Tải bản đầy đủ (.pdf) (18 trang)

Sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân và liên hệ với sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân việt nam hiện nay sinh viên cần làm gì để sau này thể hiện rõ vai trò của đội ngũ trí thức

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (244.55 KB, 18 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC ĐẠI NAM
KHOA TRUYỀN THÔNG

TIỂU LUẬN KẾT THÚC HỌC PHẦN
Môn: CHỦ NGHĨA XÃ HỘI KHOA HỌC

ĐỀ TÀI 1: Sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân và liên hệ với sứ mệnh lịch sử
của giai cấp công nhân Việt Nam hiện nay. Sinh viên cần làm gì để sau này thể
hiện rõ vai trò của đội ngũ trí thức trong liên minh Cơng – Nơng - Trí thức?

Giảng viên hướng dẫn

:Trần Lan Hương

Sinh viên thực hiện

: Bùi Dạ Minh Châu

Mã sinh viên

: 1456010003

Lớp

: PR14-01

Hà Nội, ngày 10 tháng 09 năm 2021.


MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU ……………….………….……………………………………….………… 01


CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ SỨ MỆNH CỦA GIAI CẤP CÔNG NHÂN ……… 02
1. Giai cấp công nhân ……………………………………………………………………… 02
2. Sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân ….………………………….…………………. 03
2.1. Bối cảnh lịch sử ….………………………….…………………………….…………. 03
2.2. Nội dung định sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân …….……………….………. 04
2.3. Điều kiện khách quan và nhân tố chủ quan quy định sứ mệnh lịch sử của giai cấp công
nhân ……………………………………………………………….…………….…………. 05
2.3.1. Điều kiện khách quan quy định sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân ….….….. 05
2.3.2. Nhân tố chủ quan để giai cấp cơng nhân hồn thành sứ mệnh lịch sử ……….…… 06
CHƯƠNG 2: SỨ MỆNH LỊCH SỬ CỦA GIAI CẤP CÔNG NHÂN VIỆT NAM HIỆN
NAY ………………………………………………….……………………………………. 08
1. Nguồn gốc ra đời của giai cấp công nhân Việt Nam …………………………………… 08
2. Đặc điểm của giai cấp công nhân Việt Nam …….……….….….……………….……… 09
3. Sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân Việt Nam trong các thời kỳ cách mạng ……… 09
4. Xu hướng biến đổi của giai cấp công nhân Việt Nam hiện nay ……….………….…… 10
CHƯƠNG 3: CHƯƠNG 3: MỘT SỐ GIẢI PHÁP CHO GIAI CẤP CÔNG NHÂN VÀ
NHỮNG ĐIỀU SINH VIÊN CẦN LÀM ĐỂ THỂ HIỆN RÕ VAI TRÒ CỦA ĐỘI NGŨ
TRÍ THỨC ………….…….….……………………………………………………………. 12
1. Một số giải pháp nhằm tăng cường sức mạnh của giai cấp công nhân Việt Nam trong giai
đoạn hiện nay ……………………………………………………………………………… 12
2. Sinh viên – đội ngũ trí thức và những nhiệm vụ ……….……….………………………. 14
KẾT LUẬN ………….………….…………………………………………………………. 16


2

LỜI MỞ ĐẦU

Cơng cuộc cơng nghiệp hố, hiện đại hố đang diễn ra trên toàn thế giới, chủ nghĩa xã
hội đang ở trong thời kỳ thoái trào. Thời đại ngày nay vẫn đang là thời đại quá độ từ chủ

nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội trên phạm vi tồn thế giới với nhiều biến động, tiêu cực...
Vì vậy vấn đề làm sáng tỏ sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân được đặt ra một cách bức
thiết hơn bao giờ hết, cả trên hai phương diện: lý luận và thực tiễn.
Sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân là một phạm trù cơ bản nhất của chủ nghĩa xã
hội khoa học, do đó nó đã được C.Mác - Ph.Ăngghen và Lênin nghiên cứu và phát triển hết
sức hồn thiện trong trong q trình phát triển của lịch sử thế giới. Xét trên phương diện lịch
sử, những nhận định và lý luận của các ông về giai cấp cơng nhân có tác dụng to lớn và đúng
đắn. Còn đối với Việt Nam, vấn đề trên được Đảng ta cực kỳ chú trọng. Vì thế, sứ mệnh lịch
sử của giai cấp công nhân không chỉ thể hiện rõ trong các văn kiện đại hội đại biểu toàn
quốc, mà đây còn là một trong những đề tài nghiên cứu khoa học của nhiều nhà lý luận, nhà
nghiên cứu lịch sử, và của nhiều thế hệ công nhân, sinh viên.
Sự tác động của sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân không chỉ ảnh hưởng tới sự
chuyển biến của lịch sử thế giới là thay đổi từ hình thái kinh tế này sang hình thái kinh tế
khác, thay đổi từ chế độ kinh tế này sang chế độ kinh tế khác... mà cịn làm thay đổi tình
hình kinh tế chính trị xã hội trên tồn thế giới, tác động tới quá trình sản xuất cụ thể, tới bộ
mặt phát triển của toàn thế giới.
Như vậy, vấn đề đặt ra là: Sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân là gì? Sứ mệnh
lịch sử của giai cấp cơng nhân Việt Nam hiện nay? Và sinh viên cần làm gì để sau này thể
hiện rõ vai trò của đội ngũ trí thức trong liên minh Cơng-Nơng-Trí thức?


2

CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ
SỨ MỆNH CỦA GIAI CẤP CƠNG NHÂN
1.

Giai cấp cơng nhân

Chính C.Mác và Ph.Ăngghen chỉ rõ: “Vấn đề là ở chỗ tìm hiểu xem giai cấp vơ sản

thực ra là gì và phù hợp với tồn tại ấy của bản thân nó, giai cấp vơ sản buộc phải làm gì về
mặt lịch sử”. Để chỉ giai cấp công nhân, các nhà kinh điển ấy đã dùng nhiều khái niệm như:
giai cấp vô sản, giai cấp xã hội, giai cấp cơng nhân... hồn tồn chỉ dựa vào việc bán sức lao
động của mình và lao động làm thuê ở thế kỷ XIX, giai cấp vô sản hiện đại, giai cấp công
nhân hiện đại, giai cấp công nhân đại công nghiệp như những cụm từ đồng nghĩa để biểu thị
một khái niệm.
Mặc dù các thuật ngữ trên có nhiều tên gọi khác nhau như thế nào đi nữa thì theo
C.Mác và Ph.Ăngghen chúng vẫn chỉ mang hai thuộc tính căn bản:
Thứ nhất, về phương thức lao động, phương thức sản xuất: Giai cấp công nhân là lao
động trực tiếp hay gián tiếp vận hành các công cụ sản xuất có tính chất cơng nghiệp ngày
càng hiện đại và xã hội hố cao.
Thứ hai, về vị trí trong quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa: Đó là những người lao
động khơng có tư liệu sản xuất, phải bán sức lao động cho nhà tưbản và bị nhà tư bản bóc lột
về giá trị thặng dư.
Trong hai tiêu trí này, C.Mác và Ph.Ăngghen tới tiêu chí một đó là công nhân công
xưởng, được coi là bộ phận tiêu biểu cho giai cấp công nhân hiện đại. Hai ông cho rằng:
“Các giai cấp khác đều suy tàn và tiêu vong cùng với sự phát triển của đại công nghiệp, cịn
giai cấp vơ sản lại là sản phẩm của nền đại công nghiệp”; “Công nhân cũng là một phát minh
của thời đại mới, giống như máy móc cũng vậy... Cơng nhân Anh là đứa con đầu lịng của
nền đại cơng nghiệp hiện đại”.
Với tiêu chí thứ hai, C.Mác và Ph.Ăngghen cũng đặc biệt nhấn mạnh vì chính điều
này khiến cho người công nhân trở thành giai cấp đối kháng với giai cấp tư sản: “Giai cấp tư
sản, tức là tư bản, mà lớn lên thì giai cấp vơ sản, giai cấp công nhân hiện đại – tức là giai cấp
chỉ có thể sống với điều kiện là kiếm được việc làm, và chỉ kiếm được việc làm, nếu lao
động của họ làm tăng thêm tư bản – cũng phát triển theo. Những cơng nhân ấy, buộc phải tự
bán mình để kiếm ăn từng bữa một, là một hàng hóa, tức là một món hàng đem bán như bất
cứ một món hàng nào khác, vì thế họ phải chịu hết sự may rủi của cạnh tranh, mọi sự lên
xuống của thị trường”. Tiêu chí này đã nói lên một trong những đặc trưng cơ bản nhất của



2

giai cấp công nhân dưới chế độ tư bản, do đó C.Mác và Ph.Ăngghen cịn gọi giai cấp cơng
nhân là giai cấp vô sản.
Sở dĩ C.Mác và Ph.Ăngghen đặc biệt nhấn mạnh hai tiêu chí trên như vậy là vì đây
chính là hai vị trí phân biệt giai cấp cơng nhân với các giai cấp khác trong xã hội. Họ phải
kiếm được việc làm và họ phải kiếm được việc làm khi họ bán được sức lao động.
Căn cứ vào hai tiêu chí cơ bản của giai cấp cơng nhân mà C.Mác và Ph.Ăngghen đã
nêu, có thể coi những người lao động trong các ngành sản xuất công nghiệp, dịch vụ cơng
nghiệp là cơng nhân, cịn những người làm cơng, ăn lương, phục vụ trong các ngành, nghề
khác như y tế, giáo dục, văn hóa, dịch vụ… Tức là những người không liên quan trực tiếp
đến sản xuất công nghiệp chỉ là những người lao động nói chung, được thu hút vào tổ chức
cơng đồn nghề nghiệp, nhưng khơng phải là công nhân.
Ngày nay, với sự phát triển của chủ nghĩa tư bản trong nửa sau của thế kỷ XX, bộ mặt
của giai cấp cơng nhân hiện đại có nhiều thay đổi khác trước. Từ dự kiến của C.Mác và
Ph.Ăngghen, giai cấp cơng nhân xét về diện mạo có nhiều biến đổi. Chính sự phát triển của
lực lượng sản xuất xã hội hiện nay đã vượt xa trình độ văn minh cơng nghiệp trước đây, sự
xã hội hố và phân công lao động xã hội mới, cơ cấu của giai cấp cơng nhân hiện đại; các
hình thức bóc lột giá trị thặng dư... đã làm cho diện mạo của giai cấp cơng nhân hiện đại
khơng cịn giống với những mơ tả của C.Mác trong thế kỷ XIX. Tuy thế nhưng giai cấp cơng
nhân hiện đại vẫn tồn tại, vẫn có sứ mệnh lịch sử của mình trong xã hội tư bản hiện đại;
những thuộc tính cơ bản của giai cấp cơng nhân mà C.Mác đã phát hiện ra vẫn cịn nguyên
giá trị, vẫn là cơ sở thế giới quan, phương pháp luận khoa học, cách mạng để chúng ta
nghiên cứu giai cấp công nhân hiện đại, làm sáng tỏ sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân
trong thời đại ngày nay.
Căn cứ hai tiêu chí cơ bản nói trên, chúng ta có thể quan niệm: Giai cấp cơng nhân là
một tập đồn xã hội ởn định, hình thành và phát triển cùng với q trình của nền cơng
nghiệp hiện đại, với nhịp độ phát triển của lực lượng sản xuất có tính chất xã hội hóa, trí tuệ
hóa ngày càng cao; là lực lượng sản xuất cơ bản tiên tiến, trực tiếp hoặc tham gia vào quá
trình sản xuất, tái sản xuất các tư liệu sản xuất hiện đại cũng như của cải vật chất và cải tạo

các quan hệ xã hội vì lợ ích của mình; là lực lượng chủ yếu xóa bỏ áp bức, bóc lột, bất
cơng; xây dựng chế độ xã hội mới tốt đẹp – xã hội xã hội chủ nghĩa.
2.

Sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân

2.1. Bối cảnh lịch sử
Trong chủ nghĩa tư bản, giai cấp công nhân gắn liền với lực lượng sản xuất tiên tiến
nhất cho nên họ là lực lượng quyết định phá vỡ quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa.


2

Sau khi giành được chính quyền, giai cấp cơng nhân đại biểu cho sự tiến hóa tất yếu
của lịch sử cho nên họ cũng chính là giai cấp duy nhất có khả năng lãnh đạo xã hội xây dựng
một phương thức sản xuất mới cao hơn phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa.
2.2. Nội dung định sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân
Lịch sử phát triển của thế giới chính là lịch sử phát triển của các hình thái kinh tế xã
hội từ thấp đến cao. Trong xã hội có giai cấp, để giải quyết mâu thuẫn giữa lực lượng sản
xuất phát triển đến trình độ xã hội hoá cao với quan hệ sản xuất cũ, giữa giai cấp thống trị
với giai cấp lao động phải phát triển từ hình thái kinh tế xã hội thấp đến cao.
Giai cấp cơng nhân là giai cấp có tinh thần cách mạng triệt để, có khả năng tổ chức và
lãnh đạo toàn thể nhân dân lao động tiến hành cuộc cải biến cách mạng từ hình thái kinh tế
xã hội tư bản sang hình thái kinh tế xã hội cộng sản chủ nghĩa, giải phóng nhân loại khỏi áp
bức, bất cơng và mọi hình thức bóc lột. Hay nói cách khác, nội dung tổng quát sứ mệnh lịch
sử của giai cấp cơng nhân là: xố bỏ chế độ tư bản chủ nghĩa xố bỏ chế độ người bóc lột
người, giải phóng giai cấp cơng nhân, nhân dân lao động và tồn thể nhân loại khỏi sự áp
bức bóc lột nghèo nàn, lạc hậu, xây dựng xã hội cộng sản chủ nghĩa văn minh.
Nội dung sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân được biểu hiện cụ thể như sau:
Trong lĩnh vực kinh tế: Giai cấp công nhân tiến hành xoá bỏ chế độ tư hữu tư nhân về

tư liệu sản xuất xây dựng chế độ công hữu tư liệu sản xuất nâng cao năng suất lao động thoả
mãn từng bước nhu cầu phát triển của nhân dân. Sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân
trong lĩnh vực này chỉ rõ mục tiêu cuối cùng của giai cấp công nhân, thoả mãn nhu cầu ngày
càng đầy đủ hơn: làm theo năng lực hưởng theo nhu cầu.
Trong lĩnh vực chính trị: Giai cấp công nhân phải trở thành giai cấp thống trị xã hội.
Đó là phải đập tan chính quyền tự sản; xây dựng chính quyền nhà nước (nền chuyên chính
vơ sản): thực chất là để đảm bảo quyền lực chính trị thuộc về nhân dân giữ vai trị quan
trọng là công cụ quan trọng xây dựng xã hội mới, là kiểu nhà nước: nhà nước của nhà nước
và nhà nước tự tiêu vong.
Trong lĩnh vực xã hội: Đó là phải xố bỏ giai cấp bóc lột; phải tiến hành xố bỏ giai
cấp nói chung, tạo ra sự bình đẳng trong quan hệ người với người. Ở đây xoá bỏ giai cấp bóc
lột với tư cách là giai cấp chứ khơng xáo bỏ các cá nhân vì họ có thể là những cá nhân có ích
cho xã hội mới.
Có thể nói nội dung của sứ mệnh lịch sử của giai cấp cơng nhân bao gồm bốn sự
nghiệp. Đó là sự nghiệp giải phóng giai cấp; sự nghiệp giải phóng xã hội, dân tộc; sự nghiệp
giải phóng người lao động; và sự nghiệp giải phóng con người. Đây chính là nấc thang phát
triển của các hình thái kinh tế xã hội. Vì vậy phải tiến hành dần dần qua hai giai đoạn, tránh
sự nơn nóng:


2

Giai đoạn thứ nhất: Giai cấp cơng nhân và chính đáng của mình tiến hành cuộc đấu
tranh giành chính quyền của giai cấp vô sản.
Giai đoạn thứ hai: Khi đã giành được chính quyền – thời kỳ quá độ xây dựng chủ
nghĩa xã hội Đảng cộng sản và giai cấp công nhân phải tiếp tục đấu tranh giai cấp trên tất cả
các lĩnh vực của đời sống xã hội , với mục đích là giữ vững chính quyền cách mạng xây
dựng và bảo vệ tổ quốc xã hội chủ nghĩa với đỉnh cao là chủ nghĩa cộng sản.
Cho dù hiện nay, với những cố gắng để thích nghi với tình hình mới chủ nghĩa tư bản
thế giới vẫn đang có những thành tựu phát triển nhưng vẫn không vượt ra khỏi những mâu

thuẫn cơ bản của nó, những mâu thuẫn này không dịu đi mà ngày càng phát triển gay gắt và
sâu sắc. Chủ nghĩa tư bản không phải là tương lai của loài người. Đặc điểm của thời đại
ngày nay là thời đại quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội trên phạm vi toàn thế
giới. Chừng nào cịn chủ nghĩa tư bản thì chừng đó cơng nhân cịn bị bóc lột và cịn có sự
phân hố giàu nghèo trong xã hội. Vì thế sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân vẫn không
hề thay đổi họ vẫn có nhiệm vụ xố bỏ chế độ bóc lột, xây dựng chế độ mới tiến bộ hơn.
Nói một cách khái quát, nội dung sứ mệnh lịch sử của giai cấp cơng nhân là: Xố bỏ
chế độ tư bản chủ nghĩa, xố bỏ chế độ người bóc lột người, giải phóng giai cấp cơng nhân,
nhân dân lao động và toàn thể nhân loại khỏi mọi sự áp bức, bóc lột, nghèo nàn lạc hậu, xây
dựng xã hội cộng sản chủ nghĩa văn minh.
Mục tiêu cụ thể thực hiện sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân: Để hồn thành sứ
mệnh lịch sử của mình, trước tiên giai cấp công nhân phải làm cuộc cách mạng xã hội, giành
lấy chính quyền về tay mình, thiết lập chun chính vơ sản, phải “tự vươn lên thành giai cấp
dân tộc, phải tự mình trở thành dân tộc”. “Phải nhận lấy sứ mệnh đại biểu cho tồn bộ lợi ích
của một dân tộc và do đó lãnh đạo dân tộc ấy về chính trị”.
Ph. Ăngghen viết: "Thực hiện sự nghiệp giải phóng thế giới ấy – đó là sứ mệnh lịch
sử của giai cấp vô sản hiện đại". VI. Lênin cũng chỉ rõ: "Điểm chủ yếu trong học thuyết của
Mác là ở chỗ nó làm sáng rõ vai trị lịch sử thế giới của giai cấp vô sản là người xây dựng xã
hội chủ nghĩa”.
2.3. Điều kiện khách quan và nhân tố chủ quan quy định sứ mệnh lịch sử của giai cấp
công nhân
2.3.1. Điều kiện khách quan quy định sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân
Học thuyết Mác - Lênin về sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân là sự luận chứng
khoa học, cách mạng về địa vị kinh tế - xã hội và vai trị lịch sử của giai cấp cơng nhân, về
những mục tiêu, con đường, lực lượng, phương thức để giai cấp cơng nhân hồn thành sứ
mệnh lịch sử của mình. Học thuyết Mác - Lênin chứng minh rằng, sứ mệnh của lịch sử giai
cấp công nhân được quy định bỏi những điều kiện kinh tế - xã hội mang tính tất yếu và
khách quan. Đó là “cùng với sự phát triển của đại cơng nghiệp, chính cái nền tảng trên đó



2

giai cấp tư sản đã sản xuất và chiếm hữu sản phẩm của nó, đã bị phá sập dưới chân giai cấp
tư sản. Trước hết, giai cấp tư sản sản sinh ra những người đạo huyệt chơn chính nó. Sự sụp
đổ của giai cấp tư sản và thắng lợi của giai cấp vô sản đều là tất yếu như nhau”.
Điều kiện khách quan quy định vai trò và sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân –
những người làm cuộc cách mạng xã hội để đánh đổ chủ nghĩa tư bản, xóa bỏ hình thái kinh
tế - xã hội dựa trên nền tảng chế độ tư hữu và xây dựng xã hội mới, lấy chế độ công hữu về
tư liệu sản xuất làm nền tảng, khơng có người áp bức, bóc lột người là do địa vị kinh tế - xã
hội của giai cấp công nhân. C.Mác và Ph.Ăngghen đã luận chứng một cách sâu sắc về hai
điều kiện khách quan quy định sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân:
Thứ nhất, địa vị kinh tế - xã hội khách quan của giai cấp công nhân quy định sứ mệnh
lịch sử của họ: Giai cấp công nhân là những người gắn chặt với lực lượng sản xuất tiên tiến
nhất và là người đại biểu cho phương thức sản xuất mới¸ họ là giai cấp duy nhất có khả năng
lãnh đạo xã hội xây dựng lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất mới trong sự kết hợp thống
nhất và phát triển mạnh mẽ. Điều kiện khách quan quy định sứ mệnh lịch sử của giai cấp
công nhân là người “đào huyệt” chôn chủ nghĩa tư bản, xây dựng chủ nghĩa cộng sản cịn do
chính những mâu thuẫn nội tại, vốn có trong lịng của chủ nghĩa tư bản tạo nên.
Thứ hai, địa vị chính trị - xã hội của giai cấp công nhân quy định sứ mệnh lịch sử của
họ: Giai cấp công nhân là con đẻ của nền sản xuất đại công nghiệp, được nền đại cơng
nghiệp rèn luyện về tính tự giác, tính kỷ luật, sự đoàn kết và tổ chức lại thành một lực lượng
xã hội hùng mạnh. Họ là giai cấp cách mạng triệt để nhất chống lại chế độ áp bức, bóc lột,
bất cơng; thực hiện giải phóng giai cấp và tồn xã hội khỏi chế độ tư bản chủ nghĩa, xây
dựng chế độ xã hội mới tốt đẹp hơn: xã hội cộng sản mà giai đoạn đầu là xã hội xã hội chủ
nghĩa. Trong cuộc đấu tranh ấy, họ chỉ mất xiềng xích và được cả thế giới về mình.
Do địa vị kinh tế - xã hội khách quan và địa vị chính trị - xã hội của giai cấp cơng
nhân quy định nên giai cấp công nhân trở thành giai cấp cách mạng triệt để nhất bởi sự giác
ngộ sâu sắc về địa vị lịch sử của mình, họ được lý luận của chủ nghĩa xã hội khoa học soi
sáng, dẫn đường; biến giai cấp công nhân từ giai cấp “tự nó” thành giai cấp “vì nó”. Sự phản
kháng quyết liệt và triệt để của giai cấp công nhân đối với giai cấp tư sản đã làm cho họ trở

thành giai cấp cách mạng triệt để để nhất ý chí và lực lượng kiên quyết chống lại chế độ áp
bức, bóc lột tư bản chủ nghĩa. Điều kiện sinh hoạt khách quan của họ quy định họ phải tự
giải phóng, tự cứu lấy mình bằng cách giải phóng tồn xã hội khỏi chế độ áp bức, bóc lột,
bất cơng tư bản chủ nghĩa.
2.3.2. Nhân tố chủ quan để giai cấp cơng nhân hồn thành sứ mệnh lịch sử
Nhân tố chủ quan có vai trị đặc biệt quan trọng trong thực hiện sứ mệnh lịch sử của
giai cấp công nhân, trước hết là bản thân giai cấp công nhân phải phát triển về số lượng, chất
lượng và sự phù hợp về cơ cấu; phải có bước chuyển mình từ tự phát sang tự giác. Cùng với


2

đó, Đảng Cộng sản - Đội tiền phong của giai cấp công nhân phải xuất hiện và thực hiện tốt
vai trò lãnh đạo các tầng lớp nhân dân đấu tranh xóa bỏ chế độ áp bức, bóc lột, bất cơng; xây
dựng chế độ xã hội mới tốt đẹp - xã hội cộng sản chủ nghĩa.
Sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân xuất hiện một cách khách quan; song, để biến
khả năng khách quan thành hiện thực thì phải thông qua những nhân tố chủ quan. Trong các
nhân tố chủ quan thì bản thân giai cấp cơng nhân phải phát triển về số lượng, chất lượng; đặc
biệt là sự ra đời của Đảng Cộng sản, đại diện trung thành với sự nghiệp cách mạng, với lợi
ích của giai cấp cơng nhân và quần chúng nhân dân có ý nghĩa quyết định bảo đảm cho giai
cấp cơng nhân hồn thành sứ mệnh lịch sử của mình.
Đảng Cộng sản là sản phẩm của sự kết hợp chủ nghĩa Mác - Lênin với phong trào
công nhân trong cuộc đấu tranh thực hiện sứ mệnh lịch sử của mình. Vì vậy, để làm trịn sứ
mệnh lịch sử ấy, giai cấp cơng nhân phải tự xây dựng thành chính đảng, phải có chiến lược,
sách lược và phương pháp cách mạng đúng đắn, sáng tạo, phù hợp với điều kiện hồn cảnh
cụ thể, phải lơi cuốn, tập hợp được đông đảo quần chúng nhân dân đi theo Đảng để làm cách
mạng. Chỉ có Đảng Cộng sản lãnh đạo, giai cấp công nhân mới chuyền từ đấu tranh tự phát
sang đấu tranh tự giác, độc lập về mặt chính trị. C.Mác đã nhấn mạnh rằng, chỉ khi nào giai
cấp vơ sản tự mình tổ chức thành một chính đảng độc lập của mình, thì mới có thể hành
động với tư cách là một giai cấp được. Vì vậy, bản thân giai cấp cơng nhân và mỗi người

công nhân cần phải vươn lên, trưởng thành về các mặt: tư tưởng, chính trị, lập trường giai
cấp, văn hóa, khoa học, công nghệ, tay nghề… Các tổ chức nghiệp đồn, cơng đồn, thường
xun phải phát triển vững mạnh… ngay trong q trình phát triển sản xuất cơng nghiệp
hiện đại... Nói một cách khác, về mặt chủ quan, điều kiện có ý nghĩa quyết định đối với việc
hồn thành sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân là phải có một chính đảng vững mạnh
của giai cấp cơng nhân, nắm vững chủ nghĩa Mác - Lênin; có đường lối chiến lược, sách
lược đúng đắn; quan hệ mật thiết với quần chúng; có khả năng tập hợp đồn kết rộng rãi các
giai cấp và tầng lớp nhân dân và toàn dân tộc.
Cùng với đó là trình độ tự giác, sự nhận thức về ý thức, trách nhiệm của giai cấp công
nhân, cũng như việc tiếp thu, vận dụng lý luận khoa học, cách mạng của chủ nghĩa Mác Lênin vào thực tiễn đấu tranh cách mạng thì lúc ấy, phong trào cách mạng mới thật sự là một
phong trào chính trị. Trình độ lý luận cho phép giai cấp cơng nhân nhận thức đầy đủ, sâu sắc
vị trí, vai trị của mình trong xã hội, nguồn gốc tạo nên sức mạnh, biết tạo nên sức mạnh đó
bằng sự đồn kết với các giai cấp, tầng lớp trong xã hội, nhận rõ mục tiêu, con đường và
những biện pháp đấu tranh tự giải phóng giai cấp mình, giải phóng cả xã hội và giải phóng
nhân loại.
Theo V.I.Lênin, nhân tố chủ quan của con người là nhân tố quyết định trực tiếp; bởi
lẽ, lịch sử là do con người làm ra. Khi quan hệ sản xuất khơng cịn phù hợp với trình độ phát
triển của lực lượng sản xuất thì nó nhất định sẽ bị phá vỡ. Nhưng quan hệ sản xuất bị phá vỡ


2

lúc nào thì điều đó tùy thuộc vào một loạt nhân tố về kinh tế, xã hội và chính trị, trong đó
đóng vai trị quyết định chính là hoạt động chủ quan của giai cấp đại biểu cho lực lượng sản
xuất mới là của giai cấp công nhân. Thế nhưng hoạt động chủ quan này lại trực tiếp phụ
thuộc vào nhiều điều kiện khác. Cách mạng Tháng Mười Nga nổ ra năm 1917 vì lúc đó nước
Nga là khâu yếu nhất trong sợi dây chuyền của chủ nghĩa đế quốc, nơi tập trung tất cả những
mâu thuẫn của chủ nghĩa đế quốc, nơi hội tụ đủ những điều kiện của tình thế cách mạng.

CHƯƠNG 2: SỨ MỆNH LỊCH SỬ CỦA GIAI CẤP CÔNG NHÂN

VIỆT NAM HIỆN NAY
1.

Nguồn gốc ra đời của giai cấp công nhân Việt Nam

Trước thế kỉ XV, Việt Nam chưa có những điều kiện thuận lợi cho sự phát triển cơng,
thương nghiệp và kinh tế hàng hố, nhưng đã có tầng lớp thợ thủ cơng. Sang thế kỉ XV, XVI
đội ngũ “Những người lao động làm thuê” đã xuất hiện. Đầu thế kỉ XIX, ngành khai mô phát
triển và hàng ngàn “thợ mỏ làm việc trong các mỏ khai thác than, thiếc. Nhưng đó chưa phải
là cơng nhân hiện đại, sản xuất trong dây chuyền công nghiệp. Đội ngũ cơng nhân Việt Nam
xuất hiện khi có cuộc khai thác thuộc địa lần thứ I (từ năm 1897 đến năm 1914) của thực dân
Pháp. Khu công nghiệp tập trung ở Hà Nội, Sài Gòn, Hải Phòng, Nam Định, Vinh - Bến
Thủy, Hịn Gai đã làm cho số cơng nhân tăng nhanh... Số lượng công nhân năm 1906 là
49.500 người trong đó có 1.800 thợ chun mơn.
Nhiều xí nghiệp tập trung đông công nhân, tổng số công nhân Việt Nam tính đến
trước chiến tranh thế giới lần thứ I có khoảng 10 vạn người. Sau khi chiến tranh thế giới lần
thứ I kết thúc, thực dân Pháp tiến hành cuộc khai thác thuộc địa lần thứ II (1919-1929) nhằm
tăng cường vơ vét, bóc lột nhân dân thuộc địa để bù đắp những tồn thất trong chiến tranh.
Dẫn tới sự ra đời tất yếu khách quan của phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa ở Việt Nam.
Và đó cũng là điều kiện cơ bản làm xuất hiện một giai cấp mới – giai cấp công nhân Việt
Nam. Đa số cơng nhân nước ta có nguồn gốc xuất thân từ nông dân. Từ khi chủ nghĩa Mác Lênin được truyền bá vào Việt Nam, số lượng các cuộc bãi công ngày một tăng và quan
trọng hơn là bãi cơng có tính chất chính trị, có tổ chức lãnh đạo. Sự phát triển mạnh mẽ của
phong trào công nhân và phong trào yêu nước từ năm 1925 đến 1929 là một điều kiện quyết
định sự ra đời các tổ chức Cộng sản và Công hội Đỏ ở Việt Nam, đặc biệt là sự ra đời của
Đảng Cộng sản Việt Nam vào đầu năm 1930.
2.

Đặc điểm của giai cấp công nhân Việt Nam



2

Cùng với chính sách khai thác thuộc địa ở Việt Nam để làm lợi cho chính quốc của
thực dân Pháp, giai cấp công nhân Việt Nam đã ra đời và có ba đặc điểm sau đây:
Thứ nhất, đặc điểm ra đời và phát triển: Giai cấp công nhân Việt Nam ra đời rất sớm,
từ đầu thế kỷ XX, trước cả sự ra đời của giai cấp tư sản Việt Nam và là giai cấp trực tiếp đối
kháng với tư bản thực dân Pháp và bè lũ tay sai của chúng. Vì thế, giai cấp cơng nhân Việt
Nam phát triển chậm vì sinh ra và lớn lên ở một nước thuộc địa nửa phong kiến, dưới sự
thống trị của quân xâm lược Pháp vì lợi nhuận nên thực dân Pháp khơng quan tâm nhiều đến
việc phát triển công nghiệp ở nước thuộc địa như Việt Nam.
Thứ hai, đặc điểm ưu trội về chính trị: Tuy số lượng giai cấp cơng nhân Việt Nam ít,
trình độ nghề nghiệp thấp, cịn mang nhiều tàn dư của tâm lý tiểu nông và tập quán của nông
dân, nhưng giai cấp công nhân Việt Nam đã nhanh chóng vươn lên đảm đương vai trị lãnh
đạo cách mạnh ở nước ta và thực hiện sứ mệnh lịch sử của mình: lãnh đạo các tầng lớp nhân
dân Việt Nam làm nên Cách mạng Tháng Tám (1945), đánh thắng thực dân Pháp và đế quốc
Mỹ xâm lược; thực hiện công cuộc đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội
chủ nghĩa thành công.
Thứ ba, đặc điểm gắn bó mật thiết với các tầng lớp trong xã hội: Giai cấp công nhân
Việt Nam sinh ra trong lịng một dân tộc có truyền thống u nước nồng nàn, ý chí căm thù
giặc sâu sắc, ln kiên quyết, kiên trì đấu tranh chống ngoại xâm. Ở giai cấp cơng nhân, nỗi
nhục mất nước cộng với nỗi khổ vì ách áp bức, bóc lột của giai cấp tư sản, đế quốc làm cho
lợi ích giai cấp và lợi ích dân tộc kết hợp làm một, khiến động cơ, nghị lực cách mạng và
tính triệt để cách mạng của giai cấp công nhân được nhân lên gấp bội.
3.

Sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân Việt Nam trong các thời kỳ cách mạng

Giai cấp cơng nhân Việt Nam có vai trò đặc biệt quan trọng trong sự nghiệp cách
mạng của nhân dân Việt Nam, nhất là trong thực hiện mục tiêu độc lập dân tộc gắn liền với
chủ nghĩa xã hội. Ngay sau khi ra đời, vai trò và sứ mệnh của giai cấp công nhân Việt Nam

trước hết là lãnh đạo nhân dân làm cuộc cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân thông qua đội
tiên phong của mình là Đảng Cộng sản Việt Nam, giành chính quyền trong Cách mạng
Tháng Tám năm 1945, thiết lập nền chuyên chính dân chủ nhân dân, thiết lập nên Nhà nước
Việt Nam dân chủ cộng hòa – Nhà nước dân chủ đầu tiên ở Đơng Nam Á. Điều đó có nghĩa
là giai cấp công nhân Việt Nam đã thực hiện tốt lời căn dặn của C.Mác và Ph.Ăngghen: giai
cấp công nhân “phải tự vươn lên thành giai cấp dân tộc, phải tự mình trở thành dân tộc”.
Trong các thời kỳ khác nhau của cách mạng, sứ mệnh lịch sử của giai cấp cơng nhân
Việt Nam có mục tiêu, nhiệm vụ khác nhau:
Thời kỳ trước cách mạng Tháng Tám (1945): Giai cấp công nhân Việt Nam ra đời và
từng bước trưởng thành trong khơng khí sơi sục của phong trào u nước và các cuộc khởi
nghĩa chống thực dân Pháp xâm lược, liên tục nổ ra; từ phong trào Cần Vương và cuộc khởi


2

nghĩa của Phan Đình Phùng, của Hồng Hoa Thám, các cuộc vận động yêu nước của Phan
Bội Châu, Phan Chu Trinh, Nguyễn Thái Học; cũng như các cuộc đấu tranh chống bọn tư
bản, thực dân, đế quốc.
Thời kỳ sau Cách mạng Tháng Tám (1945): Sau khi Cách mạng Tháng Tám năm
1945 thành công, giai cấp công nhân Việt Nam bắt đầu chuyển sang giai đoạn cách mạnh xã
hội chủ nghĩa. Thế nhưng, thực dân Pháp đã quay lại xâm lược nước ta lần thứ hai và sau đó,
thay thế thực dân Pháp là đế quốc Mỹ xâm lược. Dưới sự lãnh đạo của Đảng - đội tiền phong
của giai cấp công nhân Việt Nam, nhân dân ta đã kiên quyết, kiên trì, bền bỉ đấu tranh chống
quân xâm lược suốt 30 năm (1946- 1975), thực hiện điều mong muốn của Chủ tịch Hồ Chí
Minh “đánh cho Mỹ cút, đánh cho ngụy nhào”, thực hiện thống nhất đất nước.
Thời kỳ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa: Từ năm 1975 đến nay, giai cấp
công nhân Việt Nam từng bước lãnh đạo nhân dân lao động hàn gắn chiến tranh, tiến hành
công cuộc đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa; đã giành những
thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử. Trong giai đoạn mới, giai cấp công nhân Việt Nam có
vai trị rất quan trọng trong “đẩy mạnh cơ cấu lại doanh nghiệp nhà nước theo hướng: doanh

nghiệp nhà nước tập trung vào những lĩnh vực then chốt, thiết yếu; những địa bàn quan trọng
và quốc phòng, an ninh; những lĩnh vực mà doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế khác
không đầu tư” phấn đấu để nước ta sớm trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện
đại.
4.

Xu hướng biến đổi của giai cấp công nhân Việt Nam hiện nay

Từ khi trở thành giai cấp cầm quyền, giai cấp công nhân Việt Nam luôn phát huy bản
chất cách mạng trong xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, luôn là lực lượng chủ đạo, đi đầu và lãnh
đạo sự nghiệp đổi mới. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng Cộng Sản Việt Nam
(2001) chỉ rõ: Thế kỷ XXI sẽ có những biến đổi, khoa học và cơng nghệ có bước tiến nhảy
vọt, kinh tế tri thức có vai trị ngày càng nổi bật. Về kinh tế “từng bước phát triển kinh tế tri
thức”… về xã hội phải thực hiện “trí thức hóa cơng nhân”. Vì vậy, đội ngũ công nhân Việt
Nam phải “phát triển về số lượng, chất lượng và tổ chức nâng cao giác ngộ và bản lĩnh
chính trị, trình độ học vấn và tay nghề, xứng đáng là lực lượng đi đầu trong sự nghiệp cơng
nghiệp hố, hiện đại hóa đất”. Đại hội XI của Đảng tiếp tục khẳng định: “Quan tâm giáo
dục, đào tạo, bồi dưỡng, phát triển giai cấp công nhân cả về số lượng và chất lượng; nâng
cao bản lĩnh chính trị, trình độ học vấn, chun mơn, kỹ năng nghề nghiệp, tác phong công
nghiệp, kỷ luật lao động, đáp ứng u cầu của sự nghiệp cơng nghiệp hố, hiện đại hố và
hội nhập quốc tế. Phát huy vai trị của giai cấp công nhân là giai cấp lãnh đạo cách mạng,
thông qua đội tiên phong là Đảng Cộng Sản Việt Nam”.
Gần 30 năm đổi mới, giai cấp công nhân nước ta đã có những chuyển biến quan
trọng, đang tiếp tục phát huy vai trò là giai cấp lãnh đạo cách mạng mà đội tiền phong là
Đảng Cộng sản Việt Nam, giai cấp tiên phong trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội,


2

lực lượng đi đầu trong sự nghiệp cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và hội nhập kinh tế

quốc tế, lực lượng nòng cốt trong liên minh giai cấp cơng nhân với giai cấp nơng dân và đội
ngũ trí thức dưới sự lãnh đạo của Đảng; đóng góp trực tiếp to lớn vào sự phát triển của đất
nước.
Do thực hiện cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa trong điều kiện cơ chế thị trường, sẽ có
một số ngành nghề mới xuất hiện và đương nhiên cũng có nghề biến mất. Tình hình này dẫn
đến xu hướng biến đổi của giai cấp công nhân nước ta hiện nay như sau:
Thứ nhất, xu hướng tăng nhanh về số lượng đội ngũ giai cấp công nhân trong các
thành phần kinh tế, nhất là thành phần kinh tế có vốn đầu tư nước ngồi. Sự nghiệp đổi mới,
cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước mà trọng tâm trong những năm đầu thế kỷ XXI là
cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa nơng nghiệp, nơng thơn, cơ cấu nền kinh tế có sự chuyển dịch
sâu sắc. Xu hướng giảm dần tỷ trọng nông nghiệp, tăng dần tỷ trọng công nghiệp và dịch vụ
sẽ là cơ hội cho các ngành công nghiệp mới ra đời, tạo điều kiện cho việc phát triển mạnh
mẽ giai cấp công nhân nước ta. Cụ thể, đội ngũ công nhân trong những ngành đang phát
triển, các ngành mũi nhọn: chế biến, dầu khí, tin học, điện tử, bưu chính viễn thơng, hàng
không và các ngành dịch vụ khác ngày càng tăng lên, khẳng định vị trí quan trọng trong nền
kinh
tế
của
nước
ta.
Thứ hai, chất lượng đội ngũ công nhân trong tất cả các thành phần kinh tế, đặc biệt là
trong thành phần kinh tế vốn đầu tư nước ngoài tăng lên rõ rệt. Với sự phát triển mạnh mẽ
của khoa học và công nghệ, nhất là các lĩnh vực điện tử tin học; một mặt đã tri thức hóa đời
sống xã hội, mặt khác thực tế đó đã đặt ra yêu cầu cho đội ngũ công nhân phải không ngừng
vươn lên để đáp ứng yêu cầu của chính cuộc cách mạng khoa học - công nghệ. Do vậy, chất
lượng của giai cấp công nhân ngầy càng được nâng lên cả về trình độ học vấn, chun mơn
tay nghề và trình độ giác ngộ mục tiêu, lý tưởng cách mạng. Ở nước ta, cùng với q trình
đẩy mạnh cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa, Đảng ta đã bắt đầu chú ý đế “trí
Thứ ba, giai cấp cơng nhân Việt Nam ngày càng mang tính quốc tế và tính hiện đại.
Giai cấp cơng nhân Việt Nam xuất thân từ tầng lớp nông dân và các tầng lớp dân cư khác

trong xã hội; là sản phẩm của chính sách khai thác thuộc địa của thực dân Pháp, những phẩm
chất cách mạng triệt để, gắn bó máu thịt với nơng dân thì khơng nghi ngờ. Song, những
phẩm chất như tính tổ chức, tính kỷ luật, khả năng thích ứng với sự thay đổi nhanh chóng
của khoa học cơng nghệ cao, của cơ chế thị thị trường thì ở giai cấp cơng nhân Việt Nam
cịn là vấn đề thách thức. Điều này chỉ có thể khắc phục được khi nước ta trở thành nước
công nghiệp phát triển. Cùng với q trình hội nhập, giai cấp cơng nhân nước ta có cơ hội
giao lưu, bắt nhịp với các hoạt động, quá trình đổi mới và phát triển của giai cấp cơng nhân
thế giới. Ngồi việc tiếp thu những tiến bộ khoa học, công nghệ, giai cấp công nhân nước ta
cũng đồng thời tiếp thu những phẩm chất tốt đẹp của giai cấp công nhân hiện đại như tác
phong công nghiệp, tính tổ chức, tính kỷ luật, phong cách lao động khẩn trương, khoa học và


2

năng

động

của

người

cơng

nhân

hiện

đại.


CHƯƠNG 3: MỘT SỐ GIẢI PHÁP CHO GIAI CẤP CƠNG NHÂN
VÀ NHỮNG ĐIỀU SINH VIÊN CẦN LÀM ĐỂ THỂ HIỆN RÕ
VAI TRỊ CỦA ĐỘI NGŨ TRÍ THỨC
1.
Một số giải pháp nhằm tăng cường sức mạnh của giai cấp công nhân Việt Nam
trong giai đoạn hiện nay
Một là, nâng cao chất lượng công tác đào tạo và đào tạo lại đội ngũ công nhân. Giai
cấp công nhân Việt am luôn giữ vững và phát huy bản chất cách mạng, truyền thống u
nước, lao động cần cù, tính tiên phong và có khả năng sáng tạo trong lao động, sản xuất và
trong các hoạt động của đời sống xã hội. Hàng vạn cán bộ khoa học - kỹ thuật, công nhân
bậc cao, thợ giỏi đã thích ứng với cơ chế thị trường, tiếp cận nhanh với khoa học, công nghệ
tiên tiến, hiện đại, có nhiều sáng chế, giải pháp hữu ích, có giá trị cao được áp dụng vào sản
xuất và công tác.
Tuy nhiên, trình độ học vấn, chun mơn, nghề nghiệp của đội ngũ cơng nhân Việt
Nam hiện nay nhìn chung còn thấp, chưa đáp ứng được yêu cầu của sự nghiệp cơng nghiệp
hóa,hiện đại hóa và q trình hội nhập kinh tế quốc tế. Tình trạng thiếu nhiều chuyên gia kỹ
thuật, cán bộ quản lý giỏi và cơng nhân có trình độ lành nghề cao, thừa lao động giản đơn
đang diễn ra phổ biến ở tất cả các ngành và các thành phần kinh tế. Đặc biệt, trong xu thế hội
nhập kinh tế quốc tế, các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài ngày càng chiếm tỷ lệ lớn,
sức cạnh tranh ngày càng gay gắt; nếu như giai cấp cơng nhân khơng ngừng nâng cao trình
độ học vấn, tay nghề thì khó có thể hy vọng kiếm được việc làm và có thu nhập, hoặc khơng
sẽ bị đào thải. Thực trạng trên đặt ra yêu cầu khách quan và nhiệm vụ cấp bách phải đẩy
mạnh công tác đào tạo và đào tạo lại đội ngũ cơng nhân, có như vậy mới đủ sức cạnh tranh
việc làm khi ASEA đã chính thức hình thành, khi hiệp ước đối tác kinh tế chiến lược xuyên
Thái Bình Dương (TPP) đã được ký kết. Để đạt được mục tiêu đặt ra, công tác đào tạo, đào
tạo lại đội ngũ công nhân phải đảm bảo các yêu cầu:
- Tăng cường đầu tư các nguồn lực để đào tạo, đào tạo lại đội ngũ công nhân đảm bảo
đủ về số lượng, đáp ứng về chất lượng, đồng bộ về cơ cấu, có trình độ chun môn nghiệp
vụ, tay nghề giỏi, sáng tạo trong lao động, sản xuất, có đủ khả năng làm chủ được cơng nghệ
tiên tiến và thích ứng nhanh với sự năng động của cơ chế thị trường.



2

- Tăng cường quản lý nhà nước, đầu tư cơ sở vật chất, kinh phí cho cơng tác đào tạo
nghề. Tiến hành quy hoạch mạng lưới các trường, các cơ sở dạy nghề, xây dựng trường
chuẩn, chương trình chuẩn để đào tạo cơng nhân có trình độ cao cho một số ngành kinh tế
mũi nhọn như: chế biến, dầu khí, tin học, điện tử, bưu chính viễn thơng, hàng khơng và các
ngành dịch vụ khác.
- Chú trọng gắn kết giữa đào tạo và sử dụng, nhằm đáp ứng yêu cầu nguồn lao động,
đảm bảo chất lượng cho phát triển kinh tế và hạn chế những lãng phí ngay trong cơng tác
đào tạo.
- Xây dựng chính sách khuyến khích, tạo điều kiện cho cơng nhân tự học tập nâng
caotrình độ học vấn, chun mơn, nghiệp vụ, ngoại ngữ và chính sách đãi ngộ hấp dẫn đối
với cơng nhân có sáng kiến hay, có kinh nghiệm tốt, nhằm khích lệ đội ngũ cơng nhân phát
huy tài năng, trí tuệ trong sản xuất, kinh doanh.
Hai là, đổi mới hoạt động của tổ chức cơng đồn doanh nghiệp nhằm bảo vệ lợi ích
của người lao động, nhất là doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, hoặc người nước ngoài
làm chủ doanh nghiệp. Với chủ trương phát triển nền kinh tế nhiều thành phần, đã tạo điều
kiện cho nền kinh tế phát triển và lượng công nhân ngày càng tăng lên. Đặc biệt là số lượng
cơng nhân trong thành phần kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài cũng tăng lên một cách rõ rệt
bởi mức lương ở khu vực kinh tế này cao hơn, lợi ích hấp dẫn thu hút được cơng nhân gắn
bó với nghề nghiệp. Tuy nhiên, hiện nay một bộ phận cơng nhân vẫn chưa có việc làm ổn
định, nhiều doanh nghiệp vẫn cịn xảy ra tình trạng kéo dài thời gian lao động, điều kiện làm
việc và điều kiện sống của người công nhân nhân chưa đảm bảo, tiền lương chưa đáp ứng
được các nhu cầu tối thiểu… Với tư cách là tổ chức bảo vệ quyền lợi của người cơng nhân,
tổ chức cơng đồn doanh nghiệp phải khơng ngừng đổi mới mạnh mẽ tổ chức và hoạt động
để làm tốt hơn nữa vai trị, trách nhiệm của mình đối với quyền lợi, lợi ích của giai cấp cơng
nhân.
- Trước hết, cơng đồn doanh nghiệp phải ln hướng về cơ sở, lấy cơ sở làm địa bàn

công tác chủ yếu; lấy công nhân, viên chức, lao động làm đối tượng vận động, tập hợp; lấy
chăm lo bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp, chính đáng của cơng nhân, viên chức lao động thúc
đẩy phát triển kinh tế, xã hội làm mục tiêu hoạt động.
- Đa dạng hóa các hình thức vận động, tập hợp quần chúng, để thu hút, động viên
được ngày càng đông đảo công nhân trong các thành phần kinh tế vào cơng đồn và tự giác
tham gia hoạt động cơng đồn.
- Đẩy mạnh đào tạo, bồi dưỡng nâng cao trình độ chun mơn, nghiệp vụ, kỹ năng
hoạt động cho cán bộ cơng đồn, xây dựng đội ngũ cán bộ cơng đồn có năng lực, trình độ,
có phẩm chất, đạo đức và bản lĩnh, nhiệt tình và tâm huyết với hoạt động cơng đồn, nhằm


2

nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động, góp phần xây dựng giai cấp công nhân Việt Nam
vững mạnh, đủ sức thực hiện thắng lợi sứ mệnh lịch sử của mình trong giai đoạn mới.
Ba là, tăng cường giáo dục công nhân ý thức tự lực tự cường, giúp nhau trong cuộc
sống đời thường cũng như trong quá trình làm chủ khoa học công nghệ. Cùng với nhiệm vụ
giáo dục nâng cao trình độ chun mơn nghiệp vụ, tay nghề cho giai cấp công nhân. Việc
giáo dục, rèn luyện, xây dựng cho giai cấp công nhân ý thức công dân, lòng yêu nước, yêu
chủ nghĩa xã hội, tin tưởng vào sự lãnh đạo của Đảng, nâng cao bản lĩnh chính trị, tinh thần
cảnh giác cách mạng, nhận rõ đối tượng, đối tác để một mặt kiên quyết đấu tranh làm thất
bại mọi âm mưu “diễn biến hồ bình” của các thế lực thù địch; mặt khác, tăng cường hợp tác
với bạn bè nhằm thực hiện thành công sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập
kinh tế quốc tế là một trong những nhiệm vụ hết sức quan trọng.
Ngồi ra, cũng cần phải xây dựng cho cơng nhân lối sống văn hố, có tác phong cơng
nghiệp và kỷ luật lao động; có lương tâm nghề nghiệp, có ý chí vươn lên, thốt khỏi nghèo
nàn, lạc hậu, có quyết tâm chiến thắng trong cạnh tranh, làm giàu cho bản thân, gia đình và
xã hội, góp phần xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc xã hội chủ nghĩa.
2.


Sinh viên – đội ngũ trí thức và những nhiệm vụ

Những năm qua, Đảng Cộng sản Việt Nam đã luôn nhấn mạnh: “Trí thức Việt Nam
là lực lượng lao động sáng tạo đặc biệt quan trọng trong tiến trình đẩy mạnh cơng nghiệp
hóa, hiện đại hóa đất nước và hội nhập quốc tế, xây dựng kinh tế tri thức, phát triển nền văn
hóa Việt Nam tiên tiến đậm đà bản sắc. Xây dựng đội ngũ trí thức vững mạnh là trực tiếp
nâng tầm trí tuệ của dân tộc, sức mạnh của đất nước, nâng cao năng lực lãnh đạo của Đảng
và chất lượng hoạt động của hệ thống chính trị. Đầu tư xây dựng đội ngũ trí thức là đầu tư
cho phát triển bền vững”.
Một, nâng cao dân trí và giáo dục. Xã hội phát triển càng đòi hỏi mặt bằng dân trí
cao để có thể tiếp cận được những dịch vụ mà xã hội cung cấp, đồng thời giúp cho người
dân dễ dàng hơn trong việc thích ứng với những yêu cầu của thị trường lao động trong xã
hội công nghiệp hóa - hiện đại hóa. Trí thức chính là lực lượng nòng cốt trong việc truyền bá
tri thức, nâng cao trình độ dân trí, nâng cao nhận thức của xã hội, thúc đẩy tiến bộ xã hội.
Đây được xem là nhiệm vụ thường xuyên, lâu dài gắn với thiên chức của đội ngũ trí thức.
Đội ngũ trí thức thơng qua nhiều cách khác nhau để trao truyền tri thức đến các thành viên
của xã hội. Quá trình truyền bá tri thức có sứ mệnh kép: một mặt, phổ biến tri thức nhằm
nâng cao dân trí; mặt khác, cung cấp nguồn dữ liệu bồi dưỡng các phẩm chất của con người,
tạo ra những thế hệ cơng dân thích ứng được với môi trường xã hội trong bối cảnh hiện nay.
Hai, sáng tạo khoa học - công nghệ. Việt Nam là nước đang phát triển, có nền khoa
học - cơng nghệ đi sau thế giới, vì vậy, đội ngũ trí thức Việt Nam trước hết phải đóng vai trị
nịng cốt trong tiếp thu, làm chủ khoa học và công nghệ trên thế giới. Q trình tồn cầu hóa,


2

hội nhập quốc tế, hoạt động hợp tác trong nghiên cứu, chuyển giao khoa học - công nghệ
cũng diễn ra mạnh mẽ. Quá trình này là cơ hội để đội ngũ trí thức Việt Nam trưởng thành,
phát triển và thể hiện vai trị của mình. Những cơng nghệ cốt lõi của Cách mạng công nghiệp
lần thứ tư mà đội ngũ trí thức Việt Nam cần tiếp thu, làm chủ, bao gồm: robot tự hành; dữ

liệu lớn (big data) và các thuật tốn để phân tích, sử dụng chúng; thực tế ảo; in 3D; điện toán
đám mây; internet kết nối vạn vật (IoT); công nghệ sinh học; công nghệ vật liệu mới.
Ba, xây dựng và phát triển văn hóa Việt Nam. Đây là một nhiệm vụ có tầm quan
trọng đặc biệt đối với sự nghiệp cách mạng của nước ta. Bởi vì, văn hóa là nền tảng tinh thần
của xã hội. Khơng có một nền văn hóa phù hợp với xã hội hiện đại, con người dễ bị tha hóa,
trở thành “máy móc” biết nói. Văn hóa giữ vai trị quan trọng bồi đắp con người Việt Nam
về nhân cách, tâm hồn và trí tuệ, nhờ đó, con người dễ thích ứng với những tác động từ cơng
nghiệp hóa - hiện đại hóa. Đội ngũ trí thức, với những phẩm chất vốn có của mình, là lực
lượng quan trọng trong xây dựng và phát triển văn hóa nền văn hóa Việt Nam trong giai
đoạn phát triển mới của đất nước.
Bốn, đấu tranh chống các quan điểm sai trái, bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng.
Q trình hội nhập đang có những tác động mạnh mẽ, sâu rộng đến mọi mặt của đời sống xã
hội. Nền văn hóa Việt Nam cũng chịu sự tác động mạnh mẽ của nó. Bên cạnh cơ hội học
hỏi, tiếp thu những giá trị văn hóa đa dạng trên thế giới, nền văn hóa Việt Nam cũng đứng
trước nhiều thách thức. Dựa trên nền tảng kết nối Internet và công nghệ thông tin, đã mở
rộng sự kết nối, giao tiếp giữa các nền văn hóa trên thế giới, có xu hướng làm mờ đi ranh
giới giữa các dân tộc về văn hóa. Q trình quốc tế hóa và tồn cầu hóa cũng được đẩy
nhanh trong thời đại này. Nhờ đó, các nước lớn cũng gia tăng ảnh hưởng về chính trị và văn
hóa lên mọi quốc gia, dân tộc nhỏ. Trong bối cảnh đó, giữ gìn và phát huy những giá trị văn
hóa Việt Nam là một nhiệm vụ sống còn, giúp đất nước tiếp tục phát triển, mà khơng bị hịa
tan vào các nền văn hóa lớn của thế giới. Đội ngũ trí thức Việt Nam cần tham gia giữ gìn,
phát huy giá trị văn hóa dân tộc phù hợp với q trình hội nhập này.
Năm, tham gia phổ biến các giá trị văn hóa Việt Nam trên thế giới, khẳng định sức
sống của nền văn hóa dân tộc. Trong bối cảnh tồn cầu hóa, hội nhập kinh tế quốc tế, phát
huy “sức mạnh mềm” của văn hóa dân tộc, khẳng định hình ảnh và sức mạnh Việt Nam trên
trường quốc tế, dẫn dắt thành cơng q trình hội nhập quốc tế của Việt Nam là một nhiệm vụ
không kém phần quan trọng. Đội ngũ trí thức Việt Nam với những thế mạnh riêng là lực
lượng quan trọng tham gia tuyên truyền, phổ biến những giá trị văn hóa Việt Nam đến với
các nền văn hóa khác trên thế giới, làm phong phú thêm kho tàng văn hóa chung của nhân
loại.



2

KẾT LUẬN

Giai cấp công nhân hiện đại – sản phẩm của nền nền đại công nghiệp hiện đại quy mô
ngày càng lớn, là giai cấp tiên tiến, luôn giữ vị trí trung tâm của sự phát triển xã hội. Xuất
phát từ địa vị kinh tế - xã hội và đặc điểm chính trị xã hội, giai cấp cơng nhân trở thành giai
cấp có sứ mệnh lịch sử cao cả thực hiện sự chuyển biến cách mạng từ chủ nghĩa tư bản lên
chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản không chỉ ở mỗi quốc gia dân tộc mà trên phạm vi
toàn thế giới. Để đảm đương sứ mệnh lịch sử to lớn đó, dù dưới chủ nghĩa tư bản hay dưới
chủ nghĩa xã hội giai cấp công nhân hiện đại phải không ngừng nâng cao về số lượng, chất
lượng và tổ chức; phải nâng cao giác ngộ và bản lĩnh chính trị, trình độ học vấn và nghề
nghiệp xứng đáng là lực lượng đi đầu trong công cuộc xây dựng xã hội mới.
Hiện nay, lịch sử nhân loại đã có nhiều thay đổi, chủ nghĩa xã hội hiện thực ở Liên
Xô và các nước Đông Âu đã sụp đổ. Nhưng, những biến động của lịch sử thế giới những
năm gần đây vẫn cho thấy con đường nhân loại đang từng bước quá độ lên chủ nghĩa xã hội
trên phạm vi toàn thế giới là một xu thế khách quan. Xu hướng đó gắn liền với sứ mệnh lịch
sử của giai cấp công nhân hiện đại. Trong bối cảnh mới, học thuyết Mác - Lênin về vai trò
sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân một lần nữa được khẳng định là lý luận đúng đắn, có
khả năng định hướng cho cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa trong thời đại ngày nay.
Công cuộc xây dựng đất nước định hướng xã hội chủ nghĩa do Đảng ta khởi xướng và
lãnh đạo đã đạt được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa quan trọng. Giai cấp cơng nhân
đang đi đầu trong xây dựng xã hội mới, nhất là trong việc xây dựng cơ sở vật chất - kỹ thuật
của chủ nghĩa xã hội nhằm thực hiện mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội dân chủ, công
bằng, văn minh. Đó là bằng chứng chỉ rõ năng lực lãnh đạo của giai cấp cơng nhân nước ta,
vai trị khơng có lực lượng xã hội nào có thể thay thế được.




×