Tải bản đầy đủ (.pdf) (24 trang)

Nghiên cứu công nghệ sản xuất vắcxin chống dị ứng từ mạt bụi nhà acarien d pteronyssinus (DP) và ứng dụng trong chẩn đoán, điều trị một số bệnh dị ứng hen phế quản, viêm mũi dị ứng, viêm kết mạc nghiên cứu quy trình phân

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.63 MB, 24 trang )

BỘ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ
CÔNG TY VACCINE PASTEUR ĐÀ LẠT






BÁO CÁO KẾT QUẢ ĐỀ TÀI NHÁNH
KC10-10/06-10/01





NGHIÊN CỨU QUY TRÌNH PHÂN LẬP GIÁM ĐỊNH
HÌNH THÁI HỌC LOÀI MẠT BỤI NHÀ ACARIEN
D.PTERONYSSINUS GÂY CÁC BỆNH DỊ ỨNG:
HEN PHẾ QUẢN, VIÊM MŨI DỊ ỨNG, VIÊM KẾT MẠC





Chủ nhiệm đề tài nhánh: PGS. TS Nguyễn Đức Trọng
TS Nguyễn Văn Châu
Thời gian thực hiện: 01/4/2007- 28/5/2007







7598-1
20/01/2010



HÀ NỘI-2009

BỘ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ
CÔNG TY VACCINE PASTEUR ĐÀ LẠT






BÁO CÁO KẾT QUẢ ĐỀ TÀI NHÁNH
KC10-10/06-10/01





NGHIÊN CỨU QUY TRÌNH PHÂN LẬP GIÁM ĐỊNH
HÌNH THÁI HỌC LOÀI MẠT BỤI NHÀ ACARIEN
D.PTERONYSSINUS GÂY CÁC BỆNH DỊ ỨNG:
HEN PHẾ QUẢN, VIÊM MŨI DỊ ỨNG, VIÊM KẾT MẠC







Chủ nhiệm đề tài nhánh
: PGS. TS Nguyễn Đức Trọng
TS Nguyễn Văn Châu
Cán bộ thực hiện
:
GS. TSKH Vũ Minh Thục
TS Nguyễn Văn Châu
TS Võ Thanh Quang
Ths Huỳnh Quang Thuận
KS Đinh Văn Minh





HÀ NỘI-2009

1
Nghiên cứu quy trình phân lập giám định hình thái học loài
mạt bụi nhà Acarien D. pteronyssinus gây các bệnh dị ứng:
Hen phế quản, viêm mũi dị ứng, viêm kết mạc

1. ĐẶT VẤN ĐỀ
Voorhorst và Spieksma 1964, lần đầu tiên chứng minh được rằng mạt sống
trong nhà là nguyên nhân gây ra hen phế quản do bụi nhà. Sau này Fain (1965,
1966) chứng minh trong bụi nhà có 3 loài gây ra dị ứng và viêm phế quản là:

Dermatophagoides pteronyssinus, D. farinae và Euroglyphus maynei mà trước đó
chưa được xác định. Công bố của Fain đã mở đầu cho việc tập trung nghiên cứu
mạt bụi nhà và vai trò của chúng trong việc gây bệnh dị ứng và hen phế quản. Sau
này hàng trăm công trình nghiên cứu trên khắp thế
giới đều ghi nhận vai trò của
mạt bụi nhà với bệnh dị ứng và hen phế quản. Bởi vì thành phần quan trọng nhất
của bụi nhà quyết định kháng nguyên của nó và cho rằng dị nguyên bụi nhà chỉ
mang tính kháng nguyên khi có sự hiện diện của mạt ở trong bụi. Trong các loài
mạt có trong bụi nhà thì D. pteronyssinus đóng vai trò quan trọng vì hoạt tính
kháng nguyên của nó cao và là loài sống phổ biến trên toàn thế giới. Loài này cũng
là loài chủ yếu
để sản xuất vacxin chống dị ứng. Ở nước ta gần đây cũng có nhiều
công trình nghiên cứu thành phần mạt bụi nhà, phương pháp nhân nuôi và một số
đặc tính sinh hóa của dị nguyên mạt bụi nhà D. pteronyssinus [1,3,4,5,7,10]. Nhưng
việc điều tra, thu thập, phân tích xác định hình thái D. pteronyssinus ít được chú ý.
Vì vậy, chúng tôi đã tiến hành nghiên cứu quy trình phân lập, giám định hình thái
mạt bụi nhà Acarien D. pteronyssinus thu thập ở một số địa ph
ương ở miền Bắc
Việt Nam.
Mục tiêu: Cung cấp chủng mạt bụi nhà D. pteronyssinus để nhân nuôi trong
phòng thí nghiệm.


2
2. TỔNG QUAN TÀI LIỆU
2.1. Tình hình nghiên cứu mạt bụi nhà trên thế giới
Năm 1964, Voorhorst và Spieksma lần đầu tiên chứng minh rằng mạt bụi nhà
(MBN) là nguyên nhân gây viêm phế quản do bụi nhà. Các tác giả cho rằng do một
loài mạt chưa xác định thuộc giống Dermatophagoides (Bogdanov, 1864).
Sau này một số tác giả đã xác định được một số loài mạt gây dị ứng, hen phế

quản thuộc các giống loài sau: Dermatophagoides pteronyssinus (Trouessart), D.
farinae Hughes và Euroglyphus maynei (Cooreman). Ba loài mạt này được công bố

lần đầu tiên do Fain, 1965 và 1966. Các phát hiện trên mở đầu cho các công trình
nghiên cứu sau này về vai trò của mạt bụi nhà với bệnh dị ứng và hen phế quản.
Mạt sống trong bụi nhà gồm một số họ, nhưng quan trọng nhất là họ
Pyroglyphidae vì nó gồm nhiều loài mạt gây ra hội chứng hen phế quản. Họ
Pyroglyphidae hiện nay trên thế giới đã phát hiện được 18 giống và 46 loài, trong
số này có 13 loài đã được phát hiệ
n trong bụi nhà. Một số trong các loài này đã
phân bố trên toàn thế giới, một số loài chỉ phân bố ở một số nước. Các công trình
nghiên cứu về phân loại mạt bụi nhà phải kể đến các tác giả: Bogdanov (1864) đã
mô tả giống Dermatophagoides với loài D. scheremetewskyi, ông phát hiện loài này
ở da một bệnh nhân ở Mạc Tư Khoa.
Đến năm 1928, Oudemans phát hiện Dermatophagoides trên cây cảnh của một
gia đình ở Hà Lan, sau này được xác định chính là loài
D. pteronyssinus (Fain,
1964).
Năm 1947, Sasa đã phát hiện ra mạt ở nước tiểu và đờm của bệnh nhân ở Nhật
Bản. Ông đã đưa ra giống Visceroptes có 2 loài: V. saitoi và V. takeuchii. Sau này
năm 1950, chính ông hiệu đính lại giống của ông đã phát hiện chính là
Dermtophagoides. Đến năm 1958 ông lại phát hiện ra loài D. scheremetewskyi ở
một kho dược phẩm. Tuy nhiên khi xem xét về hình vẽ thì chính là D. farinae.

3
Năm 1956, Baker và cộng sự phát hiện D. schemerementeskyi ở ghế sofa, đệm,
gối long vũ, tổ chim sẻ, thức ăn ngũ cốc cho khỉ.
Năm 1964, Voorhorst và Spieksma đã khám phá ra Dermatophagoides rất phổ
biến ở Hà Lan và là nguyên nhân gây ra hen phế quản ở nước đó.
Colloff MJ 1987, nghiên cứu về ảnh hưởng của nhiệt độ và độ ẩm đến sự phát

triển của mạt ở phòng thí nghiệm và quần thể m
ạt sồng hoang dã tại Châu Âu. Sau
này nhiều tác giả đã liên tiếp công bố ra các loài mạt khác nhau. Tuy vậy công trình
hoàn chỉnh nhất về mạt bụi nhà phải kể đến cuốn: “Mạt và các bệnh dị ứng của
A.Fain, B.Guerin, B.J.Hart, 1990”. Các tác giả nêu đầy đủ về hình thái học, bệnh lý
học do mạt bụi nhà gây nên. Tài liệu này giúp ích rất nhiều cho chúng tôi trong việc
định loại mạt bụi nhà, nghiên cứu sinh học, sinh thái và nhân nuôi mạt bụi nhà. Tuy
vậy, việc giám định tên các loài m
ạt bụi nhà là rất khó, đòi hỏi phải có trang thiết bị
hiện đại như kính hiển vi điện tử và chính xác hơn phải dùng đến công nghệ gen.
2.2. Tình hình nghiên cứu mạt bụi nhà ở Việt Nam
Ở Việt Nam, có một số công trình nghiên cứu về mạt bụi nhà được tiến hành
trong những năm gần đây, cụ thể như sau:
Năm 1982, Nguyễn Văn An, Nguyễn Văn Hướng, Vũ Minh Thụ
c đã Nghiên
cứu dị nguyên toàn phần bụi nhà.
Vũ Minh Thục và Pariadin đã tiến hành điều tra thành phần loài mạt bụi nhà
tại Hà Nội (từ tháng 9/1984 - 7/1986), đã rút ra kết luận: mạt bụi nhà thu thập ở Hà
Nội gồm 5 loài (Dermatophagoides pteronyssinus, Glycyphagus domesticus,
Tyrophagus sp., Tyrophagus putresceniae, Chyletidae), chúng có trong 80% số
mẫu bụi nhà. Hai loài D. pteronyssinus và Glycyphagus domesticus nhiều nhất
trong bụi nhà ở Hà Nội.
Năm 1987, Vũ Minh Thục, Nguyễn Văn An, Nguyễn Chí Phi đã Nghiên c
ứu
về thành phần hóa sinh miễn dịch của dị nguyên bụi nhà.

4
Năm 1990, Vũ Minh Thục đã nghiên cứu vai trò của mạt bụi nhà trong bệnh dị
ứng (luận văn Phó tiến sĩ).
Năm 1993, Nguyễn Văn Hướng và cộng sự đã nghiên cứu điều chế, tiêu chuẩn

hóa và ứng dụng trong lâm sàng của dị nguyên bụi nhà tòan phần.
Năm 1996, Nguyễn Văn An, Vũ Minh Thục, Phạm Quang Đoàn, Lê Văn
Khang đã nghiên cứu độ mẫn cảm của dị nguyên b
ụi nhà và hiệu quả của chúng.
Nhìn chung nhóm các tác giả kể trên ít đề cập đến điều tra các loài, hình thái
sinh học của mạt bụi nhà. Mãi tới năm 2001 trở đi mới có các công trình công bố
về một số loài mạt bụi nhà ở nước ta.
Năm 2001, Vũ Minh Thục, Phạm Quang Chinh, Lưu Tham Mưu, Đái Duy
Ban đã điều tra, nghiên cứu 2 loài mạt bụi nhà gây bệnh dị ứng: D. pteronyssinus
và Glycyphacus domesticus ở Hà Nộ
i và các vùng lân cận.
Năm 2002, Vũ Minh Thục, Phạm Quang Chinh, Đái Duy Ban đã nuôi cấy mạt
bụi nhà D. pteromyssinus tạo nguồn dị nguyên góp phần chẩn đoán và điều trị bệnh
dị ứng do mạt bụi nhà. Các tác giả điều tra thu thập mạt bụi nhà tại Hà Nội và vùng
phụ cận, đã rút ra nhận xét: ở Hà Nội và vùng phụ cận 91,59% số mẫu bụi đều có
mạt bụi nhà; hai loài D. domesticus
và D. pteronyssinus phổ biến nhất ở đây, tỉ lệ
của chúng là 52,19% và 40,93% so với tổng số mạt cho mỗi loài. Mật độ D.
domesticus và D. pteronyssinus trong bụi nhà nông thôn nhiều hơn trong bụi nhà
thành phố. Mùa phát triển thuận lợi nhất của mạt bụi nhà ở Hà Nội và vùng phụ cận
là mùa xuân và thu đông[1].
Các công trình công bố ở trong và ngoài nước là cở sở cho chúng tôi nghiên
cứu phân loại D. pteronyssinus và sinh học, sinh thái để nhân nuôi loài này trong
phòng thí nghiệm vớ
i quy mô đủ để sản xuất dị nguyên.
3. Thời gian, địa điểm, vật liệu và phương pháp nghiên cứu
3.1. Thời gian thực hiện : từ tháng 4/2007 đến tháng 3/2008.


5

3.2. Điểm điều tra
- Hà Nội (Nghĩa Tân - Cầu Giấy và Trung Văn, Từ Liêm).
- Vĩnh Phúc (Xã Ngọc Thanh - Phúc Yên).
- Hòa Bình (Đa Phúc-Yên Thủy).
- Sơn La (Mộc Châu).
- Hải Dương (Sao Đỏ, Chí Linh).
3.3. Vật liệu thu thập mạt bụi nhà
- Máy hút bụi National MC-4500
- Chổi quét bụi (chổi quét sơn)
- Lọ nhựa có nắp đựng bụi (0,5 lit)
- Bình nón thủy tinh 0,5 lit
-
Bóng điện 60W
- Khay men trắng
- Lúp tay 20x
- Kính lúp hai mắt
- Kính hiển vi
- Lam kính, lamen
- Sổ ghi chép
- Bút viết kính
3.4. Phương pháp điều tra
Điều tra cắt ngang, chọn thời gian ở địa phương có nhiệt độ và độ ẩm phù hợp
với mùa phát triển của mạt bụi nhà (độ ẩm: 75% - 85%, nhiệt độ 28-30
0
C). Thường
mỗi năm có hai thời điểm: tháng 2 đến tháng 4 và tháng 9 đến tháng 11.
Tại các điểm ở nông thôn, chọn các nhà dân tương đối ẩm thấp, nền đất, mái
tranh; ở vùng thành thị chọn những nhà cấp bốn để điều tra mạt bụi nhà. Ngoài ra,
chúng tôi đã thu thập mạt bụi nhà ở một số nhà nghỉ khu vực Đại Lãi (Ngọc Thanh,
Vĩnh Phúc).


6
Cách thu thập mạt bụi nhà: dùng máy hút bụi lần lượt hút khắp hai bề mặt
chiếu, đệm, chăn, gối, giường của từng gia đình; sau đó tháo tụi đựng bụi ra và
dùng chổi quét bụi vào tấm ni lon; nhặt bỏ hết rác chỉ còn bụi cho vào lọ có nắp
vặn chặt, hay túi ni lông buộc chặt miệng túi bằng dây chun và ghi nhãn cẩn thận
(thời gian, tên chủ nhà, tên địa phương). Bụi của từng nhà bỏ riêng từng l
ọ.

Tách chiết mạt từ bụi nhà trong phòng thí nghiệm
Trước hết sàng lọc bụi nhà qua rây có mắt lưới 0,1mm để loại bỏ những chất
thô, sau đó tách khỏi bụi bằng hai phương pháp:
- Theo phương pháp Berlese: Cho bụi vào phểu thủy tinh có lót 2 lớp vải màn
để bụi không rơi; đặt phểu vào bình nón (0,5-1lit), trên phểu chiếu một bóng
đèn điện công suất 60w, trong thời gian 24h, do tác dụng của nhiệt từ bóng
đèn mạt b
ụi nhà sẽ từ từ chui xuống đáy phểu và xuống bình nón, sau đó ta
lấy mạt trong bình nón ra đếm, phân loại và nuôi cấy.
- Phương pháp Hart và Fain (196; 1 g bụi mịn ngâm trong cồn 80
0
qua đêm,
nhẹ nhàng gạn phần nổi trên ra cốc và cho dung dịch NaCl bão hoà vào và để
yên trong 10 phút. Nhẹ nhàng rót phần nỗi lên trên giấylọc trong phểu Boc ơ.
Dùng nước cất rửa cặn rồi cũng rót lên giấy lọc. Chuyển mạt ừ giấy lọc sang
lam kính để đếm.
- Phương pháp nhân giống mù (của chúng tôi):
Cho khoảng 1-2g bụi mịn sau khi đã rây lọc cho vào lọ nhựa 0,5 lít có nắp đậy
và cho khoảng 1g môi trường thức ă
n nuôi mạt vào, để trong phòng thí nghiệm 2-3
tuần. Do điều kiện nhiệt độ và độ ẩm thuận lợi, nên mạt sẽ phát triển gia tăng về số

lượng, từ đó ta có thể dễ dàng tìm thấy mạt, sau đó san bụi hỗn hợp bụi, mạt và
thức ăn trong lọ ra nhiều đĩa petri, cho thức ăn vào để nhân nuôi tiếp. Đồng thời
chọn các loài mạt cần nuôi cho riêng từng đĩa petri
để nuôi thuần chủng từng loài.

7
Những loài mạt không phải là D. pteronyssinus được làm tiêu bản để định
loài. Loài D. pteronyssinus được tách riêng để nuôi trong phòng thí nghiệm.
- Phân loại mạt bằng đặc điểm hình thái ngoài theo tài liệu phân loại của Fain
A, Guerin B, Hart BJ, 1990 ; Colloff and F.Th.M.Sieksma, 1992 và
Bregetova, 1977.

4. Kết quả nghiên cứu
4.1. Kết quả thu thập và tách chiết mạt từ bụi nhà
Bảng 1. Tỷ lệ mẫu bụi nhà có mạt ở các điểm nghiên cứu
Địa điể
m Số mẫu thu thập Số mẫu có mạt Tỷ lệ % Ghi chú
Hà Nội 135 83 61,48
Vĩnh Phúc 216 152 70,37
Hòa Bình 84 56 66,67
Sơn La 77 58 75,32
Hải Dương 96 63 65,63
Tổng cộng 608 412 67,76
Chúng tôi đã điều tra bụi nhà tại 5 tỉnh thành và thu được 608 mẫu bụi nhà,
trong đó có 412 mầu có mạt (chiếm tỷ lệ 67,76%). Tại Sơn La (Mộc Châu) tỷ lệ
mẫu bụi có mạt cao nhất (75,32%); tiếp đến ở Vĩnh Phúc (Ngọc Thanh) tỷ lệ này là
70,37%. Ở Hà Nội, tỷ lệ mẫu bụi có mạt thấp nhất (61,48%). Có thể lý giải rằng, ở
Mộc Châu khí hậu mát mẻ quanh năm nên t
ỷ lệ mẫu bụi nhà nhiễm mạt cao hơn
các nơi khác (bảng 1).


8
Bảng 2. Mật độ mạt chung các loài trong 1g bụi nhà tại các địa phương
Địa điểm Số mẫu có
mạt
Số lượng mạt trung bình
/1g bụi
Ghi chú
Hà Nội 83 23 ±25 giường đệm sạch
Vĩnh Phúc * 152 52±34 2/3giường đệm bụi bẩn
Hòa Bình* 56 58±17 1/3giường đệm bụi bẩn
Sơn La 58 42±43 2/3giường đệm bụi bẩn
Hải Dương 63 32±11 1/3giường đệm bụi bẩn
Tổng cộng 412 40±24
Ghi chú : * : địa phương hàng năm có phun và tẩm màn hoá chất diệt muỗi
Nhìn chung, số lượng ca sthể mạt chung các loài trong bụi nhà tại các địa
phương điều tra không cao, trung bình 40±34 con/1g bụi. Mật độ mạt thấp nhất ở
khu vực Hà Nội (23 con/1g bụi) và cao nhất ở Sơn La (42 con/1g bụi). Mật độ mạt
trong bụi nhà tại các địa phương điều tra thấp do tác động của nhièu yếu tố, trong
đó có yếu tố
vệ sinh (giặt chăn màn, vệ sinh giường đệm…) và tác động của hoá
chất diệt côn trùng mà trực tiếp là hoá chất diệt muỗi.
Bảng 3. Thành phân loài và tỷ lệ % cá thể các loài mạt bụi nhà tại các điểm
Địa điểm và Tỷ lệ % các thể các loài mạt
TT Tên loài mạt

Nội
Vĩnh
Phúc
Hòa Bình Sơn

La
Hải
Dương
1
Dermatophagoides
pteronyssinus (Trouessart)
41,02 31,25 43,54 38,81 35,26
2
Dermatophagoides sp.
4,98 7,30 10,45 7,927 13,76
3 Glycyphagus domesticus (De
Geer , 1778)
21,34 25,68 32,18 37,94 40,59
4
Tyrophagus putrescentiae
(Schrank)
18,17 12,84 3,01 7,08 0
5
Tyrophagus sp.
3,18 5,03 0 2,25 2,87

9
6
Cheyletus malaccensis
Oudemans, 1903*
9,13 10,21 2,31 3,12 0
7
Dermanyssus sp
0 2,69 1,51 1,63 6,23
8 Aleuroglyphus sp.** 1,93 1,72 1,41 0 1,29

9
Rhizoglyphus sp.**
1,25 2,13 3,46 1,09 0
10
Thyreohagus**
0 1,15 2,13 0,56 0
Cộng 100 100 100 100 100

Ghi chú :
Sau khi điều tra thu thập mạt bụi nhà, chúng tôi định loại và gửi mẫu đi giám
định tại Viện Y học nhiệt đới – Vương Quốc Bỉ (người định tên mạt là Andre’ Bochkov* ngày,
14.V.2008; mẫu mạt được Marc Coosemons chuyển giúp từ Việt Nam sang) và Viện Vacxin
Mechnhikop Mạc Tư Khoa (người định danh mạt là Emelianova O.J**).

Điều tra mạt bụi nhà ở 5 địa phương (mỗi tỉnh 1-2 điểm), chúng tôi đã phân
tích xác định được 10 loài mạt bụi nhà. Trong đó hai loài phổ biến là
Dermatophagoides pteronyssinus (Trouessart) và Glycyphagus domesticus (De
Geer) đều thu thập ở năm địa phương. Loài D. pteronyssinus chiếm tỷ lệ các thể so
với các loài ở các điểm từ 31,25% - 43,54%. Loài Glycyphagus domesticus chiếm
tỷ lệ các thể so với các loài ở các điểm từ 21,34% - 40,59%. Số loài m
ạt bụi nhà thu
thập ở các điểm không giống nhau; tại Hà Nội 8 loài, ở Vĩnh Phúc được 10 loài,
Hoà Bình và Sơn La đều 9 loài, Hải Dương chỉ thấy 6 loài (bảng 3).









10
4. 2. Hình thái phân loại mạt bụi nhà
4. 2.1. Vị trí phân loại các loài mạt chủ yếu đã thu thập


Như vậy ở bụi nhà có nhiều loài mạt, các loài này phát hiện thấy ở chăn,
chiếu, đệm, gối của các nhà dân và ở các nhà nghỉ.
Loài Dermatophagoides pteronyssinus thuộc giống Dermatophagoides
Bogdanov, 1864
Phân họ Dermatophagoidinae Fain, 1963
Họ Pyroglyphidae
Phân bộ Astigmata
Bộ PROSTIGMATA
Phân bô ACTINEDIDA
Bộ MESOSTIGMATA
Phân b

GAMASINA
DERMANISOIDEA
CHELEYTOIDEA TROMBIDIOIDEA
Bộ Astigmata
Phân bộ ACARIDINA
DEMOICOIDEA
DERMANISIDAE
Dermanyssus sp
Cheyletiellidae
Cheyltus malaccensis
ACAROIDEA PSOROTOIDEA
SARCOPTOIDEA

Acacridae Glycyphagidae Carpoglyphidae
Pyrroglyphidae
Sarcoptidae
Glycyphagus
domesticus
- Dermatophagoides
Pteronyssinus
- D. sp
Ph©n líp Acari
Acaridae
Tyrophagus
putrescentiae



11
Bộ Acariformes
Phân lớp Acarina
Lớp nhện Arachnida
Ngành chân đốt Arthropoda
4.2.2. Đặc điểm hình thái một số loài mạt bui nhà phổ biến
4.2.2.1. Loài Dermatophagoides pteronyssinus (Trouessart, 1897) (H. 1, 2,3)
Mạt đực và mạt cái đều có có dạng hình cầu, kích thước chiều dài 420 µm và
rộng là 250-320µm. Thân có màu trắng kem và các nếp nhăn cuticul, giai đoạn
trưởng thành và sau ấu trùng có 8 chân, giai đoạn ấu trùng có 6 chân. Có thể nhìn
thấy mạt dưới kính lúp tay khi đặt mạt trên nền màu đen.
+ Phần miệng (Gmathosoma) gồ
m 2 phần: mép sau miệng ở phía bụng, kết
thúc ở phía bên trong của đôi chân xúc giác (pedipalps) và một cặp kìm ở lưng.
+ Phần đầu bụng (Idiosoma): mang 4 cặp chân ở con trưởng thành và 3 cặp

chân ở ấu trùng. Phần trước của Idiosoma có miệng, chân xúc giác và cặp kìm. Một
rãnh ngang nằm ở giữa chân 2 và 3 gọi là rãnh Sejugal.
Idiosoma chia làm 4 phần:
+ Prodosoma: vùng này mang cặp chân thứ 1 và 2, nằm giữa Sejugal
+ Metapodosoma: vùng mang đôi chân thứ 3 và 4
+ Opisthosoma: vùng nằm sau cặp chân thứ 4
+ Hysterosoma: nằm ở phía sau cặp chân thứ 2
Các ph
ần trên rất quan trọng trong phân loại
Phân bố : D. pteronyssinus là mạt nhà thực sự và phân bố khắp thế giới. Ở
phần lớn các nước, nó là loài mạt phổ biến và đông đảo nhất của họ Pyroglyphidae,
nó có trong bụi nhà và giường ngủ. Giường ngủ có mức độ nhiễm cao hơn so với
thảm hoác nề bụi nhà. Ở Viêt Nam loài mạt này có mặt hầu hết các điểm điều tra và
chiếm s
ố lượng cá thể ưu thế nhất trong các loài.

12
Mạt đực sống từ 10-19 ngày,. một con mạt cái có thể sống 70 ngày, đẻ 60-
100 trứng vào 5 tuần cuối. Trong vòng 10 tuần, mạt bụi nhà có thể cho ra 2000 mẫu
chất tiết.




Mặt bụng Mặt lưng


Hình 1. D. pteronyssinus (Trouessart) con cái (theo Fain, 1990)



13

Mặt bụng con đực Mặt lưng con đực




D. pteronyssinus: chân I và IV (từ trái sang phải) (3 đốt cuối ở con cái)

Hình 2. D. Pteronyssinus đực:
25. măt bụng, 26. mặt lưng, 27. 3 đốt cuối ở con cái

14





Hình 3. D. Pteronyssinus đực: Bàn chân I (a, b), II (c, d) III (e) và IV (f, g, h).


15
4.2.2.2. Loài Glycyphagus domesticus (De Geer) (Hình 4).
Là loài mạt trong kho thuộc họ Glycyphagidae family. Trong nhà thường gặp
chúng trong các chạn thức ăn. Mạt dài 0.3 – 0.7mm, mềm, thân màu trắng kem,
chân màu vừng kem. Cả mạt dực và cái, lông trên cơ thể rất dài, mềm mại.Mạt phát
trioển từ trứng đến con trưởng thánh trong 22 ngày ở nhiệt độ trong phòng. Mạt
trưởng thành sống khoảng 50 ngày. Thức ăn của mạt có nguồn gốc chủ yếu là bột
mì, ngũ cốc và n
ấm.






Mặt bụng con cái Mặt lưng con cái


Hình 4. Glycyphagus domesticus (De Geer):

16
4.2.2.4 Loài Tyrophagus putrescentiae (Schrank) (Hình 5,6,7)
Kích thước dài 200 - 500 µm, thân thể trắng mờ, phần mồn và chân hầu như
khoong màu. Trên các đốt cuối chân có vẩy. Thân đôi khi thon, lông trên thân
nhiều và dài. Mặt bụng con đực, hai bên lỗ hâụ môn có hai giác hút hình vòm. Điều
kiện thuận lợi nó có thể sống 8-21 ngày, nhiệt độ thấp thì tuổi thọ của nó dài hơn.



Hình 5. Tyrophagus putrescentiae (Schrank); mặt bụng con cái


Hình 6. Tyrophagus putrescentiae (Schrank); mặt lưng con cái

17







Hình 7. Tyrophagus putrescentiae (Schrank)

(a) và Acarus siro L (b); c¸c con ®ùc nh×n tõ bông, d−¬ng vËt cña m¹t Tyrophagus putrescentiae
(Schrank) nh×n tõ bªn (c)

18
5. Thảo luận

Kết quả nghiên cứu của chúng tôi nhìn chung phù hợp với kết quả nghiên cứu
của các tác giả trước đay. Tuy nhiên về tỷ lệ nhiễm mạt trong bụi nhà tại 5 điểm
điều tra chúng tôi tiến hành trong năm 2007-2007 là Hà nội, Vĩnh Phúc, Hoà Bình,
Sơn La và Hải Dương đều dưới 50%; Vũ Minh Thục (2001) điều tra tại Hà Nội và
Hà Tây cho kết quả trên 80% mẫu bụi có mạt.
Mật
độ mạt chung (con/1g bụi) từ 23 – 58 con; kết quả này cũng thấp hơn so
với kết quả điều tra của Vũ Minh Thục (2001) ( từ 55- 68 con/1g bụi).
Điều này có thể giả thích rằng: có thể hiện nay điều kiện môi trường, vệ sinh
của nhân dan đã được cải thiện và một phần do sử dụng hoá chất diẹt côn trùng
(các loại bình xịt) khá nhiều trong nhân dân, nhất là vùng nông thôn, nên đã làm
giảm tỷ
lệ và mật độ nhiễm mạt trong bụi nhà.
Về thành phần loài mạt bụi nhà chúng tôi thu thập được tại 5 địa phương gàn
giống với kết quả nghiên cứu của Vũ Minh Thục và Pariadin (1981-1984). Chúng
tôi đã phát hiện bổ sung 2 loài là Cheyletus malaccensis Oudemans, 1903 ở Hà
Nội, Vĩnh Phúc, Hoà Bình và Sơn La; và loài Dermanyssus sp. Vĩnh Phúc, Hoà
Bình và Sơn La và Hải Dương.

6. Kết luận
Bụi nhà ở Hà Nội, Vĩnh Phúc, Hoà Bình, Sơn La và Hải Dương nhiếm m

ạt bụi
nhà thấp (dưới 50%).
Mật độ mạt trong bụi nhà ở các điểm điều tra không cao, từ 23-58 con/1g bụi.
Đã phát hiện được 10 loài mạt bụi nhà tại các điểm đièu tra; trong đó loài D.
pteronyssinus và Glycyphagus domesicus chiếm tỷ lệ cá thể cao hơn các loài khác.




19

TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Phạm Quang Chinh, Vũ Minh Thục, Đái Duy Ban, 2002. Kết quả điều tra 2
loài mạt bụi nhà gây dị ứng Glycyphagus domesticus (Acarina:
Glycyphagidae) và Dermatophagoides pteronyssinus (Acarina:
pyroglyphidae) ở Hà Nội và các vùng lân cận. Báo cáo Hội nghị côn trùng
toàn quốc. (Lần thứ tư), NXB Nông nghiệp: 94-99.
2. Phạm Quang Chinh, Vũ Minh Thục và Cs.,2004. Tách chiết và xác định một
số đặc tính sinh hóa của dị nguyên mạt bụi nhà nuôi cấy Dermatophagoides
pteronyssinus (Acarina: Glycyphagidae). Công trình nghiên cứu khoa học
Hội nghị khoa h
ọc chuyên ngành dị ứng – Miễn dịch lâm sang, Bệnh viện
Bạch Mai, Đại học Y Hà Nội. Hà Nội ngày 26/3/2004, tr. 58-63.
3. Phạm Quang Chinh, Vũ Minh Thục, Lưu Tham Mưu, Đái Duy Ban, 2003.
Kết quả nhân nuôi loài mạt bụi nhà Dermatophagoides pteronyssinus
(Acarina: pyroglyphidae) để góp phần chẩn đoán và điều trị bệnh dị ứng do
bụi nhà. Tạp chí Khoa học và Công nghệ. Tập 41, số 3. tr.24-28.
4. Vũ Minh Thục, Poriadin GV, 1992. Nghiên cứu loài mạt bụi nhà ở
Hà Nội,

Việt Nam. Tuyển tập các báo cáo khoa học, chủ biên: Poriadin GV, Xalaxi
JM. Matxcơva, tr.7-9 (bản tiếng Nga)
5. Anderson A (1988). “Populations growth and development stages of the
house dust mite, Dermatophagoides pteronyssinus (Acarina:
pyroglyphidae)”. J.Med.Entomol., 25,pp.370-373.
6. Chapman MD., Platts-Mills T.A.E. 1980. “Purification and characterization
of the major allergen from Dermatophagoides pteronyssinus-antigen P
1
”.
J.Immunol.125, pp.587-592.

20
7. Colloff MJ.,1987. Effects of temperature and relative humidity on
development times and mortality of eggs from laboratory and wild
populations of European house-duust mite. Dermatophagoides pteronyssinus
(Acarina: pyroglyphidae). Website:www.ncbi.nlm.nih.gov
8. Chua K.Y., Doyle C.R., Dilworth R.J. et al, 1980. “Expression and analysis
of cDNA coding for the house dust mite allergens Der p I and Der p II”,
NER Allergy Proceeding, 667, pp.415 (abstract).
9. Colloff and F.Th.M.Sieksma, 1992. Pictorial keys for the indentification of
domestic mites. Clininal and Experimetal Allergy, vol 22: 823-830.
10. Eraso E., Guisantes J.A., Martisnez J., Sasenz-de-santamaria M., Mar-tisnez
A., Palacios R., Cisterna R., 1997. “Kinetic of allergen expression in culture
of house dust mites, Dermatophagoides pteronyssinus (Acarina:
pyroglyphidae)” J.Med.Entomol. 34(6), pp.684-689.
11. Fain A, Guerin B, Hart BJ. Mites and allergic discase. Varennes-en-
Argonne: Allerbio, 1990.
12. umologiamo/it/allergia_acari.htm

13. Bchkov, Klimov, 2005. Three new species of the predaceous cheyletidae

(Acari: prosigma) phoretic on isects. Acarina 13(1): 15-22.
14. Dogan & ayyildiz, 2004. The first rcords of two cheyletid mites from
Turkey; Chelotominus (Hemicheyletia wellsi (Baker, 1949) and
Hypopicheyla elongata Volgin, 1969 (Acari: Cheletidae). Zootaxa 583: 1-
4.www.mapress.com/zootaxa/





21


D. pteronyssuinus (trong phòng nuôi)



Tyrophagus putrescentiae (Schrank)

Cheyletus malaccensis


22


D. pteronyssinus



Hà nội, ngày 22 tháng 6 năm 2009.

BV Tai Mũi Họng TW Chủ nhiệm đề tài Nhánh KC10-10/06-10/01







TS. Nguyễn Văn Châu

×