Tải bản đầy đủ (.docx) (17 trang)

PHÂN TÍCH NGÀNH GIÀY DA VIỆT NAM

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (166.24 KB, 17 trang )

Trần Thị Phương Thảo
Bài tập cá nhân: Quản trị chiến lược
PHÂN TÍCH NGÀNH GIÀY DA VIỆT NAM
I.Giới thiệu ngành
1. Đặc điểm của ngành giày da Việt Nam
Việt Nam là một nước có tiềm năng sản xuất và suất khẩu giày lớn trong khu
vực được quốc tế biết đến như một nguồn cung cấp tiềm năng ổn định.Giày da
được chọn là ngành xuất khẩu mũi nhọn. Ngành công nghiệp da giày Việt Nam đă
phát triển rất nhanh và được xem là một trong những ngành công nghiệp chính đưa
nền kinh tế Việt Nam phát triển. Da giày là một trong 3 ngành đem lại kim ngạch
xuất khẩu lớn nhất hiện nay sau dầu thô và dệt may, chiếm trên 10% tổng kim
ngạch xuất khẩu. Với khoảng 240 doanh nghiệp đang hoạt động, ngành da giày
đang là một ngành xuất khẩu mũi nhọn, thu hút khoảng 500.000 lao động.
Là một ngành công nghiệp chiếm tỷ trọng khá lớn trong GDP cũng là ngành
chiếm tỷ trọng lớn trong kim ngạch xuất khẩu hiện nay của Việt Nam.Tính đến hết
quí I năm 2007 kim ngạch xuất khẩu của giày dép đạt 948 triệu USD và tạo công
ăn việc làm cho cả chục ngàn lao động.
Là ngành công nghiệp phải nhập khẩu nguyên liệu từ nước ngoài nhiều. Việt
Nam được đánh giá dồi dào về nguồn tài nguyên thiên nhiên, lao động dư thừa
nhưng riêng ngành giày da lại có sự khác biệt so với các ngành công nghiệp khỏc,
cú đến 70% nguyên liệu sản xuất chính phải nhập khẩu từ nước ngoài. Theo thế
giới kinh doanh giày có 3 loại nguyên liệu chủ yếu để sản xuất giày là chất liệu da
va giả da, đế, các nguyên liệu phụ trợ như keo dán, chỉ khâu, cúc, nhăn hiệu, gót
đa phần được nhạp khẩu từ các nước Châu Á như Hàn Quốc, Đài Loan, Trung
Quốc Riêng đế giày, khơu nguyờn phụ liệu được các DNVN chủ động tốt nhất
cũng chỉ đáp ứng được 30% nhu cầu sản xuất của ngành nói chung. Chất liệu giả
da, đặc biệt được sử dụng nhiều cho giày thể thao, mặc dù chiếm tỷ trọng xuất
khẩu gần bằng 50% giá trị da giày xuất khẩu nói chung, cũng như sử dụng đến 805
nguyên liệu nhập ngoại. Đặc biệt là công - nông nghiệp. Cũng như nhiều ngành
nghề khác, ngành da giày đang phải chịu áp lực giá nguyên liệu đầu vào tăng 30-
40% so với những năm trước, nhưng vẫn phải chịu đựng chứ không thể tăng giá


đầu ra được. Nh́n xa hơn 5-10 năm nữa, nếu vẫn chỉ gia công và nhập nguyên phụ
liệu như hiện nay th́ rất khó để ngành giày da khẳng định thế đứng là một ngành
xuất khẩu chủ lực.
Chỉ riêng về da, Việt Nam có sẵn nguồn nguyên liệu từ việc chăn ḅò, heo. Tuy
nhiên tập quán chăn nuôi thiếu tập trung và chưa áp dụng triệt để những kĩ thuật
chăm sóc gia súc của người chăn nuôi nhỏ khiến da nguyên liệu thu được thường
không đẹp, chất lượng thấp, buộc nhà sản xuất phải tốn thêm nhiều chi phí để xử lư
da thuộc, nhưng nếu cộng tất cả các khoản chi phí đầu tư máy móc, thiết bị kỹ
thuật cũng như công sức lao động thỡ giỏ da thuộc trong nước cao hơn giá da
ngoại v́ thế vẫn không thể thay thế nhập khẩu nguyên liệu nhập được.Chớnh v́ vậy
ngành giầy da Việt Nam hiện đang bị xâm lăng bởi hàng ngoại, từ nguyên phụ liệu,
mẫu mă cho đến giày thành phẩm.
Gía trị gia tăng của sản phẩm giày da xuất khẩu ở Việt Nam thấp do gia công
chế biến là chủ yếu. Hiện ngành da giày chỉ làm hàng gia công theo đơn đặt hàng
với giá nhân công rẻ nên Doanh Nghiệp chỉ giao hàng đến các nhà buôn chứ không
trực tiếp xuất khẩu đến nhà phân phối. Do phải phụ thuộc nhiều vào hệ thống phân
phối kinh doanh nước ngoài nên ngành da giày Việt Nam bị lệ thuộc vào nước
ngoài trong quá tŕnh sản xuất. Mặt khác giá thành nhập khẩu nguyên vật liệu cao
nên ảnh hưởng rất nhiều trong kim ngạch xuất khẩu của ngành cao nhưng hiệu quả
kinh tế thấp, giá trị gia tăng chỉ đạt 25%. Hiện nay tại Việt Nam các Doanh Nghiệp
đă chuyển đổi phương thức gia công sang mua đứt bán đoạn, một số Doanh
Nghiệp sản xuất giày đă mua licesen để sản xuất xuất khẩu các thương hiệu giày
nổi tiếng và độc quyền trên thế giới như giày reebook của công ty giầy Thái B́inh.
Cũng giống như những ngành công nghiệp xuất khẩu khác, đây cũng là một
ngành thường phải đứng trước bài toán hóc búa về "thương hiệu", chịu sự cạnh
tranh cao của hàng nước ngoài trong thị trường nội địa. Thêm nữa là mặt hàng xuất
khẩu nhiều, cạnh tranh cao cũng thường phải đối mặt với sức ép về hạn ngạch và
các vụ kiện bán phá giá hay thuế xuất nhập khẩu.
Là ngành bị ảnh hưởng bởi xu hướng thời trang đương thời. Thị hiếu người tiêu
dùng luôn luôn thay đổi, luôn luôn có xu hướng làm đẹp tại mức thu nhập người

dân ngáy một tăng. Giầy dép chính là một mặt hàng thời trang nên không thoát
khỏi xu hướng này. Các Doanh Nghiệp xuất khẩu luôn phải liên tục thiết kế thay
đổi mẫu mă cho phù hợp với thị hiếu khách hàng, thời tiết.
2.Tổng quan về ngành da giày Việt Nam
Ngành công nghiệp da giày Việt Nam đã phát triển rất nhanh và
được xem là một trong những ngành công nghiệp chính đưa nền kinh tế
Việt Nam phát triển. Da giày là một trong 3 ngành đem lại kim ngạch
xuất khẩu lớn nhất hiện nay sau dầu thô và dệt may, chiếm trên 10%
tổng kim ngạch xuất khẩu. Với khoảng 240 doanh nghiệp đang hoạt
động, ngành da giày đang là một ngành xuất khẩu mũi nhọn, thu hút
khoảng 500.000 lao động.
Trước khi mở cửa nền kinh tế vào những năm 1990, ngành da giày
Việt Nam chủ yếu may mũi giày để xuất sang Liên bang Xô Viết nhưng
chất lượng không cao và chủng loại ít. Khi đó ngành da giày Việt Nam
phải đối mặt với cuộc khủng hoảng gay gắt do không có nhà nhập
khẩu. Nhờ chính sách cải cách của chính phủ Việt Nam, nhiều liên
doanh với các đối tác nước ngoài được thành lập và ngành da giày bắt
đầu tìm được chỗ đứng trên thị trường quốc tế.
Hiện ngành giày da Việt Nam đứng thứ tư trong số 8 nước xuất
khẩu lớn nhất thế giới, chỉ sau Trung Quốc, Hồng Kông và Italia, thế
nhưng 90 % sản phẩm của giày da Việt Nam là hàng gia công. Nước ta
có 4 phương thức làm hàng da giày: một là gia công thuần túy (nhà
máy chỉ nhận vật tư nguyên liệu từ đối tác nước ngoài, làm ra sản
phẩm rồi giao lại cho phía đối tác nước ngoài và nhận tiền công); hai
là mua nguyên liệu bán thành phẩm(nhà máy phải tự mua vật tư và
thanh toán tiền vật tư); ba là sản xuất theo hàng FOB-hoặc là xuất
hàng FOB (sản xuất cho các thương hiệu nước ngoài,tiêu thụ ở thị
trường xuất khẩu) hoặc là sản phẩm mang thương hiệu của chính doanh
nghiệp đó (nhưng phương thức này được thực hiện rất ít vì thương
hiệu của ta chưa đủ mạnh). Đến nay, vẫn chưa có đôi giày nào mang

nhãn hiệu Việt Nam, mà một trong những nguyên nhân cơ bản là do
ngành da giày nước ta chỉ làm hàng gia công xuất khẩu chứ chưa trực
tiếp xuất với thương hiệu của mình. Có trên 80% các doanh nghiệp
Việt Nam là người gia công, nhà thầu phụ cho các hãng lớn. Khi nhận
gia công hàng cho các nhà phân phối lớn như Clark, Nine West, Gabor,
Camel, Siebel… từ các đối tác Đài Loan, doanh nghiệp Việt Nam chỉ
nhận tiền gia công tính trên từng đôi giày chứ hoàn toàn không tham
gia vào bất kỳ một công đoạn nào khác trong cơ cấu giá thành sản
phẩm. Từ mẫu mã cho đến giá bán hoàn toàn do phía đối tác quyết
định, còn thu nhập của doanh nghiệp chủ yếu từ giá gia công các sản
phẩm. Vì vậy, doanh nghiệp Việt Nam hoàn toàn không được và không
có khả năng quyết định giá bán một đôi giày trên thị trường, không
tham gia vào quá trình thương mại đầu vào và đầu ra cho một sản
phẩm.
Các doanh nghiệp nội địa ngành da giày Việt Nam có 3 bất lợi lớn: Thứ nhất là
không chủ động được nguồn nguyên liệu nên phụ thuộc vào khách hàng và các nhà
cung cấp nguyên liệu từ Trung Quốc, Đài Loan và Hàn Quốc. Thứ hai, công nghệ
yếu nên không có sức cạnh tranh và doanh nghiệp phải làm gia công cho các công
ty liên doanh hoặc 100% vốn nước ngoài là chính. Và cuối cùng là do công tác xúc
tiến thương mại kém, nên hầu hết các doanh nghiệp sản xuất làm gia công ở tầng
thứ 2, thứ 3. Như vậy, cái gọi là sức cạnh tranh, tiềm lực mạnh của ngành da giày
thực ra đều thuộc về các công ty lớn của Đài Loan, Hàn Quốc đặt tại Việt Nam.
Chính họ đã khai thác các lợi thế về lao động, môi trường xã hội ổn định, giá nhân
công rẻ vv của Việt Nam.
Theo số liệu thống kê, trên 70% các doanh nghiệp xuất khẩu lớn là công ty liên
doanh hoặc 100% vốn nước ngoài. Do đó những doanh nghiệp này phụ thuộc
nhiều vào các đối tác của họ về thiết bị kỹ thuật, công nghệ, thiết kế sản phẩm,
nguồn cung cấp nguyên liệu thô, phụ liệu và thị trường.
Theo bộ Công nghiệp, mỗi năm nước ta vẫn phải nhập 6 triệu feet vuông da
thuộc. Nhà máy thuộc da chưa đáp ứng được 10% nhu cầu và hiện chỉ hoạt động

được 25% công suất do thiếu nguyên liệu. Hàng năm, Việt Nam chỉ có thể cung
cấp 5000 tấn da bò và 100 tấn da trâu nhưng nguồn nguyên liệu nội địa không
được tận dụng và giá trị xuất khẩu thấp. 60% nguồn da này được xuất sang Trung
Quốc và Thái Lan, phần còn lại thì không đủ tiêu chuẩn để sản xuất sản phẩm xuất
khẩu. Vì thế mỗi năm Việt Nam chi từ 170 tới 230 triệu USD để nhập da giả và từ
80 tới 100 triệu USD để nhập da từ Thái Lan, Đài Loan và Hàn Quốc.
Ngoài ra, trong số 30% công ty Việt Nam tham gia vào sản xuất da giày lại có
tới 70% làm gia công vì thế giá trị lợi nhuận đích thực mà ngành này mang lại
không lớn. Và chưa đến 20 doanh nghiệp 100% vốn Việt Nam đủ sức làm hàng
dạng FOB. Doanh số xuất khẩu của ngành da giày tập trung chủ yếu ở những công
ty nước ngoài như Samyang, Pouchen, Pouyuen Giày vải, mặt hàng vốn là thế
mạnh của Việt Nam cũng bị hàng của Trung Quốc chiếm chỗ và Việt Nam hiện
xuất khẩu chủ yếu là hàng thể thao, giày dép, hài đi trong nhà.
II.Thực trạng phát triển ngành da giày Việt Nam
1.Nguyên vật liệu và phụ liệu
Thực trạng nguồn nguyên vật liệu và hệ thống cung ứng của Việt
Nam hiện nay còn nhiều hạn chế và bức xúc:
Hiện tại, phần lớn các loại đế giầy, vải các loại ( cho giầy vải),
một số nguyên liệu như. tấm đế 1, keo dán phụ liệu khác được đầu tư
trong nước. Tuy nhiên có tới 70-80% là phải nhập khẩu từ các nước
châu Á như Hàn Quốc, Đài Loan, Trung Quốc Riêng đế giày, khõu
nguyờn phụ liệu được các doanh nghiệp Việt Nam chủ động tốt nhất,
cũng chỉ đáp ứng được 30% nhu cầu sản xuất của ngành nói chung.
Chất liệu giả da, đặc biệt được sử dụng nhiều cho giày thể thao, mặc
dù chiếm tỷ trọng xuất khẩu gần bằng 50% giá trị da giày xuất khẩu
nói chung, cũng sử dụng đến 80% nguyên liệu nhập ngoại. Gần đây,
một số DN quan tâm đầu tư cho lĩnh vực thuộc da ( Công ty Hào
Dương, Công ty Priner, Công ty Green Tech ), nâng sản lượng da
thuộc trong nước lên đáng kể. Tuy nhiên, khâu chau chuốt, hoàn thiện
vẫn còn nhiều hạn chế. Đồng thời với sự gia tăng sản lượng giầy dép

xuất khẩu hàng năm, số lượng da thuộc phải nhập khẩu vẫn rất lớn
(trên 200 triệu Sqft/năm).
Nhiều nguyên liệu nhập khẩu được sản xuất từ Trung Quốc, song
giá cả nhập khẩu chính ngạch vẫn rất cao, do đó, các DN phải nhập
qua nước thứ 3 (Đài Loan, Hàn Quốc). Hệ thống cung ứng trong nước
hiện còn đang rất yếu. Hầu hết nguyên liệu nhập khẩu từ Trung Quốc
đều qua con đường tiểu ngạch. Giá nguyên liệu trong nước còn rất cao.
Do đó, việc xây dựng khu giao dịch nguyên liệu Da- Giầy thực sự cần
thiết.
Nguyên vật liệu chiếm tỷ trọng chính trong các sản phẩm Da- Giầy
(chiếm tới 68-75% tổng chi phí sản xuất hoặc giá thành sản phẩm ), do
đó nguyên vật liệu có vai trò rất quan trọng thúc đẩy sự phát triển của
toàn ngành, gia tăng kim ngạch xuất khẩu. Điều này đòi hỏi các DN
chủ động khi ra mẫu chào hàng, tìm kiếm và khai thác tối đa nguyên
liệu trong nước sẽ tiết kiệm được nhiều thời gian, chi phí. Đánh giá
được khả năng nguồn hàng để cân đối trong qỳa trỡnh sản xuất và cam
kết giao sản phẩm đúng thời hạn. Chủ động trong chuyển đổi phương
thức sản xuất (từ gia công sang tự sản xuất). Hạn chế chi phí phát sinh
do thiếu vật tư nguyên liệu, cân đối đồng bộ trong qỳa trỡnh sản xuất
và giao hàng
2.Nguồn lao độn

g
Da giày cũng là một trong những ngành chủ lực của Việt Nam trong
thu hút lao động, tạo việc làm có thu nhập ổn định cho khoảng 500.000
lao động trực tiếp và một số lượng lớn lao động đang làm việc trong
các ngành công nghiệp phụ trợ có liên quan.
Đặc thù của lao động ngành da giày là tỷ lệ lao động đến từ khu vực
nông thôn cao (lao động nhập cư), chiếm 50 –70%, cá biệt có doanh
nghiệp tỷ lệ này là trên 80%. Tỷ lệ lao động nữ trên 80%, trong đó lao

động từ độ tuổi 18 –25 chiếm trên 70%. Tỷ lệ lao động nữ cao là một
yếu tố tạo nên lợi thế cạnh tranh cho ngành da giày bởi lao động nữ
luôn tỏ rõ ưu thế hơn nam giới trong những công việc đòi hỏi sự cần
cù, khéo léo và tỉ mỉ như công việc trong ngành da giày.
Những người lao động trong các nhà máy sản xuất giày thường là
lao động giản đơn với trình độ học vấn khá thấp, 6% tốt nghiệp cấp I
và dưới cấp I; 40% tốt nghiệp cấp II, 51% mới tốt nghiệp cấp III, chỉ
có số ít còn lại là có trình độ dạy nghề hoặc trung cấp. Với trình độ
như vậy, họ không có cơ hội để tham gia thị trường lao động đòi hỏi
trình độ cao mà họ chỉ có thể làm việc trong các ngành nghề sử dụng
nhiều lao động, và chủ yếu là lao động giản đơn.Mặt khác công tác đào
tạo lao động lành nghề vẫn chưa đáp ứng kịp nhu cầu của sản xuất,cỏn
bộ kỹ thuật và cán bộ quản lý chưa được bổ túc và phổ cập các kiến
thức chuyên ngành đầy đủ.Ước tính với hơn 400 doanh nghiệp trong
ngành (không kể các cơ sở sản xuất vừa và nhỏ,cỏc hộ gia đỡnh)hàng
năm cần bổ sung hàng nghìn cán bộ quản lý,150-200 kỹ sư (thuộc
da,công nghệ sản xuất giày,thiết kế giày và các sản phẩm thời trang)
và hàng chục nghìn công nhân kỹ thuật.
Lao động làm việc trong ngành da giày
Đơn vị: người
Năm 2000 2001 2002 2003 2004 2005 2006 2007 2008
Số lượng
lao động
388.040 410,000 430,000 450,000 500,000 580,000 600,000 620,000 650,000
Nguồn: Hiệp hội da giày năm 2005 và không bao gồm lao động trong
các doanh nghiệp sản xuất phụ trợ
3.Máy móc thiết bị
Tuy là ngành có tốc độ phát triển cao về sản lượng, song về kỹ
thuật, công nghệ, quản lý và thiết kế tạo mẫu sản phẩm vẫn phụ thuộc
nhiều vào đối tác nước ngoài, việc ứng dụng công nghệ tiên tiến đang

được thực hiện, cơ sở vật chất kỹ thuật trong lĩnh vực này mới được
đầu tư hạn chế do nhiều doanh nghiệp chủ yếu vẫn làm gia công. Phần
lớn máy móc thiết bị phục vụ cho ngành sản xuất giày dép, thuộc da,
sản xuất nguyên liệu nhân tạo đều được nhập khẩu từ Ðài Loan, Hàn
Quốc, Ý, Pháp, và Trung Quốc.Hiện nay một số nhà máy cơ khí trong
nước và đặc biệt là tại thành phố Hồ Chí Minh đã nỗ lực sản xuất được
những thiết bị giản đơn cho ngành da giày. Tuy nhiên những nhà máy
này chỉ có trình độ công nghệ ở mức trung bình hoặc thấp.Thiết bị sản
xuất trong nước có giá bán chỉ bằng 50-70% so với giá nhập khẩu
nhưng chất lượng của chúng thiếu ổn định và tuổi thọ không cao.Một
số doanh nghiệp tiềm năng đã đầu tư hoàn chỉnh hệ thống tự động hóa
thiết kế, các dây chuyền sản xuất thử nghiệm phục vụ công tác ra mẫu
chào hàng đáp ứng kịp thời yêu cầu của khách hàng, các nhà nhập
khẩu. Điển hình như Cty CP giày An Lạc, Cty CP giày Thái Bình và
các Cty 100% vốn nước ngoài (Tea Kwang Vina, Shyang Hung Cheng,
Pou Yuen, Pou Chen, Biti’s HCM, Biti’s Đồng Nai, giày Thượng
Đình ).
4.Thị trường


Trong số các thị trường xuất khẩu chủ yếu của da giày Việt Nam,
EU là thị trường xuất khẩu lớn nhất giày da Việt Nam. EU là thị
trường rộng lớn,đa dạng có nhiều triển vọng cho hàng xuất khẩu của
Việt Nam nhưng cũng là một thị trường “sang trọng”và “khó tính”
Chinh phục thị trường này là điều không dễ đối với ngành da giày nói
chung và với mỗi doanh nghiệp da giày Việt Nam nói riêng.Thị trường
EU vẫn là thị trường xuất khẩu chính của các DN trong ngành chiếm
trên 60% tổng kim ngạch xuất khẩu. Hiện tại Việt Nam đứng thứ 2 sau
Trung Quốc về xuất khẩu giày dép sang EU và chiếm tỷ trọng lớn nhất
trong các mặt hàng xuất khẩu của Việt Nam sang EU. Đây là thị trường

đầy tiềm năng với dân số gần 400 triệu, mức sống cao và nhu cầu tiêu
thụ giày dép lớn. Song vẫn nhiều biến động do ảnh hưởng vụ kiện, sức
mua và cơ cấu sản phẩm thay đổi, đồng thời phụ thuộc nhiều vào các
đối tác đặt hàng, hợp tác sản xuất và sức ép về thực hiện các tiêu
chuẩn quốc tế.
Mỹ là thị trường xuất khẩu giày dép lớn thứ 2 của Việt Nam với tốc độ
nhập khẩu gia tăng mạnh trong thời gian qua,đặc biệt từ sau khi Việt
Nam ký kết hiệp định song phương với Mỹ và sau khi Việt Nam chính
thức gia nhập WTO. Chỉ tính riêng trong 8 tháng đầu năm2006, kim
ngạch xuất khẩu sang thị trường Hoa Kỳ tăng trưởng 37%. Thị trường
Hoa kỳ được nhiều DN trong ngành hướng tới, một phần do tác động
vụ kiện, một phần do nhu cầu đa dạng, phong phú, và quan hệ song
phương được cải thiện, các DN chuyển hướng nhằm đa dạng hoá thị
trường, hạn chế rủi ro khi bị áp thuế phá giá cao tại thị trường EU, đặc
biệt tranh thủ các lợi thế về ưu đãi thuế quan, cải thiện quan hệ thương
mại khi VN chính thức gia nhập WTO. Tuy nhiên, để xâm nhập thị
trường Hoa Kỳ, các DN cần tìm kiếm đối tác tin cậy, gắn với cỏc kờnh
phân phối lớn và các nhãn hiệu giầy nổi tiếng (Hiện tại, gần 80%
lượng hàng tiêu thụ thụ tại Hoa kỳ do các nhà phân phối lớn chi phối,
trên 50% lượng giầy tiêu thụ tại Hoa kỳ là hàng hiệu)
Thị trường Nhật vẫn là thị trường yêu cầu chất lượng cao và khó
tính, hiện tại kim ngạch xuất khẩu giầy dép vào Nhật chiếm tỷ trọng
rất thấp và khó có khả năng tăng trưởng nhanh trong thời gian tới đây.
Để xâm nhập thị trường này, các DN phải có sự chuẩn bị đầy đủ các
điều kiện cho sản xuất, sẵn sàng thực hiện các lô hàng nhỏ và đáp ứng
nhanh yêu cầu, đồng thời sản xuất các loại giầy có chất lượng cao
Thị trường Mexico, tuy chiếm tỷ trọng không lớn (Năm 2005 đạt
105,257 triệu USD), song có dấu hiệu sẽ bị kiện phá giá do tốc độ xuất
khẩu từ Việt Nam vào Mexico tăng nhanh, giá cả thấp (các DN và đối
tác tranh thủ xuất khẩu qua thị trường này để vào Hoa kỳ và các nước

lân cận với lợi thế ưu đãi của khu vực mậu dịch tự do Bắc Mỹ
(NAFTA)).
Tại thị trường châu Phi, mặt hàng giày dép hoàn toàn có thể cạnh
tranh,thậm chớ có sức cạnh tranh hơn hẳn cả về chủng loại và giá cả so
với những giày, dộp cú xuất xứ từ nhiều nước khác được bày bán trong
các siêu thị. Từ năm 2004, giày dép Việt Nam đã bắt đầu khai thác
thành công thị trường châu Phi, đặc biệt là thâm nhập và thị trường
Nam Phi. Theo thống kê của Bộ Thương mại, xuất khẩu giày dép sang
Nam Phi trong 4 tháng đầu năm 2005 tăng rất cao, khoảng 175% và đạt
kim ngạch 5,81 triệu USD. Thị trường châu Phi có nhu cầu khá đa
dạng và rất nhiều chủng loại là thế mạnh sản xuất của Việt Nam như:
giày thể thao, giày tennis, giày bóng rổ, giày luyện tập, giày thể thao
có đế ngoài bằng cao su, plastic, da thuộc hoặc da tổng hợp và mũ
bằng da thuộc hoặc bằng nguyên liệu dệt. Nhưng để thâm nhập sâu vào
cả châu lục đầy tiềm năng này thì giày dép Việt Nam vẫn còn rất hạn
chế.
Hiện nay Trung Quốc là đối thủ cạnh tranh lớn nhất của Việt Nam
trong lĩnh vực sản xuất giày dép.Việc Trung Quốc gia nhập WTO càng
khẳng định điều này.Trung Quốc đang dẫn đầu thế giới về sản lượng
sản xuất giày dép với sản lượng hang năm khoảng 6 tỷ đụi(chiếm ẵ
tổng sản lượng cả thế giới).Như vậy cuộc cạnh tranh giữa sản phẩm
giày dép của 2 nước sẽ là cuộc canh tranh về chất lượng và giá
cả.Nhiều doanh nghiệp Việt Nam cũng phải thừa nhận giày dép của
Trung Quốc giá rất rẻ mẫu mã lại phong phú hơn.Chi phí sản xuất cũng
thấp hơn,nguồn nguyên liệu cũng được chú trọng đầu tư một cách dài
hơn,bài bản hơn.Kể từ khi Trung Quốc gia nhập WTO,một số nhà máy
sản xuất giày dép của Đài Loan đặt ở Việt Nam đã ngưng hoạt động và
chuyển sang xây dựng nhà xưởng đặt tại Trung Quốc,nhằm tận dụng
quy chế tối huệ quốc khi buôn bán với các thành viên WTO.Điều nay
Việt Nam chỉ có được gần đây sau khi Việt Nam gia nhập WTO. Được

biết, Chính phủ Trung Quốc rất chú trọng phát triển ngành chăn nuôi
và công nghiệp thuộc da;mở rộng những ưu đãi về thuế cho đầu tư vào
việc ứng dụng những công nghệ bảo vệ môi trường; tăng cường và hỗ
trợ cho hệ thống thiết kế và trung tâm thông tin cho ngành giầy da;
củng cố các hiệp hội của ngành; nhằm nâng cao hình ảnh giày da
Trung Quốc trên trường quốc tế. Đó là những biện pháp thiết thực và
rất đáng để cho chúng ta tham khảo.
*Tình hình xúc tiến thương mại
Hoạt động xúc tiến thương mại và phát triển thị trường đã được
các doanh nghiệp quan tâm.Với sự hỗ trợ của chính phủ thông qua
chương trình xúc tiến thương mại trọng điểm quốc gia đã thu được một
số kết quả khả quan như các doanh nghiệp đã tiếp cận trực tiếp với
khách hàng tiềm năng,giới thiệu quảng bá các sản phẩm và nâng cao
hình ảnh doanh nghiệp,nắm bắt sâu hơn nhu cầu và thị hiếu người khu
vực khác nhau trên thị trường quốc tế. Các doanh nghiệp đã chú trọng
tới việc chuẩn bị mẫu mã, các bộ sưu tập mới để trưng bày tại các gian
hàng tham gia,cú tính toán kỹ về giá cả,chi phí thực hiện các đơn hàng
để ký hợp đồng ngay tại hội chợ. Sự hiện diện của các doanh nghiệp và
gian hàng chung của hiệp hội đã tạo dựng được hình ảnh ngành công
nghiệp da giày Việt Nam trên thị trường quốc tế và tại hội chợ.Tuy
nhiên, vẫn còn có những hạn chế như mẫu mã chưa phong phỳ,chưa cú
bộ sưu tập ấn tượng và các sản phẩm còn đơn giản, đôi khi trùng lặp,
khâu trang trí chưa thật sự ấn tượng, nổi bật
*Tình hình xuất khẩu hàng da giày Việt Nam
Theo số liệu thống kê, kim ngạch xuất khẩu giày dép các loại trong
tháng 10 năm 2006 đạt 280,9 triệu USD, đưa tổng kim ngạch xuất khẩu
của toàn ngành 10 tháng đầu năm 2006 đạt 2,9 tỷ USD, tăng 21% so
với cùng kỳ năm 2005.
Mặc dù có những khó khăn do phải đối mặt với vụ kiện phá giá các
loại giầy có mũ từ da xuất xứ từ Việt Nam và Trung Quốc xuất khẩu

sang thị trường các nước EU, song đến trung tuần tháng 10/2006,
nhiều DN trong ngành đó cú đơn hàng ổn định, nhịp độ sản xuất ngày
càng khẩn trương. Với tiến độ thực hiện đơn hàng hiện nay, năm 2006,
toàn ngành dự kiến đạt kim ngạch xuất khẩu 3,45 - 3,55 tỷ USD.
Năm 2006, tình hình SX - KD của toàn ngành có nhiều biến động so
với năm 2005, một phần do 3 tháng đầu năm 2006, nhiều DN phải
dừng sản xuất hoặc ít đơn hàng hơn do ảnh hưởng của vụ kiện chống
bán phá giá các loại giầy có mũ từ da xuất xứ VN và TQ xuất khẩu vào
các nước EU, một phần do phải cạnh tranh gay gắt trên thị trường quốc
tế, sức ép của quá trình hội nhập ngày càng gia tăng, cùng với việc
phải đáp ứng nhiều yêu cầu của các nhà nhập khẩu, người tiêu dùng
quốc tế (yêu cầu về cải thiện cơ sở hạ tầng và môi trường làm việc,
đáp ứng các tiêu chuẩn về nhón mỏc, yêu cầu hạn chế cỏc hoỏ chất độc
hại trong sản phẩm, yêu cầu thực hiện tốt TNXHDN và, yêu cầu thực
hiện tốt các tiêu chuẩn quốc tế ). Tuy nhiên, các biến động lớn nhất
là thị trường và cơ cấu sản phẩm, cụ thể:
Các mặt hàng giầy có mũ từ da giảm mạnh (đặc biệt giầy nữ có mũ
từ da), nhiều đối tác chuyển hướng đặt sản xuất giầy thể thao công
nghệ cao hoặc giầy khác có mũ từ giả da nhằm tránh bị ảnh hưởng của
việc áp thuế.
Mặt hàng giầy vải tăng mạnh, một phần do nhu cầu tiêu dùng gia
tăng, một phần do được duy trì trở lại sau thời gian dai suy giảm (bởi
các đơn hàng dự trữ hoăc tồn kho nhiều…). Để đáp ứng nhu cầu giầy
vải, một số DN tập trung khai thac tối đănng lực sản xuất hiện có, một
số khác khôi phục trở lại các dây chuyền sản xuất đã chuyển đổi trước
đây. Tuy nhiên, yêu cầu về chất lượng, mẫu mã các loại giầy vải cao
hơn nhiều so với những năm trước đây, đặc biệt các loại giầy vải thời
trang.Sản lượng dép sandals, dép đi trong nhà gia tăng với nhiều mẫu
mã da dạng, phong phú.
III. Cơ hội, thách thức

Ngành da giày thế giới tiếp tục có xu hướng chuyển dịch sản xuất sang các nước
đang phát triển, đặc biệt hướng vào các nước có môi trường đầu tư thuận lợi, chính
trị ổn định và an toàn. Khi Việt Nam chính thức gia nhập tổ chức thương mại thế
giới, hàng rào thuế quan dần được dỡ bỏ, cùng với các chính sách thúc đẩy sản
xuất, xuất khẩu của Chính phủ, Việt Nam sẽ trở thành một địa điểm đầu tư lý tưởng
cho các nhà sản xuất da giày.
Việt Nam được xếp hạng là một trong 10 nước xuất khẩu hàng đầu trên thị trường
quốc tế hiện nay về da giày, riêng ở thị trường EU, Việt Nam xếp thứ hai sau Trung
Quốc. Kim ngạch xuất khẩu có mức tăng trưởng trung bình hàng năm 16%, đạt
mức 3,96 tỉ USD năm 2007, đứng thứ 3 sau ngành dệt may và dầu khí. Kim ngạch
xuất khẩu giày dép các loại trong tháng 4/2008 ước đạt 330 triệu USD, tăng 5,4%
so với tháng trước và tăng 17% so với cùng kỳ năm 2007. Tổng kim ngạch xuất
khẩu da giày các loại trong 4 tháng năm 2008 ước đạt 1,356 tỉ USD, tăng 15,7% so
với cùng kỳ năm 2007. Dự báo đến năm 2010, kim ngạch xuất khẩu các sản phẩm
ngành da giày Việt Nam sẽ đạt 6,2 tỉ USD.
Tuy nhiên, chúng ta vẫn phải nhìn nhận thực tế rằng năng lực xuất khẩu của ngành
da giày Việt Nam trên thị trường xuất khẩu thế giới còn yếu do thiếu khả năng tự
thiết kế mẫu mã, tự đảm bảo vật tư nguyên liệu trong nước, quy mô sản xuất chưa
đủ lớn, điều kiện kinh tế và hạ tầng dịch vụ của Việt Nam còn nhiều hạn chế, giá
thành chi phí sản xuất cao, ưu thế về nhân công lao động tuy vẫn là nhân tố cạnh
tranh, nhưng không còn thuận lợi như trước đây. Theo nhận định của các chuyên
gia kinh tế thì dù có đến 90% sản lượng xuất khẩu, nhưng lợi nhuận thu về từ
ngành này chỉ đạt mức 25% giá trị gia tăng, vì ngành này chủ yếu vẫn “bán” sức
lao động là chính.
Hội nhập kinh tế quốc tế tạo ra nhiều cơ hội cho sự phát triển của ngành da giày:
gia tăng các luồng chuyển giao vốn, công nghệ, kinh nghiệm quản lý, thúc đẩy giao
lưu văn hoá, trí tuệ, củng cố và tăng cường các thể chế quốc tế, phát triển văn minh
vật chất và tinh thần tạo ra môi trường thuận lợi cho phát triển thị trường quốc tế.
Song, hội nhập cũng mang lại không ít khó khăn và thách thức. Các doanh nghiệp
sản xuất giày da Việt Nam đang gặp phải cạnh tranh gay gắt từ các thế lực kinh tế

mạnh trong khu vực và quốc tế như Brazil, Trung Quốc và một số nước ASEAN.
Những cơ hội và thách thức mà ngành da giày Việt Nam đang phải đối mặt
trước thềm hội nhập phải kể đến như sau:
Cơ hội:
Hội nhập kinh tế quốc tế đã góp phần thúc đẩy các cơ hội phát triển ngành da giày,
việc chuyển giao công nghệ theo chu kỳ nhanh hơn phù hợp với yêu cầu khắt khe
của thị trường. Việc gia nhập tổ chức mậu dịch tự do ASEAN (AFTA) tạo điều kiện
việc giao lưu hàng hoá thông suốt, ít cản trở, xoá bỏ hàng rào phi thuế quan, ưu đãi
về thuế quan tạo điều kiện cho ngành hàng da giày thâm nhập vào thị trường khu
vực.
Ngành da giày là ngành sử dụng nhiều lao động xã hội. Tính đến hết năm 2007,
toàn ngành đã thu hút 600.000 lao động (chưa kể số lao động sản xuất trong lĩnh
vực nguyên phụ liệu và lao động tại các cơ sở nhỏ, các hộ gia đình và các làng nghề
có thể lên tới hơn 1 triệu lao động) chiếm 9% lực lượng lao động công nghiệp. Đây
có thể được coi là lợi thế so sánh với mức chi phí nhân công thấp.
Trong những năm gần đây công tác xúc tiến thương mại đã bắt đầu được chú trọng.
Toàn ngành đã có những hoạt động tích cực nhằm tăng cường tuyên truyền và
quảng bá hình ảnh của ngành da giày Việt Nam như một quốc gia sản xuất và xuất
khẩu da giày tiềm năng, nâng cao năng lực hiểu biết về kiến thức pháp luật, thị
trường, phòng ngừa các vụ kiện bán phá giá và vận dụng luật để đấu tranh trong các
vụ tranh chấp thương mại. Phương thức bán hàng tại các doanh nghiệp đã có nhiều
đổi mới, hình thành nhiều mạng lưới bán buôn, bán lẻ, tham gia vào các kênh phân
phối của các tập đoàn xuyên quốc gia, phát triển hình thức thương mại điện tử.
Với dân số trên 80 triệu dân là một thị trường đầy tiềm năng cho thị trường nội địa.
Mặt khác, với đời sống ngày càng được nâng cao, khả năng mua sắm của xã hội
ngày càng được cải thiện, đất nước ngày càng hội nhập sâu rộng vào thế giới làm
cho ngành du lịch phát triển là những cơ hội để ngành da giày phát triển theo hướng
xuất khẩu trực tiếp ngay trên sân nhà.
Chế độ xã hội ổn định và đang tạo nhiều cơ hội thuận lợi cho doanh nghiệp phát
triển thông qua cơ chế chính sách phù hợp với tình hình trong nước và thông lệ

quốc tế.
Về năng lực sản xuất. Đến hết năm 2007, năng lực sản xuất của toàn ngành đạt:
Giày dép các loại: 680 triệu đôi
Cặp túi xách các loại: 88 triệu chiếc
Da thuộc thành phẩm: 150 triệu sqft.
Năng lực sản xuất của ngành đã đạt trên 90% mức năng lực được đầu tư, có mức
tăng trưởng mạnh trong 7 năm liên tiếp với mức tăng trung bình đạt 10%/năm trên
2 loại sản phẩm chính là giày dép và túi cặp các loại. Riêng sản phẩm da thuộc đạt
mức tăng trưởng trung bình khoảng 20%/năm. Mặt hàng chủ lực của ngành vẫn tập
trung chủ yếu vào giày thể thao, chiếm khoảng 51% năng lực sản xuất các sản
phẩm giày dép của ngành, phù hợp với xu thế tiêu dùng của thị trường xuất khẩu.
Về thị trường xuất khẩu, thị trường xuất khẩu da giày Việt Nam ngày càng được mở
rộng và ổn định cụ thể:
Thị trường EU:
Trong những năm vừa qua, giày dép Việt Nam xuất khẩu vào EU tăng trưởng
nhanh về khối lượng và kim ngạch xuất khẩu. Hết năm 2007, EU vẫn là thị trường
lớn nhất tiêu thụ giày dép của Việt Nam với doanh thu 2,6 tỉ USD, tăng 33,9% so
với năm 2006 và chiếm 54% tổng kim ngạch xuất khẩu hàng giày dép của Việt
Nam.
Thị trường Mỹ:
Năm 2004, Việt Nam đã vượt Italia và trở thành nhà cung cấp lớn thứ tư sau Trung
Quốc, Brazil, Indonesia. Trong năm 2007, xuất khẩu vào Mỹ đạt 995 triệu USD,
tăng 30% so với năm 2006. Tháng 1/2008, xuất khẩu giày dép vào Mỹ tăng 25% so
với năm 2007, đạt 93,8 triệu USD, đây là thị trường xuất khẩu lớn thứ hai của toàn
ngành. Hiện nay và trong những năm tới, Mỹ sẽ là thị trường xuất khẩu mục tiêu
đối với sản phẩm giày dép của Việt Nam và các sản phẩm xuất khẩu chính sẽ là
giày thể thao, giày da nam nữ.
Thị trường các nước Đông Á:
Đây là khu vực thị trường có những phong tục tập quán tương đối giống Việt Nam,
cùng nằm ở khu vực châu Á. Các sản phẩm chủ yếu xuất khẩu từ Việt Nam sang

các thị trường này là giày thể thao, giày da nam nữ, dép đi trong nhà. Năm 2006,
xuất khẩu vào Nhật Bản đạt 113 triệu USD, tăng 21% so với năm 2005.
Thách thức:
Thách thức trước hết phải kể đến là sự cạnh tranh khốc liệt của Trung Quốc, một
đất nước có thế mạnh về mặt hàng giày dép. Gần đây Trung Quốc là có thêm lợi thế
với việc gia nhập tổ chức thương mại quốc tế (WTO). Mặt hàng giày dép xuất khẩu
của Trung Quốc có ưu thế hơn giày dép xuất khẩu của Việt Nam do trình độ công
nghệ của Trung Quốc tiên tiến hơn, mẫu mã của họ đẹp và đa dạng hơn.
Tuy sức mua của thị trường truyền thống (EU) vẫn giữ ở mức ổn định nhưng Việt
Nam bị chịu nhiều sức ép hơn về thuế và các rào cản so với một số nước như
Brazil, Indonesia đặc biệt từ ngày 6 tháng 10 năm 2006, EU áp thuế chống bán
phá giá giày mũ da sản xuất tại Việt Nam xuất khẩu sang EU là 10%.
Xuất khẩu vào thị trường Mỹ tăng mạnh trong những năm gần đây nhưng thị phần
của Việt Nam cũng mới chỉ chiếm 2,1% về số lượng so với 83,5% của Trung Quốc.
Đối với các thị trường xuất khẩu khác như Liên bang Nga, các nước Đông Âu,
Trung Đông, châu Phi, tuy không yêu cầu cao về mẫu mã và chất lượng nhưng
hàng Việt Nam vẫn không thể thâm nhập mạnh vào thị trường các nước này.
Nguyên vật liệu sản xuất của ngành da giày chiếm đến 80% giá trị của sản phẩm
trong đó ngành sản xuất da đóng vai trò quan trọng nhất. Theo LEFASO, nhu cầu
da thuộc năm 2007 của toàn ngành khoảng 350 triệu feet vuông, trong khi đó các
nhà máy thuộc da của Việt Nam và nước ngoài đầu tư tại Việt Nam mới chỉ sản
xuất và đáp ứng được khoảng 20% nhu cầu da thuộc của cả nước, 80% còn lại phải
nhập khẩu.
Ngành phụ liệu sản xuất còn trầm trọng hơn, các doanh nghiệp Việt Nam mới chỉ
sản xuất được một vài mặt hàng rất hạn chế như nhãn, ren, dây giày nhưng lại “bỏ
ngỏ” những loại phụ kiện tinh xảo là các sản phẩm nhựa có xi mạ như khoen, móc,
cườm, các vật trang trí trên giày, đặc biệt là giày nữ và giày trẻ em.
Năng lực sản xuất của ngành chủ yếu tại các cơ sở ngoài quốc doanh và có yếu tố
nước ngoài, chiếm trên 90% năng lực của cả ngành, chứng tỏ năng lực ngành phụ
thuộc hoàn toàn vào làn sóng đầu tư của tư bản tư nhân trong nước và quốc tế.

Tuy có lợi thế giá nhân công rẻ, nguồn cung ứng lao động dồi dào do dân số trẻ,
nhưng năng suất lao động của người Việt Nam rất thấp, trung bình trên 1 dây
chuyền 450 lao động đạt mức sản lượng 500.000 đôi/năm, chỉ bằng 1/35 năng suất
lao động của người Nhật, 1/30 của Thái Lan, 1/20 của Malaysia và 1/10 của
Indonesia.
Hiện nay trình độ công nghệ của ngành da giày Việt Nam đang ở mức trung bình và
trung bình khá, song khá lệ thuộc vào nước ngoài về trang bị máy móc. Khả năng
đầu tư và chuyển giao công nghệ mới phụ thuộc vào nguồn tài chính hạn hẹp, đội
ngũ chuyên gia hiểu biết sâu và cập nhật công nghệ còn quá ít và chưa đáp ứng
được nhu cầu phát triển của doanh nghiệp, kinh nghiệm và khả năng đàm phán, ký
kết hợp đồng về công nghệ còn hạn chế Đây là một trong những nguyên nhân làm
hạn chế năng suất lao động và hiệu quả sản xuất kinh doanh của ngành trong thời
gian trước mắt cũng như lâu dài. Điều này còn dẫn đến việc ngành có nguy cơ mất
khả năng cạnh tranh trên thị trường, đặc biệt là thị trường quốc tế.
IV. Kết luận
Trong thời đại ngày nay toàn cầu hóa đang là một xu thế không
thể thiếu đối với sự phát triển của mỗi quốc gia.Cùng với guồng quay
của thời đại,Việt Nam không ngừng nỗ lực tham gia vào tiến trình hội
nhập nhằm đưa nền kinh tế Việt Nam phát triển,nâng cao mức sống của
người dân,thực hiện tiêu chí của Đảng và nhà nước là:dân giàu nước
mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.
Như chúng ta đã biết ngày 7/11/2006 Việt Nam trở thành thành viên
chính thức của tổ chức thương mại thế giới WTO sau hơn 11 năm thảo
luận với hơn 200 cuộc đàm phán.Trong điều kiện hội nhập kinh tế khu
vực và quốc tế,nền kinh tế nói chung và ngành Công nghiệp nói riêng
cần phải có những giải pháp để giữ vững và nâng cao sự tăng trưởng
cả về số lượng và chất lượng. Vì vậy việc nâng cao năng lực cạnh
tranh của sản phẩm là một yêu cầu tất yếu và là giải pháp quan trọng
đối với mỗi ngành.
.

×