Tải bản đầy đủ (.doc) (26 trang)

GIẢI PHÁP RÈN KỸ NĂNG TÍNH VÀ THỰC HIỆN PHÉP TÍNH CHO HỌC SINH LỚP BA

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (191.41 KB, 26 trang )

MỘT SỐ GIẢI PHÁP
RÈN KỸ NĂNG TÍNH VÀ THỰC HIỆN PHÉP TÍNH
CHO HỌC SINH LỚP BA
A. ĐẶT VẤN ĐỀ
I. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI:
Mỗi môn học ở tiểu học đều góp phần vào và phát triển những cơ sở
ban đầu rất quan trọng của nhân cách con người Việt Nam . Cùng với các mơn
học khác, mơn Tốn có vị trí rất quan trọng vì:
- Các kiến thức , kỹ năng của mơn Tốn ở Tiểu học có nhiều ứng dụng
trong đời sống, chúng rất cần thiết cho mọi người lao động, rất cần thiết để
học tập các môn học khác ở Tiểu học và học tập tiếp mơn Tốn ở trung học.
- Mơn Tốn giúp học sinh nhận biết được các mối quan hệ về số lượng
và hình dạng khơng gian của thế giới thực.Nhờ đó mà học sinh có phương
pháp nhận thức một số mặt của thế giới xung quanh và biết cách hoạt động có
hiệu quả trong đời sống.
- Mơn Tốn góp phần rất quan trọng trong việc rèn luyện phương pháp
suy nghĩ, phương pháp suy luận, phương pháp giải quyết vấn đề, nó góp phần
phát triển trí thơng minh, cách suy nghĩ độc lập, linh hoạt, sáng tạo, nó đóng
góp vào việc hình thành các phẩm chất cần thiết và quan trọng của người lao
động: cần cù, cẩn thận, có ý chí vượt khó khăn, làm việc có kế hoạch, có nền
nếp tác phong khoa học.
- Trong chương trình mơn học ở bậc tiểu học, mơn toán chiếm số giờ
rất lớn. Một trong những mục tiêu của mơn Tốn của bậc tiểu học là hình
thành các kỹ năng thực hành tính tốn.Bốn phép tính cộng, trừ, nhân , chia
được sử dụng hầu hết vào các khâu trong q trình dạy học tốn.Tuy vậy,
phép nhân, phép chia là khái niệm trừu tượng. Mà muốn học tốt nhân, chia thì

1


học sinh phải có kỹ năng cộng trừ có nhớ một cách thành thạo. Vì vậy việc


nâng cao hiệu quả rèn luyện kỹ năng thực hành các phép tính cộng trừ , phép
nhân, phép chia là một vấn đề cấp bách và thường xuyên, nó sẽ giúp cho học
sinh nắm chắc một số tính chất cơ bản của các phép tính viết, thứ tự thực hiện
các phép tính trong các biểu thức có nhiều phép tính , mối quan hệ giữa các
phép tính (đặc biệt giữa phép cộng và phép nhân, phép nhân và phép
chia).Đồng thời dạy học phép nhân , phép chia trên tập hợp số tự nhiên nhằm
củng cố các kiến thức có liên quan đến mơn tốn như đại lượng và phép đo đại
lượng, các yếu tố hình học, giải tốn. Ngồi ra, rèn kỹ năng thực hành cộng ,
trừ, nhân chia cịn góp phần trọng yếu trong việc phát triển năng lực tư duy,
năng lực thực hành, đặc biệt là khả năng phân tích, suy luận lơgíc và phẩm
chất khơng thể thiếu được của người lao động mới.Vì vậy, việc nâng cao hiệu
quả, chất lượng dạy và học mơn tốn là một nhiệm vụ cấp thiết nhằm giúp
học sinh hiểu bài, nắm vững kiến thức và từ đó áp dụng vào cuộc sống thực tế
Thế nhưng hiện nay, trong một lớp học bình thường thì trình độ tiếp
thu bài của các em không thể như nhau, mỗi em lại có một gia đình riêng, một
hồn cảnh sinh hoạt riêng. Trong thực tế không phải học sinh nào cũng có sự
quan tâm đầu tư đúng mức của gia đình. Cũng một điều kiện sống nhưng nếu
học sinh nào được bố mẹ quan tâm, kiểm tra hướng dẫn ôn luyện thêm thường
xuyên thì sẽ học tốt hơn những em không được sự quan tâm trên. Rất nhiều
nguyên nhân dẫn đến tình trạng tiếp thu bài của học sinh khơng đồng đều,
trong đó có cả trình độ học vấn, quan điểm giáo dục con em của của từng phụ
huynh, từng gia đình. Tất cả dẫn đến tình trạng là cũng được giáo viên quan
tâm, giảng dạy, truyền thụ kiến thức trên lớp như nhau nhưng có em tiếp thu
nhanh, có em tiếp thu chậm, có em vận dụng được kiến thức đã học trong q
trình làm bài, có em vận dụng chậm, có em khơng vận dụng được…

2


Chúng ta đều hiểu rằng việc giảng dạy và giáo dục luôn luôn đi đôi với

nhau. Giúp đỡ học sinh yếu nói chung và học sinh yếu mơn tốn nói riêng là
việc làm hết sức cần thiết đối với mỗi người làm công tác dạy học như chúng
ta.Vậy nên làm thế nào để giáo dục học sinh yếu mơn tốn đạt hiệu quả luôn
là nỗi băn khoăn trăn trở của tôi khi được phân công chủ nhiệm và giảng dạy
học sinh lớp ba. Theo tôi nghĩ , việc học tập của học sinh phải có những biểu
hiện tích cực ở bản thân các em, bên cạnh đó mối quan hệ giảng dạy của giáo
viên và các hoạt động khác có ảnh hưởng lớn đến việc tiếp thu kiến thức, hình
thành kỹ năng kỹ xảo cho các em. Do đó , trước thực trạng mà một số học sinh
ở lớp 3 cịn tính tốn chậm trong khi học mơn tốn , đặc biệt là khi làm tính ,
thực hiện dãy tính ( tính giá trị của biểu thức) … tơi nghĩ mình cần tìm ra
nguyên nhân , biện pháp gì để giúp các em khắc phục những sai lầm thường
gặp, nâng cao hiệu quả trong giảng dạy , tạo cho các em sự tự tin, hứng thú
trong việc chiếm lĩnh tri thức mới . Đó cũng là là vấn đề quan trọng mà chúng
ta cần có hướng khắc phục. Thực tế qua q trình dạy học sinh lớp ba, tơi xin
nêu một số kinh nghiệm nhỏ của bản thân về : “ Một số giải pháp rèn kỹ
năng tính và thực hiện phép tính cho học sinh lớp 3 “ như sau:
II. MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU:

- Nghiên cứu SGK để nắm được nội dung chương trình, trên cơ sở lí
luận thực tiễn, phân tích những ưu điểm tồn tại để đưa ra những biện pháp,
giải pháp hữu ích nhằm nâng cao hiệu quả giảng dạy giải toán lớp 3.
III. CƠ SỞ VÀ ĐỐI TƯỢNG:
- Căn cứ vào nội dung , chương trình, phương pháp dạy học tốn 3.
- Đối tượng nghiên cứu là học sinh lớp 3.
IV.PHẠM VI THỰC HIỆN:
Tìm ra biện pháp để giúp học sinh nắm vững kiến thức và kĩ năng thực

3



hiện tính và thực hiện phép tính ở lớp 3
B. NỘI DUNG
I. QUÁ TRÌNH THỰC HIỆN:
1.Những việc đã làm:
Chúng ta biết rằng : Số và các phép tính là hạt nhân của chương trình
tốn Tiểu học nên việc dạy học giải tốn ở bậc tiểu học nói chung và ở lớp ba
nói riêng là sự vận dụng tổng hợp ở các điểm cao tri thức và kỹ năng về toán
Tiểu học với kiến thức cuộc sống.
Các bài toán ở lớp ba mà học sinh được giải có nội dung là những vấn
đề trong cuộc sống hết sức phong phú và có cấu trúc đa dạng, từ những dạng
khác nhau của cùng một phép tính ( cộng , trừ, nhân, chia) đến những dạng kết
hợp của hai hay nhiều phép tính. Khi học tốn có văn ở lớp ba, học sinh cần
biết tự tóm tắt bài tốn bằng cách viết ngắn gọn, bằng sơ đồ hình vẽ, để nhận
biết mối quan hệ chủ yếu giữa các đại lượng đã biết và các đại lượng phải tìm,
từ đó tìm ra các phép tính hoặc các bước tính giải bài tốn; biết cách trình bày
giải bài tốn gồm các câu lời giải có kèm theo phép tính hoặc bước tính tương
ứng và đáp số; Bước đầu biết tự lập bài tốn có nội dung thực tế và giải bằng
một hoặc hai phép tính. Muốn đạt được kỹ năng đó địi hỏi học sinh phải biết
tính tốn cộng, trừ, nhân, chia thành thạo.
Chính vì những lí do trên mà ngay từ đầu năm học, khi tiếp nhận lớp tơi
đã chú trọng tìm tịi, nắm bắt đối tượng học sinh , tìm cách giúp các em nắm
bắt và rèn kỹ năng tính và thực hiện phép tính cho các em theo hướng đúng
nhất nhằm nâng cao chất lượng tốn của học sinh lớp mình .
Trong q trình dạy tốn lớp 3, tơi đã quan sát, tìm hiểu và nhận thấy
có rất nhiều ngun nhân dẫn đến học sinh thường mắc sai lầm khi thực hiện
cộng, trừ, nhân, chia, và tính giá trị của biểu thức … Số học sinh thường mắc

4



sai lầm trong q trình tính tốn thường do các nguyên nhân là:
- Chưa thuộc các bảng cộng , trừ đã học ở lớp 2. Nói đúng hơn là các
em đã quên các bảng cộng, trừ và chưa có kỹ năng áp dụng bảng nhân, chia,
nhất là bảng chia vào thực hiện các phép tính cũng như giải tốn hàng ngày.
Có thể do học sinh chưa hiểu rõ khái niệm, cách đặt các phép tính khơng đúng
quy định…
- Khả năng tiếp thu bài ở một số học sinh còn chậm nhớ, mau quên .
- Làm bài theo lối rập khuôn, chưa suy luận, phần lớn các em chưa hiểu
tại sao và làm thế nào….
- Giáo viên phối kết hợp các phương pháp dạy học chưa linh hoạt.
- Bài giảng chưa thực sự thu hút học sinh.
- Học sinh còn thụ động trong suy nghĩ. Thường nơn nóng, khơng chú
ý nghe giảng.
- Khả năng suy luận của học sinh còn hạn chế dẫn đến máy móc, bắt
chước, chỉ giải được các dạng tốn có sẵn, khi gặp bài tốn ở dạng biến đổi thì
khơng làm được.
- Kĩ năng tính tốn cịn thiếu chính xác dẫn đến khi giải tốn hay sai kết
quả.
Từ thực trạng trên , tơi đã cố gắng tìm cách khắc phục nhằm giúp các
em có kỹ năng tính và thực hiện các phép tính hiệu quả hơn
2. Thời gian thực hiện:
Sáng kiến này được thực hiện trong suốt cả năm học. Trong các tiết lên
lớp, tôi đã từng bước khắc phục cho các em những tồn tại, đưa ra các biện
pháp hữu hiệu để giúp học sinh học tập thành công.
3. Biện pháp thực hiện:
Nghề dạy học là một nghề thật đặc biệt, đó là giáo dục con người. Sản
phẩm của giáo dục là đào tạo cho xã hội những con người có trình độ, có
5



phẩm chất đạo đức. Bởi thế đội ngũ thầy cô giáo chúng ta phải có lịng u
nghề, mến trẻ, đặc biệt phải là một tấm gương tự học và sáng tạo, có trách
nhiệm cao với sự nghiệp giáo dục. Khơng nên chạy theo bệnh thành tích mà
ln đặt chất lượng giáo dục học sinh lên hàng đầu, không được để tình trạng
HS ngồi nhầm lớp.Trong giảng dạy phải ln chú trọng đến những đối tượng
học sinh học yếu trong học tập để từ đó đưa ra những biện pháp kịp thời,
linh hoạt, phù hợp giúp cho các em tiến bộ theo kịp các bạn trong lớp.
Học sinh yếu mơn tốn là những học sinh bị hổng kiến thức. Chính vì
thế mà việc tiếp thu bài của các em thật là khó khăn. Lúc đó các em sẽ chán
học, lơ là trong học tập. Vì thế khi giáo viên giảng bài các em khơng hiểu, các
em sẽ ngồi nói chuyện, làm việc riêng trong lớp. Thậm chí cịn quậy phá trêu
chọc các bạn xung quanh.
Để các em yếu toán hoặc học tốn chậm khơng có tư tưởng chán học,
mà có ý thức hơn trong việc học của mình, hứng thú hơn và học tập ngày
một tiến bộ , mỗi giáo viên đứng lớp chúng ta phải tìm ra những phương pháp
mới, tối ưu nhất để giáo dục học sinh.
Để học sinh tiểu học giải tốt các bài toán hợp và toán điển hình thì trước
hết các em phải biết cộng trừ nhân chia thành thạo . Thực tế hiện nay chúng ta
biết mặc dù được lên lớp ba nhưng một số em vẫn chưa thể cộng trừ nhân chia
thành thạo. Qua giảng dạy tơi nhận thấy để học sinh hồn thành được khối
lượng kiến thức theo yêu cầu của chương trình và để học sinh có thể vận dụng
được kiến thức vào luyện tập thì giáo viên phải mất rất nhiều thời gian, hầu
như là gấp rưỡi thời gian quy định của một tiết học. Một trong những nguyên
nhân cơ bản dẫn đến tình trạng này là do kỹ năng cộng trừ nhân chia của các
em chậm. Do đó, để khắc phục được tình trạng này giáo viên chúng ta cần có
biện pháp giúp các em rèn kỹ năng cộng ,trừ , nhân, chia thành thạo , tạo cơ sở
cho các em học toán dễ dàng hơn, hứng thú hơn .
6



Cụ thể :
1.Rèn kỹ năng cộng, trừ có nhớ:
Khi thực hiện các phép tính cộng trừ có nhớ, các em cịn nhầm lẫn, tính
sai. Tìm hiểu ngun nhân tơi nhận thấy các em chưa thuộc các bảng cộng
trừ đã học ở các lớp 1,2 để vận dụng vào tính tốn. Có em khi trừ có nhớ thì
lại lấy chữ số của số trừ trừ đi chữ số của số bị trừ vì thấy chữ số ở số trừ lớn
hơn chữ số ở số bị trừ ( Ví dụ 257 – 192 = 145) . Có em phải gạch từng gạch
trên giấy nháp để tính tốn cộng trừ… Để giúp các em rèn luyện kỹ năng tính
cộng trừ có nhớ thành thạo, một mặt tôi đã hướng dẫn các em ôn lại các bảng
cộng trừ có nhớ ở lớp hai, mặt khác, tơi hướng dẫn các em thực hiện thuật
tính để nhớ bảng cộng và thực hành trong khi tính bằng cách như sau:
Với bảng cộng 9 với một số , tôi hướng dẫn các em nhẩm nhanh bằng
cách bớt 1 ở số hạng thứ hai để bù vào 9 cho đủ 1 chục ( mười) . Ví dụ : 9 + 5
= ?. Ta lấy 5 bớt 1để bù vào 9 thành 10(1 chục), 5 bớt 1 còn 4 . Vậy 9 + 5 = 14
. GV cần chỉ cho HS thấy như vậy khi cộng 9 với một số (có một chữ số )nào
đó thì kết quả hàng chục sẽ bằng 1 và hàng đơn vị bằng số đó trừ đi 1. Thực tế
chỉ cần giảng cho các em hiều và sau đó áp dụng thành kỹ năng là chỉ cần nêu
đúng kết quả phép tính là được. Ví dụ: 9 + 7= thì 7 trừ 1 bằng 6 nên 9 + 7 =
16; 9 + 8 thì 8 trừ 1 bằng 7 nên 9 + 8 = 17…
Tương tự với bảng cộng 8 với một số thì ta lại bớt số đó đi 2 để nêu
nhanh kết quả. Ví dụ 8 + 7 = 15; 8 + 4 = 12 ( vì 7 trừ 2 = 5, 4 trừ 2 =2).; 7
cộng với một số thì lại bớt số đó đi 3 để nhẩm, 6 cộng với một số thì bớt số đó
đi 4… Bằng cách biết vận dụng như vậy, các em sẽ tính tốn nhanh hơn thay
vì đếm tay hoặc phải gạch từng gạch trên giấy nháp để tính khi cộng có nhớ.
Đối với phép trừ thì tơi hướng dẫn các em kỹ năng nhẩm như sau:
Ví dụ: 92 – 27 =…
Ta thấy 2 bé hơn 7 nên không trừ được 7, do vậy ta mượn 1 ở hàng chục
7



là 10 để trừ. Vậy 10 – 7 bằng 3 cộng thêm 2 ở số bị trừ nữa là 5, viết 5 nhớ 1.
9 trừ 2 trừ 1 ( mượn lúc đầu) còn 6 viết 6. Vậy 92 – 27 = 65. ( HS chỉ cần
nhẩm là : 2 không trừ được 7 ta mượn 1chục để trừ, 10 – 7 = 3 cộng thêm 2
bằng 5 viết 5; 9 trừ 2 trừ 1 bằng 6 viết 6 . Vậy 92 – 27 = 65.
Khi HS nắm chắc kỹ năng trừ nhẩm như thế thì các em làm tốn sẽ
nhanh hơn và hạn chế được sai sót khi tính. Bằng cách đó tơi từng bước rèn
và ơn cũng như hướng dẫn các em cộng trừ có nhớ ở lớp 3 dễ dàng hơn . Khi
đã biết cộng trừ có nhớ nhanh hơn thì các em mới học làm tính nhân chia theo
chương trình được, khắc phục dần tình trạng kéo dài giờ học tốn một cách có
hệ thống như đã nêu thực trạng trên.
2. Rèn kỹ năng thực hiện phép tính nhân:
Khi thực hiện phép nhân số có hai chữ số cho số có một chữ số có nhớ,
một số học sinh thường sai lầm vì khơng biết khi nhân lên rồi thì phải viết chữ
số nào ở kết quả, chữ số nào phải nhớ để cộng vào lượt nhân thứ hai
Ví dụ:

24
6
162

( HS lấy 6 x 4 = 24 nhưng lại viết 2 nhớ 4)

Một số em lại chỉ nhớ 1 vào lần nhân thứ hai mặc dù khi nhân với chữ
số hàng đơn vị có kết quả bằng 24 hay 36 gì cũng vậy, vì cứ nghĩ nhân cũng
như cộng.
Ví dụ:  24
6

( HS lấy 6 x 4 = 24 nhưng lại viết 4 nhớ 1)


134

Có em lại nhân với chữ số hàng đơn vị rồi lại cộng với chữ số hàng
chục…
Ví dụ:  24
6
104

( HS lấy 6 x 4 = 24 viết 4 nhớ 2, nhưng sau đó lại
lấy 6 + 2 = 8 thêm 2 = 10 viết 10)

8


Hoặc có em chưa thuộc bảng nhân nên cịn tính sai… Tất cả cho thấy
cần hướng đẫn các em ôn kỹ các bảng nhân đã học và khi dạy hình thành bảng
nhân cần hướng dẫn các em hiểu và tự tìm ra kết quả các phép tính trong bảng
nhân, sau đó học thuộc. Khi dạy các em cách nhân, GV cần hướng dẫn kỹ các
bước nhân, chỉ cho các em thấy với số có hai chữ số thì chữ số nào chỉ hàng
đơn vị, chữ số nào chỉ hàng chục để từ đó biết rằng khi nhân số có hai chữ
số với số có một chữ số ở lượt đầu nếu có kết quả là số có hai chữ số thì ta
viết chữ số hàng đơn vị, nhớ chữ số hàng chục…
3. Rèn kỹ năng thực hiện phép tính chia:
Khi thực hiện phép chia các em cịn nhầm lẫn, khơng xác định rõ số nào
là số dư, số nào là số vừa hạ xuống để thực hiện chia .Vì chưa rõ vị trí của
từng số nên các em thường làm một cách máy móc, rập khn mà khơng rõ vì
sao .
Ví dụ : Một số sai lầm của học sinh khi thực hiện chia .
84
8

04
4
0

84 : 4

4

( thương không ghi)

Hay có em lại làm :
84

4
21

( khơng ghi q trình thực hiện )

Hoặc .
84
8
04
4
0

4
216

( học sinh còn nhầm lẫn giữa nhân và
chia, chưa thuộc các bước chia.)


9


Ngồi ra cịn một số trường hợp các em ước lượng thương cịn chậm,
thậm chí có em khơng biết cách tính thương mặc dù các em thuộc được bảng
chia. Để giải quyết được số học sinh còn yếu khi làm tính, ngồi việc nắm
vững kiến thức , người giáo viên cần có năng lực sư phạm , đó là cách truyền
thụ . Để đạt được mục đích , địi hỏi mỗi giáo viên cần chịu khó học hỏi , tích
luỹ kinh nghiệm trong quá trình dạy học . Điều quan trọng là phải biết được
nguyên nhân nào dẫn đến học sinh làm sai , từ đó cần có biện pháp khắc phục
ngay. Đó là một trong những vấn đề rất cần thiết cho việc dạy học thành công
Đối với các học sinh còn nhầm lẫn khi thực hiện chia , tơi khắc phục
như sau :
Ví dụ : Khi dạy học sinh “ Chia số có hai chữ số cho số có 1 chữ số "
- Giáo viên hướng dẫn kỹ cách thực hiện, sau đó học sinh thực hành .
- Giáo viên chấm nhằm kiểm tra và phát hiện học sinh làm sai, nguyên
nhân sai để có hướng giải quyết .
- Trường hợp học sinh chưa thuộc bảng chia, tôi có thể cho các em nhìn
bảng chia, rồi u cầu các em về học thuộc .
- Học sinh yếu về kỹ năng thì tơi hướng dẫn, gần gũi, ưu tiên gọi lên
bảng .Trong q trình giảng bài , tơi hướng dẫn học sinh nhẩm theo các bước
khi thực hiện phép chia : chia –nhân- trừ. Thực tế khi thực hiện, học sinh
cịn nhầm lẫn khơng biết lúc nào chia , lúc nào nhân và lúc nào thì trừ .
Vì vậy q trình dạy, tơi hướng dẫn kỹ, ta phải thực hiện từ trái sang
phải ( từ hàng cao nhất của số bị chia đến hàng thấp hơn ) . Nghĩa là ta lần
lượt chia từng hàng một , xong hàng này rồi sang hàng tiếp theo .
Khi thực hiện chia ta lấy chữ số đầu tiên tính từ trái sang chia cho số
chia ( thực hiện chia), được thương ta ghi ngay vào kết quả . Rồi lấy thương
vừa tìm được nhân với số chia ( thực hiện nhân ), ta ghi kết quả của phép

nhân dưới số bị chia vừa thực hiện. Tiếp tục ta lấy số bị chia trừ cho kết quả
10


vừa nhân ( thực hiện phép trừ ) . Như vậy ta thực hiện xong ở lần chia thứ
nhất . Tiếp tục hạ chữ số thứ hai xuống thực hiện lần chia thứ hai,tương tự như
lần chia thứ nhất …. cho đến hàng cuối cùng .
Đối với số học sinh ước lượng thương cịn chậm hoặc khơng biết cách
chia . Đặc biệt là khi dạy phép chia tơi có thể hướng dẫn học sinh bằng cách
đếm thêm .
Ví dụ : chia cho 6 . Đếm 6 , 12 , 18 …( đếm thêm 6 ) .Cứ mỗi lần đếm
thêm được 1 ngón tay … mấy lần thì mấy ngón tay .
6
1 ngón

12
2 ngón

18
3 ngón




Trường hợp số bị chia là 20 thì học sinh có thể đếm 24 ,tức là được bốn
lần ,nhưng bớt đi một lần ,vì số bị chia chỉ là 20.
Hoặc bằng cách hướng dẫn học sinh dựa vào bảng chia để tìm ra kết
quả của phép chia có dư. Tơi kiên trì giải thích và hướng dẫn các em rất kỹ ở
bài đầu tiên : « Phép chia hết và phép chia có dư » cũng như liên tục mấy
ngày sau đó để hình thành kỹ năng nhận biết cho các em.

Tôi chỉ cho học sinh thấy : 2 : 2 = 1 ; 4 : 2 = 2 ; 6 : 2 = 3 ...thì 3 chia 2
cũng chỉ được 1, dư 1 ; 5 : 2 cũng chỉ được 2, dư 1 ; 3 : 3 = 1 ; 6 : 3 = 2 thì
4 : 3 cũng chỉ được 1, dư 1 ; 5 chia 3 cũng chỉ được 1, dư 2, tương tự như vậy
7 : 3 cũng chỉ được 2, dư 1, 8 : 3 cũng chỉ được 2, dư 2. ...Bằng cách này, dựa
vào bảng chia đã học các em chậm sẽ tìm ra kết quả của phép chia có dư
nhanh hơn, lâu dần thành kỹ năng. Cứ như thế khi dạy đến bảng chia nào tôi
lại hướng dẫn cho các em các phép chia có dư trong bảng chia đó ( Ví dụ :
6 : 6 = 1 ; 7 : 6 = 1 dư 1; 8 : 6 = 1 dư 2 ; 9 : 6 = 1 dư 3 ; 10 : 6 = 1 dư 4 ; 11 : 6
= 1 dư 5 ; 12 : 6 = 2 ; 13 : 6 = 2 dư 1....) để các em tính tốn nhanh hơn và vận
dụng vào giải tốn trong q trình học cũng như tính giá trị biểu thức.
4. Rèn kỹ năng thực hiện tính giá trị biểu thức :
11


Khi thực hiện tính giá trị của biểu thức các em còn hay sai . Do các em
nắm các quy tắc về thứ tự thực hiện các phép tính trong một biểu thức một
cách máy móc hay học vẹt ( đọc thuộc quy tắc nhưng khi thực hiện lại sai ) .
Ví dụ :
86 – 10 x 4 = 40 - 86
= 46
24 : 3 x 2 = 24 : 6
= 4

( sai )

(1)

( sai )

(2)


Học sinh hay nhầm lẫn trong q trình thực hiện tính . Vì khi vận dụng
quy tắc : “ Đối với biểu thức khơng có dấu ngoặc đơn và có các phép tính
cộng . trừ , nhân , chia ta thực hiện làm tính nhân chia trước , cộng trừ sau
“.

+ Sai lầm ở trường hợp ( 1 ) . Do các em hiểu là nhân trước nên các em

ghi ngay kết quả lên trước .
+ Sai lầm ở trường hợp ( 2 ) . Do các em chưa nhớ kỹ quy tắc còn nhầm
lẫn giữa quy tắc này và quy tắc kia .
* Vì thế với những sai lầm của học sinh thường gặp, tơi tìm hiểu phát
hiện được ngun nhân dẫn đến sai lầm của học sinh khi làm tính . Từ đó có
cách dạy phù hợp để sớm khắc phục những sai lầm trên.
Ví dụ :
60 + 35 : 5 = 60 + 7
= 67

( đúng )

hoặc : có học sinh ghi .
60 + 35 : 5

= 7 + 60
= 67

vẫn đúng .Tuy nhiên do suy luận của các

em chưa lôgic; chưa hiểu bản chất của dãy tính . Vì thế khi dạy học sinh thực
hiện tính giá trị của biểu thức , cần cho các em nhắc lại quy tắc về thứ tự thực

hiện các phép tính trong biểu thức và trước khi tính, phải xác định xem trong
biểu thức đó gồm có những phép tính nào, áp dụng quy tắc đã học thì

12


phải thực hiện phép tính nào trước, phép tính nào sau . Giáo viên phải
kiên trì nhắc nhở, giúp các em hình thành thói quen đó để tính đúng giá trị của
biểu thức trong mọi trường hợp.
Để giúp học sinh nắm các quy tắc thực hiện tính giá trị biểu thức ,ngoài
các bài tập ở SGK, giáo viên cần cho học sinh làm các bài tập cùng dạng ,
nhưng với các số khác nhau .
Giáo viên cần uốn nắn những sai lầm của học sinh mắc phải một cách
kịp thời .
* Giáo viên cần lưu ý ngay , để học sinh có thói quen .Bằng cách đưa ra
ví dụ cho học sinh hiểu rõ vì sao phải như vậy .
Ví dụ :

86 - 10 x 4

= 86 - 40
= 46

Tránh trường hợp các em ghi
86 - 10 x 4

= 40 - 86
= 46

Vì các em nói là nhân trước , trừ sau và ghi như vậy .

Chẳng hạn, khi làm bài tập 71 - 16 : 2 nếu học sinh khơng nhớ
quy tắc đã học thì nói chung cũng khó có thể làm sai vì ( khi các em lấy 71 trừ
16 thì được 55, mà 55 khơng chia hết cho 2 nên các em sẽ tính bằng cách lấy
16 chia 2 được 8 rồi mới thực hiện lấy 71 trừ 8 bằng 63. Cách tính này đúng
nhưng thực tế chưa chắc các em đã hiểu) nhưng khi tính giá trị của biểu thức
: 96 - 60: 3 thì buộc học sinh phải nhớ quy tắc mới làm đúng được :
Ví dụ :
96 - 60 : 3 = 96 - 20
= 76 ( đúng )

96 - 60 : 3 = 36 : 3
= 12 ( sai )

Hoặc :
24 : 3 x 2 = 8 x 2

24 : 3 x 2 = 24 : 6
13


= 16 ( đúng )

= 4 ( sai )

Học sinh cũng thường nhầm lẫn là cứ phải nhân trước rồi mới chia sau
khi gặp biểu thức có phép chia đứng trước như vậy . Vì thế giáo viên cần nhấn
mạnh là “ Cũng như hai phép tính cộng, trừ, hai phép tính nhân chia là bình
đẳng “ nghĩa là phép tính nào viết trước thì làm trước, có như vậy thực hiện
mới đúng kết quả .
Để các em tính đúng giá trị của biểu thức, với học sinh yếu hoặc tiếp

thu chậm, cách trình bày với các em cũng rất quan trọng. Tơi thấy ngồi cách
hướng dẫn học sinh nắm vững cách tính, giáo viên cịn cần hướng dẫn cho
các em cách trình bày bài tính giá trị biểu thức sao cho thuận tiện hơn khi
tính và điều chủ yếu là học sinh dễ nhận ra mình phải thực hiện phép tính
nào trước, phép tính nào sau khi tính. Thơng thường thì có hai cách trình
bày như sau:
Ví dụ: Tính giá trị của biểu thức: 136 – 36 : 6 = ?
Cách 1: 136 – 36 : 6 = 136 – 6
= 130
Cách 2: 136 – 36 : 6 =
136 - 6

= 130.

Với những biểu thức đơn giản ở chương trình lớp 3, thơng thường GV
thường hướng dẫn học sinh trình bày như cách 1. Đây là cách trình bày 1 biểu
thức đơn giản và nhìn vào vở của các em thì ta nhận thấy tính hợp ly và khoa
học. Tuy vậy, học sinh lại hay nhầm lẫn như đã nêu trên. Do chưa hiểu thấu
đáo vấn đề, một số em sẽ lại viết là :
136 – 36 : 6 = 6 – 136 ;

hoặc 136 – 36 : 6 = 136 : 6

= 130 ( sai )

= 22 (dư 4) (sai vì nhầm

lẫn phép tính trong q trình thực hiện)
Do vậy, với học sinh học tốn cịn chậm, tơi nhận thấy hướng dẫn các
14



em trình bày theo cách 2, các em sẽ tiếp thu mau hơn, làm bài ít sai hơn vì tơi
thường nhấn mạnh, yêu cầu các em khi tính giá trị biểu thức, cần xác định
xem biểu thức đó gồm những phép tính nào , nếu chỉ gồm trừ, cộng; cộng trừ
hoặc nhân chia hay chia , nhân thì ta thực hiện từ trái sang phải, phép tính nào
trước làm trước, phép tính nào sau thì làm sau, khơng ưu tiên phép tính nào.
Cịn khi đã có cộng với nhân, nhân với cộng hay cộng với chia, chia với cộng;
trừ với chia, chia với trừ hay trừ với nhân, nhân với trừ,....ta phải ưu tiên thực
hiện phép nhân , phép chia trước, rồi mới cộng trừ sau. Và để dễ tính, các em
dùng dấu gộp ngay dưới phép tính cần làm trước rồi mới thực hiện. Do vậy,
các em dễ tính hơn và ít sai hơn. Về sau, khi gặp những biểu thức phức tạp
hơn, các em cũng dễ dàng tính được, thuận lợi hơn cho các em trong quá trình
học tốn về sau.
Ví dụ: Khi tính giá trị của biểu thức: 25 - 55 : 5 + 48 x 2 = ?
Các em sẽ xác định là sẽ thực hiện phép chia 55: 5 và phép nhân 48 x 2
trước nên sẽ làm dấu gộp dưới phép chia và nhân đó rồi mới bắt đầu tính, Cụ
thể:
25 – 55 : 5 + 48 x 2 =
25 - 11

+

96

=

14

+


96 =

110

hạn chế được nhầm lẫn hơn khi trình bày theo cách 1.
25 – 55 : 5 + 48 x 2 = 25 - 11 + 96
= 14 + 96
= 110
Đối với học sinh mất căn bản không nắm được kiến thức ở lớp dưới
thì tơi ln quan tâm đặc biệt hơn. trong bài giảng tôi chú ý đến các em nhiều
hơn vừa truyền thụ kiến thức mới tôi vừa ôn kiến thức cũ cho học sinh.trong
tiết dạy tránh tình trạng giáo viên để học sinh yếu mất căn bản ngoài lề tiết
15


học.- Khi giảng bài tôi giảng chậm và kĩ hơn để cho HS tiếp thu. Khi làm bài
tập , tôi đến tận nơi để giúp đỡ các em, những em yếu chưa tiếp thu kịp bài
giảng tôi phải giảng lại cho các em nắm . Khi làm bài tập tôi cho những em
này làm ít bài hơn những HS khác trong lớp.
5. Phối hợp tốt các hình thức tổ chức dạy học, giáo dục:
- Ngoài các biện pháp trên , tơi nhận thấy cần phối hợp thật tốt các
hình thức tổ chức dạy học, linh hoạt trong giảng dạy như tổ chức cho các em
học tập, thảo luận theo nhóm, tổ chức trò chơi học tập để củng cố kiến thức
cho các em.
- Cho những bạn ngoan thường xuyên chơi với những đối tượng học
sinh chậm, yếu nhằm giảm thiểu tối đa việc ham chơi của HS .
- Giáo viên cần phải trao đổi trực tiếp đến từng đối tượng học sinh bằng
lời nói ,cử chỉ , mệnh lệnh thật thuyết phục đến các em .
Ví dụ: giáo viên dùng lời nói nhỏ nhẹ, giải thích cho các em nắm được tầm

quan trong của việc học.cho các em hiểu được: “ học phải đi đơi với hành.” có
như vậy các em mới nắm được kiến thức lâu và tiếp thu các kiến thức mới tốt
được.
- Giáo viên cần phải tạo cho các em một niềm tin: “ Mỗi ngày đến
trường là một niềm vui” bằng cách giáo viên cho những em học chậm , học
yếu tham gia các hoạt động phong trào có ích như : văn nghệ, TDTT, các trò
chơi dân gian, các hoạt động khác do nhà trường, Đội, lớp tổ chức.
- Bên cạnh phương pháp giáo dục trực tiếp đến từng đối tượng học
sinh. giáo viên cần phải phối hợp phương pháp giáo dục tập thể. Dùng dư luận
của tập thể tác động đến ñối tượng này, xây dựng dư luận tập thể lành mạnh
thành khối đòan kết, với phương châm : “ Sống có trách nhiệm”, thiết lập mối
quan hệ tốt giữa các thành viên, khêu gợi động lực học tập của học sinh vì

16


danh dự tập thể , mỗi thành viên tự giác điều khiển hành vi của bản thân.
Ví dụ :Tơi động viên học sinh bằng hoa điểm mười cho các nhóm, tổ, cá
nhân vào mỗi ngày và tổng kết tuyên dương sau mỗi tháng (có thưởng).Có
như vậy các thành viên trong tổ mới động viên, giúp đỡ nhau cùng tiến bộ để
giữ gìn truyền thống. Cịn các thành viên ở tổ khác sẽ cố gắng học tập để đạt
kết quả tốt như tổ bạn…Chính dư luận là dấu hiệu quan trọng nhất đánh dấu
sự trưởng thành và phát triển của tập thể trong đó có sự tiến bộ của các đối
tượng học sinh yếu mơn tốn.
+ Tơi cũng thường xun liên lạc với phụ huynh học sinh để gặp và trao
đổi, tơi phân tích phải trái, đúng sai, đồng thời nhắc nhở phụ huynh quan tâm,
động viên con em mình trong học tập, phân tích cho họ thấy việc học là rất
quan trọng đối với các em để sau này ra đời các em trang bị cho mình vốn
kiến thức để giúp ích cho bản thân và xã hội. Từ đó phụ huynh cùng giáo viên
có kế hoạch rèn cho học sinh yếu.

+ Tôi động viên phụ huynh học sinh dành thời gian thích đáng cho việc
học tập của các em, khuyến khích các em phấn đấu trong học tập. Hướng dẫn
cho phụ huynh cách quản lý giờ giấc, quản lý việc học tập và phương pháp
hướng dẫn con em học tập ở nhà.
+ Giáo viên phải thường xuyên liên lạc với phụ huynh nhằm thông báo
kết quả, sự phấn đấu của con em họ. Hàng tháng báo cáo kết quả học tập của
các em về gia đình qua sổ tay, làm cho phụ huynh thấy rõ vai trò của gia đình
trong việc phối hợp nâng cao chất lượng học tốn cho học sinh. Phải thường
xuyên theo sát HS trong quá trình giải tốn với tư cách là người gợi ý, hướng
dẫn để sửa chữa, uốn nắn kịp thời những sai sót.
* Một số vấn đề tơi ln lưu ý trong việc rèn toán cho học sinh:
a). Phải quan tâm đầu tư chu đáo cho việc dạy toán ( soạn bài, chuẩn bị
đồ dùng, nghiên cứu tài liệu,...) tự mình giải tất cả các bài toán trong SGK,
17


sách tham khảo để phát hiện, dự kiến những vấn đề học sinh hay bị nhầm
lẫn).
b). Phát huy tính tích cực của học sinh trong việc học toán:
+ Tổ chức học nhóm: Chúng ta biết rằng dạy học theo nhóm là hình
thức dạy học đặt HS vào mơi trường học tập tích cực. Trong đó, HS được tổ
chức thành các nhóm một cách thích hợp. Trong nhóm, HS được khuyến
khích thảo luận và làm việc hợp tác với nhau. Thông qua hoạt động nhóm, các
em được rèn luyện và phát triển kĩ năng làm việc, kĩ năng giao tiếp, HS có
điều kiện học hỏi lẫn nhau, phát huy vai trị trách nhiệm, tính tích cực trên cơ
sở làm việc và hợp tác.
Hình thức dạy học theo nhóm góp phần hình thành và phát triển các mối
quan hệ qua lại trong học sinh, đem lại bầu khơng khí đồn kết, giúp đỡ, tin
tưởng lẫn nhau trong học tập. Tổ chức học tập theo nhóm cịn giúp các em
nhút nhát, khả năng giao tiếp, diễn đạt kém...có điều kiện được rèn luyện, tập

dượt...từ đó khẳng định bản thân trong mơi trường hoạt động nhóm.Học sinh
có điều kiện để bàn bạc, thảo luận tìm ra cách giải đúng đối với những bài
tốn khó, tương đối phức tạp. Động viên học sinh mạnh dạn trình bày ý kiến
của mình, dần dần giúp học sinh chủ động, tự tin, không dựa vào giáo viên.
+ Hoạt động cá nhân: Để có thể kiểm tra được hoạt động của từng học
sinh trong q trình giải tốn, tơi yêu cầu học sinh lập sơ đồ phân tích trên
giấy nháp.Qua đó phát hiện, giúp đỡ những học sinh yếu kém trong giải toán.
c). Tăng cường luyện tập thực hành giải toán. Lượng bài tập đưa ra phải
phù hợp với từng đối tượng học sinh. Hệ thống câu hỏi tìm hiểu đề, phân tích
đề để tìm cách giải phải rõ ràng, ngắn gọn, dễ hiểu.
d) Cần rèn cho học sinh kĩ năng thực hiện các phép tính cộng, trừ, nhân,
chia chính xác. Bởi nếu như các em biết cách giải tốn song trong q trình
tính tốn sai thì sẽ dẫn đến bài tốn giải khơng đạt kết quả.
18


đ). Dạy học cá thể hố để tìm ra sai lầm và nguyên nhân dẫn đến sai
lầm của từng học sinh trong q trình giải tốn.Phải kiên trì và kịp thời sửa
chữa sai lầm của học sinh một cách chu đáo.
e).Ln thay đổi các hình thức luyện tập giải tốn để gây hứng thú học
tập cho học sinh .
g). Nắm đặc điểm tâm lý của học sinh:
Có 2 trường hợp:
+ Học sinh hăng say học tập.
+ Nếu học sinh mệt mỏi, chán học do kiến thức quá tải gây căng thẳng.
Có thể dừng bài giảng cho học sinh vận động chơi trị chơi tại chỗ nhằm giải
trí lấy lại khơng khí thư thái học tập cho học sinh.
Với những biện pháp trên tơi nhận thấy kĩ năng tính và thực hiện phép
tính của học sinh được nâng lên rõ rệt , từ đó kỹ năng giải tốn có văn của các
em cũng được nâng lên. Các em đã biết cách tính cộng , trừ, nhân, chia và

thực hiện phép tính; tất cả các đối tượng học sinh trong lớp đều biết cách đặt
tính và tính, thực hiện đúng cách tính giá trị các biểu thức, trình bày bài tốn
giải, nhiều em đạt bài khá, giỏi vì có các câu trả lời rất sáng tạo phù hợp với
yêu cầu cần tìm của bài tốn, Đặc biệt đối với phép chia có dư , điều quan
trọng là ở bài đầu “ chia số có hai chữ số cho số có một chữ số “ giáo viên dạy
cho học sinh thật kỹ, học sinh nắm được cách chia, ước lượng thương thì các
phép chia số có 3,4,5 chữ số cho số có một chữ số học sinh thực hiện một cách
dễ dàng. Các em cũng đã biết tự tóm tắt bằng sơ đồ đoạn thẳng, giải toán
đúng được bài toán.. Đặc biệt các hình thức học nhóm thảo luận tìm cách giải
hay các hình thức dưới dạng tổ chức trị chơi được học sinh hưởng ứng và
tham gia rất tích cực.
Thực tế với cách dạy trên học sinh có sự tiến bộ rõ,vì các em đã nắm
được kỹ năng làm tính, thể hiện cụ thể qua các bài kiểm tra , kiểm tra định kỳ
19


…So với kết quả đầu năm thì số học sinh làm tính chậm có phần giảm đi . Tuy
nhiên cịn 1 hoặc 2 trường hợp đặc biệt đòi hỏi giáo viên cần kiên nhẫn, thật
kiên nhẫn thì mới khắc phục được .
Kết quả đạt được:
Năm học 2009 -2010; 2010 -2011: ; 2011 – 2012: 100% học sinh lớp tôi
chủ nhiệm đều đạt điểm trung bình và khá giỏi mơn tốn.
Kết quả kiểm tra mơn tốn năm học 2012 -2013 như sau:
Giữa kỳ I:

Điểm : 9 -10
Điểm : 7 - 8
Điểm : 5 - 6

24 em / 32 em

6 em / 32em
2 em / 32 em

Đa số các em đều thích thú, sơi nổi khi học tốn, viết chữ rõ ràng, biết
đặt tính rồi tính, trình bày bài tốn sạch, đẹp. Trao đổi kinh nghiệm với chị em
đồng nghiệp và áp dụng vào giảng dạy phụ đạo cho học sinh yếu cũng như
củng cố kỹ năng tính cho học sinh, chúng tơi đều nhận thấy rằng các em tiến
bộ hơn, tính tốn cộng trừ nhân chia có nhớ dễ dàng hơn dẫn đến tiếp thu và
thực hiện tính tốn nhanh hơn, nâng cao được chất lượng học tập mơn tốn .
Cuối năm học 2011 – 2012, cả khối 3 chỉ còn 2 học sinh yếu mơn Tốn, tiến
bộ hơn so với những năm học trước rất nhiều. ( Năm học 2010 – 2011 cả tổ
còn 6 học sinh yếu phải thi lại mơn tốn). Từ thực tế trên, tơi rút ra bài học
kinh nghiệm như sau:
BÀI HỌC KINH NGHIỆM
Muốn nâng cao chất lượng trong việc rèn kỹ năng tính và thực hiện
phép tính, cần:
* Đối với học sinh:
- Tích cực học thuộc các bảng cộng, trừ, nhân, chia đã học.
- Tập trung nghe giảng, có tinh thần tự học tự rèn, tự giác học tập.
- Học thuộc tất cả quy tắc, cơng thức,cách giải tốn theo từng dạng.
20


- Tăng cường luyện tập toán, đặc biệt là đặt tính rồi tính, giải tốn.
* Đối với giáo viên:
- Chú trọng việc dạy kỹ năng tính và thực hiện phép tính cho học sinh.
- Nắm vững quy trình dạy tính và thực hiện phép tính.
- Chuẩn bị tốt nội dung, hệ thống câu hỏi đưa ra khai thác.
- Quan tâm đến từng đối tượng học sinh.
- Kịp thời uốn nắn sửa sai cách làm bài, trình bày bài làm của học sinh.

- Tăng cường sử dụng phương pháp, hình thức tổ chức dạy học phát huy
tính tích cực của học sinh.
- Giáo viên cần thể hiện tính kiên trì, bền bỉ, nhiệt tình, hết lịng vì học
sinh.
Để giúp học sinh phát huy được tính chủ động, tích cực trong học tập và
nâng cao chất lượng học toán của học sinh, giáo viên cần:
• Nắm vững mục tiêu từng bài học, trên cơ sở đó có biện pháp tổ chức
dạy học thích hợp cho học sinh.
• Tổ chức cho học sinh thảo luận nhóm để hỗ trợ, tương tác cho nhau
trong quá trình tìm hiểu đề bài và phải lựa chọn nội dung thảo luận nhóm hợp
lý thì việc áp dụng hình thức dạy học theo nhóm mới mang lại hiệu quả . .
* Phải thường xuyên thay đổi các hình thức tổ chức học tập của học
sinh để các em khỏi nhàm chán. chú ý tư duy độc lập của từng học sinh.
• Lời nói của giáo viên phải nhẹ nhàng, chính xác, thường xuyên động
viên, khen thưởng học sinh kịp thời để khích lệ các em.
• Phải đặt mình vào nhận thức của trẻ để giảng dạy, tránh gây áp lực
nặng nề cho các em.

21


C. KẾT LUẬN
Như vậy, để có được kết quả cao trong học tập của HS thì sự nhiệt tình
giảng dạy của GV thôi là chưa đủ. Mỗi một môn học, mỗi một bài học, mỗi
một tiết học đều có một sắc thái, một đặc điểm riêng, đòi hỏi một phương
pháp riêng phù hợp với nó. Vì vậy, ngồi những phương pháp chung đã được
sách in thành chương, thành mục, mỗi GV chúng ta cần xây dựng cho mình
một phương pháp dạy học riêng. Theo tôi, phương pháp dạy học hữu hiệu nhất
là một phương pháp có nội dung khơng chỉ thay đổi theo từng tiết học mà theo
từng nhu cầu tiếp thu của HS. Mỗi HS có một khả năng nhận thức khác nhau,

vì vậy, chúng ta cần phải dựa vào tình hình thực tế để điều chỉnh cách dạy làm
sao cho có hiệu quả nhất. Chỉ có như vậy, công sức lao động của chúng ta bỏ
ra mới không bị uổng phí, kết quả mới thể hiện đúng giá trị của nó.
Rèn kỹ năng tính và thực hiện phép tính cho học sinh lớp 3 là vấn đề
cần thiết mà chúng ta cần quan tâm đầu tiên khi đặt nền móng nâng cao chất
lượng dạy tốn cho học sinh lớp 3 bởi có tính tốn cộng, trừ, nhân, chia chính
xác thì các em mới có thể thực hiện tính giá trị biểu thức đúng, mới vận dụng
vào để giải các bài tốn hợp trong chương trình lớp 3 có hiệu quả. Đặc điểm
tâm lý ở lứa tuổi của các em là dễ nhớ mau quên. Do vậy cần tìm cách rèn cho
các em nắm được thuật tính trong khi tính tốn cộng, trừ, nhân, chia có nhớ
trong q trình học tập như trên thay vì chỉ yêu cầu các em học thuộc các bảng
cộng, bảng trừ, bảng nhân, bảng chia rồi vận dụng vào làm bài thì sẽ giảm
được áp lực cho các em trong q trình học tốn. Rèn được kỹ năng tính và
thực hiện phép tính cho các em chính là ta đã trao cho các em chìa khóa để mở
cửa khám phá kho tàng tri thức tốn học. Kết quả đạt được trong q trình
giảng dạy cho ta thấy tính khả thi của phương pháp khi thực hiện. Giải pháp
này theo tơi có thể áp dụng không những chỉ đối với học sinh lớp 3 mà nếu ta

22


vận dụng để rèn cho các em ngay từ khi mới học tốn cộng, trừ có nhớ ở lớp 2
thì sẽ giúp các em học toán đỡ vất vả hơn. .
Tóm lại: Muốn dạy tốt mơn Tốn, giúp học sinh hiểu, làm tốt các bài
tập, trước hết giáo viên phải hiểu và nắm chắc các kiến thức và kỹ năng dạy
các biện pháp tính đồng thời phải biết hướng khai thác để giúp trẻ phát triển tư
duy sáng tạo trong học Tốn. Giáo viên khơng nắm vững nội dung dạy học khi
lên lớp sẽ lúng túng, hướng dấn học sinh không mạch lạc làm cho hoạt động
suy nghĩ của các em luẩn quẩn và gây mất niềm tin ở các em.
Muốn có giờ dạy học tốt, giáo viên phải thực sự có lịng u nghề mến

trẻ, khơng ngại khó, ngại khổ mà phải đào sâu suy nghĩ, tích cực sáng tạo, tìm
tịi cái mới để dạy.Có được như vậy mới tất yếu bài giảng sẽ thành công.
Để đảm bảo mục tiêu của giáo viên hiện đại, trong quá trình dạy học
người giáo viên cần phải dạy cho học sinh các kỹ năng quan sát, phân tích, đặt
vấn đề và lập kế hoạch giải quyết vấn đề, rèn cho học sinh tính kiên nhẫn, tinh
thần say mê dưới sự gợi mở của thầy.
Trong đánh giá, việc giáo viên hướng dẫn học sinh cùng chấm bài với
mình hoặc để cho học sinh tự chấm bài mình, được chấm bài bạn là một điều
hết sức quan trọng.
Trong quá trình ấy người giáo viên sẽ trực tiếp chỉ ra cho học sinh được
cái hay, cái được trong khi làm các bài tập toán. Đồng thời cũng là cơ hội để
các em tự đánh giá nhận xét kết quả làm việc của mình, của bạn. Dùng điểm
số để khuyến khích tính sáng tạo, tích cực của học sinh.
Dạy học là một nghề cao quý nhất trong các nghề cao q. Chính vì
vậy, trong dạy học người giáo viên phải luôn luôn tôn trọng nhân cách của trẻ,
không được gây ức chế cho học sinh bởi nếu có thì sẽ khơng bao giờ phát triển
hết khả năng và sự sáng tạo của các em. Hãy giữ gìn tâm sự để trở thành

23


người bạn lớn mà các em có thể chia sẻ mọi vấn đề trong học tập và trong
cuộc sống.
Trên đây là một số giải pháp tôi đã thực hiện trong q trình giảng dạy
mơn tốn cho học sinh lớp ba. Kính mong các q thầy cơ vui lịng góp ý chỉ
bảo thêm để các giải pháp này thực sự mang lại hiệu quả thiết thực, giúp cho
tôi giảng dạy tốt hơn mơn tốn cho học sinh nhằm đáp ứng được mục tiêu giáo
dục trong giai đoạn hiện nay.
Tôi xin chân thành cảm ơn quý thầy cô giáo.
Pleiku, tháng 12 năm 2012


24


TÀI LIỆU THAM KHẢO:
+ Vũ Quốc Chung
- Đỗ Trung Hiệu
- Đỗ Đình Hoan
- Vũ Dương Thụy- Phương pháp dạy học mơn tốn ở tiểu học. NXB:
Đại học Sư phạm, 2005
+Tài liệu Bồi dưỡng thường xuyên cho GV tiểu học chu kì III(20032007) hai tập, NXB Giáo dục, Hà Nội, 2004.
+ Toán 3 NXB Giáo dục, Hà Nội, 2004.
+ Tài liệu tập huấn dạy và học tích cực của Bộ Giáo dục và đào tạo.2001
+ Hội thảo về đổi mới chương trình và Sách giáo khoa tiểu học 2000
của Bộ Giáo dục và Đào tạo .
+ Ôn luyện Kiểm Tra / Tác giả Nguyễn Đức Tấn – Trần Thị Kim Cương
– Đỗ Trung Kiên - Nhà xuất bản tổng hợp Đồng Nai.
+ Sách Bài Tập Trắc Nghiệm / Tác giả Nguyễn Đức Tấn - Nguyễn Đức
Hịa – Tạ Tồn - Nhà xuất bản đại học Quốc Gia Thành Phố Hồ Chí Minh.
+ Sách giúp em giỏi toán / Tác giả TS. Trần Ngọc Lan - Nhà xuất bản
Giáo Dục.

25


×