Tải bản đầy đủ (.doc) (93 trang)

RÈN LUYỆN CHO HỌC SINH LỚP 10 CÁCH VIẾT MẠCH LẠC BÀI VĂN NGHỊ LUẬN LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC NGỮ VĂN

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (391.68 KB, 93 trang )

A. PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
1.1. Làm văn có mối quan hệ chặt chẽ với Văn và Tiếng Việt, vì vậy
giờ học làm văn được xem như giờ học thực hành tổng hợp những kiến thức
Văn học và Tiếng Việt của học sinh “Trong số các môn học của chương trình
giảng dạy Ngữ văn ở trường phổ thông tập làm văn là một môn học mang tính
chất tổng hợp rất rõ rệt. Trước hết, để viết được một bài văn hoàn chỉnh (dù ở
thể loại miêu tả, kể chuyện hay ở thể loại nghị luận văn học, nghị luận chính
trị - xã hội …), học sinh bao giờ cũng phải cùng một lúc huy động những kiến
thức đã được trang bị của mình về ngôn ngữ (bao gồm tất cả các năng lực sử
dụng các đơn vị ngôn ngữ và các quan hệ ngữ pháp), về tư duy (bao gồm tất
cả các khả năng: phân tích, tổng hợp, khái quát, phán đoán, suy luận…) và về
cả quan điểm, lập trường của các quá trình nhận thức và đánh giá”. Làm văn ở
THPT thể hiện ở nhiều dạng khác nhau như : Văn biểu cảm, tự sự, thuyết
minh, nghị luận. Trong đó văn nghị luận có tầm quan trọng đặc biệt, được ưu
tiên hơn cả, được coi là một trong những tri thức then chốt nhất. Để làm được
một bài nghị luận có chất lượng cao, học sinh cần phải:
-Biết xác định đúng yêu cầu của đề.
-Biết tìm ý và sắp xếp thành một dàn bài cụ thể.
-Biết diễn đạt ý thành một bài văn hoàn chỉnh, mạch lạc.
Cả ba yếu tố trên rất quan trọng trong việc rèn luyện kỹ năng làm văn
nghị luận cho học sinh.
Từ thực tế giảng dạy chúng tôi nhận thấy rằng, điều khiến giáo viên
quan tâm nhất vẫn là rèn luyện cho học sinh viết mạch lạc văn nghị luận. Để
viết được bài văn nghị luận mạch lạc, người viết phải suy nghĩ, phải tìm ra
được các ý, sắp xếp một cách hợp lý, diễn đạt sao cho lôgic vấn đề cần nghị luận.
Xét về phương diện lý thuyết, vấn đề quan trọng trên đã được đặt ra từ
lâu. Tuy nhiên, lý thuyết môn làm văn nói chung, cũng như lý thuyết về kỹ
năng viết mạch lạc văn nghị luận nói riêng còn nhiều lúng túng, chưa được
giải quyết một cách toàn diện, có rất nhiều tài liệu đề cập tới kỹ năng làm văn
nghị luận, nhưng phần lớn đề cập một cách chung chung, ít có tài liệu viết


riêng cho cách viết mạch lạc bài văn nghị luận.
Với luận văn này, người viết mong muốn được góp phần nhìn nhận lại,
đề xuất và bổ sung để có một cái nhìn hoàn chỉnh kỹ năng viết mạch lạc văn
nghị luận cho học sinh.
1.2. Trong việc hình thành, rèn kỹ năng cho học sinh, nếu chỉ dừng lại
nhận thức lý thuyết thì hoàn toàn chưa đủ, điều quan trọng phải biến những tri
thức, khái niệm thành những kỹ năng, kỹ xảo tương ứng cho học sinh. Vì vậy
giáo viên cần phải xác định phương pháp phù hợp với hoạt động của thầy và
hoạt động của trò. Về phương diện này, vẫn còn một khoảng trống lớn dành
cho tất cả những ai quan tâm đến vấn đề viết mạch lạc văn nghị luận. Một vấn đề
rất quan trọng và cũng rất khó đối với giáo viên và học sinh, đó là kỹ năng viết
mạch lạc văn nghị luận trên cả hai phương diện nội dung và phương pháp.
Qua thực tế giảng dạy và thực nghiệm điều tra ở một số lớp, bằng
những số liệu khảo sát được, chúng tôi thấy một trong những khó khăn, lúng
túng nhất của học sinh khi viết bài văn nghị luận là làm thế nào để viết mạch
lạc, đúng chủ đề, đúng chủ đề. Thực tế, đa số bài làm của học sinh thường
không mạch lạc, không lô gic, nghĩ sao viết vậy, học sinh chưa có nhận thức
trong quá trình bài làm phải viết mạch lạc. Về phía giáo viên một số giáo viên
an phận, bằng lòng với cách dạy của mình, không sáng tạo, có những tiết dạy
vẫn theo phương pháp cũ ( thầy giữ vai trò chủ đạo, trò thụ động tiếp nhận),
thậm chí họ chưa nhận thức rõ tầm quan trọng phần làm văn, chưa rõ làm văn
là môn có tính chất thực hành tổng hợp nên chủ yếu chỉ dạy lý thuyết cho
2
xong bài, ngại dạy nhất là những tiết rèn luyện kỹ năng. Nguyên nhân là giáo
viên chưa xây dựng được phương pháp rèn luyện kỹ năng viết mạch lạc cho
học sinh.
1.3. Một điều không thể phủ nhận rằng: Nếu hướng dẫn học sinh viết
mạch lạc văn nghị luận, sẽ có rất nhiều tác dụng. Cụ thể là học sinh vừa có kỹ
năng làm bài văn nghị luận vừa nhạy bén những vấn đề không chỉ trong văn
học mà còn những vấn đề xã hội, có thái độ và cách hành xử đúng theo chuẩn

mực của đạo đức xã hội.
Vì những lí do trên, chúng tôi chọn đề tài “Rèn luyện cho học sinh lớp
10 cách viết mạch lạc bài văn nghị luận”, nhằm góp phần nâng cao kỹ năng làm
văn nghị luận cho học sinh, đáp ứng những yêu cầu mới của giáo dục hiện nay.
2. Lịch sử vấn đề
2.1. Lí thuyết làm văn
Văn nghị luận là một thể văn ra đời từ rất lâu. Ở Trung Hoa văn nghị
luận có từ thời Khổng Tử (551- 479 TCN). Ở nước ta văn nghị luận cũng là
một thể loại có truyền thống lâu đời, có giá trị và tác dụng hết sức to lớn trong
công cuộc dựng nước và giữ nước, trong đời sống văn hoá xã hội. Có thể kể
từ Chiếu dời đô (1010) của Lý Công Uẩn, Hịch tướng sĩ (1285) của Trần
Quốc Tuấn cho đến Bình Ngô đại cáo(1428) của Nguyễn Trãi; từ bài tựa sách
Trích diễm thi tập (1497) của Hoàng Đức Lương, Chiếu cầu hiền (1788) của
Ngô Thì Nhậm, đến bản điều trần Xin lập khoa luật (1867) của Nguyễn
Trường Tộ; Chiếu Cần Vương (1885). Đặc biệt thế kỷ XX, văn nghị luận
càng phát triển mạnh mẽ hơn bao giờ hết. Hàng loạt tên tuổi các nhà chính
luận, văn luận xuất sắc với những áng nghị luận bất hủ, mà tiêu biểu nhất là
Chủ tịch Hồ Chí Minh với bản Tuyên ngôn Độc lập, cùng với biết bao nhà
văn viết nghị luận nổi tiếng sau này như Hoài Thanh với Thi nhân Việt Nam,
Xuân Diệu với Nhà thơ cổ điển Việt Nam.
3
Nói về lí thuyết làm văn có nhiều công trình nghiên cứu, các bài viết về
cách làm văn, trong số những cuốn sách đó:
Cuốn “Dạy văn, học văn” - Nhà xuất bản Đại học Sư phạm năm 2001-
Đặng Hiển, tác giả cuốn sách chỉ ra công đoạn vận dụng kiến thức trong bài
làm văn là rất quan trọng để có thể viết được một bài văn tốt.
“Bí quyết giỏi văn” - Nhà xuất bản Giáo dục năm 2003 - Vũ Ngọc
Khánh. Trong cuốn sách tác giả đã đề cập đến những điều cần thiết để làm
văn cho hay. Ở chương IV nói về chín điều tâm niệm trong cách viết văn, có
những điều như sau:

- Tạo hứng thú và duy trì hứng thú
- Làm giàu vốn ngôn ngữ
- Học thuộc lòng là một biện pháp để giỏi văn hiệu nghiệm
- Chăm đọc sách
-Nghệ thuật bắt chước để giỏi văn
- Ba yêu cầu để giỏi văn: quan sát tinh tế - tưởng tượng dồi dào - nghị
luận chắc chắn
- Bài học ngoài đời
- Phấn đấu có cái riêng của mình
- Công phu gọt giũa.
Cuốn “Tập làm văn 10” – Nhà xuất bản Đại học Quốc gia thành phố
Hồ Chí Minh, năm 2006 – Thái Quang Vinh, Thái Bảo Mi. Nội dung cuốn
sách gồm 2 phần: Phần 1 tác giả đã đưa ra những bài văn như văn tự sự, văn
biểu cảm, văn thuyết minh. Phần 2 đề cập đến văn nghị luận, cụ thể là đưa ra
đề bài, lập dàn bài, kèm theo đó là bài văn tham khảo.
“Đề bài ôn luyện Ngữ văn lớp 11”- Nhà xuất bản Đại học Quốc gia
thành phố Hồ Chí Minh, năm 2007 – Lê Thanh Thông, Nguyễn Thị Lệ Thu,
Lê Thanh Duy. Nội dung cuốn sách gồm có hai phần: Phần trắc nghiệm và
4
phần tự luận, phần tự luận tập trung vào nghị luận văn học lớp 11. Sau phần
đề bài là phần trả lời.
“Ôn luyện kiến thức và bài tập rèn luyện kỹ năng Ngữ văn 11” – Nhà
xuất bản Giáo dục, năm 2008 – Lê Thị Diệu Hoa. Nội dung cuốn sách bám
sát chương trình sách giáo khoa Ngữ văn 11, tác giả cung cấp những kiến
thức cơ bản, gợi ý trả lời câu hỏi và bài tập trong sách giáo khoa, sau đó là bài
tập rèn kỹ năng, phần bài tập bao gồm cả trắc nghiệm và tự luận.
“Những bài làm văn tiêu biểu lớp 11” – Nhà xuất bản Đại học Quốc gia
Hà Nội, năm 2009 – Nguyễn Xuân Lạc. Phần 1, tác giả đề cập đến văn nghị
luận, cung cấp các thao tác lập luận cơ bản như thao tác lập luận phân tích,
thao tác lập luận so sánh, thao tác lập luận bác bỏ. Phần 2, tác giả cung cấp

những bài làm văn tham khảo về nghị luận xã hội và nghị luận văn học.
“Rèn kỹ năng làm văn và bài văn mẫu lớp 10 tập 1” – Nhà xuất bản Đại
học quốc gia Hà Nội, năm 2010- Lê Anh Xuân (chủ biên),Vũ Thị Dung, Đỗ
Lê Hoàn, Bùi Thùy Linh, Ngô Thị Thanh, Nguyễn Thị Ánh Tuyết. Chương 1,
tác giả đã cung cấp những lý thuyết cơ bản hướng dẫn làm văn, chẳng hạn
như các kiểu làm văn biểu cảm, văn tự sự, văn thuyết minh, văn nghị luận.
Đến chương 2, tác giả cung cấp những bài văn mẫu với những đề bài gần gũi
với học sinh lớp 10.
Trên đây chúng tôi đã trình bày những nghiên cứu cách làm văn nói
chung và kiểu bài nghị luận nói riêng. Nhìn chung các tác giả khi viết về cách
thức làm bài văn nghị luận đều đề cập đến các thao tác trong bài làm văn, đề
cập đến vận dụng kiến thức văn học và kiến thức xã hội vào bài làm như là
một đòi hỏi bắt buộc, có tính nguyên tắc. Nhưng làm thế nào để học sinh viết
mạch lạc bài văn nghị luận thì chưa đề cập đến.
5
2.2. Lí thuyết mạch lạc
Mạch lạc trong văn bản đã được nhắc đến từ lâu, nhiều người có thể
nhận ra một văn bản có mạch lạc hay không mạch lạc, đôi khi ít mạch lạc,
nhưng không chỉ ra được mạch lạc là gì? Như vậy, mạch lạc trong văn bản là
một hiện tượng có thực nhưng không rõ ràng. Cuốn “Giao tiếp diễn ngôn và
cấu tạo của văn bản” của tác giả Diệp Quang Ban định nghĩa về mạch lạc như
sau: “Mạch lạc là sự nối kết có tính chất hợp lí về mặt nghĩa và về mặt chức
năng, được trình bày trong quá trình triển khai một văn bản (như một truyện
kể, một cuộc thoại, một bài nói hay bài viết…), nhằm tạo ra những sự kiện nối
kết với nhau hơn là sự liên kết câu với câu”. Từ định nghĩa đó ta cần chú ý
những yêu cầu sau:
Dùng “sự nối kết” nhằm tránh tên gọi có tính chất thuật ngữ là “liên
kết”. Liên kết chính là đối tượng nghiên cứu có tính chất riêng biệt của ngôn
ngữ học văn bản. “Có tính chất hợp lí” là có tính chất lôgic hiểu rộng, không
chỉ liên quan đến lôgic học một cách chặt chẽ, đó là tính chất đúng/sai nói

chung, kể cả xét theo tập tục, theo thói quen và những kiểu quan hệ như thời
gian, không gian. “Nghĩa” trong “về mặt nghĩa” được hiểu khá rộng, đó có thể
là nghĩa chỉ “sự việc” mà cũng có thể là sự đánh giá của người nói đối với sự
việc được nói đến trong văn bản hay quan hệ của người nói đối với người
nghe. “Mặt chức năng” được hiểu là chức năng của lời nói khi sử dụng để
thực hiện các hành động nói, như chào, xin lỗi, cảm ơn, hỏi, sai khiến, hứa
hẹn bộc lộ cảm xúc. “Những sự kiện nối kết với nhau “ được hiểu là sự quan
hệ của các việc, phân biệt với sự “liên kết câu với câu”, vì sự liên kết câu với
câu chưa chắc đã tạo nên được những sự kiện nối kết với nhau.
Như vậy, trong định nghĩa về mạch lạc đã có phần nêu đặc trưng vốn
có của mạch lạc về mặt nghĩa, về mặt chức năng của nó đối với việc hình
6
thành văn bản và sử dụng văn bản, đồng thời cũng có sự phân biệt mạch lạc
với liên kết.
Mạch lạc và liên kết là hai phương diện khác nhau. Mạch lạc là “sợi
dây nối” nối các yếu tố mang nghĩa trong văn bản, kể cả bên trong một câu,
nối từ ngữ trong văn bản với tình huống hữu quan, và gắn văn bản với cách
dùng văn bản. Liên kết là một bộ phận trong hệ thống của một ngôn ngữ với
chức năng nối nghĩa của câu với câu trong văn bản. Liên kết có thể có mặt
trong một văn bản mà cũng có thể có mặt trong một phi văn bản. Nói cách
khác, liên kết chỉ góp phần tạo ra mạch lạc trong một văn bản vốn chứa mạch
lạc, còn trong một chuỗi câu không chứa mạch lạc thì liên kết vẫn không làm
cho chuỗi câu đó thành một văn bản được.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
3.1 Đối tượng: Đề tài tập trung nghiên cứu việc rèn luyện cho học sinh
lớp 10 cách viết mạch lạc bài văn nghị luận.
3.2. Phạm vi nghiên cứu
-Văn nghị luận lớp 10.
- Tìm hiểu cách viết mạch lạc bài văn nghị luận lớp 10.
- So sánh, đối chiếu với một số bài làm văn không mạch lạc.

4. Phương pháp nghiên cứu
Trong suốt quá trình hoàn thiện luận văn, người viết đã sử dụng chủ
yếu những phương pháp nghiên cứu sau:
-Phương pháp phân tích: Phân tích nguyên nhân và kết quả thực
nghiệm điều tra và thực nghiệm dạy học.
-Phương pháp khảo sát, tổng hợp: Được dùng để khảo sát và đánh giá
kết quả điều tra từ đó tìm ra nguyên nhân của sự yếu kém trong việc vận dụng
kiến thức vào làm văn nghị luận của học sinh.
7
- hương pháp phân loại, thống kê: Nhằm thống kê, phân loại kết quả
điều tra tình hình vận dụng những kiến thức để viết mạch lạc của học sinh và
cách chấm bài của giáo viên đề cập đến kỹ năng viết mạch lạc.
- hương pháp so sánh văn học: So sánh kết quả làm văn giữa các lớp,
các khối. Để thấy được tình hình làm văn của học sinh có tiến bộ hay không.
- hương pháp thực nghiệm: Phương pháp này được áp dụng trong thực
nghiệm dạy học, cho học sinh làm bài tập, chứng minh tính hiệu quả của hệ
thống bài tập mà luận văn đề xuất sau khi khảo sát và nắm được tình hình học
văn và những yếu kém của học sinh khi viết văn nghị luận.
5. Đóng góp của luận văn
- Hệ thống hóa những vấn đề lí thuyết làm văn.
- Nêu cách hiểu về mạch lạc của bản thân.
- Đề xuất hệ thống bài tập rèn luyện kĩ năng viết mạch lạc bài văn nghị
luận.
6. Cấu trúc luận văn
A. Phần mở đầu
B. Phần nội dung
Chương 1: Cơ sở lý luận và thực tiễn của việc rèn luyện cách viết
mạch lạc bài văn nghị luận cho học sinh lớp 10
Chương 2: Rèn luyện cho học sinh viết mạch lạc bài văn nghị luận
Chương 3: Thực nghiệm sư phạm

C. Phần kết luận
8
B. PHẦN NỘI DUNG
CHƯƠNG I: CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA VIỆC RÈN
LUYỆN CÁCH VIẾT MẠCH LẠC BÀI VĂN NGHỊ LUẬN
1.1. Cơ sở lý luận
1.1.1. Văn nghị luận
- Quan niệm về văn nghị luận
Theo các tài liệu nghiên cứu, văn nghị luận được chia làm hai loại:
Nghị luận văn học và nghị luận xã hội. Trước đây, người ta phân loại các kiểu
bài dựa vào thao tác lập luận. Cụ thể là:
Nghị luận văn học bao gồm: Chứng minh một ý kiến văn học, phân tích
nhân vật trong tác phẩm tự sự, phân tích tâm trạng trong thơ trữ tình, bình
giảng văn học, bình luận văn học. Nghị luận xã hội bao gồm: Giải thích,
chứng minh một câu tục ngữ, bình luận một vấn đề xã hội. Căn cứ vào thao
tác lập luận để phân loại như thế chưa đảm bảo tính thống nhất khoa học, vì
không có bài văn nghị luận nào chỉ sử dụng một thao tác nghị luận để triển
khai vấn đề.
Sách giáo khoa Ngữ văn mới đang lưu hành hiện nay, có quan niệm
khác. Không căn cứ vào thao tác nghị luận để phân loại các kiểu bài mà căn
cứ vào đối tượng nghị luận. Cụ thể như sau:
Nghị luận văn học bao gồm:
+Nghị luận về một bài thơ, đoạn thơ
+Nghị luận về một ý kiến, bàn về văn học
+Nghị luận về một tác phẩm, đoạn trích văn xuôi
Nghị luận xã hội bao gồm
+Nghị luận về một tư tưởng, đạo lí
+Nghị luận về một hiện tượng đời sống
9
+Nghị luận về một vấn đề xã hội trong các tác phẩm văn học

- Vị trí của văn nghị luận trong nhà trường THPT
Văn nghị luận chiếm một vị trí quan trọng, điều này thể hiện ở sự phân
phối chương trình: số giờ học và thực hành kiểu bài nghị luận nhiều hơn so
với các giờ làm văn kiểu loại khác, bài văn nghị luận luôn xuất hiện trong các
bài kiểm tra và các kì thi: thi tốt nghiệp, thi tuyển sinh trung cấp, cao đẳng,
đại học thì 100% có bài văn nghị luận.
Bài văn nghị luận (nghị luận văn học và nghị luận xã hội) sẽ là cơ sở để
đánh giá năng lực của học sinh trong nhà trường cũng như trình độ của học
sinh qua các kì tuyển sinh, bài văn nghị luận sẽ bồi dưỡng, phát triển cho học
sinh năng lực khám phá vẻ đẹp của tác phẩm văn học cũng như hình thành
cho học sinh năng lực biết đánh giá đúng đắn, chính xác các hiện tượng xã
hội. Muốn biết được mức độ hiểu, khả năng tiếp nhận của học sinh về các tác
phẩm văn học và các hiện tượng của xã hội thì chỉ có một con đường đó là
qua các bài kiểm tra về văn nghị luận. Vì vậy văn nghị luận rất quan trọng
trong nhà trường, được xem như là một dạng văn quan trọng nhất, cơ bản nhất
trong nhà trường THPT hoàn toàn xứng đáng, tương xứng với vai trò của nó
trong sự nghiệp giáo dục hiện nay.
1.1.2. Mạch lạc
Mạch lạc là một vấn đề mới mẻ, được đề cập trong nhiều công trình
nghiên cứu mấy chục năm gần đây. Tính hấp dẫn của vấn đề này không chỉ ở
giá trị của bản thân khái niệm mà còn ở chỗ xác định mạch lạc của một số thể
loại văn bản, mạch lạc không chỉ được nghiên cứu trong văn học, trong ngôn
ngữ học mà cả trong tâm lí học. Trên thực tế đã tồn tại nhiều cách hiểu khác
nhau về khái niệm “mạch lạc”. Có nhà nghiên cứu cho rằng, mạch lạc là “đặc
tính bảo đảm cho các yếu tố khác nhau trong một văn bản khớp được với
nhau trong một tổng thể gắn kết”; hoặc mạch lạc là “sự nối kết có tính chất
10
lôgic được trình bày trong quá trình triển khai một cốt truyện, một truyện
kể ”; hoặc mạch lạc là “những mối quan hệ kết nối thiết lập được thông qua
ý nghĩa giữa các câu”.

Theo các nhà nghiên cứu, có thể phân biệt ba cách nhìn nhận về mạch
lạc trong lí thuyết ngôn ngữ như sau:
- Mạch lạc là liên kết nội dung của các phát ngôn bao gồm cả liên kết
nội dung mệnh đề và nội dung dụng học.
- Mạch lạc là phần bổ sung cho liên kết để lí giải chất văn bản, phân
biệt tập hợp phát ngôn hỗn độn. Đó là những yếu tố thuộc ngữ cảnh và ngữ
vực góp phần gắn kết các thành tố cấu tạo văn bản.
- Mạch lạc bao trùm liên kết nội dung các phát ngôn. Liên kết nội dung
của các phát ngôn chỉ là biểu hiện của mạch lạc. Cách nhìn này xuất phát từ
chỉnh thể văn bản đến các thành tố cấu tạo của nó.
Có thể thấy, các công trình nghiên cứu, khi đề cập đến mạch lạc, đều
khẳng định rằng, mạch lạc là đặc trưng cơ bản nhất của một văn bản. Mạch
lạc có thể được hiểu là sự hoạt động của một tập hợp các thao tác đảm bảo
tính tích hợp về nhận thức đối với văn bản được thể hiện trong cách xác lập
những quan hệ logic, chẳng hạn như những quan hệ kết quả, nguyên nhân,
bao gồm và việc vận dụng những hiểu biết chung về các quy luật hình thành
thế giới xung quanh cũng như những biểu hiện cụ thể của nó. Mạch lạc trong
văn bản là kết quả sự tương tác của nhận thức được thể hiện trong văn bản.
Vấn đề mạch lạc được đưa vào chương trình phổ thông. Trong Sách
giáo khoa (SGK) Ngữ văn 7, Tập 2, khái niệm mạch lạc không được trình bày
một cách riêng biệt mà gắn liền với văn bản và được coi là đặc trưng cơ bản
nhất của văn bản. Bởi vậy, khi nói về văn bản mạch lạc, SGK đã viết: “Một
văn bản có tính mạch lạc là văn bản có các phần, các đoạn, các câu đều nói về
một đề tài, biểu hiện một chủ đề chung xuyên suốt. Các phần, các đoạn, các
11
câu phải được nối tiếp theo một trình tự rõ ràng, hợp lí, trước sau hô ứng
nhằm làm cho chủ đề liền mạch và gợi được nhiều hứng thú cho người đọc
(người nghe)”.
Trên cơ sở các quan niệm về mạch lạc của các nhà nghiên cứu vừa nêu
trên, chúng tôi quan niệm: Mạch lạc trong văn bản là sự tổ chức các phần, các

đoạn, các câu thành một chỉnh thể ngữ nghĩa rõ ràng. Các phần, các đoạn, các
câu được trình bày theo một trình tự lôgic hợp lí, tạo sự kết nối tuần tự, liền
mạch trong suốt văn bản.
1.1.3. Mạch lạc trong văn nghị luận
Mạch lạc là bản chất của văn bản, của bất kì loại văn bản nào. Các thể
loại văn nói chung, nghị luận nói riêng đều cần có tính mạch lạc. Ở đâu có
hoạt động sản sinh văn bản, ở đó đòi hỏi sự có mặt của nó. Vì vậy, dạy học
sinh viết văn nghị luận phải quan tâm tới yếu tố mạch lạc.
Thông thường, trước khi viết một bài văn nghị luận, người viết phải
hình dung khá rõ ràng về điều mà mình muốn nói, hoàn toàn có chủ định từ
việc phân tích đề bài đến việc triển khai sắp xếp các ý, liên kết các câu, các
đoạn, các phần với nhau theo mục đích giao tiếp nhất định, để tạo thành một
bài văn hoàn chỉnh, liền mạch theo yêu cầu của đề. Đó chính là các biểu hiện
của tính mạch lạc trong một bài văn nghị luận mà giáo viên cần luyện cho học
sinh. Dưới đây chúng tôi làm sáng rõ các biểu hiện của tính mạch lạc trong
văn nghị luận.
- Mạch lạc đề tài
Đề tài ở đây được hiểu là mảng hiện thực được tác giả nhận thức và thể
hiện trong văn bản. Đề tài có thể rộng, ví dụ như đề tài về nông thôn, đề tài về
học sinh nhưng đề tài của văn bản cũng có thể hẹp hơn, nghĩa là mảng phạm
vi hiện thực nhỏ hơn, ví dụ mảng hiện thực về đời sống vật chất hoặc đời
sống tinh thần của nông dân, về việc trồng lúa, trồng rau hoặc trồng các loại
12
cây khác của họ Đề tài của văn bản có thể là một sự vật, một sự việc, một
hiện tượng, một thái độ, một con người nào đấy Khi tất cả các câu trong văn
bản chỉ tập trung về một hiện thực duy nhất, hoặc về những mảng hiện thực
có quan hệ rất gần gũi với nhau, không thể tách rời nhau như những mối quan
hệ ràng buộc tất yếu, thì văn bản đó được xác nhận có sự thống nhất về mặt
đề tài.
Sự thống nhất đề tài trong một văn bản thường được thể hiện chủ yếu

qua hệ thống các danh từ, ngữ danh từ hoặc hệ thống của các đại từ.
-Mạch lạc chủ đề
Chủ đề không phải là sự đơn nhất mà là một cấu trúc bao gồm nhiều
tiểu chủ đề hay nhiều chủ đề nhỏ. Mỗi chủ để nhỏ thể hiện một khía cạnh
khác nhau của chủ đề lớn, làm cho chủ đề lớn được xuyên suốt trong toàn văn
bản và hiện thực được phản ánh một cách rõ ràng, chính xác, dễ hiểu. Mỗi
chủ đề nhỏ có thể được thể hiện bằng một đoạn văn, miêu tả một khía cạnh
của đối tượng. Mỗi đoạn văn là một chỉnh thể, có tính thống nhất nội tại.
Đoạn văn được coi là mạch lạc thường có câu chủ đề và được cấu trúc tốt.
Câu chủ đề thường là câu nêu ý chính của toàn đoạn. Tất cả các câu còn lại
đều tập trung hướng về nội dung của câu chủ đề, cung cấp những thông tin
mới, nhằm giải thích, làm rõ ý của đoạn văn.
Tính thống nhất về chủ đề được bộc lộ trực tiếp hay gián tiếp trong tất
cả các câu, các đoạn, các phần trong văn bản với các cung bậc khác nhau đều
phải thống nhất với nhau và giới hạn trong một ý tưởng chung, một mục đích
chung, cùng hướng về một chủ đề nhất định, cùng góp phần thể hiện chủ đề
văn bản.
-Mạch lạc lôgic
Tính lôgic của văn nghị luận được thể hiện ở hai lĩnh vực: Lôgic trong
phản ánh hiện thực và lôgic trình bày.
13
+Lôgic trong phản ánh hiện thực
Lôgic trong phản ánh hiện thực là sự thể hiện phù hợp, chính xác, nội
dung ngữ nghĩa trong văn bản và hiện thực khách quan khi triển khai đề tài,
chủ đề của bài văn nghị luận. Nếu mỗi bài văn nghị luận được xem như một
thông điệp giao tiếp thì quá trình triển khai đề tài, chủ đề được xem như là
quá trình đưa thông tin và liên kết các thông tin để phục vụ cho mục đích giao
tiếp của mình. Có thể chia ra hai loại thông tin chính: Thông tin sự kiện và
thông tin bình luận.
Thông tin sự kiện là những thông tin có tính chất “thông báo về một sự

kiện nào đó đã, đang và sẽ xảy ra trong đời sống xã hội, tập trung vào các
thông số cơ bản: ai, cái gì, con gì, khi nào, với ai, như thế nào… Đó là những
thông tin về nội dung sự việc. Những đơn vị ngôn ngữ được sử dụng theo
nghĩa đen, nghĩa lôgic sự việc”. Thông tin bình luận là những thông tin có
tính chất “đánh giá, phán đoán riêng của người viết”, được thể hiện qua
những biện pháp tu từ như phép so sánh, nhân hoá. Hai loại thông tin này
thường gắn với nhau như hai mặt của một tờ giấy, trong sự kiện đã có bình
luận và trong bình luận đã có sự kiện. Khi xem xét các thông tin sự kiện,
người ta xét tới tính đúng, sai của nó, còn với thông tin bình luận thì xem xét
tính chân thành hay không chân thành.
Để thuyết phục người tiếp nhận văn bản đồng tình và làm cho họ tin
tưởng, trước hết, thông tin đưa ra trong văn bản phải được coi là đúng với
hiện thực khách quan và phù hợp với ngữ cảnh. Đó là nhiệm vụ của thông tin
sự kiện. Nhưng cách biểu hiện thông tin cũng phải thể hiện tính chân thành
của người viết. Nếu ví tính chính xác của thông tin sự kiện như cái khung làm
nên tính vấn đề thì tính chân thành ở thông tin bình luận là linh hồn, nơi biểu
hiện cá tính của thông điệp. Tính chân thành của thông tin bình luận chịu ảnh
hưởng nhiều từ tính đúng của thông tin sự kiện. Nếu thông tin sự kiện bị nghi
14
ngờ là sai, là không chính xác thì mọi sự bình luận xung quanh nó đều không
thể được coi là chân thành. Ngôn ngữ bình luận cho những sự kiện đúng
thường được nhận xét là có cảm xúc còn ngôn ngữ bình luận cho một sự kiện
chưa chính xác thì thường trở nên sáo rỗng và hô khẩu hiệu.
+ Lôgic trình bày
Lôgic trình bày trong văn nghị luận là sự sắp xếp hệ thống các ý theo
một trình tự hợp lí giúp cho người đọc dễ hiểu, có thể hiểu hoàn toàn, hiểu
một cách trọn vẹn nội dung thông tin của bài văn. Khi làm văn nghị luận
người viết phải mở rộng và triển khai chủ đề lớn thành các chủ đề nhỏ. Mỗi
chủ đề nhỏ chính là một ý hay còn gọi là một nhóm thông tin và thường được
trình bày thành một đoạn văn. Các chủ đề nhỏ hay các nhóm thông tin phải

được sắp xếp theo một trình tự hợp lí, căn cứ vào đề tài, chủ đề của toàn văn
bản, để tạo thành một chỉnh thể, liền mạch, thông suốt không bị quẩn quanh
hay đứt mạch. Vì vậy, mạch lạc trong bài văn nghị luận không chỉ thể hiện ở
lôgic của việc phản ánh hiện thực có đúng với hiện thực khách quan và phù
hợp với ngữ cảnh hay không mà còn thể hiện ở việc trình bày hệ thống các
chủ đề bộ phận của bài có phù hợp với quy luật của tư duy, của lôgic không,
có tuân theo một trật tự không gian, thời gian, tâm lí hay không.
Trong mỗi đoạn văn cũng đòi hỏi một sự diễn đạt rõ ràng, chặt chẽ,
không có sự mơ hồ, không lệ thuộc vào sự cân nhắc hoặc hoàn cảnh. Mỗi câu
diễn đạt một ý trọn vẹn, hết ý này đến ý khác. Các ý của từng câu phải có
quan hệ với nhau hoặc theo quan hệ lôgic như quan hệ nguyên nhân, quan hệ
bổ sung, quan hệ nhượng bộ, ý trước là cơ sở hình thành ý sau, ý sau là hệ quả
của ý trước, hoặc theo quan hệ ngữ nghĩa như quan hệ thời gian, không gian,
để làm rõ chủ đề đoạn. Thay đổi trật tự giữa các câu có thể dẫn đến những hậu
quả khác nhau như dẫn đến cái vô nghĩa hoặc làm thay đổi vai trò yếu tố quan
trọng trong quan hệ. Mạch lạc về lôgic trình bày làm cho đối tượng được hiện
15
lên một cách sáng rõ và người đọc nhận thức được một cách nhanh nhất, sâu
sắc nhất.
Độ chính xác về mặt cú pháp, từ pháp và cách dùng từ cũng là một biểu
hiện của tính mạch lạc. Một bài văn mạch lạc không thể là một bài văn mà
trong đó có các câu mắc lỗi về ngữ pháp, có nhiều từ ngữ dùng không chính
xác, các quan hệ ngữ nghĩa giữa các mệnh đề, giữa các câu không gắn bó,
khăng khít với nhau.
1.2. Cơ sở thực tiễn
1.2.1. Chương trình Làm văn
Làm văn trong trường THPT qua nhiều thời kỳ với những quan niệm,
mục tiêu khác nhau đã có những cách nhìn nhận không giống nhau. Cụ thể
như sau:
Trước cải cách giáo dục (từ những năm 1980 trở về trước): Phần Làm

văn thuộc về môn Văn, là bộ phận của môn Văn, quan niệm làm văn giúp học
sinh tạo lập được những văn bản văn học.
Đến cải cách giáo dục (1980-2001): Phần Làm văn là một phần riêng
của môn Văn, dạy Tiếng Việt có tính chất như là công cụ để làm tốt phần
Làm văn, xem làm văn là quá trình giúp học sinh xây dựng văn bản.
Lần thay sách giáo khoa gần đây: Phần Làm văn được tích hợp cùng
môn Văn và Tiếng Việt trong chương trình Ngữ văn mới, các kiểu văn bản của
làm văn chính là một trục để xây dựng nội dung, chương trình Ngữ văn THPT.
Trong lần thay sách này, phần Làm văn hầu như chưa được quan tâm
nhiều, kĩ năng viết văn mạch lạc hầu như ít đề cập đến. Môn quan tâm nhiều
nhất là giảng văn. Về mặt nào đó cũng có lí do của nó, tiếp nhận tác phẩm văn
chương là một vấn đề khoa học rất phức tạp và tinh tế, tỉ lệ thời gian dành cho
giảng văn trong chương trình lại lớn, đây là mảnh đất có nhiều vấn đề, nhiều
người có thể có ý kiến. Phần Làm văn, bản thân nó cũng có đầy đủ lí do và dữ
16
kiện đã được nhìn nhận một cách thỏa đáng cả về phương diện lí thuyết lẫn
thực tiễn, về phương diện dạy cũng như học, về yêu cầu cần đạt tới cũng như
hiệu quả thực tế thu lượm được nhiều năm qua.
Ở đây chúng ta một lần nữa xem xét lại mục tiêu, nhiệm vụ của làm
văn trong nhà trường THPT.
Về mục tiêu, làm văn ở THPT thực hiện sự hoàn chỉnh các tri thức và
kĩ năng làm văn, trang bị một hệ thống trọn vẹn, đầy đủ những vấn đề lí
thuyết cơ bản cũng như rèn luyện những kĩ năng chính trong việc xây dựng
văn bản.
Về nhiệm vụ, làm văn để nâng cao năng lực sử dụng ngôn ngữ tiếng
Việt. Ở bậc THPT học sinh cần có năng lực lĩnh hội, sản sinh các loại văn bản
nói và viết, năng lực thưởng thức, thẩm định giá trị nghệ thuật của các tác
phẩm văn chương. Làm văn còn có thể nâng cao năng lực tư duy qua năng lực
sử dụng ngôn ngữ, giúp học sinh biết tích lũy vốn tri thức, biết huy động và tổ
chức vốn tri thức đó vào một vấn đề nào đó, biết đặt ra vấn đề và hướng giải

quyết vấn đề, biết diễn đạt kết quả tư duy của mình một cách chặt chẽ, rõ
ràng, có sức thuyết phục về lý trí và về tình cảm. Việc nâng cao năng lực tư
duy cũng giúp học sinh tạo được những cơ sở nhất định về mặt trí tuệ để họ
tiếp tục những bậc học cao hơn. Tóm lại nhiệm vụ của làm văn là giúp học
sinh hình thành và phát triển khả năng sản sinh các loại văn bản. Vì vậy nhiều
người gọi làm văn là tạo lập văn bản.
Như vậy, có thể nói mục tiêu và nhiệm vụ của làm văn không chỉ
hướng đến mục tiêu cuối cùng của dạy học Ngữ văn mà còn làm cơ sở cho tất
cả các môn học khác. Nếu không có khả năng sử dụng ngôn ngữ và không có
năng lực tư duy, học sinh sẽ gặp nhiều khó khăn trong tất cả các môn học. Do
đó, theo chúng tôi những mục tiêu này cần phải làm cho giáo viên và học sinh
17
thấy được, thì việc dạy học làm văn mới có thể phát huy được hết tác dụng và
chức năng của nó.
Tuy cách nhìn nhận về phần Làm văn trong nhà trường có nhiều thay
đổi theo thời gian và ngày càng phát triển, hoàn thiện hơn. Nhưng nhìn chung
mọi người vẫn thống nhất xem làm văn là sự tổng hợp tất cả các kĩ năng, năng
lực văn học, tiếng Việt, các tri thức xã hội để viết một bài văn.
1.2.2. Văn nghị luận trong chương trình Làm văn
Có thể nói văn nghị luận là một trong những thể văn phản ánh rõ nhất
đời sống tinh thần, tư tưởng, ý chí và khát vọng của cả một dân tộc. Càng
ngày văn nghị luận càng phát triển mạnh mẽ, càng trở nên đa dạng phong phú,
gắn liền với nhiều vấn đề trong đời sống từ chính trị, xã hội đến các vấn đề
văn học nghệ thuật.
Văn nghị luận là một thể loại văn học nhằm thể hiện tư tưởng, tình
cảm, thái độ, quan điểm của người viết về văn học hoặc chính trị, đạo đức, lối
sống, nhưng lại được trình bày bằng một thứ ngôn ngữ trong sáng, hùng hồn,
với những lập luận chặt chẽ, mạch lạc, giàu sức thuyết phục. Với tính chất là
một thể loại văn học, ở THPT học sinh được học một số bài nghị luận mẫu
mực như: Tuyên ngôn Độc lập (Hồ Chí Minh), Nguyễn Đình Chiểu – ngôi

sao sáng trong bầu trời văn nghệ dân tộc (Phạm Văn Đồng), Bàn về thơ
(Nguyễn Đình Thi), Một thời đại trong thi ca (Trích Thi nhân Việt Nam, Hoài
Thanh, Hoài Chân). Dạy làm văn nghị luận trong nhà trường THPT thực chất
là dạy học sinh xây dựng một văn bản nghị luận thông thường, có thể gặp
trong cuộc sống thường ngày, hay nói đúng hơn là dạy những thao tác làm
văn nghị luận – giống như trước đây mọi người vẫn gọi là Tập làm văn.
Trong chương trình mới, quán triệt yêu cầu giáo dục toàn diện, ngay từ
bậc THCS học sinh đã được học đầy đủ tri thức và các kĩ năng tạo lập sáu loại
văn bản: Văn bản miêu tả, tự sự, biểu cảm, thuyết minh, hành chính – công
18
vụ, nghị luận, cuối cấp II chương trình quy định chủ yếu học và làm văn nghị
luận. Trong chương trình cải cách giáo dục trước đây, cả ba khối 10,11, 12 chỉ
học về văn nghị luận. Trong chương trình mới, toàn bộ phần Làm văn chủ yếu
học về văn nghị luận. Học sinh học chương trình cải cách giáo dục hầu như
khi tốt nghiệp THPT quên hẳn đi mình đã từng được học làm văn miêu tả, tự
sự, hoặc việc viết một lá đơn, một văn bản hành chính – công vụ.
Từ đó có thể thấy được sức ảnh hưởng và tầm quan trọng của văn nghị
luận trong cả chương trình cũ và chương trình mới. Dạy làm văn nghị luận là
một công việc, một yêu cầu trọng yếu của việc học văn trong nhà trường. Có
thể nói trong nhà trường THPT, văn nghị luận chiếm vị trí và vai trò quan
trọng nhất, nếu không muốn nói là độc tôn.
1.2.3. Sách giáo khoa Làm văn 10
Nói đến dạy học trong nhà trường không thể không nhắc đến vai trò,
nhiệm vụ của SGK. Điều 25, mục Giáo dục phổ thông, luật Giáo dục ghi rõ
“SGK phải thể hiện mục tiêu, nguyên lý giáo dục, cụ thể hóa nội dung,
phương pháp giáo dục quy định trong chương trình giáo dục của từng bậc
học, cấp học, lớp học. SGK do Bộ Giáo dục và Đào tạo tổ chức biên soạn và
duyệt trên cơ sở thẩm định của Hội đồng quốc gia thẩm định SGK để sử dụng
chính thức, thống nhất, ổn định trong giảng dạy, học tập ở nhà trường và các
cơ sở giáo dục khác”.

Từ 1975 đến nay, cùng với sự phát triển của xã hội, của giáo dục và
những yêu cầu đào tạo con người mới, chương trình và SGK Ngữ văn đã có
nhiều thay đổi. Trong đó sự thay đổi lớn nhất phải kể đến SGK THPT được
biên soạn từ năm 1990 đến năm 2000 và bộ SGK mới đang giảng dạy.
- SGK hợp nhất năm 2000
SGK của chương trình Ngữ văn là một bộ gồm ba cuốn: Văn học,
Tiếng Việt và Làm văn. Đó là ba phân môn được xây dựng tách rời, độc lập.
19
Vì vậy ba cuốn SGK cũng được biên soạn một cách độc lập, riêng lẻ và quan
hệ giữa chúng khá lỏng lẻo.
SGK Làm văn 10 (GS Trần Thanh Đạm chủ biên). Đây là tài liệu học
tập chính thức của học sinh. Chương trình làm văn lớp 10 có tổng cộng 33
tiết, trong đó gồm 8 bài viết về làm văn, 8 tiết chữa bài viết còn lại là bài học
lí thuyết. Về nội dung chỉ có 2 tiết bài học Phát biểu thảo luận, còn lại là bài
học về văn nghị luận. Ở lớp 10 học sinh được học khái quát về văn nghị luận
(Nghị luận văn học & Nghị luận xã hội ) và cách làm bài văn nghị luận với
những thao tác chung nhất, cơ bản nhất như: Tìm hiểu đề, lập dàn bài, xây
dựng đoạn… Bên cạnh đó còn có 3 tiết học Tóm tắt văn bản nghị luận nhằm
cung cấp cho học sinh một số kĩ năng tóm tắt các văn bản nghị luận thường gặp.
- Sách giáo khoa mới
Môn học Ngữ văn ở THPT theo SGK mới có hai chương trình:
Chương trình cơ bản và chương trình nâng cao. Chương trình cơ bản dành
cho học sinh ở các ban Khoa học tự nhiên và ban Cơ bản. Chương trình này
nhằm đáp ứng cho học sinh nắm vững nội dung môn học để có thể hoàn thành
chương trình và tốt nghiệp THPT. Chương trình nâng cao ngoài những nội
dung có trong Chương trình cơ bản còn có thêm một số yêu cầu và nội dung
khác biệt nhằm phân hóa và đáp ứng nhu cầu cho học sinh. Nội dung Chương
trình cơ bản được xác định là mặt bằng kiến thức, kĩ năng cơ bản, tối thiểu,
đại trà. Sau đó bổ sung thêm một số nội dung tri thức và kĩ năng trong
Chương trình nâng cao.

Với tính phân hóa như vậy, nên mặt bằng chung trong cả nước phần
lớn (khoảng 80%) học sinh lựa chọn sử dụng SGK Chương trình cơ bản, vì
vậy người viết chỉ tìm hiểu SGK Chương trình cơ bản.
SGK Ngữ văn 10 (Chương trình cơ bản do GS Phan Trọng Luận tổng
chủ biên)
20
Tên môn học đã có sự thay đổi, nếu trước đây chúng ta thường gọi
chung là môn Văn, trong đó có ba phân môn: Giảng văn, Tiếng Vịêt và Làm
văn, và tương ứng với chúng là ba bộ sách: Văn học,Tiếng Việt và Làm văn,
được biên soạn một cách độc lập, riêng lẻ và mối quan hệ giữa chúng khá mờ
nhạt. Nay theo chương trình mới, môn học này được gọi là Ngữ văn và SGK
cũng chỉ còn một cuốn cho cả ba môn. Như thế có thể thấy sự thay đổi này là
sự thống nhất và tiếp tục nối kết với môn Ngữ văn THCS thành một chỉnh thể
thống nhất, bảo đảm tính liên thông, đồng bộ và nhất quán từ thấp đến cao.
Ngữ văn 10 Chương trình cơ bản gồm có 2 cuốn (Tập 1 và tập 2), trong
đó làm văn chiếm 35 tiết. Về phân phối chương trình có 7 bài viết trong đó có
3 bài viết ở nhà, 4 bài viết trên lớp, song song và tương ứng với 7 bài viết là
7 tiết trả, chữa bài. Còn lại đa số là tiết học hình thành lí thuyết và rèn luyện
các kĩ năng, thao tác làm văn. Về nội dung, có những nội dung sau: Chọn sự
việc, chi tiết tiêu biểu trong bài văn tự sự. Tóm tắt văn bản tự sự. Trình bày
một vấn đề. Các hình thức kết cấu của văn bản thuyết minh. Tính chuẩn xác
hấp dẫn của văn bản thuyết minh. Phương pháp thuyết minh. Luyện tập viết
đoạn văn thuyết minh . Tóm tắt văn bản thuyết minh. Lập dàn ý bài văn nghị
luận . Lập luận trong văn nghị luận. Các thao tác nghị luận. Luyện tập viết
đoạn văn nghị luận. Như vậy, ở lớp 10 học sinh được học khái quát về văn
nghị luận và cách làm bài văn nghị luận với những thao tác chung nhất, cơ
bản nhất như: Lập dàn ý bài văn nghị luận, các thao tác nghị luận, luyện tập
viết đoạn văn nghị luận, nhằm cung cấp cho học sinh một số kĩ năng văn bản
nghị luận thường gặp.
Về nội dung SGK Ngữ văn 10 có mối liên hệ chặt chẽ với chương trình

mới ở bậc THCS và có nhiều đổi thay so với chương trình cải cách giáo dục.
Nếu SGK Làm văn 10 chương trình cải cách giáo dục (hợp nhất năm 2000),
chủ yếu trình bày các vấn đề văn nghị luận thì ở chương trình mới, học sinh
21
được tiếp tục nâng cao và củng cố về sáu kiểu văn bản theo phương thức biểu
đạt đã được học ở THCS: Văn bản tự sự, văn bản miêu tả, văn bản thuyết
minh, văn bản hành chính - công vụ, văn bản biểu cảm, văn bản nghị luận.
1.2.4. Việc dạy và học văn nghị luận lớp 10
Muốn xem xét, đánh giá một cách toàn diện việc dạy và học làm văn
trong nhà trường nói chung và văn nghị luận lớp 10 nói riêng, chúng ta phải
chú trọng đến hai yếu tố: Giáo viên và học sinh. Hai nhân tố này có mối quan
hệ ảnh hưởng tương tác qua lại với nhau và trực tiếp tác động đến chất lượng
dạy học văn nghị luận lớp 10.
-Về phía giáo viên
“Người thầy giáo Ngữ văn xuất hiện với tư cách là một con người tác
động đến học sinh của mình”. Phương pháp dạy học mới hiện nay cũng đã
xác định lại nhiệm vụ của người giáo viên trong dạy học và mối quan hệ giữa
họ với chương trình, sách giáo khoa và với học sinh. Giáo viên là người “đạo
diễn” trên “sân khấu” dạy – học của mình. Mọi hoạt động của họ đều có sức
tác động mạnh mẽ đến cả quá trình dạy – học.
Qua việc dự giờ một số giáo viên dạy lớp 10 về phần làm văn trong đó
chủ yếu là phần nghị luận ở tỉnh Dak Lak, chúng tôi xin đưa ra một số nhận
xét như sau: Một số giáo viên thực sự quan tâm đến đổi mới phương pháp,
nhưng chủ yếu vẫn thiên về hình thức như tổ chức hoạt động nhóm, thảo luận
theo bàn hoặc theo tổ. Nhiều giờ học còn mang nặng hình thức trình diễn nên
chưa thực sự hiệu quả. Khi được phỏng vấn về các kĩ năng luyện viết văn cho
học sinh, bản thân giáo viên cũng chưa có ý thức về vấn đề này một cách rõ
ràng. Họ chưa có một cái nhìn khái quát, đúng đắn về hệ thống các kĩ năng
cần luyện cho học sinh nên các giờ dạy kỹ năng làm văn chỉ là sự manh mún,
chắp vá. Hết một quy trình dạy về một kiểu bài, bản thân giáo viên cũng

22
không hệ thống lại được các kĩ năng cần thiết mà học sinh cần được rèn
luyện. Dưới đây là một vài ví dụ tiêu biểu.
Giờ lí thuyết Các thao tác nghị luận, giáo viên nêu các khái niệm: thao
tác, thao tác nghị luận. Ôn tập một số thao tác nghị luận cụ thể. Phần luyện
tập giáo viên ít đề cập đến. Cách dạy chung của một số giáo viên mà chúng
tôi đã dự giờ là giáo viên cho học sinh đọc bài theo các đề mục, sau đó hỏi
theo các câu hỏi trong SGK. Giáo viên cũng đã cho học sinh thảo luận nhóm
nhưng có lẽ vì bài khó, câu hỏi cũng khó nên hầu như học sinh không trả lời
được theo yêu cầu. Nội dung của giờ học quá nặng, nhất là với học sinh nông
thôn và miền núi. Giáo viên dạy đã rất cố gắng song vẫn lúng túng nhiều về
cách thức tiến hành giờ học cho hiệu quả. Nhiều giáo viên cho biết, bản thân
họ để hiểu được bài dạy này cũng rất khó.
Giờ Lập dàn ý, giáo viên vẫn dạy tương tự phương pháp cũ. Tất cả các
hoạt động quan sát, lập dàn ý, học sinh đã chuẩn bị ở nhà. Đến lớp, giáo viên
gọi một đến hai em trình bày cách làm. Đáng lẽ giáo viên nên hỏi thêm một
số câu hỏi để củng cố kĩ năng lập dàn ý cho học sinh như: Tại sao phải xác
định luận đề? Xác định luận đề để làm gì? Sau khi xác định luận đề, tiếp theo
chúng ta nên làm gì?, nhưng giáo viên thường chỉ hỏi bằng một câu rất hình
thức: bạn làm như vậy đã được chưa? và nhận xét bằng vài lời rất chung
chung. Sự tham gia của học sinh chỉ tập trung vào một vài học sinh khá trong
lớp, do vậy các em vẫn chưa thấy hết vai trò quan trọng của việc lập dàn ý,
vẫn chỉ coi đó là một công đoạn mang tính hình thức nên không hào hứng
tham gia. Điều này dẫn tới tình trạng học sinh viết bài dập khuôn theo mẫu
dàn bài ở lớp, rất khó tìm ra những bài văn độc đáo, sáng tạo.
Tiết Luyện tập viết đoạn văn nghị luận, giáo viên thiếu những thao tác
hướng dẫn cụ thể để học sinh biết mình sẽ phải làm thế nào. Hầu như các giờ
dạy vẫn khoán trắng cho học sinh tự viết. Các em lại viết theo cảm tính, nghĩa
23
là không làm chủ được quá trình viết của mình, không lí giải được vì sao lại

viết như vậy, viết thế nào thì sẽ được một đoạn văn đúng và hay. Cuối giờ,
giáo viên lại gọi một vài học sinh đọc trước lớp rồi lại nhận xét một cách
chung chung. Có thể nói, yêu cầu học sinh luyện viết một đoạn văn hoàn
chỉnh là một nội dung mới, đòi hỏi giáo viên phải tự bổ sung kiến thức về ngữ
pháp văn bản và các kĩ năng tạo lập văn bản. Khi được phỏng vấn về vấn đề
viết đoạn văn nghị luận, nhiều giáo viên lúng túng và không xác định được
các thao tác dạy học sinh viết một đoạn văn có câu mở đoạn, thân đoạn và kết
đoạn. Đa số giáo viên đều thấy rất khó để có thể dạy hiệu quả môn Làm văn.
Theo chúng tôi, có một số nguyên nhân dẫn đến những hạn chế từ phía
giáo viên. Vì giáo viên chưa thực sự thấy được vai trò và tầm quan trọng của
văn nghị luận trong chương trình lớp 10, các thầy cô vẫn quan niệm rằng bậc
THCS, học sinh đã được học và rèn luyện tất cả các kĩ năng làm văn, ở THPT
chỉ là củng cố, nâng cao, mở rộng, nếu không dạy học sinh vẫn có thể viết
được một bài văn. Tài liệu về Phương pháp dạy học làm văn thiếu trầm trọng.
Tài liệu về làm văn chủ yếu là sách Dàn bài tập làm văn, kĩ năng làm văn,
tuyển những bài văn mẫu, nhưng những tài liệu này chưa đáp ứng được nhu
cầu giáo dục, đào tạo giáo viên Ngữ văn. Thực trạng này cũng do thói quen,
quan niệm từ lâu để lại, dạy học Ngữ văn chỉ chú ý đến đọc – hiểu tác phẩm,
cả Tiếng Việt và Làm văn đều bị xem nhẹ. Tất cả mọi người đều không phủ
nhận tầm quan trọng và cần thiết của dạy học đọc – hiểu. Bên cạnh đó là tâm
lý ngại khó của thầy cô, vì những kiến thức và kĩ năng làm văn nghị luận vừa
trừu tượng, khô khan, dạy một giờ làm văn nghị luận khó hơn nhiều so với
dạy đọc – hiểu tác phẩm.“Viết văn đã khó thì làm văn cũng khó và dạy làm
văn càng khó hơn nữa”.
-Về phía học sinh
24
Làm văn đáng lẽ ra là sự hứng thú sáng tạo của cá nhân, là chuyện bày
tỏ quan điểm của mình. Nhưng nhìn thẳng vào thực trạng nhà trường hiện nay
vấn đề làm văn nghị luận của học sinh thật đáng báo động.
Các tiết học lý thuyết và thực hành văn làm văn, học sinh thực sự

không có hứng thú, không chuẩn bị bài, dưới đây là một số ví dụ tiêu biểu.
Giờ Các thao tác nghị luận. Phần các thao tác nghị luận cụ thể, khi
giáo viên hỏi đoạn văn đã sử dụng thao tác nghị luận nào? Thì học sinh trả lời
đó là thao tác phân tích, nhưng khi hỏi tại sao thì học sinh không trả lời được,
vì học sinh không đọc đoạn trích đó mà chỉ chép lại sách học tốt, khi hỏi nội
dung đoạn trích thì học sinh cũng không trả lời được. Giờ Lập dàn ý bài văn
nghị luận. Mặc dù sách giáo khoa đã định hướng luận đề, luận điểm, luận cứ
nhưng khi yêu cầu trả lời những câu hỏi ở sách giáo khoa thì học sinh không
biết trả lời. Luyện tập viết đoạn văn nghị luận. Chỉ có một số ít là luyện viết,
hầu như học sinh không rèn luyện kỹ năng viết đoạn văn.
Nhìn chung, học sinh chưa thấy được vai trò, tác dụng của học văn nghị
luận lớp 10. Vì vậy những tri thức và kĩ năng làm văn nghị luận chưa được
học sinh chú ý chủ động học tập và rèn luyện. Trên thực tế việc học văn nghị
luận của học sinh chỉ là học thuộc những kiến thức mà giáo viên truyền đạt,
“nhắc lại SGK”, chỉ tập trung vào học đọc – hiểu tác phẩm và làm văn chỉ là
những bài kiểm tra bắt buộc phải thực hiện. Kiểu học theo điệu “sáo” như cố
Thủ tướng Phạm Văn Đồng nói cách đây rất lâu nhưng vẫn còn tồn tại. Thủ
tuớng phê phán lối dạy học văn theo điệu "sáo", lối "múa chữ" sao chép.
Đáng trách là chúng ta chưa làm được bao nhiêu theo lời dạy của Thủ tướng
mà tình hình lại có chiều hướng xấu hơn.
Học đã vậy còn bài văn nghị luận của các em thật đáng buồn, làm văn
theo lối sao chép văn mẫu, kiến thức lủng củng, râu ông này cắm cằm bà kia,
những bài văn dở khóc dở cười còn đầy rẫy trong các kỳ thi. Kĩ năng làm văn
25

×