Tải bản đầy đủ (.docx) (172 trang)

Giáo trình TRUNG CẤP LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ LỊCH SỬ ĐẢNG 2021

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (638.9 KB, 172 trang )

I. ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM RA ĐỜI
1. Bối cảnh sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam
1.1. Bối cảnh quốc tế
Từ nửa sau thế kỷ XIX, chủ nghĩa tư bản phương Tây chuyển nhanh từ
giai đoạn tự do cạnh tranh sang giai đoạn đế quốc chủ nghĩa, đẩy mạnh chiến
tranh xâm lược thuộc địa. Năm 1917, Cách mạng Tháng Mười Nga thành công
đã mở ra thời đại mới trong lịch sử loài người - thời đại quá độ từ chủ nghĩa tư
bản lên chủ nghĩa xã hội trên phạm vi toàn thế giới, thời đại thắng lợi của cách
mạng giải phóng dân tộc và cách mạng vơ sản.
Tháng 3-1919, Quốc tế Cộng sản được thành lập, trở thành Bộ tham mưu
chiến đấu, tổ chức lãnh đạo phong trào cách mạng vơ sản tồn thế giới. Tại Đại
hội II của Quốc tế Cộng sản (1920), bản Sơ thảo lần thứ nhất những luận cương
về vấn đề dân tộc và vấn đề thuộc địa của V.I. Lênin được công bố. Luận cương
đã chỉ ra phương hướng đấu tranh giải phóng các dân tộc bị áp bức: Muốn giành
được thắng lợi trong cuộc đấu tranh, giai cấp công nhân phải lập ra đảng cộng
sản để lãnh đạo nhân dân giành độc lập.
Tư tưởng của chủ nghĩa Mác-Lênin, thắng lợi của Cách mạng Tháng
Mười Nga và sự ra đời của Quốc tế Cộng sản đã ảnh hưởng trực tiếp đến phong
trào cộng sản, cơng nhân quốc tế và sự hình thành các tổ chức cộng sản. Nhiều
đảng cộng sản trên thế giới được thành lập như: Đảng Cộng sản Mỹ (1919);
Đảng Cộng sản Anh, Pháp, Inđônêxia (1920), Đảng Cộng sản Trung Quốc,
Mông Cổ (1921)…Tình hình thế giới đầy biến động đó đã ảnh hưởng mạnh mẽ,
thúc đẩy phong trào cách mạng Việt Nam đi lên.
1.2. Tình hình trong nước
Ngày 1-9-1858, thực dân Pháp chính thức nổ súng xâm lược và từng bước
thơn tính Việt Nam. Sau khi hồn thành xâm lược Việt Nam (1884), thực dân
Pháp thiết lập bộ máy thống trị thực dân và tiến hành khai thác thuộc địa ở Việt


Nam và Đơng Dương
Về chính trị: Năm 1887, Chính phủ Pháp thành lập Liên bang Đông


Dương (đến năm 1899 bao gồm cả Lào). Việt Nam bị chia cắt thành 3 kỳ gồm:
Bắc Kỳ, Trung Kỳ và Nam Kỳ, với các chế độ cai trị khác nhau. Đứng đầu Liên
bang Đông Dương là viên Tồn quyền, thay mặt Chính phủ Pháp. Dưới Toàn
quyền là: Thống đốc Nam Kỳ, Thống sứ Bắc Kỳ, Khâm sứ ở Trung Kỳ, Lào và
Campuchia. Triều đình nhà Nguyễn và hệ thống quan lại, địa chủ từ cấp xã trở
lên đều cấu kết làm tay sai cho thực dân Pháp. Việt Nam từ nước phong kiến
độc lập trở thành nước thuộc địa - phong kiến.
Về văn hoá - giáo dục: Thực dân Pháp thực hiện chính sách “ngu dân”,
hạn chế phát triển giáo dục ở cả ba kỳ, mở các trường Pháp - Việt nhằm đào tạo
công chức, nhân viên phục vụ bộ máy cai trị; du nhập văn hóa đồi trụy, khuyến
khích tệ nạn cờ bạc, rượu chè, nghiện hút...
Về kinh tế: Thực dân Pháp kết hợp giữa phương thức bóc lột tư bản với
phương thức bóc lột phong kiến; tiến hành khai thác thuộc địa lần thứ nhất
(1897-1914) và khai thác thuộc địa lần thứ hai (1919-1929); qua đó, đã làm biến
đổi nền kinh tế Việt Nam. Về xã hội: Xã hội Việt Nam diễn ra q trình phân
hóa sâu sắc. Ngồi giai cấp địa chủ - phong kiến và giai cấp nông dân, xuất hiện
các giai tầng mới gồm: giai cấp công nhân, giai cấp tư sản và tầng lớp tiểu tư
sản, trí thức.
Giai cấp nơng dân chiếm khoảng hơn 90% dân số, có mâu thuẫn sâu sắc
với giai cấp địa chủ - phong kiến và thực dân Pháp xâm lược. Cùng với giai cấp
công nhân, giai cấp nông dân trở thành lực lượng cách mạng chủ yếu trong
phong trào đấu tranh giải phóng dân tộc theo hệ tư tưởng vô sản.
Giai cấp địa chủ - phong kiến: Một bộ phận địa chủ có tinh thần yêu
nước, tiếp tục đi với nhân dân chống thực dân Pháp; một bộ phận đi theo Pháp,
là chỗ dựa đắc lực cho thực dân Pháp đàn áp, bóc lột nhân dân.
Giai cấp cơng nhân tuy cịn non trẻ, trình độ học vấn, kỹ thuật thấp nhưng


là một lực lượng xã hội tiên tiến, đại diện cho phương thức sản xuất mới, có ý
thức tổ chức kỷ luật cao, có tinh thần cách mạng triệt để.

Giai cấp tư sản: Trừ tư sản mại bản có quyền lợi gắn chặt với thực dân
Pháp, một bộ phận tư sản dân tộc có tinh thần yêu nước.
Tầng lớp tiểu tư sản: Chủ yếu là học sinh, trí thức, cơng chức, viên chức,
thợ thủ cơng, tiểu thương, có tinh thần yêu nước, nhanh nhạy với thời cuộc, dễ
tiếp thu những tư tưởng tiến bộ và canh tân đất nước. Đây là một lực lượng quan
trọng trong cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc.
Xã hội Việt Nam xuất hiện những những mâu thuẫn đan xen nhau, song
mâu thuẫn cơ bản và ngày càng gay gắt là mâu thuẫn giữa toàn thể nhân dân
Việt Nam với thực dân Pháp và tay sai phản động.
Như vậy, hoàn cảnh lịch sử đã đặt ra yêu cầu khách quan cho dân tộc Việt
Nam là phải đánh đổ chế độ thuộc địa, phong kiến, giành lại độc lập dân tộc. Từ
cuối thế kỷ XIX - đầu thế kỷ XX, xuất hiện nhiều phong trào yêu nước chống
thực dân Pháp, theo những khuynh hướng khác nhau:
Phong trào yêu nước theo khuynh hướng phong kiến: Tiêu biểu là phong
trào Cần Vương (1885-1896) và khởi nghĩa nông dân. Cả hai phong trào này
đều bị thực dân Pháp đàn áp, khủng bố. Sự thất bại phong trào Cần Vương và
phong trào khởi nghĩa của nông dân đánh dấu sự kết thúc vai trò lịch sử của giai
cấp phong kiến trong lãnh đạo đấu tranh giải phóng dân tộc.
Phong trào yêu nước theo khuynh hướng dân chủ tư sản: Tiêu biểu là xu
hướng bạo động do Phan Bội Châu (1867-1940) tổ chức, lãnh đạo; xu hướng cải
cách do Phan Châu Trinh (1872-1926) đề xướng và tổ chức khởi nghĩa của Việt
Nam Quốc dân Đảng, do Nguyễn Thái Học đứng đầu. Mặc dù không giành được
thắng lợi, nhưng các phong trào là sự thể hiện mạnh mẽ tinh thần yêu nước, giải
phóng dân tộc của nhân dân ta. Sự thất bại của phong trào yêu nước theo khuynh
hướng dân chủ tư sản đã chấm dứt vai trò của giai cấp tư sản trong cuộc đấu
tranh giành độc lập dân tộc. Việt Nam lâm vào khủng hoảng và bế tắc về đường


lối cứu nước. Yêu cầu lịch sử đòi hỏi phải có một tổ chức cách mạng tiên phong,
có đường lối cứu nước đúng đắn để giải phóng dân tộc. Đây là yêu cầu khách

quan, cấp thiết của dân tộc Việt Nam.
1.2 Sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam
1.2.1. Nguyễn Ái Quốc với quá trình lựa chọn con đường cách mạng vô
sản và chuẩn bị điều kiện thành lập Đảng
Giai đoạn 1911 - 1920: Nguyễn Ái Quốc khảo nghiệm thực tế, tìm ra con
đường đấu tranh giải phóng dân tộc. Tháng 7-1920, Nguyễn Ái Quốc đọc bản
Sơ thảo lần thứ nhất những luận cương về vấn đề dân tộc và vấn đề thuộc địa
của Lênin. Luận cương của Lênin đã chỉ cho Nguyễn Ái Quốc con đường đấu
tranh giành độc lập dân tộc và tự do cho nhân dân là con đường cách mạng vô
sản. Đây là giai đoạn Nguyễn Ái Quốc tìm đến chủ nghĩa Lê nin và trở thành
người cộng sản.
Giai đoạn 1921-1930: Nguyễn Ái Quốc truyền bá chủ nghĩa Mác- Lênin
và đường lối giải phóng dân tộc vào Việt Nam. Qua quá trình nghiên cứu, học
tập lý luận chủ nghĩa Mác-Lênin và gắn với hoạt động thực tiễn, Nguyễn Ái
Quốc đã hình thành những quan điểm chính trị cơ bản, làm cơ sở cho Cương
lĩnh của Đảng sau này. Người tích cực chuẩn bị các điều kiện về tư tưởng, chính
trị và tổ chức cho sự ra đời của đảng cộng sản ở Việt Nam.
Về tư tưởng: Dưới nhiều phương thức hoạt động, Nguyễn Ái Quốc đã
vạch trần bản chất và tội ác của chủ nghĩa đế quốc, thực dân, tập hợp lực lượng
và tuyên truyền con đường cách mạng vô sản. Tại Pháp, giữa năm 1921, Nguyễn
Ái Quốc tham gia thành lập Hội Liên hiệp thuộc địa, sau đó sáng lập tờ báo “Le
Paria” (Người Cùng khổ) vào ngày 1-4-1922. Người viết nhiều bài trên các báo
Nhân đạo, Đời sống cơng nhân, Tạp chí Cộng sản, Tập san Thư tín quốc tế...
Năm 1922, Ban nghiên cứu thuộc địa của Đảng Cộng sản Pháp được thành lập,
Nguyễn Ái Quốc được cử làm Trưởng Tiểu ban Nghiên cứu về Đơng Dương.
Về chính trị: Nguyễn Ái Quốc đã hình thành những quan điểm và lý luận


về cách mạng giải phóng dân tộc, thể hiện qua các tác phẩm, bài viết, bài giảng
của Người trong chặng đường hoạt động từ năm 1921 đến 1927, đặc biệt là tác

phẩm Đường cách mệnh, xuất bản năm 1927 (sau này phát triển thành những
nội dung cơ bản trong Cương lĩnh chính trị của Đảng). Nội dung cơ bản gồm:
+ Xác định chủ nghĩa thực dân là kẻ thù trực tiếp của nhân dân các nước
thuộc địa. Nguyễn Ái Quốc cho rằng “chỉ có giải phóng giai cấp vơ sản thì mới
giải phóng được dân tộc; khẳng định: “Chủ nghĩa dân tộc là một động lực lớn
của đất nước”
+ Cách mạng giải phóng dân tộc là một bộ phận của cách mạng vơ sản thế
giới. Cách mạng giải phóng dân tộc ở các nước thuộc địa và cách mạng ở “chính
quốc”, có quan hệ khăng khít với nhau, hỗ trợ cho nhau nhưng không phụ thuộc
vào nhau.
Cách mạng ở thuộc địa trước hết là giải phóng dân tộc, sau đó mở đường
tiến lên giải phóng hồn tồn lao động, giải phóng con người, tiến lên cách
mạng XHCN.
+ Trong một nước nông nghiệp, nông dân là lực lượng đông đảo nhất, cần
phải thu phục và lôi cuốn được nông dân, xây dựng khối công nông làm động
lực cách mạng.
+ Thực hiện liên minh, đoàn kết với các lực lượng cách mạng quốc tế; nêu
cao tính chủ động, ý thức tự lực, tự cường.
+ Cách mạng muốn thắng lợi trước hết phải có đảng cách mạng lãnh đạo.
Đảng muốn vững phải có học thuyết cách mạng, đó là học thuyết Mác - Lênin,
phải biết vận dụng đúng đắn học thuyết đó vào cách mạng Việt Nam.
Cách mạng là sự nghiệp của quần chúng nhân dân, “Cơng nơng là gốc của cách
mệnh, cịn học trị, nhà bn nhỏ, điền chủ nhỏ…là bầu bạn cách mạng của công
nông”; công nhân là giai cấp lãnh đạo, tiểu tư sản trí thức là bạn đồng minh của
cách mạng.


- Về tổ chức: Tháng 11-1924, Nguyễn Ái Quốc về Quảng Châu, Trung
Quốc hoạt động. Tháng 2-1925, Nguyễn Ái Quốc lựa chọn một số thanh niên
tích cực trong Tâm tâm xã, lập ra nhóm Cộng sản đồn. Tháng 6-1925, lập ra

Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên, xuất bản báo Thanh niên làm cơ quan
ngôn luận và là phương tiện quan trọng để truyền bá lý luận Mác-Lênin và
đường lối cách mạng (in bằng chữ quốc ngữ và tiếng Hoa, ra được 208 số). Về
tổ chức, gồm 5 cấp: Tổng bộ, Kỳ bộ, tỉnh bộ, huyện bộ và chi bộ.
Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên mở lớp đào tạo, bồi dưỡng lý luận
chủ nghĩa Mác-Lênin cho những người trong tổ chức Hội. Đến tháng 4-1927,
Nguyễn Ái Quốc đã mở được 10 lớp huấn luyện, đào tạo cán bộ, bồi dưỡng lý
luận cho khoảng 250-300 hội viên. Đồng thời, Nguyễn Ái Quốc còn lựa chọn và
cử người đi học tại Trường Đại học cộng sản của những người lao động phương
Đơng ở Liên Xơ và Trường Qn chính Hồng Phố ở Quảng Châu, nhằm chuẩn
bị đội ngũ cán bộ cách mạng Việt Nam.
Từ năm 1926, Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên bắt đầu phát triển cơ
sở ở trong nước. Đầu năm 1927, các Kỳ bộ được thành lập. Năm 1928, Hội thực
hiện chủ trương "vơ sản hố", đưa hội viên về các nhà máy, hầm mỏ, đồn điền
trong nước cùng sống và làm việc với công nhân, truyền bá lý luận, tổ chức và
lãnh đạo quần chúng đấu tranh địi dân sinh, dân chủ. Những hoạt động của Hội
có ảnh hưởng và thúc đẩy mạnh mẽ sự chuyển biến của phong trào công nhân,
phong trào yêu nước Việt Nam những năm 1927 - 1929 theo khuynh hướng
cách mạng vô sản.
Từ giữa năm 1929 đến đầu năm 1930, tại Việt Nam đã hình thành 3 tổ
chức cộng sản: Đơng Dương Cộng sản Đảng ở Bắc Kỳ, An Nam Cộng sản Đảng
ở Nam Kỳ và Đơng Dương Cộng sản Liên đồn ở Trung Kỳ.
Sự ra đời ba tổ chức cộng sản khẳng định sự phát triển về chất của phong
trào công nhân và phong trào yêu nước Việt Nam theo khuynh hướng cách
mạng vô sản, phù hợp với xu thế và nhu cầu bức thiết của dân tộc Việt Nam.


2.2. Đảng Cộng sản Việt Nam thành lập
2.2.1. Hội nghị thành lập Đảng
Từ giữa năm 1929 đến đầu năm 1930, tại Việt Nam đã hình thành 3 tổ

chức cộng sản: Đông Dương Cộng sản Đảng ở Bắc Kỳ, An Nam Cộng sản Đảng
ở Nam Kỳ và Đông Dương Cộng sản Liên đoàn ở Trung Kỳ.
Sự ra đời ba tổ chức cộng sản khẳng định sự phát triển về chất của phong
trào công nhân và phong trào yêu nước Việt Nam theo khuynh hướng cách
mạng vô sản, phù hợp với xu thế và nhu cầu bức thiết của dân tộc Việt Nam.
Trước nhu cầu cấp bách của phong trào cách mạng trong nước, với tư
cách là phái viên của Quốc tế Cộng sản, ngày 23-12-1929, Nguyễn Ái Quốc đã
đến Hương Cảng (nay là Hồng Kông, Trung Quốc), triệu tập đại biểu của Đông
Dương Cộng sản Đảng và An Nam Cộng sản Đảng họp hội nghị hợp nhất thành
một chính đảng duy nhất của Việt Nam. Hội nghị diễn ra từ ngày 6-1, đến ngày
8-2-1930, các đại biểu lên đường về nước1.
Hội nghị thảo luận, tán thành ý kiến chỉ đạo của Nguyễn Ái Quốc, thông
qua quyết định thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam; thông qua các văn kiện
Chánh cương vắn tắt của Đảng, Sách lược vắn tắt của Đảng, Chương trình tóm
tắt của Đảng và Điều lệ vắn tắt của Đảng Cộng sản Việt Nam do Nguyễn Ái
Quốc soạn thảo. Những văn kiện Chánh cương vắn tắt của Đảng, Sách lược vắn
tắt của Đảng hợp thành Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng. Ngày 24-21930, Đông Dương Cộng sản Liên đoàn xin gia nhập Đảng Cộng sản Việt Nam.
Nội dung cơ bản của Cương lĩnh chính trị đầu tiên
(1). Khẳng định mục tiêu và con đường của cách mạng Việt Nam: “Làm
tư sản dân quyền cách mạng và thổ địa cách mạng để đi tới xã hội cộng sản”,
“Đánh đổ đế quốc chủ nghĩa Pháp và bọn phong kiến”2.
(2). Lực lượng lãnh đạo cách mạng là Đảng Cộng sản Việt Nam, “đội
tiên phong của vô sản giai cấp”.


(3). Về lý luận dẫn đường, Đảng theo chủ nghĩa Mác-Lênin. Trong Điều
lệ, khi đặt ra “lệ vào Đảng”, vấn đề này được diễn đạt là phải “tin theo chủ nghĩa
cộng sản, chương trình Đảng và Quốc tế Cộng sản”.
(4). Lực lượng cách mạng gồm toàn bộ những người Việt Nam yêu nước.
Cụ thể là: Đảng phải thu phục và lãnh đạo giai cấp vô sản, dân cày; lôi kéo tiểu

tư sản, trí thức, trung nơng, Thanh niên, Tân Việt, tư sản, địa chủ...
(5). Về phương pháp cách mạng: Đảng chủ trương dùng phương pháp
cách mạng bạo lực, “đánh trúc bọn đại địa chủ và phong kiến, đánh đổ ách tư
bản, làm cho nước Việt Nam được hoàn toàn độc lập”.
(6). Về xây dựng xã hội mới, Đảng chủ trương:
- Về phương diện xã hội: 1- Dân chúng được tự do tổ chức; 2- Nam nữ
bình quyền...; 3- Phổ thơng giáo dục theo cơng nơng hóa.
- Về phương diện chính trị: 1- Đánh đổ đế quốc chủ nghĩa Pháp và phong
kiến; 2- Làm cho nước Nam được hoàn toàn độc lập; 3- Dựng ra Chính phủ
cơng nơng binh; 4- Tổ chức ra quân đội công nông.
- Về phương diện kinh tế: 1- Thủ tiêu hết các thứ quốc trái; 2- Thu hết sản
nghiệp lớn của tư bản đế quốc giao cho Chính phủ cơng nơng binh quản lý; 3Chia hết ruộng đất cho dân cày nghèo; 4- Bỏ sưu thuế; 5- Mở mang công nghiệp
và nông nghiệp; 6- Thi hành luật ngày làm 8 giờ.
(7) Về quan hệ quốc tế: tuyên truyền và liên lạc với các dân tộc bị áp bức
và giai cấp vô sản thế giới. Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng có ý nghĩa lý
luận và thực tiễn to lớn, là sự vận dụng đúng đắn, sáng tạo chủ nghĩa Mác-Lênin
vào hoàn cảnh cụ thể của một nước thuộc địa - phong kiến.
1. Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ III của Đảng (9-1960) quyết nghị "...
từ nay sẽ lấy ngày 3 tháng 2 dương lịch mỗi năm làm ngày kỷ niệm thành lập
Đảng"


2. Trong quá trình lãnh đạo cách mạng về sau này, Đảng diễn đạt lại: Làm
cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân tiến lên chủ nghĩa cộng sản, mà giai đoạn
đầu là chủ nghĩa xã hội.
Ý nghĩa lịch sử của sự thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam
Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời là một bước ngoặt vô cùng to lớn trong
lịch sử cách mạng Việt Nam: Chấm dứt sự khủng hoảng về đường lối cứu nước
và tổ chức lãnh đạo phong trào yêu nước ở Việt Nam đầu thế kỷ XX.
Đảng ra đời là kết quả của sự cần thiết tất yếu khách quan của xã hội Việt

Nam, là kết quả của sự kết hợp chủ nghĩa Mác-Lênin với phong trào công nhân
và phong trào yêu nước; đồng thời, có sự đóng góp quan trọng, mang tính quyết
định của lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc - người tìm đường, mở đường và dẫn đường
cho sự phát triển của dân tộc Việt Nam.
II. ĐẢNG LÃNH ĐẠO CÁCH MẠNG VIỆT NAM TỪ 1930 ĐẾN
1975
1. Đảng lãnh đạo đấu tranh giành chính quyền từ 1930-1945
Phong trào cách mạng 1930-1931 diễn ra trong bối cảnh tư bản Pháp trút
những hậu quả từ cuộc khủng hoảng kinh tế của chủ nghĩa tư bản (1929-1933)
lên nhân dân các nước thuộc địa, làm cho nền kinh tế Đơng Dương ngày càng
khó khăn, đời sống của nhân dân ngày càng cực khổ và bế tắc.
Công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội của Liên Xô tiếp tục thu được
những thành tựu quan trọng, cổ vũ nhân dân các thuộc địa đứng lên đấu tranh
chống áp bức giai cấp và nô dịch dân tộc.
Mâu thuẫn giữa chủ nghĩa tư bản độc quyền với giai cấp công nhân, nhân
dân lao động phát triển rất gay gắt, làm bùng lên phong trào đấu tranh ở các
nước tư bản và các nước thuộc địa.
Ở Việt Nam, những mâu thuẫn vốn có trong xã hội càng sâu sắc hơn,


trong đó nổi lên mâu thuẫn giữa dân tộc Việt Nam với thực dân Pháp. Vì vậy,
ngay sau khi thành lập, Đảng chủ trương phát động quần chúng đấu tranh đòi
các quyền tự do, dân chủ, cải thiện đời sống nhân dân, chống khủng bố…
1.1. Phong trào cách mạng quần chúng và Xô viết Nghệ Tĩnh
Dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, từ tháng 9-1930, phong
trào đấu tranh của công nhân, nông dân và các tầng lớp nhân dân lao động ở cả
Bắc Kỳ, Trung Kỳ, Nam Kỳ phát triển lên quy mơ lớn với hình thức đấu tranh
quyết liệt, đỉnh cao là cuộc đấu tranh bạo động, dẫn tới sự ra đời của các Xô viết
cấp xã tại hai tỉnh Nghệ An và Hà Tĩnh. Các chính quyền Xơ viết ra đời đã thực
hiện chức năng của chính quyền cách mạng, giải quyết nhiều vấn đề trên các

lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hóa – xã hội.
Trước sức đấu tranh của quần chúng, thực dân Pháp tiến hành đàn áp,
khủng bố tàn bạo, dìm phong trào đấu tranh ở Nghệ - Tĩnh trong máu lửa1. Mặc
dù bị đàn áp khốc liệt, phong trào cách mạng 1930-1931và Xơ viết Nghệ - Tĩnh

Riêng cuộc biểu tình ngày 12-9-1930 của 8.000 nông dân ba tổng Phù
Long, Thông Lạng (huyện Hưng Nguyên, tỉnh Nghệ An) và Nam Kim (huyện
Nam Đàn, tỉnh Nghệ An), thực dân Pháp cho máy bay ném bom, giết chết 217
người, hơn 125 người bị thương.
nghĩa lịch sử to lớn. Qua cao trào cách mạng, Đảng đã khẳng định quyền
lãnh đạo đối với cách mạng Việt Nam; xây dựng được khối liên minh giai cấp
công nhân và giai cấp nông dân; giác ngộ cách mạng, rèn luyện tinh thần đấu
tranh cho đảng viên và quần chúng nhân dân, chuẩn bị lực lượng cho cách mạng
ở giai đoạn tiếp sau.
Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng và Luận cương Chính trị của
Đảng (10-1930)
Trong bối cảnh phong trào đấu tranh của nhân dân đang bùng lên mạnh


mẽ, từ ngày 12 đến ngày 27-10-1930, Ban Chấp hành Trung ương Đảng họp
Hội nghị tại Hương Cảng để thảo luận và quyết định chủ trương, nhiệm vụ trước
mắt và những nội dung cơ bản của cách mạng Đông Dương.
Hội nghị thơng qua Luận cương Chính trị với nội dung cơ bản sau: Luận
cương xác định rõ mâu thuẫn giai cấp ở Đơng Dương giữa “một bên thì thợ
thuyền, dân cày và các phần tử lao khổ; một bên thì địa chủ, phong kiến, tư bổn
và đế quốc chủ nghĩa”1.
Luận cương xác định thời kỳ đầu tính chất cách mạng Đông Dương, “là
một cuộc cách mạng tư sản dân quyền”, “có tánh chất thổ địa và phản đế”2.
Luận cương xác định cách mạng tư sản dân quyền phải tiến hành đồng
thời hai nhiệm vụ chống đế quốc và phong kiến.

Về lực lượng cách mạng, Luận cương khẳng định: “Trong cuộc cách
mạng tư sản dân quyền, vô sản giai cấp và nơng dân là hai động lực chánh,
nhưng vơ sản có cầm quyền lãnh đạo thì cách mạng mới thắng lợi được”4.
Về phương pháp đấu tranh và hình thức đấu tranh, phải sử dụng bạo lực cách
mạng để đánh đổ ách áp bức của thực dân.
Về con đường phát triển của cách mạng Đông Dương, Luận cương xác
định: Làm cách mạng tư sản dân quyền thắng lợi bỏ qua thời kỳ tư bản, tranh
đấu thẳng lên con đường xã hội chủ nghĩa.
Luận cương nhấn mạnh, Đảng phải liên hệ mật thiết với cách mạng vô sản
thế giới, nhất là vô sản Pháp và cách mạng giải phóng dân tộc ở các thuộc địa và
nửa thuộc địa. Luận cương khẳng định rõ vai trò lãnh đạo của Đảng trong cuộc
cách mạng.
Hội nghị thơng qua Án nghị quyết của Trung ương tồn thể Đại hội về
tình hình hiện tại ở Đơng Dương và nhiệm vụ cần kíp của Đảng1. Hội nghị
quyết định đổi tên Đảng thành Đảng Cộng sản Đông Dương; thông qua Điều lệ
của Đảng; bầu Ban Chấp hành Trung ương Đảng, do đồng chí Trần Phú làm


Tổng Bí thư.
Hội nghị Trung ương Đảng tháng 10-1930 đánh dấu mốc lịch sử quan
trọng, Tuy nhiên, Hội nghị có hạn chế trong việc nhận thức chính xác về mâu
thuẫn và nhiệm vụ chủ yếu của cách mạng ở thuộc địa cũng như vai trò của các
giai cấp, tầng lớp trong khối đại đoàn kết dân tộc.
1.2. Đảng lãnh đạo khôi phục hệ thống tổ chức Đảng và phong trào cách
mạng (1932-1935)
Khôi phục hệ thống tổ chức Đảng và phong trào cách mạng
Trước sự đàn áp dã man của thực dân Pháp, các cơ quan lãnh đạo Đảng,
Trung ương và địa phương lần lượt bị địch phá vỡ, gần như toàn bộ Ban Chấp
hành Trung ương bị bắt. Ở trong nước, các tổ chức cơ sở Đảng l từng bước được
khôi phục và hoạt động trở lại.

Đầu năm 1932, theo Chỉ thị của Quốc tế Cộng sản, Lê Hồng Phong và
một số đồng chí hoạt động trong và ngồi nước tổ chức ra Ban lãnh đạo của
Trung ương Đảng và cơng bố Chương trình hành động của Đảng Cộng sản
Đơng Dương.
Tháng 3-1934, Ban Chỉ huy ở ngoài của Đảng Cộng sản Đông Dương
được thành lập, do Lê Hồng Phong đứng đầu, có nhiệm vụ hoạt động như một
Ban Chấp hành Trung ương lâm thời.
Nhờ sự nỗ lực của các đảng viên; được sự chỉ đạo của Quốc tế Cộng sản,
đến cuối năm 1934 đầu năm 1935, hệ thống tổ chức đảng từng bước được khôi
phục.
Các đảng bộ địa phương Nam Kỳ, Cao Miên, Trung Kỳ, Lào và Bắc Kỳ
đã được tổ chức lại. Cùng với sự phục hồi của tổ chức đảng, phong trào cách
mạng quần chúng cũng từng bước được khôi phục.
Đại hội đại biểu lần thứ nhất của Đảng (3-1935).


Đại hội đại biểu lần thứ nhất của Đảng diễn ra tại Ma Cao (Trung Quốc).
Đại hội thảo luận và đề ra 3 nhiệm vụ chủ yếu trước mắt: Một là, củng cố và
phát triển Đảng; Hai là, đẩy mạnh cuộc vận động quần chúng nhân dân, lập Mặt
trận thống nhất phản đế; Ba là, mở rộng tuyên truyền chống đế quốc, chống
chiến tranh, ủng hộ Liên Xô và ủng hộ cách mạng Trung Quốc.
Đại hội thông qua Điều lệ Đảng Cộng sản Đông Dương và bầu Ban Chấp
hành Trung ương Đảng, do đồng chí Lê Hồng Phong làm Tổng Bí thư.
Đại hội lần thứ nhất của Đảng Cộng sản Đông Dương đánh dấu sự khôi
phục hệ thống tổ chức đảng, nhất là khôi phục được cơ quan lãnh đạo Trung
ương Đảng và sự hồi phục của phong trào cách mạng; tiếp thêm niềm tin cho
đảng viên và quần chúng vào thắng lợi của cách mạng. Tuy vậy, Đại hội vẫn còn
những hạn chế: chưa thể hiện được sự nhạy bén của Đảng trước tình hình mới,
chưa thấy rõ nguy cơ của chủ nghĩa phát xít, chưa thấy rõ sự chuyển biến của
tình hình thế giới và những khả năng mới của phong trào cách mạng trong nước

để từ đó có những điều chỉnh về chủ trương, về nội dung và phương pháp đấu
tranh cho phù hợp.
1.3. Đảng lãnh đạo phong trào đấu tranh đòi dân sinh, dân chủ (19361939)
Bối cảnh lịch sử
Cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới 1929-1933, làm cho mâu thuẫn giữa
hai thế lực trong phe đế quốc chủ nghĩa bị đẩy lên đến đỉnh điểm. Tháng 7-1935,
Đại hội lần thứ VII Quốc tế Cộng sản được tiến hành tại Mátxcơva (Liên Xơ) đã
có sự thay đổi về chủ trương, sách lược để phù hợp với hoàn cảnh mới. Chính
phủ Mặt trận nhân dân Pháp được thành lập (6-1936).
Tại Đơng Dương, chính quyền thuộc địa thi hành một số chính sách cải
thiện về quyền tự do, dân chủ và dân sinh; thả một số lượng lớn tù chính trị, nới
lỏng một số định chế hà khắc; hệ thống tổ chức đảng và phong trào đấu tranh
của nhân dân Đông Dương được hồi phục.


Chủ trương mới của Đảng và phong trào đấu tranh địi dân sinh dân
chủ
Trước những chuyển biến của tình hình, các Hội nghị Ban Chấp hành
Trung ương Đảng tháng 7-1936, tháng 3-1937, xác định mục tiêu đấu tranh
trước mắt là chống chế độ phản động thuộc địa, chống phát xít và chống chiến
tranh đế quốc, đòi dân sinh, dân chủ và bảo vệ hịa bình; hình thức tổ chức và
phương pháp đấu tranh là kết hợp bí mật với cơng khai, hợp pháp, nửa hợp pháp
và không hợp pháp; thành lập Mặt trận nhân dân phản đế Đông Dương (sau đổi
thành Mặt trận Dân chủ Đông Dương). Đồng thời, xây dựng Đảng đáp ứng yêu
cầu, nhiệm vụ cách mạng.
Trong quá trình lãnh đạo phong trào đấu tranh địi dân sinh, dân chủ,
Đảng đã kịp thời và kiên quyết đấu tranh với những quan điểm sai trái với
đường lối, chủ trương của Đảng; thống nhất quan điểm đánh giá đối với những
vấn đề chiến lược, sách lược của Mặt trận Dân chủ, trên cơ sở đó, tăng cường
đồn kết nhất trí trong Đảng. Điều này được thể hiện rõ trong tác phẩm Tự chỉ

trích của Tổng Bí thư Nguyễn Văn Cừ, in trong tập sách Dân chúng, xuất bản
tháng 7- 1939.
1.4. Đảng lãnh đạo đấu tranh giải phóng dân tộc (9/1939-8/1945)
1.4.1. Đưa nhiệm vụ giải phóng dân tộc lên hàng đầu
Tháng 9 năm 1939, Chiến tranh thế giới thứ hai bùng nổ. Ở Đơng Dương,
thực dân Pháp phát xít hóa bộ máy thống trị, thẳng tay đàn áp phong trào cách
mạng, tập trung lực lượng đánh vào Đảng Cộng sản Đông Dương.
Tháng 9- 1940, phát xít Nhật vào Đơng Dương, thực dân Pháp đầu hàng
và cấu kết với Nhật để thống trị, bóc lột nhân dân ta. Nhân dân khắp cả nước nổi
dậy đấu tranh, tiêu biểu là ba cuộc khởi nghĩa liên tiếp nổ ra: Khởi nghĩa Bắc
Sơn (27-9-1940); khởi nghĩa Nam Kỳ (23-11-1940); cuộc nổi dậy của binh lính
Đơ Lương (13-1- 1941).


Trước những chuyển biến của tình hình, Đảng đã nhanh chóng rút vào
hoạt động bí mật và chuyển trọng tâm công tác về nông thôn.Sự thay đổi chiến
lược của Đảng được thể hiện qua nội dung Hội nghị Trung ương 6 (11-1939);
Hội nghị Trung ương 7 (11-1940) và đặc biệt là Hội nghị Ban Chấp hành Trung
ương lần thứ 8 (5-1941) tại Pác Pó - Cao Bằng, do Nguyễn Ái Quốc chủ trì, đã
hồn chỉnh sự thay đổi chiến lược cách mạng được đề ra từ Hội nghị Trung
ương 6 với những nội dung cơ bản sau: Hội nghị xác định mâu thuẫn chủ yếu
giữa dân tộc Việt Nam với đế quốc phát xít Pháp – Nhật.
Hội nghị tiếp tục đặt nhiệm vụ giải phóng dân tộc lên hàng đầu;
chủ trương giải quyết vấn đề dân tộc trong khuôn khổ từng nước Đông
Dương quyết định thành lập ở mỗi nước một mặt trận riêng- Ở Việt Nam, thành
lập Việt Nam độc lập đồng minh
Hội nghị chủ trương sẽ thành lập nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa theo
tinh thần dân chủ mới;
khẩn trương xúc tiến công tác chuẩn bị khởi nghĩa vũ trang.
1.4.2 Xây dựng thực lực cách mạng, phát động cao trào kháng Nhật, cứu

nước
Đảng lãnh đạo nhân dân khẩn trương chuẩn bị mọi mặt cho khởi nghĩa: xây
dựng và củng cố tổ chức đảng, các tổ chức cứu quốc; xây dựng lực lượng chính
trị, lực lượng vũ trang, căn cứ địa cách mạng.
Từ giữa năm 1944, cuộc chiến tranh chống phát xít bước vào giai đoạn
kết thúc. Tổng bộ Việt Minh ban hành Chỉ thị Sửa soạn khởi nghĩa và ra lời kêu
gọi nhân dân sắm sửa vũ khí, đuổi thù chung. Ngày 9-3-1945, phát xít Nhật đảo
chính Pháp. Ngày 12-3-1945, Ban Thường vụ Trung ương Đảng ra Chỉ thị Nhật
- Pháp bắn nhau và hành động của chúng ta và phát động cao trào kháng Nhật,
cứu nước.
Thực hiện Chỉ thị của Ban Thường vụ Trung ương Đảng, các cuộc khởi


nghĩa từng phần và phong trào “Phá kho thóc cứu đói” liên tiếp diễn ra ở nhiều
địa phương. Đây là cuộc đấu tranh rộng lớn và sâu sắc, đi từ hình thức đấu tranh
thấp đến những hình thức cao, kết hợp đấu tranh kinh tế, chính trị, vũ trang,
chuẩn bị cho Tổng khởi nghĩa. Tháng 5-1945, các đơn vị vũ trang tập trung,
gồm Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân và Cứu quốc quân thống nhất
thành Việt Nam giải phóng quân. Tháng 6-1945, Khu giải phóng Việt Bắc ra
đời.
1.4.3 Tổng khởi nghĩa giành chính quyền Tháng Tám năm 1945
Ngay khi nhận được tin Nhật Bản chấp nhận đầu hàng Đồng minh, ngày
13- 8-1945, Trung ương Đảng và Tổng bộ Việt Minh thành lập Ủy ban khởi
nghĩa toàn quốc, ra Quân lệnh số 1, hạ lệnh Tổng khởi nghĩa.
Ngày 14 và 15-8, Hội nghị Đảng toàn quốc họp, quyết định phát động
tồn dân tiến hành Tổng khởi nghĩa giành chính quyền trên phạm vi toàn quốc.
Ngày 16-8-1945, Đại hội quốc dân họp tại Tân Trào, tán thành quyết định
tổng khởi nghĩa, thơng qua 10 chính sách lớn của Việt Minh, lập ra Ủy ban dân
tộc giải phóng Việt Nam tức Chính phủ lâm thời do Hồ Chí Minh làm Chủ tịch.
Tổng khởi nghĩa Tháng Tám đã diễn ra và giành thắng lợi nhanh chóng trong

vịng 15 ngày (từ ngày 14-8 đến 28-8-1945), trong đó, thắng lợi ở Hà Nội (198), Huế (23-8), Sài Gịn (25-8) có ý nghĩa quyết định.
Ngày 2–9-1945, tại cuộc mít tinh lớn ở vườn hoa Ba Đình (Hà Nội), thay
mặt Chính phủ lâm thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc bản Tun ngơn Độc lập,
khai sinh nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa.
2. Đảng lãnh đạo kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược (9/1945–
7/1954)
2.1. Việt Nam sau Cách mạng Tháng Tám năm 1945
Cách mạng Tháng Tám thành cơng, nước Việt Nam Dân chủ Cộng hịa ra


đời, nhân dân tin tưởng vào sự lãnh đạo của Đảng, quyết tâm bảo vệ nền độc lập
mới giành được.
Bên cạnh những thuận lợi, Nhà nước Việt Nam trẻ tuổi phải đương đầu
với mn vàn khó khăn, thách thức, đặc biệt là “nạn đói”, “nạn đốt” và sự chống
phá của các thế lực thù địch.
Ngày 23-9-1945, được quân Anh giúp sức, thực dân Pháp nổ súng đánh
chiếm Sài Gòn, mở đầu cuộc chiến tranh xâm lược Việt Nam lần thứ hai. Vận
mệnh dân tộc Việt Nam, tình thế “như ngàn cân treo sợi tóc”.
2.2. Đường lối kháng chiến chống thực dân Pháp của Đảng
Đường lối kháng chiến được thể hiện rõ trong nhiều văn kiện quan trọng
của Đảng, từ bản
Chỉ thị về Kháng chiến kiến quốc (25-11-1945);
Công việc khẩn cấp bây giờ (5-11-1946);
Chỉ thị Toàn dân kháng chiến (12-12-1946);
Lời kêu gọi tồn quốc kháng chiến của Chủ tịch Hồ Chí Minh (19-121946);
Kháng chiến nhất định thắng lợi của Tổng Bí thư Trường Chinh (8-1947).
Các văn kiện có nội dung cốt lõi của đường lối và tư tưởng chỉ đạo kháng
chiến là “toàn dân, toàn diện, lâu dài, dựa vào sức mình là chính”. Đường lối đó
thể hiện sự đúng đắn, sáng tạo, độc lập, tự chủ của Đảng, là ngọn cờ dẫn dắt,
động lực và tổ chức nhân dân đấu tranh giành thắng lợi trong những năm kháng

chiến lâu dài, gian khổ, anh hùng.
2.3 Đảng lãnh đạo kháng chiến và kiến quốc (1945-1946)
Lãnh đạo kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược


Mặc dù bị phát xít Nhật đảo chính, xóa bỏ bộ máy cai trị đã thiết lập ở Việt
Nam, Đông Dương hơn 80 năm, nhưng thực dân Pháp vẫn âm mưu trở lại nô
dịch nước ta một lần nữa. Trong và sau khi diễn ra Tổng khởi nghĩa tháng Tám,
Chính phủ Pháp đã quyết định thành lập đạo quân viễn chinh để đưa sang Việt
Nam. Được sự dung túng, giúp đỡ của quân Anh và sự “bật đèn xanh” của Mỹ,
đêm 23-9-1945, thực dân Pháp đã nổ súng ở Sài Gòn, mở đầu cuộc chiến tranh
xâm lược Việt Nam lần thứ hai.
Kiên quyết không chịu sự nô dịch, để bảo vệ nền độc lập mới giành được,
dưới sự lãnh đạo của Xứ ủy, Ủy ban nhân dân Nam Bộ, quân và dân Sài Gòn,
Nam Bộ đã nhất tề đứng lên chiến đấu. Trung ương Đảng, Chính phủ và Chủ
tịch Hồ Chí Minh đã tập trung lãnh đạo cuộc kháng chiến ở miền Nam và kêu
gọi, phát động phong trào Nam tiến, phối hợp, ủng hộ cuộc chiến đấu của quân
dân miền Nam Bộ nhằm ngăn chặn hành động chiếm đóng và mở rộng chiến
tranh ra cả nước của thực dân Pháp, làm thất bại chủ trương chiến lược đánh
nhanh thắng nhanh của chúng.
Thực hiện kiến quốc, xây dựng thực lực cách mạng ở miền Bắc
* Khôi phục và từng bước xây dựng kinh tế, xã hội: Đảng và Chính phủ
phát động thi đua sản xuất, thực hành tiết kiệm để giải quyết nạn đói; bãi bỏ các
thứ thuế vơ lý; tịch thu ruộng đất của đế quốc và Việt gian chia cho dân cày
nghèo; giảm tô 25%, miễn thuế cho nông dân các vùng bị thiên tai; mở lại các
hầm mỏ, xí nghiệp;
Phát động “Tuần lễ vàng”, các tầng lớp nhân dân đã đóng góp cho Chính
phủ hàng chục triệu đồng Đông Dương và hàng trăm kilôgam vàng. Để giải
quyết nạn mù chữ, ngày 8-9-1945, Chính phủ ra sắc lệnh thành lập Nha bình dân
học vụ. Chỉ sau một thời gian ngắn, đã có 2,5 triệu người biết đọc, biết viết.

Thắng lợi của diệt giặc đói và diệt giặc dốt có ý nghĩa to lớn về mặt chính trị, xã
hội và văn hóa, củng cố niềm tin của nhân dân vào Đảng và Chính phủ do Chủ
tịch Hồ Chí Minh đứng đầu.


* Xây dựng và củng cố bộ máy chính quyền từ Trung ương đến cơ sở.
Ngày 6-1-1946, cuộc Tổng tuyển cử toàn quốc bầu Quốc hội đầu tiên đã thu
được thắng lợi to lớn. Ngày 2/3/1946, tại kỳ họp đầu tiên, Quốc hội đã thơng
qua danh sách Chính phủ liên hiệp kháng chiến do Chủ tịch Hồ Chí Minh đứng
đầu. Ngày 9-11-1946, tại kỳ họp thứ hai, Quốc hội đã thông qua bản Hiến pháp
dân chủ đầu tiên của nước ta. Các tổ chức, cơ quan thuộc khối nội chính - tư
pháp như Cơng an, Viện kiểm sát, Tịa án, Thanh tra được thành lập và củng cố.
Lực lượng vũ trang được tăng cường về lực lượng và vũ khí, trang bị, huấn
luyện.
Ở các địa phương, nhân dân đã bầu ra Hội đồng nhân dân các cấp. Hội
đồng nhân dân cử ra Ủy ban hành chính thay cho Ủy ban lâm thời được thành
lập trong Tổng khởi nghĩa. Nhằm tăng cường sức mạnh về chính trị, ngày 29-51946, Hội Liên hiệp quốc dân Việt Nam được thành lập để đoàn kết, tập hợp các
đồn thể cứu quốc.Tiếp đó, các đồn thể quần chúng khác lần lượt ra đời đã tạo
thành sức mạnh to lớn làm hậu thuẫn cho chính quyền cách mạng.
*Chống thù trong, giặc ngồi
Để tránh sự cơng kích của kẻ thù và thu hút những người yêu nước tham
gia kháng chiến, kiến quốc, ngày 11-11-1945, Đảng tuyên bố tự giải tán, thực
chất là Đảng rút vào hoạt động bí mật dưới tên gọi mới Hội nghiên cứu chủ
nghĩa Mác ở Đông Dương.
Trước sự chống phá quyết liệt của các thế lực phản động trong nước, mưu
đồ “diệt Cộng, cầm Hồ” của Trung Hoa Dân quốc và dã tâm xâm lược của thực
dân Pháp, Đảng chủ trương nhân nhượng, giao thiệp thân thiện, tránh xung đột
và hịa hỗn có nguyên tắc, lấy “dĩ bất biến ứng vạn biến”, đảm bảo chủ quyền
độc lập dân tộc.
Sau khi quân Trung Hoa Dân quốc và Pháp thỏa thuận ký Hiệp ước Hoa Pháp ngày 28-2-1946, để quân Pháp vào miền Bắc, các hoạt động ngoại giao

Pháp - Việt diễn ra rất khẩn trương. Ngày 3-3-1946, Ban Thường vụ Trung ương


ra Chỉ thị Tình hình và chủ trương, xác định rõ chủ trương của Đảng trong đối
phó với quân Tưởng và đàm phán với Pháp. Ngày 6-3-1946, Chủ tịch Hồ Chí
Minh và Vũ Hồng Khanh đã ký với đại diện Chính phủ Pháp là J.Xanhtơny bản
Hiệp định sơ bộ và một phụ bản về quân sự đi kèm cũng được hai bên ký cùng
một lúc. Hiệp định Sơ bộ buộc Pháp công nhận Việt Nam là một quốc gia tự do
có chính phủ, nghị viện, qn đội, tài chính, ngoại giao riêng. Việc quân Pháp
vào miền Bắc cũng được quy định rõ về số lượng, thời gian và địa điểm.
Ngày 9-3-1946, Ban Thường vụ Trung ương Đảng ra Chỉ thị Hồ để tiến,
giải thích rõ chủ trương hịa hỗn của Đảng trong việc ký Hiệp định Sơ bộ. Việt
Nam chủ động tiến hành một loạt các hoạt động ngoại giao để hịa hỗn, đẩy lùi
nguy cơ chiến tranh, tranh thủ thời gian xây dựng thực lực: Hội nghị Trù bị Đà
Lạt (19-4 đến 10-5); Đoàn đại biểu Quốc hội Việt Nam đi thăm hữu nghị Quốc
hội và nhân dân Pháp (cuối tháng 4 đến cuối tháng 5); Chủ tịch Hồ Chí Minh đi
thăm Pháp (31-5 đến 20-10); đàm phán chính thức Việt – Pháp tại
Phôngtennơblô (6-7 đến 10-9). Trong chuyến thăm Pháp, ngày 14-9-1946, Chủ
tịch Hồ Chí Minh ký với Bộ trưởng Thuộc địa của Pháp Mutê bản Tạm ước Việt
- Pháp, nhân nhượng Pháp một số nội dung về kinh tế, văn hố, thỏa thuận đình
chỉ xung đột ở miền Nam và định thời gian tiếp tục đàm phán. Đầu tháng 111946, Hồ Chí Minh viết văn kiện "Cơng việc khẩn cấp bây giờ" chỉ đạo toàn
Đảng, toàn dân gấp rút chuẩn bị cho tình huống chiến tranh mở rộng ra cả nước.
Lãnh đạo toàn quốc kháng chiến chống thực dân Pháp, giành thắng lợi hoàn toàn
(1946-1954)
Đánh bại hoàn toàn chủ trương “đánh nhanh, thắng nhanh” của thực dân
Pháp (1947)
Cuối năm 1946, khả năng hồ hỗn với thực dân Pháp khơng cịn nữa.
Chúng đưa tối hậu thư địi tước vũ khí của tự vệ Hà Nội, địi kiểm sốt an ninh
trật tự ở thủ đô. Ngày 19-12-1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh ra Lời kêu gọi Tồn
quốc kháng chiến. Hưởng ứng lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến của Chủ tịch

Hồ Chí Minh, quân dân Hà Nội và các đô thị, địa phương từ vĩ tuyến 16 trở ra



×