MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU.......................................................................................................2
NỘI DUNG...........................................................................................................3
I. HÀNG HĨA VÀ THUỘC TÍNH CỦA HÀNG HĨA...................................3
1. Hàng hóa.....................................................................................................3
2. Hai thuộc tính của hàng hóa........................................................................3
3. Lượng giá trị của hàng hóa và các nhân tố ảnh hưởng đến lượng giá trị
của hàng hóa...................................................................................................5
II. QUAN ĐIỂM, CHỦ TRƯƠNG CỦA ĐẢNG VỀ PHÁT TRIỂN NGUỒN
NHÂN LỰC CHẤT LƯỢNG CAO TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY CỦA
NƯỚC TA..........................................................................................................7
1. Quan điểm, chủ trương của Đảng về phát triển nguồn nhân lực................7
2. Phát triển NNL theo tinh thần Đại hội XIII..............................................10
KẾT LUẬN.........................................................................................................12
Tài liệu tham khảo:..............................................................................................14
1
Chủ đề 6. Lượng giá trị và các nhân tố ảnh hưởng tới lượng giá trị. Quan
điểm, chủ trương của Đảng về phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao trong
giai đoạn hiện nay.
LỜI MỞ ĐẦU
Kinh tế chính trị là một môn khoa học xã hội. Tên gọi kinh tế chính trị
xuất hiện do kết hợp các từ có nguồn gốc Hy Lạp với nghĩa là "Thiết chế xã hội"
Danh từ khoa học kinh tế chính trị" được đưa ra vào năm 1615. Từ khi ra đời
đến nay môn khoa học kinh tế chính trị đã trải qua nhiều giai đoạn phát triển.
Qua từng giai đoạn các nhà kinh tế học nổi tiếng trên khắp thế giới đã đề cập
đến rất nhiều vấn đề thuộc phạm trù kinh tế. Đi sâu tìm hiểu, phân tích, giải
thích để nhằm tìm ra được lời giải thích đúng đắn nhất về các vấn đề thuộc
phạm trù kinh tế.
Nếu như đặc trưng của sản xuất tự cấp, tự túc là sản xuất ra những sản
phẩm thỏa mãn nhu cầu trực tiếp của người sản xuất thì sản xuất hàng hóa là sản
xuất ra sản phẩm để trao đổi hay để bán. Toàn bộ lý luận kinh tế của C. mác dựa
vào học thuyết giá trị làm xuất phát điểm, gắn liền với việc nghiên cứu nền sản
xuất hàng hóa với những phạm trù: Giá trị sử dụng, giá trị, hàng hóa, tiền tệ.
Trong nền kinh tế hàng hóa, những vấn đề về học thuyết giá trị được
C.Mác nghiên cứu, cụ thể là về hàng hóa thì có thể thấy yếu tố cơ bản quyết
định đến giá cả hàng hóa chính là lượng giá trị hàng hóa. Với chủ đề “Lượng
giá trị và các nhân tố ảnh hưởng tới lượng giá trị. Quan điểm, chủ trương
của Đảng về phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao trong giai đoạn hiện
nay” sẽ giúp chúng ta hiểu rõ hơn Hàng hóa, thuộc tính của hàng hóa ; Lượng
giá trị của hàng hóa và các nhân tố ảnh hưởng đến lượng giá trị của hàng
hóa;Quan điểm, chủ trương của Đảng về phát triển nguồn nhân lực chất lượng
cao trong giai đoạn hiện nay của nước ta.
2
NỘI DUNG
I. HÀNG HĨA VÀ THUỘC TÍNH CỦA HÀNG HĨA
1. Hàng hóa
Hàng hóa là sản phẩm của lao động có thể thỏa mãn nhu cầu nào đó của
con người thơng qua trao đổi, mua bán.
Có nhiều cách phân loại hàng hóa như: hàng hóa vật thể, hàng hóa phi
vật thể; hàng hóa tiêu dùng, hàng hóa phục vụ sản xuất, v.v..
Hàng hóa có hai thuộc tính: giá trị sử dụng và giá trị.
2. Hai thuộc tính của hàng hóa
- Giá trị sử dụng của hàng hóa
Giá trị sử dụng của hàng hóa là cơng dụng của hàng hóa có thể thỏa mãn
nhu cầu nào đó của con người.
Bất cứ hàng hóa nào cũng có một hay một số cơng dụng nhất định.
Chính cơng dụng đó (tính có ích đó) làm cho hàng hóa có giá trị sử dụng.
Giá trị sử dụng của hàng hóa được phát hiện dần dần trong q trình phát triển
của khoa học - cơng nghệ và của lực lượng sản xuất nói chung. Xã hội càng tiến
bộ, lực lượng sản xuất càng phát triển thì số lượng giá trị sử dụng ngày càng
nhiều, chủng loại giá trị sử dụng càng phong phú.
Giá trị sử dụng của hàng hóa khơng phải là giá trị sử dụng cho người sản
xuất trực tiếp ra nó mà là cho người khác, cho xã hội, thông qua trao đổi, mua
bán. Điều đó địi hỏi người sản xuất hàng hóa phải ln quan tâm đến nhu cầu
của xã hội, làm cho sản phẩm của mình đáp ứng được nhu cầu của xã hội.
Giá trị sử dụng của hàng hóa là vật mang giá trị trao đổi.
- Giá trị của hàng hóa
Muốn hiểu được giá trị của hàng hóa phải đi từ giá trị trao đổi. Giá trị
trao đổi trước hết là một quan hệ về số lượng, là tỷ lệ trao đổi giữa các giá trị
3
sử dụng khác nhau. Ví dụ: 1m vải = 5 kg thóc.
Để trao đổi với nhau, trước hết chúng phải có giá trị sử dụng khác nhau.
Đồng thời, chúng lại có thể trao đổi được với nhau vì giữa chúng tồn tại điểm
chung: đều là sản phẩm của lao động, đều được kết tinh bởi lao động. Nhờ đó,
chúng có thể trao đổi cho nhau.
Như vậy, giá trị của hàng hóa là lao động xã hội của người sản xuất
hàng hóa kết tinh trong hàng hóa. Chất của giá trị là lao động. Lượng của giá
trị là số lượng lao động của người sản xuất kết tinh trong hàng hóa. Giá trị là cơ
sở của giá trị trao đổi, còn giá trị trao đổi là hình thức biểu hiện của giá trị.
Sở dĩ hàng hóa có hai thuộc tính là vì lao động sản xuất hàng hóa có tính
hai mặt: lao động cụ thể và lao động trừu tượng.
+ Lao động cụ thể
Lao động cụ thể là lao động có ích dưới một hình thức cụ thể của những
nghề nghiệp chun mơn nhất định.
Mỗi lao động cụ thể có mục đích, phương pháp, cơng cụ lao động, đối
tượng lao động và kết quả lao động riêng. Chính những cái riêng đó phân biệt
các loại lao động cụ thể khác nhau. Chẳng hạn, lao động của người thợ xây và
lao động của người trồng lúa là hai loại lao động cụ thể khác nhau. Lao động
của người thợ xây thì xây nên ngơi nhà để ở, cịn lao động của người trồng lúa
thì tạo ra thóc để ăn, v.v.. Như vậy, lao động cụ thể tạo ra giá trị sử dụng của
hàng hóa.
Khoa học, cơng nghệ và lực lượng sản xuất càng phát triển, càng có nhiều
hình thức cụ thể của lao động, do đó xã hội càng sản xuất ra nhiều chủng loại
hàng hóa. Chúng ngày càng phong phú, đa dạng hơn. Năng suất lao động càng
tăng, trình độ khoa học, cơng nghệ càng hiện đại thì số lượng hàng hóa sản
xuất ra càng nhiều với chất lượng ngày càng tốt hơn.
+ Lao động trừu tượng
4
Lao động trừu tượng là lao động của người sản xuất hàng hóa khi đã gạt
bỏ những hình thức cụ thể của nó và quy về một thể chung đồng nhất, đó chính
là sự tiêu phí sức lao động nói chung (cả thể lực và trí lực) của người sản xuất
hàng hóa.
Lao động trừu tượng tạo ra giá trị của hàng hóa. Giá trị hàng hóa chính là
lao động trừu tượng của người sản xuất hàng hóa kết tinh trong hàng hóa. Nhờ
lao động trừu tượng mà ta tìm thấy sự đồng nhất giữa những người sản xuất, do
đó thấy được cơ sở của quan hệ kinh tế giữa những người sản xuất hàng hóa.
Lao động trừu tượng là cơ sở để người sản xuất hàng hóa trao đổi sản phẩm với
nhau.
3. Lượng giá trị của hàng hóa và các nhân tố ảnh hưởng đến lượng giá trị
của hàng hóa
Thước đo lượng giá trị hàng hóa tính bằng thời gian lao động. Trên thị
trường, có nhiều cá nhân, cơ sở sản xuất cùng sản suất ra một loại hàng hóa với
mức hao phí thời gian khác nhau nên lượng giá trị hàng hóa khơng thể tính theo
thời gian lao động cá biệt, mà là đo bằng thời gian lao động xã hội cần thiết.
Thời gian lao động xã hội cần thiết là thời gian lao động để sản xuất ra
một hàng hóa nào đó trong những điều kiện sản xuất trung bình của xã hội, với
một trình độ thành thạo trung bình, với một trình độ trang thiết bị trung bình và
một cường độ lao động trung bình trong xã hội đó.
Có hai cách xác định thời gian lao động xã hội cần thiết: Thứ nhất, tính
tổng số thời gian lao động cá biệt chia bình quân cho tổng số đơn vị hàng hóa
đó. Thứ hai, thời gian lao động xã hội cần thiết tương đương với thời gian lao
động cá biệt của cơ sở sản xuất chiếm phần lớn thị phần hàng hóa đó.
Trong điều kiện tồn cầu hóa nền kinh tế hiện nay, thời gian lao động xã
hội cần thiết sản xuất ra hàng hóa khơng chỉ xét trong phạm vi thị trường một
nước mà mở rộng ra quốc tế. Vì thế, hàng hóa trong nước nếu có hao phí thời
gian lao động nhiều sẽ gặp phải sự bất lợi trong cạnh tranh.
5
Lượng giá trị hàng hóa chịu tác động của các nhân tố sau:
- Năng suất lao động
Năng suất lao động là năng lực sản xuất của người lao động, được đo
lường bởi số lượng của sản phẩm sản xuất ra trong một đơn vị thời gian, hoặc
thời gian để sản xuất ra một đơn vị sản phẩm.
Khi năng suất lao động tăng thì số lượng sản phẩm làm ra trong một đơn
vị thời gian sẽ tăng hay số lượng thời gian lao động hao phí để sản xuất ra một
đơn vị sản phẩm sẽ giảm. Do đó, lượng giá trị của một hàng hóa giảm xuống,
giá cả hàng hóa sẽ rẻ hơn.
Khi năng suất lao động giảm thì số lượng sản phẩm làm ra trong một
đơn vị thời gian sẽ giảm hay số lượng thời gian lao động hao phí để sản xuất ra
một đơn vị sản phẩm sẽ tăng. Do đó, lượng giá trị của một hàng hóa tăng, hàng
hóa sẽ đắt hơn.
Như vậy, lượng giá trị của một đơn vị hàng hóa biến đổi ngược chiều với
năng suất lao động.
Muốn tăng năng suất lao động để giảm giá trị và giá cả, tăng sức cạnh
tranh của hàng hóa phải khai thác tốt các yếu tố như: trình độ khéo léo (thành
thạo) của người lao động; mức độ phát triển của khoa học, công nghệ và sự
ứng dụng những thành tựu đó vào sản xuất; trình độ tổ chức quản lý; quy mô
và hiệu suất của tư liệu sản xuất, và các điều kiện tự nhiên.
- Cường độ lao động
Cường độ lao động là mức độ khẩn trương lao động, mật độ hao phí sức
lao động trong một đơn vị thời gian.
Khi cường độ lao động tăng lên thì số lượng hàng hóa sản xuất ra tăng
lên, nhưng hao phí lao động trừu tượng cũng tăng lên. Do đó, lượng giá trị của
một đơn vị sản phẩm không giảm. Tăng cường độ lao động có ý nghĩa đối với
những cơng việc có tính chất mùa vụ, cần sự khẩn trương hoặc khi trình độ sản
xuất chưa tăng lên nhưng cần tăng sản lượng trong thời gian ngắn.
6
- Mức độ phức tạp của lao động.
Theo mức độ phức tạp của lao động có thể chia lao động thành lao động
giản đơn và lao động phức tạp.
+ Lao động giản đơn là lao động mà bất kỳ một người lao động có sức
khỏe bình thường nào khơng cần phải trải qua đào tạo tích lũy kinh nghiệm
nhiều cũng có thể thực hiện được.
+ Lao động phức tạp là lao động đòi hỏi phải được đào tạo, huấn luyện
thành chun mơn lành nghề nhất định mới có thể tiến hành được.
Trong cùng một thời gian, lao động phức tạp tạo ra nhiều giá trị hơn lao
động giản đơn. Thị trường sẽ quyết định tỷ lệ trao đổi giữa đơn vị hàng hóa do
lao động phức tạp sản xuất với đơn vị hàng hóa do lao động giản đơn sản xuất
ra.
II. QUAN ĐIỂM, CHỦ TRƯƠNG CỦA ĐẢNG VỀ PHÁT TRIỂN NGUỒN
NHÂN LỰC CHẤT LƯỢNG CAO TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY CỦA
NƯỚC TA
1. Quan điểm, chủ trương của Đảng về phát triển nguồn nhân lực
Về nguồn nhân lực (NNL) , nhất là NNL chất lượng cao, từ Đại hội XI,
Đảng ta đã khẳng định: “Phát triển nhanh NNL nhất là NNL chất lượng cao, tập
trung vào việc đổi mới căn bản và toàn diện nền giáo dục quốc dân; gắn kết chặt
chẽ phát triển NNL với phát triển và ứng dụng khoa học, công nghệ”. Kết quả
thực hiện đột phá này, Đại hội XII đánh giá: “Phát triển NNL và khoa học, công
nghệ đạt được những kết quả tích cực”. Tuy nhiên, “Phát triển NNL và ứng
dụng khoa học, cơng nghệ cịn chậm. Chất lượng giáo dục, đào tạo, nhất là giáo
dục đại học và đào tạo nghề cải thiện còn chậm, thiếu lao động chất lượng cao.
Hệ thống giáo dục cịn thiếu tính liên thông, chưa hợp lý và thiếu đồng bộ”;
“Khoa học, công nghệ chưa thực sự trở thành động lực để nâng cao năng suất
lao động, năng lực cạnh tranh, thúc đẩy phát triển kinh tế – xã hội…”.
7
Tại Đại hội XIII, Đảng tiếp tục nhấn mạnh về phát triển NNL một cách
toàn diện hơn, đầy đủ hơn và chính xác hơn. Báo cáo Chính trị Đại hội XIII bổ
sung ưu tiên “Phát triển NNL cho công tác lãnh đạo, quản lý và các lĩnh vực
then chốt trên cơ sở chú trọng nâng cao, tạo bước chuyển biến mạnh mẽ, toàn
diện, cơ bản về chất lượng giáo dục, đào tạo gắn với cơ chế tuyển dụng, sử
dụng, đãi ngộ nhân tài, đẩy mạnh nghiên cứu, chuyển giao, ứng dụng và phát
triển khoa học – công nghệ, đổi mới sáng tạo; khơi dậy khát vọng phát triển đất
nước phồn vinh, hạnh phúc, phát huy giá trị văn hóa, sức mạnh con người Việt
Nam, tinh thần đoàn kết, tự hào dân tộc trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ
Tổ quốc”1.
Trên cơ sở tổng kết việc thực hiện Nghị quyết Đại hội XII về thực hiện
đột phá về NNL, các văn kiện Đại hội XIII đã đề ra nhiệm vụ cụ thể hơn rất
nhiều so với Đại hội XI, XII của Đảng. Văn kiện Đại hội XIII yêu cầu, ưu tiên
phát triển NNL cho các lĩnh vực then chốt; tạo bước chuyển biến cơ bản về chất
lượng giáo dục, đào tạo; đẩy mạnh chuyển giao, ứng dụng và phát triển khoa
học – công nghệ; đổi mới sáng tạo, khơi dậy khát vọng phát triển, phát huy giá
trị văn hóa, sức mạnh con người Việt Nam.
Với sự ưu tiên phát triển NNL chất lượng cao đã được đề ra trong Văn
kiện Đại hội XIII cho thấy, đường lối, chủ trương về phát triển NNL ở nước ta
theo xu hướng đáp ứng được chất lượng, yêu cầu trong bối cảnh thế giới hiện
nay đó là cách mạng cơng nghiệp 4.0, kinh tế số, cạnh tranh, hội nhập quốc tế,
đó là ưu tiên phát triển nhanh, bền vững… Đây cũng là bước đột phá chiến lược
trong điều kiện trình độ phát triển kinh tế – xã hội còn thấp khi bước vào nền
kinh tế tri thức, cách mạng công nghiệp 4.0, hội nhập quốc tế… Do đó, yêu cầu
nâng cao chất lượng NNL, nhất là trí lực có ý nghĩa quyết định tới sự thành công
của sự nghiệp đổi mới và phát triển bền vững. Nguồn lực con người, vốn, tài
nguyên thiên nhiên, cơ sở vật chất – kỹ thuật, khoa học – công nghệ… có mối
quan hệ nhân – quả với nhau, trong đó NNL được xem là nguồn lực quan trọng
nhất, chi phối các nguồn lực khác và quá trình phát triển kinh tế – xã hội của
8
mỗi quốc gia. So với các nguồn lực khác, NNL với yếu tố hàng đầu là trí tuệ,
chất xám có ưu thế nổi bật là không bị cạn kiệt nếu biết bồi dưỡng, khai thác và
sử dụng hợp lý.
Tuy nhiên, để phát triển được NNL chất lượng cao cần có chiến lược và
giải pháp mang tính lâu dài, nhất là phải tạo đột phá về chất lượng giáo dục và
đào tạo, nếu không, chủ trương phát triển NNL chất lượng cao khó thực hiện
được.
Khi nói về NNL, người ta có thể đề cập đến 3 góc độ: số lượng (hay quy
mô), chất lượng và cơ cấu NNL. Số lượng NNL thể hiện thông qua chỉ tiêu quy
mô và tốc độ tăng NNL. Về chất lượng, NNL được xem xét trên các mặt: sức
khỏe, trình độ văn hóa, trình độ chun mơn, năng lực, phẩm chất, đạo đức…
(hay cịn gọi là thể lực, trí lực và tâm lực). Khó khăn, thách thức trong phát triển
NNL ở nước ta diễn ra cả 3 góc độ từ số lượng, chất lượng và cơ cấu NNL.
Theo thống kê của FAMIL (Trung tâm Dự báo nhu cầu nhân lực và
Thông tin thị trường lao động thành phố Hồ Chí Minh) trong năm 2020, lao
động ở Việt Nam tiếp tục tăng trưởng, có sự chuyển dịch từ sử dụng nhóm lao
động đơn giản sang nhóm có trình độ cao. Trong số 110.172 lượt người có nhu
cầu tìm việc trong năm 2020 có đến 94,78 lao động qua đào tạo, trong đó đại
học trở lên chiếm 66,57%, cao đẳng chiếm 15, 82% và trung cấp chỉ chiếm
6,72%. Các tỷ lệ này chủ yếu tập trung ở các ngành: tài chính – ngân hàng, kế
tốn, kiểm tốn, cơng nghệ thông tin, quản trị kinh doanh, quản lý điều hành và
marketing – quan hệ cơng chúng. Nhu cầu tìm việc ở lao động chưa qua đào tạo
chiếm tỷ lệ rất khiêm tốn: 5,22% sơ cấp nghề, công nhân kỹ thuật 5,67%.
Tuy phát triển nhanh nhưng chất lượng NNL còn nhiều hạn chế. Lao động
có tay nghề cao vẫn chưa đáp ứng được nhu cầu của thị trường và hội nhập. Ở
các cơng ty, nhà xưởng cơ khí, những vị trí địi hỏi kỹ thuật cao vẫn thường do
lao động nước ngồi đảm nhận. Khơng chỉ vậy, khoảng cách giữa giáo dục nghề
nghiệp và nhu cầu thị trường vẫn còn rất lớn. Hằng năm, có hàng ngàn sinh viên
tốt nghiệp ra trường nhưng các doanh nghiệp vẫn trong tình trạng khan hiếm lao
9
động ở nhiều vị trí. Bên cạnh đó, trình độ ngoại ngữ của NNL Việt Nam chưa
cao. Vì thế, Việt Nam gặp nhiều khó khăn trong q trình hội nhập.
Các khó khăn, thách thức cịn đến từ q trình cơng nghiệp hóa, hiện đại
hóa bởi trong q trình cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa, lao động chất lượng cao
đóng vai trò quan trọng. Việt Nam cần tăng cường nhân lực chất lượng cao ở cả
3 nhóm: lãnh đạo quản lý, khoa học công nghệ và lao động kỹ thuật. Bên cạnh
đó, cịn thách thức từ một loạt các vấn đề cốt lõi, như: giáo dục và đào tạo, thống
kê và dự báo, tuyển dụng và sử dụng… vẫn còn mang hơi hướng quan liêu tập
trung, thậm chí cịn ở mức lạc hậu.
2. Phát triển NNL theo tinh thần Đại hội XIII
Để phát triển NNL theo tinh thần Đại hội XIII cần chú ý quan tâm đến
một số nội dung:
Thứ nhất, cần hiểu đúng NNL chất lượng cao để có chính sách tập trung
phát triển. Quan niệm về “NNL chất lượng cao” cũng có nơi, có lúc cịn bị hiểu
sai lệch, đồng nhất với bằng cấp, trình độ. NNL chất lượng cao là để chỉ các đối
tượng lao động làm thông thạo bất kỳ một nghề nào đó, việc thành thạo đó khiến
họ trở thành một lao động giỏi và kỹ năng chun mơn tốt trong nghề của mình.
Là NNL đào tạo chuyên sâu để đáp ứng được yêu cầu khắt khe về chất lượng
đào tạo và tay nghề của thị trường lao động hiện nay.
Để phát huy vai trò của NNL cao, Nhà nước cần tiến hành điều tra, khảo
sát thường xuyên về nhân lực và chất lượng nhân lực ở tất cả các ngành, các cấp,
địa phương và cả nước; bảo đảm cân đối cung – cầu nhân lực để phát triển kinh
tế – xã hội trong phạm vi cả nước và từng ngành, từng cấp. Đây là giải pháp
giúp chúng ta xác định được số lượng, chất lượng và cơ cấu NNL.
Thứ hai, xây dựng chiến lược, quy hoạch cụ thể theo ngành nghề then
chốt để phát triển đất nước nhanh và bền vững. Tập trung vào một số mũi nhọn,
như: kinh tế tri thức, kinh tế số, phân tích dữ liệu, cơng nghệ sinh học, vật liệu
10
mới, thương mại điện tử, ứng phó với biến đổi khí hậu, quản trị phát triển xã
hội…
Thứ ba, đổi mới chất lượng giáo dục, đào tạo theo hướng quản lý chất
lượng giáo dục, đào tạo, đồng thời tăng quyền tự chủ của các cơ sở đào tạo.
Giao cho một số cơ quan nhà nước cùng với các tổ chức xã hội nghề nghiệp
nhanh chóng xây dựng các cơ sở đánh giá và kiểm định chất lượng lao động qua
đào tạo, cấp giấy phép hành nghề. Đối với cán bộ, công chức, viên chức cũng
cần được kiểm định chất lượng đầu vào để bảo đảm chất lượng cần có của mỗi
cán bộ, công chức, viên chức, bảo đảm chất lượng trong cơ quan nhà nước, tránh
việc tuyển dụng dựa vào mối quen thân, nể nang…
Thứ tư, bảo đảm chất lượng và hiệu quả của công tác quy hoạch, bổ
nhiệm, thi tuyển và đãi ngộ. Làm tốt công tác này sẽ tạo ra những chuyển biến
tích cực, bền vững về mặt số lượng và chất lượng cũng như sự phân bổ hợp lý
NNL. Để thu hút, trọng dụng nhân tài và NNL chất lượng cao, việc đãi ngộ là
một nội dung cần được chú trọng bởi việc sắp xếp cán bộ đúng chuyên mơn,
phát huy được khả năng, có chế độ lương, thưởng thỏa đáng sẽ giúp họ có thể
yên tâm, có điều kiện tồn tâm, tồn ý cho cơng việc.
Bởi, theo Nghị quyết Đại hội XIII, điểm mấu chốt trong giai đoạn phát
triển mới hiện nay là là ưu tiên phát triển NNL cho công tác lãnh đạo, quản lý.
Với sự phát triển của đất nước, chất lượng đội ngũ lãnh đạo quản lý luôn là vấn
đề quyết định. Giai đoạn nào cũng cần những người lãnh đạo, người đứng đầu
có năng lực phẩm chất, có năng lực quản trị tốt nhằm góp phần đưa đất nước
phát triển. Có lãnh đạo đủ tâm, đủ tầm, phong trào sẽ đi lên và ngược lại. Tuy
nhiên, cần phải xác định được tiêu chuẩn cho từng nhóm vị trí việc làm và
khung năng lực cụ thể cho mỗi vị trí việc làm đó để từ đó dễ dàng lựa chọn
người lãnh đạo, quản lý.
Việc phát triển NNL, nhất là NNL lãnh đạo quản lý thì cần phải đổi mới
hoạt động đào tạo, bồi dưỡng theo hướng nâng cao chất lượng chứ không phải
yêu cầu về chứng chỉ như hiện nay. Các chương trình đào tạo, bồi dưỡng nên tổ
11
chức trong khoảng thời gian ngắn nhưng cần được cập nhật thường xuyên hằng
năm.
Thứ năm, thực hiện đẩy mạnh chuyển giao, ứng dụng và phát triển khoa
học – công nghệ; đổi mới sáng tạo, khơi dậy khát vọng phát triển, phát huy giá
trị văn hóa, sức mạnh con người Việt Nam. Để phát triển nhanh phải phát triển
dựa vào đổi mới sáng tạo trên cơ sở đẩy mạnh ứng dụng khoa học, công nghệ
hiện đại. Đồng thời, phát huy hệ giá trị văn hóa, sức mạnh con người Việt Nam
theo đúng tinh thần Đại hội XIII của Đảng: “Thực hiện những giải pháp đột phá
nhằm ngăn chặn có hiệu quả sự xuống cấp về đạo đức, lối sống, đẩy lùi tiêu cực
và các tệ nạn xã hội. Bảo vệ và phát huy các giá trị tốt đẹp, bền vững trong
truyền thống văn hoá Việt Nam. Đẩy mạnh giáo dục, nâng cao nhận thức, ý thức
tôn trọng và chấp hành pháp luật, bảo vệ mơi trường, giữ gìn bản sắc văn hố,
dân tộc của người Việt Nam, đặc biệt là thế hệ trẻ. Từng bước vươn lên khắc
phục các hạn chế của con người Việt Nam; xây dựng con người Việt Nam thời
đại mới, gắn kết chặt chẽ, hài hoà giữa giá trị truyền thống và giá trị hiện đại”2.
Với những đột phá được xác định trong báo cáo chính trị Đại hội đại biểu
toàn quốc lần thứ XIII khẳng định một lần nữa sự ưu tiên phát triển NNL của
Đảng ta. Do đó, việc nghiên cứu đưa Nghị quyết của Đảng vào cuộc sống là việc
cần thiết để các cấp, các ngành triển khai vào q trình xây dựng, hoạch định
chính sách về phát triển NNL chất lượng cao ở nước ta trong giai đoạn hiện nay.
KẾT LUẬN
Qua việc nghiên cứu “Lượng giá trị và các nhân tố ảnh hưởng tới lượng
giá trị. Quan điểm, chủ trương của Đảng về phát triển nguồn nhân lực chất
lượng cao trong giai đoạn hiện nay” nó đã mang lại cho mỗi người, cho xã hội,
cho chính phủ, cho thế giới những ý nghĩa quan trọng. Để xã hội ngày càng phát
triển thì việc phát triển kinh tế và nguồn nhân lực là một trong những nhân tố
rất quan trọng. Mà muốn kinh tế phát triển thì hiểu được đúng đắn các quy luật
kinh tế trong tự nhiên, trong xã hội là không thể thiếu được. Với sự áp dụng khá
đúng đắn các nghiên cứu vào thực tiễn Đảng và Nhà nước ta đã đưa nền kinh tế
12
nước nhà ngày càng vươn cao và hội nhập với nền kinh tế thế giới. Khi nghiên
cứu phạm trù này, chúng ta đang là những người sinh viên thế hệ trẻ của đất
nước có sức khoẻ có kiến thức, chúng ta phải làm gì để nước nhà càng phát triển
? Đó là một câu hỏi lớn, nhưng câu trả lời lại nằm trong mỗi tiềm thức của thế
hệ trẻ chúng ta. Có một danh nhân nào đó đã từng có lời khun "trẻ khơng học
thì già phải hối hận", đó là một sự đúc kết rất đúng đắn qua kinh nghiệm sống.
Vâng, thế hệ trẻ của chúng ta ngay bây giờ hãy có gắng thật nhiều, đang ngồi
trên ghề nhà trường điều quan trọng lúc này là học tập và học tập. Ln tìm hiểu
khám phá khơng chỉ những kiến thức trong nhà trường mà những kinh nghiệm
va chạm cuộc sống xã hội cũng rất quan trọng. Tất cả chúng ta, ai cũng muốn
sống trong một xã hội tiến bộ. Vậy chúng ta hãy cố gắng thật nhiều để vì một xã
hội Việt Nam ngày càng phát triển hơn, văn minh hơn, tươi đẹp hơn. Việt Nam
rồi sẽ trở thành con rồng Châu á, trở thành cường quốc kinh tế lớn trên thế giới.
Chúng ta hãy tin rằng điều đó sẽ trở thành sự thật trong một tương lai gần. Điều
đó sẽ xảy ra nhanh hay chậm thì phụ thuộc rất nhiều vào thế hệ trẻ chúng ta hãy
tin vào chính bản thân chúng ta để vì một xã hội Việt Nam tiến bộ.
NGƯỜI VIẾT THU HOẠCH
Tài liệu tham khảo:
1. Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh: Giáo trình Trung cấp Lý luận
chính trị: Nội dung cơ bản của chủ nghĩa Mác- Lênin, Nxb. Lý luận chính trị,
H.2021
13
2. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII. Tập 1. H. NXB Chính trị
quốc gia sự thật, năm 2021, tr. 203, 143.
3. Nguyễn Thị Tuyết Mai. Một số vấn đề về phát triển nguồn nhân lực chất
lượng cao ở Việt Nam. Tạp chí Tổ chức nhà nước, tháng 11/2016.
4. Phạm Thị Hạnh. Phát triển nâng cao chất lượng nguồn nhân lực trong bối
cảnh cách mạng công nghiệp lần thứ tư. Tạp chí Cộng sản, tháng 2/2020.
14