghiên cứu 5
5. Đóng góp mới của luận án 6
6. Cấu trúc của luận án 6
CHƢƠNG 1: TỔNG QUAN VỀ VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU 7
1.1. Khái lược tình hình nghiên cứu lí thuyết tự sự 7
1.2. Những công trình nghiên cứu về nghệ thuật tự sự trong truyện ngắn Việt
Nam sau 1975 10
1.3. Những công trình nghiên cứu về nghệ thuật tự sự trong truyện ngắn sau 1975
của Nguyễn Minh Châu, Nguyễn Khải, Ma Văn Kháng 18
1.3.1. Những công trình nghiên cứu về nghệ thuật tự sự trong truyện ngắn sau 1975
của Nguyễn Minh Châu 18
1.3.2. Những công trình nghiên cứu về nghệ thuật tự sự trong truyện ngắn sau
1975 của Nguyễn Khải 21
1.3.3. Những công trình nghiên cứu về nghệ thuật tự sự trong truyện ngắn sau 1975
của Ma Văn Kháng 24
CHƢƠNG 2: MỘT SỐ VẤN ĐỀ CƠ BẢN CỦA TỰ SỰ HỌC.
KHÁI LƢỢC VỀ TRUYỆN NGẮN VIỆT NAM SAU 1975 28
2.1. Một số vấn đề cơ bản của tự sự học 28
2.1.1. Người kể chuyện 28
2.1.2. Điểm nhìn nghệ thuật 32
2.1.3. Giọng điệu trần thuật 36
2.2. Khái lược về truyện ngắn Việt Nam sau 1975 40
2.2.1. Quá trình vận động của truyện ngắn Việt Nam từ sau 1975 đến nay 40


iii
2.2.2. Đổi mới tư duy nghệ thuật 43
2.2.3. Nguyễn Minh Châu, Nguyễn Khải, Ma Văn Kháng trong dòng chảy của
truyện ngắn Việt Nam sau 1975 48

CHƢƠNG 3: NGÔI KỂ VÀ ĐIỂM NHÌN TRONG TRUYỆN NGẮN SAU
1975 CỦA NGUYỄN MINH CHÂU, NGUYỄN KHẢI, MA VĂN KHÁNG 56
3.1. Truyện ngắn kể theo ngôi thứ ba của Nguyễn Minh Châu, Nguyễn Khải,
Ma Văn Kháng 56
3.1.1. Người kể chuyện ẩn mình kể theo điểm nhìn bên ngoài 56
3.1.2. Người kể chuyện ẩn mình kể theo điểm nhìn bên trong 63
3.1.3. Người kể chuyện ẩn mình dịch chuyển điểm nhìn 69
3.2. Truyện ngắn kể theo ngôi thứ nhất của Nguyễn Minh Châu, Nguyễn Khải,
Ma Văn Kháng 80
3.2.1. Người kể chuyện xưng “tôi” duy nhất kể theo điểm nhìn đơn tuyến 80
3.2.2. Nhiều người kể chuyện xưng “tôi” kể theo điểm nhìn đa tuyến 90
CHƢƠNG 4: GIỌNG ĐIỆU TRẦN THUẬT TRONG TRUYỆN NGẮN SAU
1975 CỦA NGUYỄN MINH CHÂU, NGUYỄN KHẢI, MA VĂN KHÁNG 101
4.1. Giọng điệu khẳng định, ngợi ca 101
4.2. Giọng điệu trào lộng, châm biếm 113
4.3. Giọng điệu xót xa, thương cảm 120
4.4. Giọng điệu trầm tư, triết lý 130
4.5. Sự kết hợp, đan xen nhiều giọng điệu 139
KẾT LUẬN 147
DANH MỤC CÔNG TRÌNH KHOA HỌ C CỦA TÁC GIẢ LIÊN QUAN
ĐẾN LUẬN ÁN 151
TÀI LIỆU THAM KHẢO 152
Phụ lục 167


iv
DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT

CTNT:
Cốt truyện nghệ thuật

ĐNBN:
Điểm nhìn bên ngoài
ĐNBT:
Điểm nhìn bên trong
ĐNĐaT:
Điểm nhìn đa tuyến
ĐNĐT:
Điểm nhìn đơn tuyến
ĐNPH:
Điểm nhìn phức hợp
ĐNNT:
Điểm nhìn nghệ thuật
NKC:
Người kể chuyện
NT1:
Ngôi thứ nhất
NT2:
Ngôi thứ hai
NT3:
Ngôi thứ ba



1
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
1.1. Roland Barthes từng nói: “Đã có bản thân lịch sử loài người, thì đã có tự
sự” (câu nói quen thuộc ở phương Tây “History is astory / L’Hi storie est unrécit”)
[165, tr. 12]. Tự sự gắn liền với quá trình hình thành và phát triển của lịch sử loài
người nhưng tự sự học (Narratology - một bộ môn nghiên cứu đặc thù của lí luận

văn học, lấy nghệ thuật tự sự làm đối tượng nghiên cứu) thì phải đến thế kỉ XX mới
được các nhà nghiên cứu tìm hiểu và trở thành một lĩnh vực học thuật được quan
tâm. Những năm 60 của thế kỉ XX, các nhà lí luận Pháp đã đề cập về tự sự học và
giải quyết các vấn đề liên quan đến chúng. Sau đó là các nhà nghiên cứu của Mĩ,
Anh, Trung Quốc Ở Việt Nam, tự sự học nhanh chóng trở thành lĩnh vực thu hút
các nhà nghiên cứu. Nhiều công trình đã lấy lí thuyết tự sự làm cơ sở để khám phá
cấu trúc văn bản truyện kể. Như vậy, tự sự học là “bộ phận không thể thiếu của
hành trang nghiên cứu văn học hôm nay, và nói theo ngôn ngữ của Thomas Kuhn,
thì đó là một bộ phận cấu thành của hệ hình (paradigme) lý luận hiện đại” [165, tr. 11].
Hơn nữa, tự sự học có thể mở rộng phạm vi nghiên cứu. Nó không đơn thuần là
nghiên cứu các thể loại tự sự văn học mà còn nghiên cứu những lĩnh vực phi văn
học như điện ảnh, nghệ thuật thị giác… Miieke Bal cho rằng, tất cả các khách thể
văn hoá (bộ luật, tranh ảnh, tư liệu lịch sử…) đều ít nhiều có liên quan đến tự sự.
Trần Đình Sử đã khẳng định tự sự học là “một bộ môn nghiên cứu liên ngành giàu
tiềm năng” [165, tr. 10]. Vì vậy, tự sự là một thái độ văn hoá và nghiên cứu tự sự
cũng là nghiên cứu văn hoá.
Lí thuyết tự sự nghiên cứu nhiều phương diện phong phú và đa dạng liên quan
đến nghệ thuật trần thuật (loại hình trần thuật, cốt truyện, nhân vật, người kể
chuyện, ngôi kể, điểm nhìn, giọng điệu…) với nhiều quan điểm khác nhau. Vận
dụng lí thuyết tự sự để nghiên cứu văn học đòi hỏi người nghiên cứu phải “nhìn” từ
góc độ thi pháp. Luận án của chúng tôi vận dụng lí thuyết về ngôi kể, điểm nhìn và
giọng điệu trần thuật trong cấu trúc văn bản truyện kể để nghiên cứu nghệ thuật tự


2
sự trong truyện ngắn Việt Nam sau 1975 (Qua truyện ngắn của Nguyễn Minh Châu,
Nguyễn Khải, Ma Văn Kháng).
1.2. Đại thắng mùa xuân năm 1975 đã kết thúc thắng lợi cuộc kháng chiến
chống Mĩ cứu nước. Đất nước trở lại quỹ đạo thời bình, xã hội trong cơn chuyển
mình lớn và đối mặt với biết bao những vấn đề riêng - chung cần giải quyết. Các

nhà văn Việt Nam thoát ra khỏi ánh hào quang của những hình mẫu kỳ diệu và lý
tưởng để trở về nhịp điệu cuộc sống đời thường với tất cả những biểu hiện đa dạng,
phức tạp của nó. Sự đổi mới trong quan niệm về hiện thực và con người đã “mở
rộng biên độ” của văn học. Văn học tiếp cận đời sống một cách biện chứng. Người
viết cũng có thể đưa ra nhiều quan điểm khác nhau, tính dân chủ được thể hiện rất
rõ. Nhà văn không có quyền áp đặt người đọc theo một tư tưởng có sẵn. Độc giả
cũng có quyền lựa chọn tác giả phù hợp với thị hiếu của riêng mình. Tác giả - nhân
vật và người đọc được đặt trong mối quan hệ đa chiều để tranh biện và đi tìm chân
lí. Người viết thường không ngại “xé rào” bước ra trò chuyện trực tiếp với bạn đọc.
Các điểm nhìn trần thuật được gia tăng và gắn với nó là sự phong phú về giọng điệu
trần thuật. Điều này thể hiện khá rõ trong truyện ngắn. Truyện ngắn đã chứng tỏ là
thể loại năng động, có khả năng nắm bắt vấn đề một cách nhanh nhạy, kịp thời mà
vẫn chuyển tải được những vấn đề quan trọng của đời sống đương thời. Thể loại
này mang trong nó những dấu hiệu của sự vận động và biến đổi với nhiều khuynh
hướng khác nhau: truyện ngắn viết theo lối truyền thống và tuân thủ những đặc
trưng vốn có của thể loại; truyện ngắn cách tân trên nền truyền thống; truyện ngắn
cách tân theo hướng hiện đại. Chúng tôi đi sâu nghiên cứu truyện ngắn của ba tác
giả Nguyễn Minh Châu, Nguyễn Khải, Ma Văn Kháng (những nhà văn sáng tác
theo khuynh hướng cách tân trên nền truyền thống) từ góc nhìn tự sự để thấy được
sự đổi mới trong tư duy nghệ thuật và sự vận động của cấu trúc thể loại trong bối
cảnh mới.
1.3. Trong nền văn học Việt Nam hiện đại, Nguyễn Minh Châu, Nguyễn Khải
và Ma Văn Kháng là những cây bút có “thương hiệu”. Họ đã góp phần làm nên diện
mạo của văn học Việt Nam trong thời kỳ mới. Nguyễn Minh Châu được coi là một


3
hiện tượng của văn học Việt Nam ở nửa sau thế kỷ XX. Với quan niệm “nhà văn
phải đứng hai chân giữa mặt đất đầy hiểm họa, giữa thập loại chúng sinh”, Nguyễn
Minh Châu đã khắc khoải về nhân sinh để đi tìm những “hạt ngọc” cho đời. Là một

nhà văn suốt đời khao khát đi tìm cái đẹp và sự chân thật của cuộc sống, Nguyễn
Minh Châu đã cống hiến hết mình cho nghệ thuật. Ông có một vị trí đặc biệt quan
trọng - người “tiền trạm đổi mới” (Phong Lê), “người mở đường đầy tài hoa và tinh
anh” (Nguyên Ngọc) trong nền văn học đương đại Việt Nam. Còn Nguyễn Khải lại
được đánh giá là một trong số ít người viết mà đời người, đời văn có mối liên quan
chặt chẽ. Suốt nửa thế kỷ lao động sáng tạo, ngòi bút của ông đã gắn bó với lịch sử
dân tộc. Bằng cái nhìn đa chiều, đa diện, Nguyễn Khải thể hiện trong sáng tác của
mình nhãn quan tỉnh táo trước hiện thực đời sống. “Muốn hiểu con người thời đại
với cái hay, cái dở của họ, nhất là muốn hiểu cách nghĩ của họ, phải đọc Nguyễn
Khải” [20, tr. 61]. Bên cạnh Nguyễn Minh Châu và Nguyễn Khải, Ma Văn Kháng
là cây bút chuyên nghiệp đầy bản lĩnh và tài năng. Con người trước lăng kính tâm
hồn nhà văn không chỉ là đối tượng ngợi ca mà còn là tiêu điểm để “đào bới bản
thể ở chiều sâu tâm hồn” (Lã Nguyên).
Nguyễn Minh Châu, Nguyễn Khải, Ma Văn Kháng là những đại biểu tinh anh
của phong trào đổi mới văn học sau 1975. Họ là những cây bút trưởng thành trong
chiến tranh và trở về từ chiến tranh nhưng trong bối cảnh đổi mới, họ vẫn là những
tác giả có nhiều bạn đọc. Cả ba nhà văn đều là những tấm gương lao động sáng tạo
và được nhận giải thưởng Hồ Chí Minh - giải thưởng cao quý về văn học nghệ thuật.
Với những lí do như vậy, chúng tôi đi sâu nghiên cứu đề tài: “Nghệ thuật tự
sự trong truyện ngắn Việt Nam sau 1975 (Qua truyện ngắn của Nguyễn Minh
Châu, Nguyễn Khải, Ma Văn Kháng)”. Ở luận án này, chúng tôi tiếp cận truyện
ngắn của ba tác giả tiêu biểu thuộc thế hệ “3X” (Nguyễn Minh Châu sinh năm 1930,
Nguyễn Khải sinh năm 1930 và Ma Văn Kháng sinh năm 1936) có cùng một hành
trình, cùng một khởi điểm, cùng chung một mô hình sáng tác của cùng một thế hệ
nhà văn (mở đầu cho văn học đổi mới và đều viết theo lối cách tân trên nền truyền
thống) từ góc nhìn thi pháp để thấy được sự chuyển động của thể loại truyện ngắn
trong bối cảnh mới của đời sống văn học.


4

2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
2.1. Mục đích nghiên cứu
- Làm rõ nghệ thuật tự sự trong truyện ngắn Việt Nam sau 1975 qua truyện
ngắn của Nguyễn Minh Châu, Nguyễn Khải, Ma Văn Kháng ở phương diện ngôi
kể, điểm nhìn và giọng điệu trần thuật.
- Tìm ra những điểm chung của thế hệ, điểm riêng trong phong cách của từng
tác giả và khẳng định đóng góp của ba nhà văn trong sự vận động, đổi mới thể loại
truyện ngắn Việt Nam sau 1975.
2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Vận dụng lý thuyết tự sự học hiện đại để tìm hiểu và phân tích truyện ngắn
sau 1975 của Nguyễn Minh Châu, Nguyễn Khải, Ma Văn Kháng nhằm làm nổi bật
giá trị nghệ thuật và nội dung tư tưởng của các tác phẩm, thấy được điểm chung,
điểm riêng của ba nhà văn trong dòng chảy của truyện ngắn Việt Nam sau 1975.
- Tìm hiểu truyện ngắn của Nguyễn Minh Châu, Nguyễn Khải, Ma Văn Kháng
trong thế đối sánh với truyện ngắn Việt Nam sau 1975 để chỉ ra những nét riêng biệt,
những thành công và giới hạn của thế hệ nhà văn trưởng thành trong chiến tranh, thấy
được đặc điểm truyện ngắn Việt Nam sau 1975 từ góc nhìn tự sự.
- Thông qua việc tìm hiểu sự đổi mới mô hình tự sự của truyện ngắn Nguyễn
Minh Châu, Nguyễn Khải, Ma Văn Kháng, chúng tôi thêm một lần nữa khẳng định
diện mạo tinh thần, vai trò, vị trí của họ trong sự vận động của thể loại truyện ngắn
Việt Nam sau 1975 nói riêng và trong nền văn học Việt Nam hiện đại nói chung.
3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận án là nghệ thuật tự sự trên các bình diện cơ bản như
ngôi kể, điểm nhìn, giọng điệu trong truyện ngắn Việt Nam sau 1975 (Qua truyện ngắn
của Nguyễn Minh Châu, Nguyễn Khải, Ma Văn Kháng).
3.2. Phạm vi nghiên cứu
- Phạm vi vấn đề nghiên cứu: Nghệ thuật tự sự bao gồm nhiều phương diện. Ở
luận án này, chúng tôi tập trung nghiên cứu vấn đề ngôi kể, điểm nhìn và giọng điệu
trần thuật. Đó là những yếu tố nổi bật tạo nên phong cách nghệ thuật của truyện

ngắn Nguyễn Minh Châu, Nguyễn Khải, Ma Văn Kháng.


5
- Phạm vi tư liệu:
+ Đề tài chủ yếu khảo sát toàn bộ truyện ngắn của Nguyễn Minh Châu,
Nguyễn Khải, Ma Văn Kháng nhưng tập trung vào những sáng tác sau 1975. Đặc
biệt, chúng tôi chú ý những tác phẩm trong tuyển tập truyện ngắn của ba nhà văn:
Tuyển tập truyện ngắn Nguyễn Minh Châu (2006) của Nhà xuất bản Văn học;
Tuyển tập truyện ngắn Nguyễn Khải (2007) của Nhà xuất bản Hội Nhà văn; Truyện
ngắn chọn lọc Ma Văn Kháng (2002) của Nhà xuất bản Hội Nhà văn.
+ Một số truyện ngắn tiêu biểu của các nhà văn cùng thế hệ và khác thế hệ (các
nhà văn “6X”, “7X”, “8X”, “9X”) để so sánh.
4. Phƣơng pháp nghiên cứu
Trong luận án này, người viết chủ yếu sử dụng các phương pháp sau:
4.1. Phương pháp tiếp cận tự sự học
Vận dụng lí thuyết tự sự để phân tích, lí giải những cách tân đổi mới trong
truyện ngắn sau 1975 của Nguyễn Minh Châu, Nguyễn Khải, Ma Văn Kháng.
4.2. Phương pháp thống kê
Phương pháp này được áp dụng trong quá trình khảo sát văn liệu để từ đó có
thể đưa ra những kết luận khoa học về các phương diện của nghệ thuật tự sự trong
truyện ngắn của ba nhà văn mà luận án quan tâm.
4.3. Phương pháp hệ thống
Phương pháp này giúp chúng tôi nhìn truyện ngắn của ba nhà văn như một hệ
thống và đặt nó trong hệ thống lớn hơn là tiến trình văn học Việt Nam hiện đại.
Đồng thời có thể đưa ra đánh giá về những đóng góp và giới hạn trong nghệ thuật
trần thuật của Nguyễn Minh Châu, Nguyễn Khải, Ma Văn Kháng một cách khách
quan và toàn diện.
4.4. Phương pháp loại hình, phương pháp phân tích tác phẩm theo đặc trưng thể loại
Nhằm tìm ra những đặc điểm tương đồng loại hình về phương diện nghệ thuật

trần thuật, chỉ ra các kiểu, dạng NKC, phương thức trần thuật và giọng điệu trần
thuật… từ góc nhìn thể loại.
4.5. Phương pháp so sánh
Để có cái nhìn sâu hơn về đối tượng nghiên cứu, chúng tôi so sánh truyện ngắn
của ba nhà văn với nhau và với truyện ngắn của các nhà văn khác, đồng thời đối


6
chiếu truyện ngắn của ba nhà văn ở hai giai đoạn sáng tác trước và sau 1975. Từ đó,
chỉ ra những vận động về nghệ thuật trần thuật.
4.6. Phương pháp tổng hợp
Phương pháp này giúp chúng tôi đưa ra những khái quát trên cơ sở phân tích
ngữ liệu cụ thể.
5. Đóng góp mới của luận án
- Luận án vận dụng những thành tựu nghiên cứu tự sự học trên thế giới và ở
Việt Nam để mô tả, phân tích sâu một số phương diện cơ bản của nghệ thuật tự sự
như: ngôi kể, điểm nhìn, giọng điệu trần thuật trong truyện ngắn sau 1975 của
Nguyễn Minh Châu, Nguyễn Khải, Ma Văn Kháng nhằm làm nổi bật giá trị nội
dung, nghệ thuật của các tác phẩm. Từ đó, người viết xác định điểm tương đồng và
khác biệt trong nghệ thuật tự sự và trong phong cách nghệ thuật của ba tác giả.
- Luận án là công trình đầu tiên nghiên cứu một cách hệ thống về nghệ thuật tự
sự trong truyện ngắn Việt Nam sau 1975 của nhóm tác giả đã có vị trí và đóng góp
to lớn trong nền văn học Việt Nam hiện - đương đại. Trên cơ sở nghiên cứu đó,
người viết khẳng định sự đổi mới và những thành công về tổ chức tự sự trong
truyện ngắn sau 1975 của ba nhà văn “gạo cội” - tiêu biểu cho thế hệ những nhà văn
mở đường của nền văn học Việt Nam từ sau 1975.
- Từ thực tiễn sáng tác của ba nhà văn, từ sự đối chiếu, so sánh truyện ngắn
của họ ở hai giai đoạn trước - sau 1975 và so sánh với truyện ngắn của các nhà văn
khác, luận án chỉ ra sự vận động và đổi mới của truyện ngắn Việt Nam sau 1975.
- Luận án góp một tài liệu phục vụ cho hoạt động nghiên cứu, giảng dạy, học

tập về truyện ngắn Việt Nam sau 1975 ở các trường đại học, cao đẳng, trung học.
6. Cấu trúc của luận án
Chương 1: Tổng quan về vấn đề nghiên cứu
Chương 2: Một số vấn đề cơ bản của tự sự học. Khái lược về truyện ngắn Việt
Nam sau 1975
Chương 3: Ngôi kể và điểm nhìn trong truyện ngắn sau 1975 của Nguyễn
Minh Châu, Nguyễn Khải, Ma Văn Kháng
Chương 4: Giọng điệu trần thuật trong truyện ngắn sau 1975 của Nguyễn
Minh Châu, Nguyễn Khải, Ma Văn Kháng


7
CHƢƠNG 1
TỔNG QUAN VỀ VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU
1.1. Khái lƣợc tình hình nghiên cứu lí thuyết tự sự
Tự sự học là “một nhánh của thi pháp học hiện đại” [165, tr. 11]. Chủ nghĩa
hình thức Nga với những tên tuổi V. Shklovski (1893 - 1984), B. Eikhenbaum
(1886 - 1959), B. Tomachevski (1890 - 1957)… đã đặt nền móng cho những cơ sở
ban đầu của lí thuyết tự sự. Họ đề cập đến nhiều phương diện cơ bản của cấu trúc tự
sự ở phương diện lí thuyết như: kết cấu tác phẩm, cốt truyện, nhân vật hay nghệ
thuật tổ chức thời gian…
B. Tomachevski vốn là một nhà phê bình thơ nhưng với tiểu luận Hệ chủ đề,
ông đã trở thành người đầu tiên nghiên cứu thủ pháp của cốt truyện. Ông phân biệt
khái niệm chuyện kể (fabula, fable) và cốt truyện (sujet): “tuyến hành động liên quan đến
chuyện kể còn tuyến trần thuật liên quan đến cốt truyện ” (dẫn theo [165, tr. 30]). Ông
phân biệt “thời gian của chuyện kể” và “thời gian trần thuật”, đồng thời trình
bày nhiều thủ pháp như: trì hoãn, bình luận ngoại đề, che giấu bí mật, đảo lộn
thời gian…
V. Shklovski qua các tiểu luận Nghệ thuật nhƣ là thủ pháp, Cấu trúc của
truyện ngắn và tiểu thuyết… cho rằng: “Nhiều tác phẩm tự sự là một tổ hợp các

kết cấu vòng tròn và kết cấu bậc thang, trong đó các tình tiết được sắp xếp thành
những tầng nấc kế tiếp nhau” (dẫn theo [165, tr. 31]). Ông còn nói đến “thủ pháp
đóng khung và thủ pháp xâu chuỗi” (dẫn theo [165, tr. 32]) trong văn tự sự.
B. Eikhenbaum trong tiểu luận Về lí thuyết văn xuôi đã cho rằng:
“Truyện ngắn là hình thức sơ yếu của văn xuôi”, “nhà văn thường xây dựng
truyện ngắn trên cơ sở một mâu thuẫn, một tan vỡ, một sai lầm hay một tương
phản” (dẫn theo [165, tr. 34]).
Chủ nghĩa hình thức Nga đặt viên gạch đầu tiên cho lí thuyết tự sự học nhưng
góp phần hình thành bộ môn tự sự học thì phải kể đến Chủ nghĩa cấu trúc với những
tên tuổi như R. Barthes, Tz. Todorov, A. J. Greimas, G. Genette… Chủ nghĩa cấu
trúc đi tìm mô hình cho hình thức tự sự. R.Barthes mở đầu với công trình Dẫn luận


8
phân tích tác phẩm tự sự (1968) và S/Z (1970) (tác phẩm này đã bắt đầu chuyển
sang hậu cấu trúc chủ nghĩa). Todorov là một trong những người đầu tiên đề xuất
thuật ngữ tự sự học với chuyên luận Thi pháp văn xuôi. Todorov còn có công trình
Ngữ pháp “Câu chuyện mười ngày”… Từ góc độ ngữ pháp, Todorov coi “nhân vật
như danh từ, tình tiết là động từ” (dẫn theo [165, tr. 14]), G. Genette thì tuyên bố
“mỗi câu chuyện là sự mở rộng của một câu” (dẫn theo [165, tr. 14]), R. Barthes
cũng tán thành quan điểm đó… Như vậy, mục đích của chủ nghĩa cấu trúc là “nghiên
cứu bản chất ngôn ngữ, bản chất ngữ pháp của tự sự” (dẫn theo [165, tr. 14]).
Tiếp theo phải kể đến các nhà tự sự học hậu cấu trúc chủ nghĩa như M.
Bakhtin, I. U. Lotman, B. Uspenski… Các tác giả này quan tâm đến các phương
thức biểu đạt ý nghĩa khác nhau, lấy văn bản làm cơ sở (Jean - Claude Coquet).
Hình thức tự sự chính là phương tiện biểu đạt ý nghĩa của tác phẩm.
Tổng quan quá trình nghiên cứu của lí thuyết tự sự, nhà lí luận Mĩ Gerald
Prince đã chia làm ba nhóm theo ba loại hình như sau: Nhóm thứ nhất (gồm những
nhà tự sự học chịu ảnh hưởng của các nhà hình thức chủ nghĩa Nga như V. Propp,
Todorov, Barthes, Remak, Norman Friedman, Northrop Frye, Etienne Souriau…)

chú ý tới cấu trúc của câu chuyện được kể, bỏ qua hoặc không đi sâu vào đặc trưng
biểu đạt của chất liệu; nhóm thứ hai (gồm G. Genette, Dolezel, Micke Bal…) xem
nguồn gốc của tự sự là dùng ngôn ngữ biểu đạt và vai trò của người trần thuật là
quan trọng nhất; nhóm thứ ba (đại diện là Gerald Prince và Seymour Chatman) lại
coi trọng phương pháp nghiên cứu tổng thể.
Lí thuyết tự sự học hiện đại lần đầu tiên cho người ta thấy sự phức tạp của
cấu trúc tự sự với các vấn đề cần phải tìm tòi, suy ngẫm như vấn đề NKC, điểm
nhìn, dòng ý thức, không gian, thời gian, giọng điệu nghệ thuật… Lí thuyết tự sự sẽ
giúp cho ta nghiên cứu nghệ thuật tự sự của các thể loại nói chung và của từng tác
phẩm văn học cụ thể nói riêng, qua đó cho thấy cả truyền thống văn học, văn hoá
của mỗi dân tộc.
Ở Việt Nam, năm 2001, hội thảo quy mô toàn quốc về tự sự học đã được tổ
chức tại trường Đại học Sư phạm Hà Nội. Trong bài viết Tự sự học - một bộ môn


9
nghiên cứu liên ngành giàu tiềm năng, Trần Đình Sử đã hệ thống, khái lược
những vấn đề tự sự từ chủ nghĩa hình thức Nga, ngôn ngữ học Saussure, Platon,
Aritoste, Tz. Tododov, Genette… Qua đó, ông khẳng định vai trò quan trọng của tự
sự học. Trong công trình Dẫn luận thi pháp học [167], Trần Đình Sử đã xác định vị
trí của thi pháp học trong khoa nghiên cứu văn học, đối tượng phạm trù và phương
pháp nghiên cứu thi pháp, ông tập trung đi sâu hệ thống, cắt nghĩa những khái niệm
thuộc về trần thuật học như quan niệm nghệ thuật về con người, thời gian - không
gian nghệ thuật, tác giả và kiểu tác giả, tính quan niệm và cấu trúc thể loại, cấu
trúc của văn bản trần thuật, ngôn từ nghệ thuật…
Trần thuật học - Nhập môn lí thuyết trần thuật học của tác giả Manfred Jahn
công bố vào ngày 28 - 07 - 2003 [131], đăng tải trên trang web -
koeln.de đã xây dựng một hệ thống những khái niệm nền tảng về truyện kể và chỉ ra
cách sử dụng chúng khi phân tích tác phẩm. Những định nghĩa này được dựa trên
một loạt bài nhập môn cổ điển như cấu trúc của trần thuật, kể chuyện tiêu điểm và

tình huống trần thuật, thì, thời và thức trần thuật, nhân vật và diễn ngôn…
Cao Kim Lan trong bài viết Lí thuyết về điểm nhìn nghệ thuật của R. Scholes và
R. Kellogg [113] đã dựa vào cuốn Bản chất của tự sự (The nature of Narrative,
Oxford University, tái bản 1968) để giới thiệu về điểm nhìn nghệ thuật và sự chi
phối của điểm nhìn trong truyện kể, vấn đề quyền năng của NKC với điểm nhìn của
nhân vật, điểm nhìn của NKC và điểm nhìn của người đọc…
Lê Phong Tuyết trong bài Tiếp cận Genette qua một vài khái niệm trần
thuật [201] đã giới thiệu về Genette và lí thuyết của ông một cách hệ thống với
những khái niệm liên quan đến trần thuật. Trong đó, tác giả tập trung làm rõ hai vấn
đề mới mẻ với giới nghiên cứu và bạn đọc Việt Nam là tình huống trần thuật và
người nghe chuyện.
Một trong những công trình có ý nghĩa lớn với việc giới thiệu lí thuyết tự sự
vào Việt Nam đó là cuốn Tự sự học - Một số vấn đề lí luận và lịch sử [165] do
Trần Đình Sử chủ biên. Trong đó, Phan Thu Hiền có bài viết Về lí thuyết tự sự của
Northrop Frye [165, tr. 56 - 70]. Tác giả giới thiệu Northrop Frye là đại biểu quan


10
trọng có ảnh hưởng sâu sắc nhất của lí thuyết Phê bình huyền thoại (Mythcritic) còn
gọi là lí thuyết Phê bình nguyên mẫu (archetypal critism) với quan niệm cho rằng
mục tiêu của văn chương là đạt đến sự giới thiệu, sự trình bày cuộc sống. Nguyễn
Đức Dân giới thiệu về Greimas trong bài Greimas - Ngƣời xây nền cho trƣờng
phái kí hiệu học Pháp [165, tr. 39 - 55] với mô hình vai hành động, cấu trúc cơ sở
của nghĩa, mô hình cấu tạo.
Tiếp theo, đó là cuốn Tự sự học - Một số vấn đề lí luận và lịch sử (Tập 1 và
tập 2) [166] cũng do Trần Đình Sử chủ biên. Ở đây, chúng tôi quan tâm đến bài viết
Vấn đề phân loại góc nhìn trần thuật của Phương Lựu, Ngƣời kể chuyện - nhân
vật mang tính chức năng trong tác phẩm tự sự [165, tr. 196 - 208] của Nguyễn
Thị Hải Phương, Bàn về một vài thuật ngữ thông dụng trong truyện kể của
Đặng Anh Đào [165, tr. 169 - 178]. Qua những bài viết này, các tác giả đã góp phần

làm rõ các khái niệm tự sự học như: NKC, điểm nhìn, giọng điệu, ngôi phát ngôn…
Như vậy, lí thuyết tự sự luôn là vấn đề được các nhà nghiên cứu quan tâm. Nó
có vai trò quan trọng và cần thiết trong việc tiếp cận tác phẩm văn học, đặc biệt là
tác phẩm văn xuôi. Ở Việt Nam, ngoài những tác phẩm dịch thuật, ít có công trình
nghiên cứu sâu về nghệ thuật tự sự từ phương diện lí thuyết. Giới nghiên cứu tự sự
tập trung tìm hiểu, nghiên cứu về các phương diện của tự sự như: thời gian và
không gian trần thuật, cấu trúc của văn bản trần thuật, ngôn ngữ trần thuật, tình
huống trần thuật, điểm nhìn, giọng điệu, ngôi phát ngôn… Nói tóm lại, tất cả các
thành phần của nghệ thuật tự sự đều được các học giả nghiên cứu và làm rõ qua các
tác phẩm văn học.
1.2. Những công trình nghiên cứu về nghệ thuật tự sự trong truyện ngắn Việt
Nam sau 1975
Trong quá trình khảo sát tư liệu, chúng tôi được tiếp xúc nhiều với bài viết và
công trình lý luận có quy mô khác nhau. Trước thành tựu của công cuộc đổi mới
văn học dân tộc sau 1975, đặc biệt là thể loại truyện ngắn, các nhà nghiên cứu phê
bình đã tập trung bút lực nhằm giúp bạn đọc tiếp cận và thẩm định những cách tân
mới mẻ trong “bước ngoặt” của dòng chảy văn học hiện đại Việt Nam.


11
Truyện ngắn Việt Nam sau 1975 đã được nhiều nhà nghiên cứu, phê bình quan
tâm, đặc biệt là nghiên cứu từ góc nhìn tự sự, một vấn đề lí luận mới mẻ và còn
nhiều “lời ngỏ”. Cuốn 50 năm - Văn học Việt Nam sau Cách mạng tháng Tám
[153] được chia làm ba phần: Đặc điểm, diện mạo, hướng tiếp cận; Văn học và
chiến tranh cách mạng; Những vấn đề thi pháp thể loại. Trong đó, chúng tôi chú ý
đến bài viết Mấy nhận xét về nhân vật của văn xuôi Việt Nam sau 1975 của
Nguyễn Thị Bình [153, tr. 207 - 227]. Sau khi xác định tiêu chí, nguyên tắc xây
dựng nhân vật của văn học sau 1975 trong thế đối sánh với văn học trước 1975, tác
giả bài viết đã khẳng định nét mới rõ nhất trong việc xây dựng nhân vật là sự thay
đổi mối quan hệ giữa tác giả và nhân vật, giữa nhà văn và bạn đọc. Đó là “mối quan

hệ bình đẳng, là xu thế đối thoại dân chủ giữa nhiều ý thức, mỗi nhân vật có thể có
một điểm nhìn đời sống độc lập với điểm nhìn của tác giả” [153, tr. 218].
Văn học Việt Nam thế kỷ XX - Những vấn đề lịch sử và lí luận [46] là công
trình khoa học trọng điểm của Đại học Quốc Gia Hà Nội do một tập thể Viện sĩ,
Giáo sư, Phó giáo sư, Tiến sĩ thuộc Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, Viện
Văn học, Đại học Sư phạm Hà Nội hợp tác biên soạn. Công trình đã dành hẳn phần
ba để nghiên cứu về “Truyện ngắn Việt Nam giai đoạn 1975 - 2000”. Trong đó,
chương VI đề cập đến “Một số vấn đề thi pháp truyện ngắn hiện đại Việt Nam”. Các
tác giả cho rằng giai đoạn 1975 - 2000 là “thời của truyện ngắn”, truyện ngắn thực
sự khởi sắc, “các nhà văn đã có công tìm tòi nghệ thuật làm cho thể loại “nhỏ” có sức
chứa”, “có khả năng khái quát hóa nghệ thuật đời sống theo chiều sâu” [46, tr. 261].
Và sau đó, họ tập trung nghiên cứu vào hai nhà văn Nguyễn Minh Châu, Nguyễn
Huy Thiệp - những tên tuổi được dư luận quan tâm và có vị trí trên văn đàn.
Nguyễn Minh Châu được đánh giá là “một phong cách đa dạng và biến ảo vì thế
giọng điệu cũng luân phiên cho phù hợp với đối tượng” với “giọng chủ âm là trữ
tình lo âu”, gần cuối đời có hiện tượng pha giọng. Còn Nguyễn Huy Thiệp là nhà
văn “có công tìm tòi làm cho truyện ngắn đa dạng về hình thức”, là một hiện tượng
văn học “hai lần lạ”, truyện ngắn của ông “có sức mạnh ở các chi tiết nghệ thuật”.
Ta nhận thấy, bàn về vấn đề thi pháp truyện ngắn hiện đại Việt Nam, các tác giả đã


12
bày tỏ quan điểm về tình huống truyện, cốt truyện, các kiểu truyện ngắn hiện đại và
nghệ thuật kể chuyện từ góc nhìn tự sự học. Tuy nhiên, những nhận xét vẫn chỉ
dừng ở những nhận định khái quát, điểm xuyết mà chưa đi sâu vào nghiên cứu cấu
trúc văn bản truyện kể.
Văn học Việt Nam sau 1975 - những vấn đề nghiên cứu và giảng dạy [158]
là cuốn sách tập hợp những bài viết của Hội thảo khoa học do khoa Ngữ văn -
Trường Đại học Sư phạm Hà Nội tổ chức. Cuốn sách được tập hợp theo ba phần:
Những vấn đề chung; Những vấn đề về văn xuôi và Những vấn đề về thơ. Chúng tôi

quan tâm đến bài viết Quan niệm về thể tài truyện ngắn trong văn học Việt Nam
sau 1975 của Phùng Ngọc Kiếm [158, tr. 192 - 202], Nghiên cứu và dạy học
truyện ngắn hiện đại của Nguyễn Thanh Hùng [158, tr. 293 - 299], Một vài
khuynh hƣớng vận động của điểm nhìn trong văn xuôi Việt Nam sau 1975 của
Nguyễn Văn Hiếu. Trong đó, bài viết của Nguyễn Văn Hiếu [158, tr. 300 - 306] tìm
hiểu về sự vận động của điểm nhìn nghệ thuật trong tiến trình của văn xuôi sau
1975. Bài viết đã chỉ ra những khuynh hướng vận động nổi bật của điểm nhìn như:
khuynh hướng cá thể hóa, khuynh hướng đối thoại, khuynh hướng gián cách. Người
viết khẳng định: “Dấu ấn cá tính trong điểm nhìn trần thuật dần trở thành một tiêu
chí của giá trị, một mối quan tâm của văn chương. Cá thể hóa là khuynh hướng vận
động tất yếu của điểm nhìn, phù hợp với nhu cầu của nhà văn và yêu cầu của thời
đại”; “Sức nặng của điểm nhìn mang tính đối thoại, một mặt xác lập các chuẩn mực
mới, nhưng mặt khác nó đã làm nảy sinh ở người đọc tâm lí tự vấn trước hiện thực
được kể đến”; “Nhà văn là NKC thường di chuyển điểm nhìn theo nhiều chủ thể
khác nhau”; “Gián cách đòi hỏi người cầm bút phải tìm cách viết khác, người đọc
phải hình thành một thị hiếu khác, phê bình văn học phải hình thành bậc thang giá
trị khác” [158, tr. 300 - 305]. Tuy nhiên, những nhận xét này mới chỉ nằm trong
khuôn khổ của một bài viết nên sự lí giải chưa thực thấu đáo.
Tập hợp tâm huyết của nhiều nhà nghiên cứu phê bình, cuốn Truyện ngắn
Việt Nam - Lịch sử, thi pháp, chân dung [47] do Phan Cự Đệ chủ biên đã được
xuất bản năm 2007. Cuốn sách dày gần 800 trang nghiên cứu hai vấn đề là Truyện


13
ngắn Việt Nam thời kỳ trung đại và Truyện ngắn Việt Nam thời kỳ hiện đại. Các tác
giả cũng tập trung làm rõ lịch sử phát triển của các khuynh hướng và loại hình truyện
ngắn (chỉ ra những nguyên nhân của quá trình đổi mới truyện ngắn từ 1976 - 2006);
đặc trưng của thể loại truyện ngắn hiện đại, truyện ngắn trong mối quan hệ với các
thể loại khác). Các tác giả đã lí giải về đặc trưng thi pháp của truyện ngắn hiện đại
như kết cấu và cốt truyện, khoảnh khắc và tình huống; các kiểu của truyện ngắn

hiện đại như truyện ngắn mang tầm khái quát cao, truyện ngắn liên hoàn và các kiểu
truyện ngắn khác. Từ những vấn đề lí luận đó, các tác giả đã tiến hành nghiên cứu
và định hình phong cách truyện ngắn của các thế hệ nhà văn từ Nguyễn Công Hoan,
Thạch Lam, Nam Cao… đến các nhà văn kháng chiến như: Anh Đức, Nguyễn Thi,
Nguyễn Quang Sáng… và sau 1975 như: Lê Minh Khuê, Nguyễn Huy Thiệp…
Cuốn Tự sự học, những vấn đề lịch sử và lí luận [165] do Trần Đình Sử chủ
biên đã tập hợp những bài viết về một số vấn đề cơ bản của lý thuyết tự sự học và
những bài viết vận dụng lý thuyết tự sự học vào tìm hiểu văn liệu cụ thể. Chúng tôi
đặc biệt chú ý tới bài viết Đổi mới ngôn ngữ và giọng điệu - một thành công
đáng chú ý của văn xuôi sau 1975 của Nguyễn Thị Bình [165, tr. 351 - 367]. Tác
giả bài viết đề cập đến hai khía cạnh trong sự chuyển động mạnh mẽ của văn xuôi
sau 1975 là ngôn ngữ và giọng điệu. Qua khảo sát, tác giả bài viết đã định dạng
những phong cách ngôn ngữ mới: ngôn ngữ mang nhãn quan hiện thực, đời thường
(Nguyễn Huy Thiệp, Lê Lựu, Nguyễn Khắc Trường, Tạ Duy Anh…); ngôn ngữ
tăng cường tính tốc độ, thông tin và tính triết luận (Nguyễn Minh Châu, Nguyễn
Huy Thiệp, Phạm Thị Hoài…). Sự đa dạng về giọng điệu cũng là nét mới của văn
học sau 1975. Tác giả chỉ ra bên cạnh giọng tự tin, tự hào xuất hiện giọng hoài nghi
trong sáng tác của Nguyễn Khải, Ma Văn Kháng, Tô Hoài, Nguyễn Minh Châu,
Nguyễn Huy Thiệp…; giọng chất vấn, đay đả trong sáng tác của Nguyễn Huy
Thiệp, Ma Văn Kháng…; giọng từng trải, chiêm nghiệm trong sáng tác của Nguyễn
Khải, Lê Lựu, Chu Lai, Phạm Hải Vân, Nguyễn Việt Hà…; giọng giễu nhại trong
sáng tác của các nhà văn trẻ… Từ đó, tác giả đưa ra nhận xét khái quát: “Mười năm
đầu sau khi cuộc chiến tranh chống Mĩ kết thúc, văn xuôi nước ta mang giọng chủ


14
đạo trầm tĩnh, khách quan. Từ khoảng giữa thập kỷ 80, nổi lên giọng phê phán,
phân tích xã hội (…). Sau đó giọng phê phán trầm xuống (…). Giọng điệu văn xuôi
dần mang nhiều suy tư khắc khoải, nhiều chiêm nghiệm về thế sự nhân sinh. Từ đầu thập
kỷ 90, nó bắt đầu thăng bằng lại, tự điều chỉnh những ồn ào thái quá” [165, tr. 367]. Đó

là cái nhìn khá tinh tế và sắc sảo. Tuy nhiên, mọi sự phân tích, lý giải chỉ nằm trong
phạm vi của một bài viết.
Sự xuất hiện của thi pháp học hiện đại và những thành tựu của nó đối với lĩnh
vực nghiên cứu và giảng dạy văn học ở nước ta là sự nỗ lực của nhiều người, trong
đó phải kể đến vai trò quan trọng của GS.TS. Trần Đình Sử. Nhân dịp kỷ niệm 70
năm ngày sinh của ông, Nguyễn Đăng Điệp - Nguyễn Văn Tùng đã tuyển chọn và
biên soạn công trình Thi pháp học ở Việt Nam [53]. Công trình gồm ba phần: Phần
I: Toàn cảnh thi pháp học (bức tranh toàn cảnh thi pháp học từ truyền thống đến
hiện đại; các khuynh hướng thi pháp học trên thế giới); Phần II: Tuyển chọn những
công trình tiêu biểu (bằng chứng cụ thể, sinh động nhất về sức sống và tính hiệu quả
của thi pháp học trong đời sống nghiên cứu văn học); Phần III: Ấn tượng Trần Đình
Sử (những đánh giá, nhận định về GS.TS. Trần Đình Sử). Trong công trình này, bài
viết của Lê Huy Bắc về Giọng và giọng điệu trong văn xuôi hiện đại [53, tr. 335 -
346] đã nêu ra những vấn đề mà chúng tôi đang quan tâm như khái niệm giọng (voice),
giọng điệu (tone hoặc tone of view) và giọng điệu trong văn xuôi hiện đại. Tác giả đã
tập trung vào ba kiểu giọng điệu thể hiện hai trạng thái tâm lí của NKC là giọng điệu
dửng dưng và hoài niệm; giọng điệu trung tính (người kể chuyện giữ sắc giọng bình
thường khi trần thuật các sự kiện, hành động); giọng điệu vô âm sắc (thái độ lạnh
lùng); giọng điệu cảm xúc (bộc lộ cảm xúc, tâm trạng, những chiêm nghiệm sâu xa ).
Văn học Việt Nam sau 1975 có vị trí quan trọng trong dòng chảy của văn học
dân tộc. Vì thế, những năm gần đây. Nó cũng được dành một vị trí xứng đáng trong
văn học nhà trường, cuốn Giáo trình Văn học Việt Nam hiện đại, tập 2 (từ sau
Cách mạng tháng Tám 1945) [123] xuất bản đã đáp ứng nhu cầu giảng dạy và học
tập của đông đảo các nhà giáo, học sinh, sinh viên. Chương X của giáo trình đề cập
đến nội dung “Văn xuôi từ sau 1975” đã chỉ ra những đổi mới về tư tưởng và nghệ


15
thuật (vấn đề đổi mới quan niệm về hiện thực, đổi mới quan niệm về con người và
đổi mới quan niệm trần thuật) và những đổi mới văn xuôi từ góc độ thể loại.

Những công trình nghiên cứu được đề cập, ở mức độ và phạm vi khác nhau
cũng đã phần nào bàn về văn xuôi, truyện ngắn Việt Nam sau 1975 theo hướng tự
sự học dưới góc độ thi pháp. Tuy nhiên, phần nghiên cứu chỉ trong dung lượng bài
viết, bài tham luận hoặc một chương, mục (một phần của cuốn sách). Trong quá
trình nghiên cứu, chúng tôi cũng chú ý đến các luận án, luận văn. Thành quả khoa
học của những người đi trước là những gợi dẫn quan trọng để chúng tôi triển khai
thực hiện đề tài.
Với mục đích nhận diện gương mặt văn xuôi giai đoạn sau 1975 và góp phần ít
nhiều vào việc giảng dạy, nghiên cứu giai đoạn văn học này, Nguyễn Thị Huệ đã
tiến hành khảo sát và lí giải những dấu hiệu đầu tiên của đổi mới văn học. Kết quả
đó được thể hiện trong Luận án tiến sĩ Những dấu hiệu đổi mới trong văn xuôi
Việt Nam 1980 đến 1986 qua bốn tác giả: Nguyễn Minh Châu - Nguyễn Khải -
Ma Văn Kháng - Nguyễn Mạnh Tuấn [81]. Trong công trình này, người viết đã
mô tả và lý giải sự chuyển đổi trong quan niệm nghệ thuật về hiện thực và con
người qua bốn tác tác giả Nguyễn Minh Châu, Nguyễn Khải, Ma Văn Kháng,
Nguyễn Mạnh Tuấn; đồng thời nhận diện một số dấu hiệu vận động của thể loại (sự
chuyển đổi cảm hứng nghệ thuật, đặc điểm mới của không gian - thời gian nghệ
thuật và sự chuyển đổi của tư duy tiểu thuyết, dấu hiệu đa thanh trong nghệ thuật
trần thuật) và sự chuyển động của ngôn ngữ (từ ngôn ngữ sử thi đến ngôn ngữ dung
dị như chính cuộc sống hồn nhiên vốn có hôm nay, ngôn ngữ mang đậm cá tính
nhân vật và cá tính nhà văn, ngôn ngữ mang đậm tính phóng sự, tính chính luận và
tính triết luận). Tác giả luận án cho rằng: “Sự đổi mới về giọng điệu vừa là hệ quả
lại cũng vừa là tác nhân tạo ra sự phát triển trong tư duy nghệ thuật”; “Sự “vỡ ra”
về giọng điệu cũng như sự linh hoạt, sống động, giàu chất đời thường của ngôn ngữ
đã đem đến cho văn xuôi một chất lượng mới” [81, tr. 200]. Ở thời điểm ra đời của
luận án (1998), đây là những kiến giải và phát hiện mới của người viết. Tuy nhiên,
công trình này chỉ nghiên cứu các sáng tác văn xuôi trong giai đoạn 1980 - 1986.


16

Tác giả thiên về mô tả, lí giải sự vận động của thể loại và những tín hiệu đổi mới mà
không nghiên cứu các tác phẩm từ góc nhìn tự sự học.
Nói đến văn học Việt Nam giai đoạn sau 1975 là nói đến một nền văn học sau
chiến tranh với nhiều dấu hiệu của sự đổi mới về mặt kỹ thuật, trong đó có đổi mới
về kỹ thuật điểm nhìn và ngôn ngữ kể chuyện. Nắm bắt được tính cấp thiết của vấn
đề, Luận án tiến sĩ với đề tài Ngôn ngữ kể chuyện trong truyện ngắn Việt Nam
sau 1975 (Điểm nhìn và ngôn ngữ kể chuyện) [190] của Nguyễn Thị Thu Thủy đã
tiến hành nghiên cứu hai phương diện là phương thức kể và thoại dẫn. Luận án đã
xây dựng được cơ sở lý thuyết về điểm nhìn, đưa ra một khái niệm điểm nhìn cụ thể
và khái quát cho nhiều góc độ, chỉ ra được các nhân tố, các tính chất của điểm nhìn
mà các công trình trước đây chưa đề cập một cách có hệ thống. Tính thực tế của đề
tài cũng rất cao: đưa ra cách xác định, phân tích và thể hiện điểm nhìn trong truyện
một cách có căn cứ, dựa vào lý thuyết điểm nhìn có thể phân loại truyện kể một
cách thấu đáo. Những kết luận khoa học của luận án đã là những gợi dẫn thú vị đối
với chúng tôi trong quá trình thực hiện đề tài.
Trong phần Tổng quan về vấn đề nghiên cứu, chúng tôi còn muốn nói tới một
công trình bàn về thi pháp truyện ngắn Việt Nam đương đại. Đó là Luận án tiến sĩ
của Lê Thị Hương Thuỷ với đề tài Truyện ngắn Việt Nam từ 1986 đến nay (nhìn
từ góc độ thể loại) [191]. Luận án đề cập đến những vấn đề như: Truyện ngắn -
Quan niệm và sự đổi mới tư duy thể loại; Các dạng thức xây dựng nhân vật và tổ
chức kết cấu văn bản truyện ngắn; Ngôn ngữ và điểm nhìn trần thuật. Từ những
vấn đề nghiên cứu ấy, luận án góp phần làm sáng rõ một số vấn đề thuộc về lí luận
thể loại, về những đặc điểm khu biệt và sự tương tác thể loại qua việc khảo sát
truyện ngắn sau 1986, đánh giá một phương diện của văn học sử qua việc tìm hiểu
thể loại truyện ngắn trong đời sống văn học đương đại.
Đặt văn xuôi 1975 - 1985 trong tiến trình của văn học Việt Nam hiện đại, Luận
án tiến sĩ Văn xuôi Việt Nam thời kỳ hậu chiến (1975 - 1985) của Ngô Thu Thuỷ
[189] đã góp phần khẳng định mối quan hệ giữa văn học và đời sống xã hội, đồng
thời cung cấp cái nhìn hệ thống về văn xuôi giai đoạn này trong bước chuyển của



17
lịch sử văn học. Trên cơ sở tìm hiểu hai mảng đề tài chính (văn xuôi viết về đề tài
chiến tranh và văn xuôi viết về đề tài thế sự - đời tư), tác giả luận án phát hiện, lý
giải những rạn nứt, những dấu hiệu mới trong khuôn khổ đề tài cũ và những cảm
hứng mới. Thông qua những kết nối, so sánh, luận án đã chỉ ra những đổi mới về
nghệ thuật của văn xuôi hậu chiến - khởi đầu cho những cách tân nghệ thuật độc
đáo trong văn xuôi Việt Nam sau 1986 và khẳng định vị trí của giai đoạn 1975-1985
trong quá trình chuyển đổi tư duy văn học Việt Nam sau 1975. Tuy nhiên, đối tượng
nghiên cứu của luận án là văn xuôi nói chung bao gồm cả tiểu thuyết và truyện
ngắn. Vì thế, đặc trưng của thể loại truyện ngắn chưa được tác giả làm rõ.
Bên cạnh đó là các Luận văn thạc sĩ. Đề tài Tìm hiểu một vài thành tựu đổi
mới nổi bật về văn xuôi Việt Nam từ sau 1975 qua hai tác giả: Nguyễn Minh
Châu và Nguyễn Khải của Lê Thị Thanh Hà [64] đã tìm hiểu văn xuôi Việt Nam từ
sau năm 1975 ở phương diện đổi mới về khuynh hướng văn xuôi, đề tài, quan niệm
nghệ thuật về con người, thủ pháp nghệ thuật thể hiện (đổi mới về giọng điệu và về
nhân vật). Đề tài Một số vấn đề về đổi mới thi pháp thể loại trong truyện ngắn
Việt Nam đương đại [203] của Trần Thanh Việt đã chỉ ra những yếu tố đổi mới,
cách tân trong thời gian, không gian trần thuật, trong điểm nhìn và giọng điệu.
Trên đây là những bài viết, những công trình nghiên cứu về nghệ thuật tự sự
trong truyện ngắn Việt Nam sau 1975. Các công trình nghiên cứu tập trung đi sâu
vào những phương diện của nghệ thuật tự sự trong truyện ngắn Việt Nam đương đại
như cách xây dựng nhân vật, giọng điệu, điểm nhìn, ngôn ngữ, kết cấu và cốt
truyện, khoảnh khắc và tình huống, thời gian và không gian trần thuật… Tuy nhiên,
các công trình chủ yếu thiên về lí luận. Chúng tôi nhận thấy cần có công trình ứng
dụng lí thuyết tự sự để nghiên cứu về nhóm tác giả cùng thế hệ từ đó nhận diện
điểm chung trong cách viết của các nhà văn và điểm riêng trong phong cách của
từng tác giả; điểm riêng trong phong cách sáng tác của thế hệ “mở đường” so với
các thế hệ khác; nhìn ra diện mạo của giai đoạn văn học Việt Nam sau 1975. Như
vậy, công việc nghiên cứu của chúng tôi thiên về tìm hiểu thực tiễn sáng tác của

Nguyễn Minh Châu, Nguyễn Khải, Ma Văn Kháng. Vì thế, những ý kiến về nghệ
thuật tự sự và những dấu hiệu đổi mới của văn xuôi nói chung và truyện ngắn Việt


18
Nam sau 1975 nói riêng đều là những tư liệu tham khảo rất quan trọng để chúng tôi
thêm nỗ lực và tự tin với đề tài nghiên cứu của mình.
1.3. Những công trình nghiên cứu về nghệ thuật tự sự trong truyện ngắn sau 1975
của Nguyễn Minh Châu, Nguyễn Khải, Ma Văn Kháng
1.3.1. Những công trình nghiên cứu về nghệ thuật tự sự trong truyện ngắn sau 1975
của Nguyễn Minh Châu
Cuốn Phong cách nghệ thuật Nguyễn Minh Châu [110] của Tôn Phương Lan
đã tìm hiểu về quan niệm nghệ thuật của nhà văn và sự triển khai quan điểm ấy vào
văn bản tác phẩm (từ quan điểm thẩm mĩ trong mô tả hiện thực đến việc xây dựng
hình tượng nhân vật, từ việc tạo tình huống, điểm nhìn trần thuật đến ngôn ngữ,
giọng điệu, văn phong). Chương 3 “Tình huống và điểm nhìn trần thuật” đã chỉ ra
và xác định trần thuật khách thể và trần thuật theo ngôi thứ nhất. Tác giả cho rằng:
“Điểm nhìn trần thuật liên quan chặt chẽ đến chỗ đứng của nhà văn khi quan sát và
phản ánh hiện thực” [110, tr. 145]. Với lối trần thuật khách thể, giữa nhà văn và
nhân vật luôn tồn tại một khoảng cách: “Nhà văn như một “lữ khách” đứng nhìn
dòng đời trôi chảy và bằng sự quan sát tinh tế của mình đã phát hiện ra cái không
bình thường trong cái bình thường của cuộc sống và con người” [110, tr. 148]. Với
lối trần thuật theo NT1, chủ thể trần thuật được “nhân vật hóa”, “Nguyễn Minh
Châu thường chọn nhân vật là nhà văn, nhà báo, những người vừa có khả năng
quan sát, nhận diện con người qua hình thể, lại vừa có khả năng đi sâu vào tâm lý
và suy nghĩ của đối tượng” [110, tr. 145]. Tôn Phương Lan đã phân tích và mô tả
một số truyện ngắn đặc sắc của Nguyễn Minh Châu, từ đó, người viết đưa ra kết
luận: “Các điểm nhìn trần thuật này, một mặt vừa tạo nên chiều sâu cho bối cảnh,
cho nhân vật, mặt khác vừa góp phần quan trọng để hình thành giọng điệu” [110,
tr. 159]. Tác giả cũng tìm hiểu về giọng điệu trong sáng tác của Nguyễn Minh Châu

trong đối sánh với văn học trước 1975: trước 1975 là giọng điệu trang trọng, ngợi
ca; sau 1975 là giọng điệu trữ tình trầm lắng, đượm nhiều trắc ẩn; vào thập kỷ tám
mươi, hình thành giọng điệu thâm trầm, đau đáu. Những phát hiện ấy đã chứng tỏ
tác giả nhìn ra sự đổi mới, phong phú về giọng điệu trần thuật trong sáng tác
Nguyễn Minh Châu.


19
Cuốn Nguyễn Minh Châu và công cuộc đổi mới văn học Việt Nam sau 1975
[121] của Nguyễn Văn Long và Trịnh Thu Tuyết là một tài liệu tham khảo thiết
thực đối với chúng tôi. Các tác giả đã tìm hiểu quá trình vận động và đổi mới ý thức
nghệ thuật (trong quan niệm về nhà văn và văn học, về con người, về hiện thực);
đổi mới thế giới nhân vật (nhận diện các kiểu loại nhân vật, nghệ thuật xây dựng
nhân vật), đổi mới kết cấu và nghệ thuật trần thuật (kết cấu tác phẩm, điểm nhìn,
nhịp điệu và giọng điệu trần thuật). Lấy “khoảng cách” giữa tác giả và nhân vật làm
tiêu chí phân loại, các tác giả đã xác định hình thức trần thuật từ NT3 có khoảng
cách và trần thuật từ NT3 với sự hòa nhập song trùng chủ thể. Trần thuật từ NT1 có
thể thực hiện với vai trò người dẫn chuyện (thực chất là kiểu trần thuật từ NT3 mà
người dẫn chuyện được nhân vật hóa để thực hiện vai trò dẫn chuyện) hoặc thông
qua những nhân vật hướng nội (tự kể về mình). Từ kết quả nghiên cứu, các tác giả
đã đưa ra kết luận: “Từ cái TÔI trong dạng thái của cái TA cộng đồng tới cái TÔI
cá nhân đích thực, đại diện cho bản ngã, tự soi chiếu mình trong ánh sáng của chủ
nghĩa nhân văn chân chính, Nguyễn Minh Châu đã đem đến cho hình thức trần
thuật khá mới mẻ này những giá trị nghệ thuật to lớn, đóng góp vào công cuộc đổi
mới của văn học Việt Nam trong thập kỷ 80” [121, tr. 183].
Tương tự như vậy, luận án Tiến sĩ của Phạm Thị Thanh Nga với đề tài Lời văn
nghệ thuật trong sáng tác của Nguyễn Minh Châu [138] cũng đề cập đến vấn đề
điểm nhìn và giọng điệu trong mối quan hệ với lời trần thuật (lời NKC). Với mỗi
loại điểm nhìn, lời văn kể chuyện lại có đặc điểm riêng. Với điểm nhìn toàn tri, “lời
văn chịu sự chi phối của điểm nhìn và giọng điệu của NKC. Ngôn ngữ có tính chất

đơn giọng” [138, tr. 45]. Với điểm nhìn không biết hết, người đọc phải bám sát
“bản chất và đặc điểm của lời văn kể chuyện để phát hiện ra điểm nhìn trần thuật
và giọng điệu của NKC” [138, tr. 45]. Phần này, tác giả luận án tìm hiểu thông qua
một số tác phẩm cụ thể và khẳng định: “Trên dàn hợp âm nhiều màu sắc của giọng
điệu trần thuật: giọng ngợi ca, trang trọng; giọng hài hước, giễu nhại; giọng triết lý;
giọng xót xa, thương cảm; giọng cảm thông, chia sẻ… điều đáng chú ý là sự đan xen,
phối hợp nhiều giọng điệu được biểu hiện rõ ngay trong một sáng tác” [138, tr. 10].

×