Tải bản đầy đủ (.doc) (162 trang)

THƠ LỤC BÁT ĐỒNG ĐỨC BỐN LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC NGỮ VĂN

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (571.7 KB, 162 trang )

MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU
I. Lí do chọn đề tài
1. Lục bát là một thể thơ truyền thống, một thể loại thi ca đặc thù của
văn học Việt Nam, mang trong nó hồn phách của dân tộc Việt Nam. Thậm chí
có người còn cho rằng: “Nếu Đường thi là báu vật của Trung Quốc thì Lục
Bát là báu vật của Việt Nam” (Hoàng Trung Hiếu) và nói như nhà nghiên cứu
phê bình Chu Văn Sơn: “Nếu chọn loài cây Việt tiêu biểu nhất, đó hẳn phải là
cây tre. Nếu chọn loài hoa Việt tiêu biểu nhất, đó hẳn là hoa sen. Nếu chọn
trang phục Việt tiêu biểu nhất, đó hẳn là chiếc áo dài. Nếu chọn nhạc khí Việt
tiêu biểu nhất, đó hẳn là cây đàn bầu…Cũng như thế, nếu chọn trong nền thơ
ca phong phú của ta một thể thơ làm đại diện dự cuộc giao lưu thơ toàn cầu,
hẳn đó phải là Lục bát” (Sức sống mãnh liệt của lục bát). Thể thơ được đa số
người cho là “quốc thi” này mang trong nó bao quốc hồn, quốc túy. Đây là
thể loại có khả năng to lớn trong việc diễn tả những cung bậc, trạng thái cảm
xúc của con người. Nhịp của lục bát dường như khớp với nhịp của trái tim
con người đất Việt, khớp với nhịp suy tư, nhịp cảm xúc của con người đất
Việt. Ở đâu có buồn vui, ở đó có lục bát. Ở đâu có nam thanh, nữ tú, ở đó có
lục bát. Cho nên, tâm hồn Việt Nam đến với lục bát như một lẽ tự nhiên. Thơ
lục bát gần gũi với tâm hồn Việt cũng như vậy: lục bát ở bến nước, gốc đa;
lục bát ở ruộng cày, ở cuối thác, đầu ghềnh, đỉnh dốc; lục bát ở trên cành sen
hay trên nụ tầm xuân xanh biếc… Lục bát là máu chảy trong huyết quản để
nuôi sống tâm hồn người Việt bao thế hệ.
Do vậy, trong suốt quá trình phát triển của nền văn học dân tộc, thể thơ
này luôn được đề cao và đã có rất nhiều thành công, những kết tinh. Sự dung
dị, mềm mại và khả năng dung nạp được cùng lúc nhiều nội dung đa dạng của
đời sống và tâm tư đã khiến cho thể thơ này có sức sống trường tồn. Lục bát
1
quyện vào hồn người từ những điệu hát ru à ơi bên cánh võng đến những câu
ca dao ngọt lịm hương đồng trong những đêm sông nước đồng quê như:
“ Cô kia tát nước bên đàng


Sao cô múc ánh trăng vàng đổ đi”
Hay những câu ca dao đầy ắp nhớ mong, khắc khoải:
“Nhớ ai bổi hổi bồi hồi
Như đứng đống lửa như ngồi đống rơm”
Thơ lục bát không chỉ kết tinh trong ca dao mà còn được sử dụng khá
nhiều trong văn học trung đại. Những dòng sông lục bát đã chảy xuyên qua
tâm thức nhiều thế hệ Việt Nam, bồi đắp phù sa cho bao tâm hồn Việt Nam
như Truyện Kiều, Lục Vân Tiên, Hoa tiên ký, Phạm Công – Cúc Hoa… Đến
Thơ mới, các nhà thơ tìm đến lục bát như một sự hòa điệu. Trong làn mưa Âu
gió Mĩ, họ đã bắt nhịp nhanh với lục bát, nâng cao lên theo thi pháp hiện đại
với những tên tuổi như Nguyễn Bính, Huy Cận, Thế Lữ, Xuân Diệu,…Trải
qua thời kì kháng chiến trường kì gian khổ (gắn với cây lục bát Tố Hữu), đến
hôm nay, các nhà thơ vẫn không ngừng ca lên những bài lục bát ngọt ngào,
sâu lắng nhưng mang đậm hơi thở của cuộc sống hiện đại với những tên tuổi
nổi bật như Nguyễn Duy, Bùi Giáng, Đồng Đức Bốn, Nói như TS Chu Văn
Sơn thì : “Thơ lục bát qua một thế kỷ về sau càng hiện đại so với hồi đầu.
Chứng tỏ thơ lục bát vẫn trường tồn gắn bó máu thịt với tâm hồn Việt trên
con đường hiện đại. Lục bát là tài sản thiêng liêng của nền văn hoá Việt.
Chừng nào thế giới còn chưa thấu hiểu vẻ đẹp của lục bát. Chừng ấy họ chưa
hiểu vẻ đẹp của thơ Việt Nam. Và chừng nào ta còn chưa làm cho thế giới
tiếp nhận được vẻ đẹp của lục bát. Chừng ấy nền thơ Việt vẫn còn chưa thực
sự làm tròn sứ mạng của mình”…
Thơ lục bát là nơi hội tụ tinh hoa của thơ ca Việt. Nhưng trong xu
hướng dân chủ hóa và cách tân mạnh mẽ của văn học đương đại, liệu thể thơ
2
lục bát còn được nâng niu, trân trọng hay không? Liệu dòng chảy bạt ngàn
vô tận của lục bát có cập bến tâm hồn người Việt hôm nay hay không?
2. Đồng Đức Bốn là một trong những nhà thơ lục bát tiêu biểu của văn
học đương đại trong vài thập niên gần đây. Ông “đại náo” ( Dư Thị Hoàn)
làng văn Việt Nam bằng thanh gươm lục bát của riêng mình và dành được

một vị trí mà nhiều người ao ước. Ông được coi là “vị cứu tinh của thơ lục
bát” ( Nguyễn Huy Thiệp), là người “xông thẳng vào trận địa lục bát và chỉ
một thời gian ngắn đã trở thành ông vua trẻ của thể loại này” (Phạm Tiến
Duật). Ông sáng tác thơ lục bát với số lượng lớn và có nhiều bài thơ xuất sắc,
được giới nghiên cứu phê bình đánh giá cao và nhiều người thuộc lòng. Thơ
lục bát của Đồng Đức Bốn có nét độc đáo riêng, khó lẫn về nội dung cảm xúc
và hình thức biểu đạt. Tuy nhiên, chưa có công trình nào nghiên cứu một cách
có hệ thống và toàn diện về thơ lục bát của ông. Mặt khác, đánh giá về thơ lục
bát Đồng Đức Bốn vẫn còn nhiều ý kiến chưa thống nhất. Nghiên cứu về thơ
lục bát của Đồng Đức Bốn, do vậy, là một việc làm cần thiết - để người đọc
có được cái nhìn rõ hơn và toàn diện hơn về thơ lục bát của tác giả này.
3. Chọn đề tài “Thơ lục bát của Đồng Đức Bốn” còn xuất phát từ
niềm yêu thích thơ lục bát nói chung và thơ lục bát của Đồng Đức Bốn nói
riêng của người viết. Mong muốn của chúng tôi là muốn tìm hiểu, lí giải, cắt
nghĩa cái hay cái đẹp của lục bát Đồng Đức Bốn; qua đó góp phần giới thiệu
một hồn thơ lục bát tiêu biểu của nền thơ ca đương đại với bạn đọc.
II. Lịch sử vấn đề
1. Lịch sử vấn đề nghiên cứu thơ lục bát
Được mệnh danh là “mẹ của thi ca”, từ lâu, thể thơ lục bát đã được các
nhà nghiên cứu quan tâm từ rất sớm. Các tác giả Dương Quảng Hàm, Hoa
Bằng, Đặng Việt Thanh, Nguyễn Văn Hoàn, Nguyễn Lân, Nguyễn Hồng
Phong,… nghiên cứu đến vấn đề nguồn gốc và bài thơ lục bát cổ nhất. Các
3
tác giả Lê Bá Hán, Mã Giang Lân, Lục Nam, Bùi Văn Nguyên, Hà Minh Đức,
Phan Diễm Phương, Trần Đình Sử, Đỗ Lai Thúy, Trần Khánh Thành,… lại
quan tâm hơn đến khía cạnh vần, nhịp, tiết tấu, âm hưởng, kết cấu và giọng
điệu của thơ lục bát. Đi sâu vào góc độ ngôn ngữ, khả năng thể loại và bản
chất thể loại là các tác giả Nguyễn Tài Cẩn, Võ Bình (1985), Nguyễn Phan
Cảnh (1987), Mai Ngọc Chừ (1991), Hữu Đạt (1998), Nguyễn Thái Hòa
(1999), Hồ Hải (2008),…Vấn đề sự phát triển hoặc những phát hiện về mối

quan hệ với văn học dân gian, về sự tác động ảnh hưởng của thơ lục bát ca
dao, lục bát cổ điển đối với thơ và thơ lục bát hiện đại,… đã được các tác giả
như Nguyễn Xuân Kính, Trần Đức Các, Xuân Diệu, Trần Đình Sử, Chu Văn
Sơn, Lê Quang Hưng nhắc đến trong các bài nghiên cứu của mình. Như vậy,
nghiên cứu về thơ lục bát là quá trình nghiên cứu không chỉ có độ rộng mà
còn có độ sâu. Có thể nói, thơ lục bát chưa và không bao giờ ngừng trở thành
đối tượng quan tâm của các nhà nghiên cứu.
2. Lịch sử vấn đề nghiên cứu thơ Đồng Đức Bốn
Đồng Đức Bốn thực sự nổi bật trên thi đàn trong vài thập niên gần đây.
Cho đến nay, chưa có một cuốn sách giáo khoa nào đề cập đến tác giả Đồng
Đức Bốn. Tuy nhiên, tác giả này cũng nhận được khá nhiều sự quan tâm của
giới nghiên cứu và bạn đọc xa gần. Khen có, chê có! Nhưng mặc những ý
kiến khen chê, thơ Đồng Đức Bốn vẫn nổi lên như một “ hiện tượng” đặc biệt.
Thơ Đồng Đức Bốn xuất hiện trong những công trình nghiên cứu quy mô và
khá bài bản cho đến những bài viết nhỏ in trên báo viết, báo mạng.
Nghiên cứu về thơ Đồng Đức Bốn, ca ngợi thơ ông có thể kể đến các
tác giả như: Nguyễn Huy Thiệp, Đỗ Minh Tuấn, Nguyễn Đăng Điệp, Phạm
Tiến Duật, Băng Sơn, Nguyễn Văn Quân, Lê Quang Trang, Vĩnh Quang Lê,
Nguyễn Văn Quân,… Trong các bài viết hay các công trình nghiên cứu, các
tác giả đều hướng đến việc khẳng định những đóng góp của Đồng Đức Bốn
4
vào kho tàng thơ ca đương đại trên các phương diện như ngôn ngữ, giọng
điệu,…
Gần đây, có một số luận văn về thơ Đồng Đức Bốn như : “Thơ Đồng
Đức Bốn” (Nguyễn Thị Hạ - năm 2006), “Giọng điệu thơ Đồng Đức Bốn”
(Bùi Việt Phương – năm 2007), “ Xu hướng tìm về thi pháp thơ ca dân gian
trong thơ Việt Nam đương đại - Khảo sát qua ba trường hợp Nguyễn Duy,
Đồng Đức Bốn, Phạm Công Trứ” (Lê Thị Hoài – năm 2007), “Chất đồng
quê trong thơ lục bát Việt Nam hiện đại – qua thơ lục bát Nguyễn Duy và
Đồng Đức Bốn” ( Phạm Mai Phong - năm 2008), “ Văn hóa làng quê trong

thơ lục bát đương đại – qua thơ Nguyễn Duy, Đồng Đức Bốn, Phạm Công
Trứ” (Nguyễn Văn Đồng – năm 2008), “ Cái tôi trữ tình trong thơ Nguyễn
Bính và Đồng Đức Bốn dưới góc nhìn so sánh” (Lại Thị Thu Thủy – năm
2011),…
Đặc biệt, để thể hiện sự trân trọng với những đóng góp của Đồng Đức
Bốn cho văn học đương đại, ngày 15/5/2011, Hội Nhà văn Việt Nam, Liên
hiệp văn học nghệ thuật Hải Phòng, Chi hội Nhà văn Việt Nam tại Hải Phòng
đã tổ chức cuộc hội thảo khá lớn về thơ Đồng Đức Bốn và thơ Mai Văn Phấn
với sự tham gia của khoảng 400 nhà thơ, nhà văn, nhà lí luận phê bình văn
học. Có tới mấy trăm bài tham luận từ Trung ương đến các địa phương , từ
nhà thơ lớn của Hội nhà văn đến các đơn vị ngoài văn chương, của các bạn
thơ, khách thơ,… Tất cả những bài tham luận đều dành những lời đánh giá,
ghi nhận, biểu dương những sáng tạo, những đóng góp của cả hai tác giả cho
nền thơ Việt Nam đương đại.
Như vậy, thơ lục bát Đồng Đức Bốn thực sự nhận được khá nhiều sự
quan tâm của độc giả. Với người nghệ sĩ, còn điều gì vui hơn điều đó?
3. Lịch sử vấn đề nghiên cứu thơ lục bát Đồng Đức Bốn
5
Các công trình nghiên cứu về thơ Đồng Đức Bốn nói chung đều có ít
nhiều nói đến thơ lục bát của ông. Tuy nhiên, các tác giả mới chỉ nhắc đến thơ
lục bát như một đóng góp nổi bật chứ chưa thực sự đi nghiên cứu sâu và hệ
thống.
Xét riêng về thơ lục bát của Đồng Đức Bốn, cũng có khá nhiều tác giả
quan tâm nghiên cứu và triển khai đề tài này thành những chuyên luận.
Mở đầu là bài viết: “Đồng Đức Bốn – vị cứu tinh của thơ lục bát”
của nhà văn Nguyễn Huy Thiệp. Trong bài viết này, Nguyễn Huy Thiệp đã
chỉ ra “một cái gì khác người, hiếm và lạ”[1- I,238] trong thơ lục bát của
Đồng Đức Bốn và khiến Đồng Đức Bốn trở thành “ một hiện tượng thơ đặc
biệt – có lẽ anh là người làm thơ lục bát hay nhất trong khoảng 50 năm trở
lại đây ở nước ta, kể từ khi Nguyễn Bính – một nhà thơ chân quê đồng thời

cũng là một thi sĩ đệ nhất lãng tử giang hồ qua đời”[1-I,239]. Theo Nguyễn
Huy Thiệp, cái hay của thơ Đồng Đức Bốn là ở chỗ “Thơ Đồng Đức Bốn khá
giàu tình cảm… giàu nhịp điệu và giàu nội lực”.
“ Đồng Đức Bốn là một nhà thơ khai sáng và sáng tạo ra những cái
mới trong thơ lục bát”, đồng thời “Anh thuộc diện nhà thơ bảo tồn, bảo lưu
các giá trị truyền thống”[1-I,546]. Chính vì thế cho nên: “ Thơ lục bát hiện
đại của Đồng Đức Bốn chính là hơi thở, là hồn vía trong cuộc sống hôm nay
được quản thúc trong niêm luật cổ truyền lục bát”[1-I,546]. Trong một bài
viết khác, Nguyễn Huy Thiệp lại dành cho người bạn thơ của mình những
dòng nồng nhiệt : “Đồng Đức Bốn xuất hiện trong làng thơ Việt Nam khoảng
mười năm nay. Viết chừng 500 bài thơ, trong đó có tới 90 bài thơ được khách
sành văn chương xếp vào loại “Cực hay, tài tử vô địch!””[1 -I,654]
Cho đến nay, Nguyễn Huy Thiệp đã có khá nhiều bài viết về Đồng Đức
Bốn và thơ Đồng Đức Bốn. Ông còn có cả truyện ngắn Đưa sáo sang sông,
lấy thơ Đồng Đức Bốn làm khung cảnh, làm vĩ thanh cho thơ Đồng Đức Bốn.
6
Có thể nói, chưa ai đánh giá cao Đồng Đức Bốn như Nguyễn Huy Thiệp.
Những nhận xét, đánh giá của Nguyễn Huy Thiệp trên đây có phần hơi cực
đoan nhưng nó đã chứng tỏ sức hấp dẫn của thơ lục bát Đồng Đức Bốn trong
dòng chảy thơ đương đại nói chung và trong dòng chảy thơ lục bát đương đại
nói riêng.
Nhà nghiên cứu Nguyễn Đăng Điệp trong công trình “Đồng Đức Bốn
–phiêu du vào lục bát” có cái nhìn tỉnh táo hơn. Sau khi chỉ ra cái khó trong
việc làm thơ lục bát: “ là một thể loại ai cũng quen mặt, ai cũng thuộc tên,
nếu không có cái mới, lập tức kẻ làm thơ sẽ bị đuổi khỏi chiếu”, tác giả
khẳng định chắc nịch “ Đồng Đức Bốn đã trụ lại được” [1-I,646]. Tác giả viết
“ Tôi nghĩ, sức hấp dẫn đầu tiên của thơ Đồng Đức Bốn nói chung và thơ lục
bát nói riêng là sự quyết liệt và táo tợn, có khi bỗ bã trong giọng điệu” [1-
I,648]. “Cái mới ở Đồng Đức Bốn là ở chất giọng: nó không mềm, ướt mà xù
xì, gai góc, có khi thô nháp” [1-I,656]. “ Một điểm mới nữa trong lục bát của

Đồng Đức Bốn là ở chỗ : “Những câu chữ nhiều khi tưởng như vu vơ ấy được
nối lại trong một cảm xúc đột hứng, táo bạo, đem đến những hiệu quả thật
bất ngờ” [1- I, 657]. Sau khi phiêu du vào lục bát Đồng Đức Bốn, hút lấy cái
hồn cốt thơ ông, nhà nghiên cứu Nguyễn Đăng Điệp đã cho người đọc có cái
nhìn sâu sắc hơn về Đồng Đức Bốn và thơ lục bát của ông, thể hiện rõ nhất ở
giọng điệu.
Đỗ Minh Tuấn – nhà thơ, nhà phê bình văn học đã đánh giá rất cao thơ
lục bát của Đồng Đức Bốn trong bài viết : “ Đồng Đức Bốn – kẻ mượn bút
của trời”. Ông cho rằng : “Sự xuất hiện của Đồng Đức Bốn đã đem lại cho thơ
lục bát truyền thống một niềm tự tin đáng kể… Những câu lục bát của Đồng
Đức Bốn điêu luyện vừa hồn nhiên, vừa bình dị tuôn chảy ra như những trải
nghiệm của kẻ du ca, vừa gần gũi, tài hoa như con đồng buột miêng nói thay
lời kẻ khác”. Trong bài “ Trời đưa anh đến cõi thơ”, tác giả đã một lần nữa
7
khẳng định : “ Lục bát với Bốn là một cái gì cao hơn mọi công cụ, một người
bạn, một chiến binh. Bốn coi lục bát là thứ lộc trời cao sang, là ngai vàng một
cõi, là bản thể văn hóa, là lưỡi gươm chinh phạt, là máu thịt gia đình và công
đức mẹ cha”. Từ lời nhận định trên đây, có thể thấy rằng, nói đến thơ Đồng
Đức Bốn là phải nói đến thơ lục bát của ông bởi hồn thơ Đồng Đức Bốn chính
là hồn thơ lục bát đã hóa thân thành vần, thành điệu. Những nhận xét của tác
giả Đỗ Minh Tuấn cho chúng ta hình dung rõ hơn về đặc điểm thơ lục bát
Đồng Đức Bốn và về giá trị của chúng trong văn học đương đại.
Tác giả Nguyễn Thị Anh Thư trong bài viết “Đọc thơ lục bát của
Đồng Đức Bốn” đã nhận xét : “Từng cặp câu thơ lục bát của Đồng Đức Bốn
rất chắc khỏe, đa phần từ ngữ được chắt lọc một cách tinh tế với một kiểu
logic suy tư (cách liên tưởng) lạ thường đem lại cho người đọc sự bất ngờ,
ngỡ ngàng về ý tứ, về ngôn từ, hình ảnh” [1-I,674]. Thêm vào hành trang cho
chuyến du hành vào cõi thơ lục bát của Đồng Đức Bốn, tác giả Nguyễn Thị
Anh Thư viết : “Đọc thơ lục bát của Đồng Đức Bốn, ta như thấy mình đang
vén lên một bức rèm bí ẩn, mở ra một miền ca dao hoàn toàn mới kì thú, vừa

lạ đấy, vừa quen đấy. Và cũng vẫn con đò ấy, dòng sông ấy, con cò ấy từ
ngàn đời rồi nay bỗng hiện ra một cách sống động như có hồn, có xương thịt
và có số phận, tính cách” [1-I,674]. Trong bài viết, tác giả cố gắng chỉ ra cái
hồn ca dao, chất ca dao vừa lạ vừa quen trong thơ lục bát Đồng Đức Bốn, từ
đó đi đến khẳng định cái hay của thơ lục bát của ông.
Với giọng điệu tự nhiên pha chút ngang tàng nhưng cũng không kém
phần trịnh trọng, trong bài “Đóng gạch nơi nao”, con chim đại bàng của núi
rừng Trường Sơn Phạm Tiến Duật đã khẳng định : “…một mình Đồng Đức
Bốn tự làm một cuộc trường chinh. Gã xông thẳng vào trận địa lục bát và chỉ
một thời gian ngắn, Đồng Đức Bốn trở thành ông vua trẻ của thể loại này”[1-
8
I,695]. Cách nói này của Phạm Tiến Duật đã khẳng định được tài năng của
Đồng Đức Bốn và những đóng góp của thơ ông.
Tác giả Băng Sơn trong bài “ Đồng Đức Bốn thi sĩ đồng quê” cũng
nhận ra: “Đồng Đức Bốn là một nhà thơ kiệt xuất trong lục bát… Anh tung
hoành vào lục bát như rong chơi, như tình cờ, như bất chợt rút câu thơ 6 – 8
ra từ trong túi áo, những câu thơ mơ ngủ được đánh thức cho bật lên sự sống
động, mà anh chẳng tốn bao nhiêu công sức, chẳng cần gọt giũa, chẳng cần
cầu kì kĩ thuật”[1-I,728-729].
Tác giả Đinh Quang Tốn trong bài viết “ Những bài thơ cuối cùng của
Đồng Đức Bốn” [55] đã trân trọng khẳng định: “ Đến nay, nhắc đến Đồng
Đức Bốn, ai cũng biết đấy là một hồn thơ lục bát. Phải thừa nhận rằng: thơ
lục bát của Đồng Đức Bốn có một vị trí riêng trong thơ Việt Nam hai thập kỷ
nay”. Cuối bài viết, tác giả đã dành cho Đồng Đức Bốn một vị trí xứng đáng :
“Nếu chọn lấy 100 thi nhân, hoặc chọn 100 bài thơ hay của thế kỷ XX; riêng
tôi, tôi đều bỏ phiếu cho Đồng Đức Bốn”.
Trong bài “ Đồng Đức Bốn, một thời đại náo làng văn”, tác giả Lưu
Quang Phổ đã gọi Đồng Đức Bốn là “tác giả của những vần thơ lục bát kì lạ,
đọc lên nghe rợn người [38]. Dưới cái nhìn của Lưu Quang Phổ, Đồng Đức
Bốn đã làm “náo động” cả nền thơ Việt Nam. Con người có sức mạnh làm

rung chuyển cả nền thơ Việt vốn đang rất náo nhiệt ấy hẳn phải là người có
năng lực đặc biệt nào chăng?
Ở một chỗ khác, nhà văn Tạ Quang Lập cũng viết : “ Với việc tạo ra
dòng thơ lục bát cho riêng mình, Đồng Đức Bốn đã đóng đinh tên tuổi mình
vào lịch sử thơ Việt”.
Ngoài ra, thơ lục bát Đồng Đức Bốn còn trở thành đối tượng trong một
số bài viết khác như: “Lục bát tình của Đồng Đức Bốn” (Vĩnh Quang Lê ),
9
“Bốn, sáu, tám” (Nguyễn Việt Hà ), “Đồng Đức Bốn , đa đoan lục bát gọi
nhau” (Bùi Kim Anh)…
Trên các website của Hội nhà văn, của các cá nhân, một số nhà văn,
nhà thơ như Bằng Việt, Phạm Tiến Duật, Nguyễn Huy Thiệp, Văn Chinh,
Nguyễn Hòa, Nguyễn Trọng Tạo, Nguyễn Đình Minh, … đã viết về lục bát
của Đồng Đức Bốn bằng giọng điệu trân trọng và cảm mến đặc biệt. Sự quan
tâm của của giới nghiên cứu đối với thơ lục bát Đồng Đức Bốn đã chứng tỏ
sức hấp dẫn đặc biệt của thơ ông và gián tiếp khẳng định vị trí khó thay thế
của gương mặt thơ lục bát Đồng Đức Bốn trong dòng chảy bộn bề của vườn
thơ lục bát hiện đại nói riêng, của văn chương đương đại nói chung.
Thơ lục bát của Đồng Đức Bốn không chỉ được nghiên cứu trên mặt
tổng thể - tức là trên mặt bằng rộng với hàng trăm bài lục bát của ông mà còn
được nghiên cứu trên phạm vi từng bài lục bát. Được các học giả nghiên cứu
cũng như nhắc đến nhiều nhất là bài “Chăn trâu đốt lửa” ,“ Trở về với mẹ ta
thôi” và bài “Vào chùa”. Đây được coi là ba bài thơ lục bát hay nhất của
Đồng Đức Bốn.
- Bài “Chăn trâu đốt lửa” của Đồng Đức Bốn được xếp vào danh sách
100 bài thơ hay thế kỉ XX [58]. Đánh giá về tác phẩm này, dường như các
nhà nghiên cứu đều thống nhất: đây là bài thơ hay, tiêu biểu cho hồn thơ
Đồng Đức Bốn. Tác giả Nguyễn Trọng Tạo (trong “Đồng Đức Bốn bắc cầu
lục bát”) viết : “Bài thơ lục bát này gieo được ấn tượng khó quên cho người
đọc chính là nhờ cái tâm trạng bất an được mất…”. Tác giả Nguyễn Lâm

Cúc cho rằng : “Một trong những bài lục bát làm nên tên tuổi nhà thơ Đồng
Đức Bốn và được nhiều độc giả yêu thơ tán thưởng là bài “Chăn trâu đốt
lửa”. Bài thơ này, ngôn từ, hình ảnh như chăn trâu, đốt lửa, rạ rơm, con
diều, củ khoai… là những từ ngữ thuộc dạng cũ kĩ trong kho tàng ngôn ngữ
Việt nam và kể cả trong văn chương Việt”. “Nhà thơ Đồng Đức Bốn đã rất
10
tài tình trong việc chộp lấy hình ảnh của buổi chiều, cánh đồng rồi với bốn
câu lục bát, nhà thơ khắc hoạn nên một bức tranh đồng quê với cái hồn được
neo lại trong câu chữ”. Với những bài thơ như Chăn trâu đốt lửa, Đồng Đức
Bốn trụ vững trong lòng độc giả.
- Với bài “Trở về với mẹ ta thôi”, tác giả Nguyễn Trọng Tạo (trong
“Đồng Đức Bốn bắc cầu lục bát”) viết : “Lời thơ viết về mẹ không thể làm
dáng làm điệu mà chân thành mộc mạc đến tận cùng”.
- Với bài “Vào chùa”, tác giả Nguyễn Trọng Tạo (trong “Đồng Đức
Bốn bắc cầu lục bát”) viết : “Bài thơ Vào chùa chỉ bốn câu mà treo lên trước
cuộc đời cả một câu hỏi lớn về tình thương đồng loại”.
Ngoài ra, tác phẩm này cũng được phân tích trong bài nghiên cứu của
một số tác giả sau: Nguyễn Huy Thiệp, Nguyễn Thành Phong, Nguyễn Văn
Quân, Nguyễn Đăng Điệp, Đoàn Hương, Phạm Khải, …
Gần đây, thơ lục bát của nhà thơ Đồng Đức Bốn đã được triển khai
nghiên cứu trong các khóa luận tốt nghiệp hay các luận văn Thạc sĩ. Tiêu biểu
trong số đó là luận văn : “Xu hướng tìm về thi pháp thơ ca dân gian trong
thơ Việt Nam đương đại - Khảo sát qua ba trường hợp Nguyễn Duy, Đồng
Đức Bốn, Phạm Công Trứ” của Lê Thị Hoài (năm 2007). Trong luận văn
này, sau khi khẳng định: tìm về thi pháp thơ ca dân gian là một hướng sáng
tạo tìm tòi đáng chú ý trong thơ Việt Nam đương đại và đây là một sự lựa
chọn tự giác của ba nhà thơ, tác giả đã đi sâu phân tích những biểu hiện của
thi pháp thơ ca dân gian trên cả hai phương diện cảm hứng và thi pháp thể
hiện. Tác giả đặc biệt chú ý đến việc làm mới thể thơ lục bát của cả ba nhà
thơ. Riêng Đồng Đức Bốn, tác giả Lê Thị Hoài viết : “ Thơ lục bát đối với

Đồng Đức Bốn là thứ lộc trời cho. Nhưng anh dùng lộc đó để trả nghĩa cho
đời chứ không phải mưu cầu danh lợi. Anh dùng “đôi hài” lục bát để phiêu
11
lưu vào cõi lòng người bí ẩn để hiểu mình và hiểu người, tìm lại “bản lai diện
mục của chính mình” [15].
Trong luận văn Thạc sĩ “ Chất đồng quê trong thơ lục bát Việt Nam
hiện đại – qua thơ lục bát Nguyễn Duy và Đồng Đức Bốn” (năm 2008), tác
giả Phạm Mai Phong đã khẳng định : “Có thể nói, đến Đồng Đức bốn, thơ lục
bát một lần nữa khẳng định được vị trí và sức sống lâu bền của mình” [37,3].
Ở một chỗ khác, tác giả nhận ra : “ Lục bát Đồng Đức Bốn ngoài sự bình dị,
mượt mà còn gợi ra sự gai góc, sắc nhọn của những chìm nổi đời người”
[37,21]. Về ngôn ngữ thơ lục bát Đồng Đức Bốn, tác giả viết : “Trước hết,
ngôn ngữ lục bát (của họ) là ngôn ngữ rất gần gũi lời ăn tiếng nói hàng ngày
của người dân quê. Tiếp đến, đó là thứ ngôn ngữ được gọt giũa và sử dụng
nhiều trong ca dao… Những bài thơ lục bát mà họ sáng tác như những lời
nói bộc phát từ sự ngẫu hứng trong cuộc sống hàng ngày” [37,12].
Thơ lục bát của Đồng Đức Bốn tiếp tục được nghiên cứu trong luận văn
“ Văn hóa làng quê trong thơ lục bát đương đại” (qua thơ Nguyễn Duy,
Đồng Đức Bốn, Phạm Công Trứ) (năm 2008) của tác giả Nguyễn Văn Đồng.
Trong luận văn này, sau khi khẳng định: “Tiếng thơ của Đồng Đức Bốn (và
của Nguyễn Duy, Phạm Công Trứ) đã đưa tâm hồn ta trở về với những giá trị
văn hoá đã toả bóng hàng ngàn năm trong tâm hồn dân tộc”, Nguyễn Văn
Đồng đã nhận ra: “những quy định “bất di bất dịch” của thơ lục bát truyền
thống nhưng cũng có nhiều cách tân, đổi mới sáng tạo để bắt kịp sự đổi thay
của thơ ca đương đại” đồng thời mỗi nhà thơ là một “giọng điệu riêng, một
giai tấu ngôn ngữ riêng – vừa dân gian vừa hiện đại. Tuy nhiên, riêng về thơ
lục bát Đồng Đức Bốn, người nghiên cứu vẫn chưa làm nổi bật được những
cái riêng cũng như vị trí của tác giả này trong dòng chảy của thơ lục bát
đương đại.
12

Nhìn chung, càng ngày, thơ lục bát Đồng Đức Bốn càng nhận được sự
quan tâm của độc giả. Các nghiên cứu về thơ lục bát của Đồng Đức Bốn
ngày càng phong phú nhưng theo đánh giá của người viết, những nghiên cứu
về thơ lục bát Đồng Đức Bốn mới phần nào chú ý đến một vài phương diện
nào đó của thơ lục bát Đồng Đức Bốn như: nội dung cảm hứng, cảm xúc chủ
đạo, hình tượng nghệ thuật, chất đồng quê, ngôn ngữ, chất ca dao,… mà vẫn
chưa có cái nhìn toàn diện về thơ lục bát – một thứ “lộc trời”, một “đặc sản”
của ông. Tuy nhiên, không phải mọi ý kiến đánh giá về thơ lục bát Đồng Đức
Bốn đều thống nhất. Đó cũng là điều dễ hiểu trong cuộc sống và trong văn
chương. Một số tác giả đã thể hiện cách đánh giá khác về thơ Đồng Đức Bốn.
Tiêu biểu là tác giả Nguyễn Hòa và Trần Đăng Khoa. Nguyễn Hòa nhận định:
“Phải chăng sự dông dài của những câu thơ “rỗng ruột” là một trong những
đặc điểm làm nên phong cách thơ Đồng Đức Bốn, và nếu trên đời có cái gọi
là “y bát thơ lục bát” thì dường như nó đã bị trao nhầm chỗ”[14]. Còn Trần
Đăng Khoa trong một bài viết chưa (không) công bố thì cho rằng: thơ Đồng
Đức Bốn “chỉ óng ánh trang kim, nhưng nhẹ tếch chẳng có gì. Gạt cái vỏ mạ
vàng ra, bên trong chỉ luễnh loãng một chút sương khói”[14].
Cho nên, đặt vấn đề “Thơ lục bát Đồng Đức Bốn” – tức là xem xét toàn
diện cái hay, cái đẹp, nghiên cứu tính truyền thống và hiện đại trong thơ lục
bát của Đồng Đức Bốn, tìm hiểu những điểm riêng biệt của thơ lục bát Đồng
Đức Bốn… để người đọc có cái nhìn sâu sắc hơn, thiết nghĩ, là một việc làm
có ý nghĩa và cần thiết.
III. Mục đích, đối tượng, phạm vi nghiên cứu
1. Mục đích nghiên cứu
Luận văn tập trung tìm hiểu những đặc điểm của thơ lục bát Đồng Đức
Bốn trên các phương diện nội dung cảm hứng và những hình thức biểu hiện.
Đồng thời, luận văn đi đến khám phá những cái riêng của thơ lục bát Đồng
13
Đức Bốn, để từ đó có cái nhìn toàn diện hơn về thơ lục bát của ông. Từ đó
thấy được sự kế thừa và sáng tạo của Đồng Đức Bốn trong việc sử dụng một

thể thơ truyền thống trong hành trình thơ đương đại.
Qua việc nghiên cứu thơ lục bát của Đồng Đức Bốn, người viết đi đến
việc khẳng định sức sống mạnh mẽ của thể loại lục bát trong văn học đương
đại.
2. Đối tượng nghiên cứu:
Đồng Đức Bốn đã xuất bản sáu tập thơ, gồm có:
- Con ngựa trắng và rừng quả đắng (NXB Văn học, H, 1992 )
- Chăn trâu đốt lửa (NXB Lao động, H, 1993)
- Trở về với mẹ ta thôi (NXB Hội nhà văn, H, 2000)
- Cuối cùng vẫn còn dòng sông (NXB Hội nhà văn, H, 2000)
- Chuông chùa kêu trong mưa (NXB Hội nhà văn, H, 2002)
- Chim mỏ vàng và hoa cỏ độc (NXB Hội nhà văn, H, 2006)
Tuy nhiên, đối tượng nghiên cứu của luận văn này là 144 bài thơ lục bát
trong tuyển tập thơ “Chim mỏ vàng và hoa cỏ độc” của Đồng Đức Bốn.
3. Phạm vi nghiên cứu
Trong quá trình thực hiện luận văn, để có cái nhìn toàn diện, ngoài
những bài thơ lục bát của tác giả in trong tuyển “Chim mỏ vàng và hoa cỏ
độc”, người viết còn tiến hành đối chiếu, so sánh thơ lục bát của Đồng Đức
Bốn với ca dao và thơ lục bát của một số tác giả như Nguyễn Bính, Huy Cận,
Tố Hữu, Nguyễn Duy, Bùi Giáng,…
IV. Phương pháp nghiên cứu
Trong quá trình triển khai luận văn, người viết kết hợp sử dụng các
phương pháp nghiên cứu sau đây:
- Phương pháp nghiên cứu thể loại văn học
- Phương pháp nghiên cứu tác giả văn học
14
- Phương pháp thống kê văn học
- Phương pháp so sánh văn học
- Phương pháp phân tích tác phẩm văn học
V. Đóng góp của luận văn

Tập trung nghiên cứu thơ lục bát Đồng Đức Bốn, luận văn nhằm:
- Tìm hiểu những đặc điểm riêng của thơ lục bát Đồng Đức Bốn (về mặt
nội dung biểu hiện và hình thức biểu đạt) trong dòng chảy của thơ lục
bát hiện đại.
- Chỉ ra những điểm kế thừa và những cách tân, sáng tạo của nhà thơ
Đồng Đức Bốn, đồng thời đánh giá những đóng góp, những sáng tạo
riêng của nhà thơ trong việc làm mới thể thơ truyền thống trong dòng
văn học đương đại. Từ đó, người viết đi đến khẳng định sức sống
trường tồn của thể thơ truyền thống này trong thời hiện đại.
VI. Cấu trúc luận văn
Ngoài phần Mở đầu, phần Kết luận và Thư mục tham khảo, phần Nội
dung của luận văn triển khai thành 3 chương:
Chương I - Thơ lục bát của Đồng Đức Bốn trong dòng lục bát hiện đại
Chương II – Những cảm hứng chính trong thơ lục bát Đồng Đức Bốn
Chương III – Những đặc sắc nghệ thuật trong thơ lục bát Đồng Đức Bốn


15
PHẦN NỘI DUNG
CHƯƠNG I - THƠ LỤC BÁT CỦA ĐỒNG ĐỨC BỐN TRONG DÒNG
LỤC BÁT HIỆN ĐẠI
1. Giới thuyết về thơ lục bát
Lục bát là niềm kiêu hãnh của nền thơ ca Việt Nam. Lục bát là nơi gửi
gắm, nương náu sâu nhất, đậm nhất những tâm tư tình cảm của con người
Việt Nam. Cùng với bước vận động và phát triển của văn học Việt Nam, thơ
lục bát cũng mỗi ngày một đơm hoa kết trái. Thơ lục bát trở thành một trong
những yếu tố quan trọng làm nên bản sắc thi ca Việt, thể hiện bản sắc tâm lí –
thẩm mĩ của người Việt, làm nên điệu tâm hồn Việt. Chính điều đó làm cho
thơ lục bát trở thành một thể thơ có sức sống mãnh liệt và trường tồn dù đỉnh
cao của thơ lục bát đã được khẳng định từ kiệt tác “Truyện Kiều” của Nguyễn

Du thế kỉ XVIII.
Các nhà nghiên cứu đã khái quát những đặc điểm chính của thể thơ lục
bát người Việt như sau:
Thứ nhất, thơ lục bát là một thể thơ cách luật mà các thể thức được tập
trung trong một khổ gồm hai dòng với số tiếng cố định: dòng sáu tiếng (câu
lục) và dòng tám tiếng (câu bát). Ranh giới chia tách hai dòng là điểm nghỉ
hơi dài sau vần chân ở dòng lục và là điểm chấm dứt một quy tắc thanh điệu.
Thứ hai, về các thể thức chủ yếu của thơ lục bát:
- Gieo vần : thơ lục bát vừa gieo vần chân (được gieo vào cuối dòng thơ, gọi
là cước vận), vừa gieo vần lưng (được gieo ở giữa dòng thơ, gọi là yêu vận).
Tiếng cuối câu lục gieo vần xuống tiếng thứ sáu câu bát, tiếng cuối câu bát
gieo vần xuống tiếng cuối câu lục tiếp theo.
VD: Trăng bao nhiêu tuổi trăng già
Núi bao nhiêu tuổi gọi là núi non?
Xin ai tính cuộc vuông tròn
16
Dò sao cho đến ngọn nguồn khúc sông
Ngoài ra còn có vần ở tiếng thứ 4 và là vần T.
- Phối điệu (luật bằng trắc): hình mẫu của các tác phẩm lục bát cổ điển được
phối điệu như sau:
Câu lục : o B o T o B
Câu bát: o B o T o B o B
(B : thanh bằng gồm các thanh ngang, huyền; T: thanh trắc gồm các thanh
sắc, hỏi, ngã, nặng; o : tự do)
Trong câu lục, các tiếng chẵn (2) và (6) là thanh B, đối nhau qua thanh T (4)
Trong câu bát, giữa thanh B của tiếng thứ (6) và tiếng thứ (8) phải đối nhau về
âm vực trầm bổng: hoặc là huyền – ngang, hoặc ngang – huyền. Đối lập trầm –
bổng là một nguyên tắc rất đặc trưng của thi luật dân tộc, thể hiện trước hết ở lục
bát.
- Về ngắt nhịp: thể lục bát có một loại nhịp cơ bản, trực tiếp tạo nên âm

luật cho nó là nhịp chẵn, tức là nhịp gồm 2 tiếng. Như vậy, theo thông lệ,
dòng lục gồm ba nhịp 2, dòng bát gồm 4 nhịp 2.
Ví dụ: Một thương, hai nhớ, ba vì
Chín nhớ, mười đợi có khi vuông tròn
Tuy nhiên, thơ lục bát có các ngoại lệ:
- Biến thể về vần: vần trắc và vần ở tiếng thứ 4 dòng bát
- Biến thể về phối điệu: tiếng thứ 2 dòng lục từ B -> T; tiếng thứ 4
dòng lục từ T -> B; tiếng thứ 2 dòng bát từ B ->T
- Biến thể về nhịp : nhịp lẻ
- Câu thơ không phải là một cặp 6 /8 mà có thể rút ngắn hoặc mở
rộng hơn 6/8 [12,190].
Thơ lục bát được sử dụng khá phổ biến trong nền văn học viết dân tộc.
Lục bát bén duyên vào ca dao để chuyển tải tâm tư, tình cảm của con người.
17
Theo Nguyễn Xuân Kính trong chuyên luận “Thi pháp ca dao” thì có 95% ca
dao được sáng tác theo thể lục bát [27]. Thể thơ dân tộc này cũng đem lại
thành công cho các nhà thơ như Nguyễn Du, Tản Đà, Huy Cận, Tố Hữu,
Nguyễn Bính và gần đây nhất là Nguyễn Duy, Bùi Giáng, Đồng Đức Bốn,…
Theo dòng chảy thời gian, thể thơ lục bát có thể không còn giữ nguyên hình
hài như cũ nhưng nó vẫn nhịp bước đồng hành cùng những tâm hồn người
Việt hôm nay và mai sau.
2. Dòng lục bát hiện đại
Tiến trình thể loại lục bát được các nhà nghiên cứu chia thành hai giai
đoạn lớn:
Giai đoạn đầu : Lục bát trong văn học trung đại ( từ thế kỉ XV đến 30 năm
đầu thể kỉ XX)
Đây là giai đoạn hình thành và hoàn thiện của thể loại : từ những bài
thơ còn lỏng lẻo về khuôn mẫu, được dùng theo kiểu ngẫu hứng (trong thế kỉ
XV – giữa thế kỉ XVII) trải qua thời kì kết tinh về chức năng (chức năng kể
chuyện và biểu đạt trữ tình) và mẫu mực về hình thức thể loại (về vần, nhịp

và thanh điệu) mà đỉnh cao là Truyện Kiều – Nguyễn Du (nửa cuối thế kỉ
XVII – thế kỉ XIX) đến những bài thơ lục bát đầu thế kỉ đậm chất trữ tình vừa
thể hiện được tình cảm với đất nước, xã hội vừa đi sâu vào tâm hồn con người
(nửa sau thế kỉ XIX – những năm 30 thế kỉ XX).
Trong giai đoạn này, Truyện Kiều của Nguyễn Du được coi là “mô
hình lục bát chuẩn mực”, trở thành đỉnh cao của lục bát cổ điển. Truyện Kiều
đã tôn vinh thể thơ lục bát, tôn vinh một thể thơ mang đậm bản sắc Việt. Với
3254 câu thơ lục bát, Truyện Kiều trở thành một trường thiên lục bát về tâm
trạng và số phận con người có một không hai trong lịch sử thi ca tiếng Việt.
Lạc vào đó “người ta có cảm tưởng Nguyễn Du đã sáng tạo ra một thứ ngôn
ngữ văn học cho cả thời đại” [17, 201]
18
Giai đoạn sau : Lục bát trong văn học hiện đại (từ những năm 30 của thế
kỉ XX - nay)
Trong phạm vi luận văn này, chúng tôi chỉ đi sâu tìm hiểu về thơ lục
bát trong văn học hiện đại.
2.1. Thơ lục bát trong phong trào Thơ mới (1932 - 1945)
Phong trào Thơ mới được coi là một cuộc đánh giá lại các thể thơ cũ,
tiếp thu những cái tốt đẹp của truyền thống cũ đồng thời học tập một cách
sáng tạo thơ ca nước ngoài. Nhưng, dù làn sóng lãng mạn, tượng trưng, siêu
thực có mạnh mẽ đến mức nào, nhu cầu đổi mới văn học, đổi mới thi pháp có
những đột phá bao nhiêu thì những dòng lục bát truyền thống vẫn không bị
lãng quên.
Người đầu tiên đưa thể lục bát vào Thơ mới phải kể đến Tản Đà với bài
“Phong dao” thật đặc sắc. Ở bài thơ này, Tản Đà đã giúp lục bát “thử lời, thử
nhạc” với cảm hứng lãng mạn:
Con cò lặn lội bờ sông
Ngày xanh mòn mỏi, má hồng phôi pha
Em về giục mẹ cùng cha
Chợ trưa, dưa héo nghĩ mà buồn tênh…

(Tuyển tập Tản Đà, Nxb Văn học, 1986)
Ngòi bút Tản Đà nhuần nhuyễn và tinh tế, lãng mạn và tài hoa. Điều đó
được thể hiện rất rõ trong bài “Thề non nước” và bài thơ dịch “Lầu Hoàng
Hạc”, trong đó, bài “Thề non nước” được các nhà nghiên cứu xếp vào hàng
ngũ những bài thơ lục bát hay đầu thế kỉ.
Tác giả Phan Diễm Phương đã thống kê được ở “Thi nhân Việt Nam”
(1941) của Hoài Thanh – Hoài Chân có 35 bài thơ lục bát trên tổng số168 bài
thơ của tuyển tập, chiếm 12,5% [41]. Trong “Tuyển tập Thơ mới”, tác giả
Châu Minh Hùng đã thống kê được 150 bài thơ lục bát trên 1045 bài (chiếm
14,4%) [19]. Thể thơ lục bát tuy không chiếm tỉ lệ lớn trong tập thơ của các
tác giả nhưng nó vẫn chưa hoàn toàn bị lãng quên: “Thơ Thơ” (1938) của
19
Xuân Diệu có 4 bài thơ thơ lục bát; “Tiếng thu” (1939) của Lưu Trọng Lư
cũng có 6 bài thơ lục bát; “Lửa thiêng” của Huy Cận có 50 bài thì lục bát
đứng thứ 3 với 8 bài - trong đó bài “Ngậm ngùi” được xếp vào danh sách
những bài lục bát hay. Ngoài ra, ta còn có thể gọi tên nhiều bài thơ lục bát hay
giai đoạn này như “Thơ sầu rụng” (Lưu Trọng Lư), “Lũy tre xanh”, “Rằm
tháng giêng” (Hồ Dzếnh), “Huế đa tình” (Bích Khê), “Bến Hàn Giang” (Hàn
Mặc Tử), “Đan áo cho chồng” (T.T.Kh), “ Gửi T.T.Kh” (Thâm Tâm),…
Đa số những bài lục bát trong phong trào Thơ mới đều có cách gieo vần
và phối thanh theo chuẩn mực của lục bát cổ điển (gieo vần bằng, vần lưng ở
tiếng thứ 6 của câu bát, sử dụng vần chính để gieo trong cả bài). Có nhiều câu
thơ lục bát của Nguyễn Bính nhiều người ngỡ là ca dao:
Gió mưa là bệnh của giời
Tương tư là bệnh của tôi yêu nàng
Ở thời điểm này, trong một số trường hợp, thơ lục bát đã có sự thay đổi
về gieo vần, phối điệu, cách ngắt nhịp, cú pháp của dòng thơ, hình hài của cặp
lục bát,… khiến cho thơ lục bát giai đoạn này vừa mang hơi hướng cổ điển,
vừa mới mẻ, hiện đại.
Thứ nhất, đã có sự thay đổi về cách gieo vần, phối điệu ở lục bát của

một số nhà thơ:
Hôm nay lá thấy tôi buồn
Lìa cành theo gió lá luồn qua song
Hai tay ôm lá vào lòng
Than ôi chiếc lá cuối cùng là đây!
(Nguyễn Bính – Cây bàng cuối thu)
Dễ nhận thấy rằng trong những câu thơ lục bát vừa trích, số lượng
thanh B – T có sự chênh lệch khá lớn: 20 thanh B và 8 thanh T (trên tổng 28
tiếng). Sự xuất hiện nhiều thanh B ở đây gợi lên rõ hơn cảm giác buồn mênh
mông lan tỏa, xa vắng của thi nhân. Ở đây cũng cần phải nói thêm về cách
20
gieo vần của tác giả: ong (lòng) – ung (cùng). Rõ ràng, sự gieo vần của nhà
thơ đã không còn chặt chẽ như trước.
Đặc biệt, ta cũng gặp trường hợp “phạm luật” về thanh điệu B - T :
tiếng thứ 2 , tiếng thứ 4 dòng lục từ B chuyển thành T:
…Cách mấy mươi con sông sâu
…Úp mặt vào hai bàn tay
Thứ hai, đa phần thơ lục bát hiện đại vẫn ngắt nhịp chẵn, nhưng sử
dụng nhiều nhịp 2/4, 4/2 ở câu lục và nhịp 4/4, 2/6 ở câu bát:
Khi cao, vút tận mây mờ
Khi gần, vắt vẻo bên bờ cây xanh…
(Thế Lữ - Tiếng sáo Thiên Thai)
Tương tư hướng lạc, phương mờ…
Trở nghiêng gối mộng, hững hờ nằm nghe…
(Buồn đêm mưa – Huy Cận)
Một số trường hợp, ta bắt gặp những nhịp lẻ:
Chuyến này chị bước sang ngang
Là tan vỡ / giấc mộng vàng từ nay
(Lỡ bước sang ngang – Nguyễn Bính)
Việc ngắt nhịp lẻ (3/5) khiến lời thơ như đứt đoạn, cảm giác như những tiếng

nấc nghẹn ngào của “em” vọng lại trong lời thơ thật xúc động.
Thứ ba, sự biến đổi về cú pháp dòng thơ cũng là hiện tượng đáng chú ý:
Trời cao xanh ngắt. Ô kìa
Hai con hạc trắng bay về bồng lai
(Tiếng sáo Thiên Thai – Thế Lữ)
Dòng thơ 6 tiếng vốn là đơn vị cú pháp hoàn chỉnh thì nay bị chẻ làm
đôi. Bốn tiếng đầu là một tổ hợp mà về mặt cú pháp không thể chấp nhận
được. Còn hai tiếng cuối nếu có thể đứng độc lập giải quyết trọn vẹn nghĩa ở
câu trên đằng này lại hướng tới đối tượng được nhắc đến ở câu dưới. Sự thể
nghiệm táo bạo này đã đưa đến sự mới lạ trong tư duy và cảm nhận của người
đọc, tạo ra sự hấp dẫn mới mẻ trong cái quen thuộc.
Thứ tư, ở Thơ mới, hình hài cặp lục bát cũng có nhiều cách tân. Một
dòng thơ xếp bậc thang, kiểu:
Đường xa ư cụ?
quản chi
Đi gần hạnh phúc là đi xa đường
21
(Uống rượu với Tản Đà – Trần Huyền Trân)
Hay sự xuất hiện kết cấu ba dòng lục đi với một dòng bát:
Bẽ bàng, lá vẫn theo bên,
Tình si, lá vẫn theo bên
Thuyền trôi vẫn quyến sao đêm
Hào quang vẫn ngủ êm đềm trong mơ
(Tình si – Vũ Hoàng Chương)
Thơ lục bát trong phong trào Thơ mới không dừng lại ở những cách tân
về mặt hình thức đơn thuần. Sự phá bỏ những hình thức cũ hay sáng tạo ra
những hình thức thơ lục bát mới là để phù hợp với kích cỡ tâm hồn, tâm trạng
và cảm xúc mới mẻ, thành thực đang bừng nở trong con người. Đó là những
đắm say của người đang yêu với muôn vàn cảm xúc nhớ thương hờn giận hay
những tiếc nuối, những mộng mơ, những cung bậc, sắc thái tinh tế của tâm

hồn con người được sống dậy trong từng câu, từng dòng. Thơ lục bát giai
đoạn này không có những bài thơ trường thiên mà phổ biến là những bài trữ
tình quy mô nhỏ. Nhưng trong quy mô có giới hạn của thể thơ, những cảm
xúc của cái tôi cá thể cá tính lần đầu tiên xuất hiện được chuyển tải một cách
chân thành nhất, say sưa nhất đến tận cùng câu chữ. Trong dàn đồng ca nhiều
hương sắc Thơ mới, người ta vẫn nhận ra tiếng thở dài cô đơn, ngậm ngùi
đọng trong những vần lục bát nhuốm màu sắc tượng trưng, siêu thực của “
chiếc linh hồn nhỏ” Huy Cận, vẫn nhận ra giọng điệu “hào hùng, tràn đầy
chính khí, tráng khí, bi phẫn, bi hùng” của Trần Huyền Trân, Thâm Tâm, đặc
biệt là vẫn nhận ra “điệu hồn chân quê của một cái tôi lãng mạn, điệu than
của một cái tôi lỡ làng, điệu thúc giục lên đường Nguyễn Bính” – nhà thơ lục
bát tiêu biểu nhất của giai đoạn này [2],…
Nhà nghiên cứu Chu Văn Sơn đã mệnh danh Nguyễn Bính là “con đẻ
của câu lục bát nổi chìm nơi đồng quê” [47,171] và “ Hồn vía Nguyễn Bính kí
thác nhiều nhất vào lục bát” [47,172]. Về mặt chất lượng, độc giả và giới
nghiên cứu đánh giá cao những bài thơ lục bát như: Không đề, Lỡ bước sang
22
ngang, Tương tư, Chân quê, Xa cách, Mưa xuân, Qua nhà, Cô hái mơ, Người
hàng xóm,… Nhà nghiên cứu Lê Đình Kị cho rằng : “So với các nhà thơ lãng
mạn trước cách mạng, Nguyễn Bính đứng riêng một cõi. Nếu có lẫn lộn thì
chỉ lẫn lộn với các tác giả vô danh từ bao đời đã chung sức làm nên một kho
tàng vô giá của ca dao dân tộc”. “ Điệu hồn chân quê” (Bùi Thị Báu) là dấu
ấn đậm nét Nguyễn Bính in vào thơ lục bát.
Về mặt hình thức nghệ thuật, thơ lục bát Nguyễn Bính quyện trong bầu
không khí của ca dao nhưng không vì thế mà nó không có những bứt phá.
Trước hết phải nói đến sự cách tân về kết cấu:
Lạy giời đừng sáng đêm nay
Đò quên cập bến, tôi say suốt đời
Chiêu Quân lên ngựa mất rồi…
(Một con sông lạnh)

Tiếp theo là những cách tân trên phương diện dòng. Những câu bát bị
chẻ ra làm đôi bởi những dấu câu khắc khoải giữa dòng:
Chị tôi im lặng đợi chờ
Tôi im lặng đến bao giờ? Đợi ai?
Thứ nữa là sự xuất hiện những nhịp rất lạ:
Nhớ nàng? / Không! /Quyết là không nhớ nàng
(Người hàng xóm)
Hướng về ca dao, Nguyễn Bính đã thành công trong việc tạo ra lục bát
kiểu mới, mang đậm phong cách ca dao từ hình ảnh, ngôn ngữ đến nhịp điệu
và lối diễn đạt. Nguyễn Bính là người đại diện tiêu biểu nhất, đầy đủ nhất cho
khuynh hướng trở về ca dao của thơ lục bát nói riêng, cho thơ ca nói chung.
Tiểu kết:
Vậy là, đến Thơ mới, nghệ thuật thơ lục bát đã có nhiều cách tân, đổi
mới bên cạnh việc kế thừa truyền thống, thể hiện ở cách sắp xếp, bố trí khổ
23
thơ, dòng thơ; tạo ra nhịp điệu mới mẻ, lạ lẫm với những cách vắt dòng, ngắt
nhịp, chấm câu giữa dòng đầy ấn tượng; hình ảnh thơ giàu sức gợi tả; ngôn
ngữ thơ biến hóa, linh hoạt, giàu tính hình tượng,…Những biến chuyển quan
trọng ấy là do sự đổi thay của đời sống xã hội, tư duy nghệ thuật người sáng
tác, thị hiếu thẩm mĩ của đối tượng tiếp nhận thay đổi. Tuy nhiên, đây chỉ là
khởi đầu, là bước đệm cho những cách tân sáng tạo của lục bát hiện đại.
2.2. Thơ lục bát từ 1945 đến 1975
Từ sau 1945, thoát ra khỏi phong trào Thơ mới, thơ lục bát không còn
được cất trong những linh hồn nhỏ của những cái tôi lãng mạn đa sầu đa cảm
mà đã thực sự “xuống đường” để hòa cùng tiếng nói chiến đấu và chiến thắng
của toàn thể dân tộc. Nó vẫn tìm được tiếng nói đồng cảm với con người
trong thời kì lịch sử này. Trong “Tuyển tập Thơ Việt Nam 1945 – 1975”,
“Thơ Việt Nam 1945 – 1985 và Văn học Việt Nam sau cách mạng tháng
Tám” thì thơ lục bát có tỉ lệ trung bình vào khoảng 14% [41]. Trong “Tuyển
thơ Việt Nam” (Giai đoạn chống Mĩ) (Nxb Hội nhà văn, H, 1999), thơ lục bát

là 40 bài, chiếm 11% [41].
Khác với giai đoạn trước, nhìn chung, thơ lục bát trong thời kì này rất
gần với vè kể chuyện, chất thơ lắng lại đằng sau những hình ảnh giản dị, mộc
mạc của con người và tình cảm với đất nước, với cách mạng. Thơ lục bát giai
đoạn này đã ôm chứa những tình cảm lớn lao của thời đại như tình cảm quân
dân, lãnh tụ, tình đồng chí đồng đội,…tạc lên tư thế và tầm vóc lớn lao của
nhân dân và đất nước. Chẳng hạn như bài “Những người lính biên giới” (Văn
Lê), “Nằm hầm” (Nguyễn Đức Mậu), “ Kể chuyện Vũ Lăng” (Anh Thơ),
“Tình Tháp Mười” (Bảo Định Giang)…
Tình thương đất nước mênh mang
Hồn vui như nắng trải vàng ruộng xanh
24

×