S¸ng kiÕn kinh nghiÖm:\ NguyÔn Thµnh Vinh:\ Trêng THCS Giang Biªn
BỘ MÔN LỊCH SỬ Ở NHÀ TRƯỜNG PHỔ THÔNG VIỆT NAM
Về lí luận và thực tiễn, bộ môn lịch sử đã được thừa nhận có vị trí,
ý nghĩa quan trọng đối với việc giáo dục thế hệ trẻ. Nội dung và
phương pháp dạy học mang tính chất thời đại và giai cấp rõ rệt. Việc
nhận thức vị trí, chương trình, SGK lịch sử…ở nước ta sau cách mạng
tháng tám ( 1945), nhất là từ sau triển khai cải cách giáo dục(1981) là
việc cần thiết.
I. VÀI NÉT VỀ VIỆC DẠY HỌC LỊCH SỬ Ở VIỆT NAM TRƯỚC NĂM 1945.
Dân tộc Việt Nam có lịch sử lâu đời. Từ xưa, nhân dân ta đã coi
trọng việc lấy lịch sử để giáo dục thế hệ trẻ. Trong các câu chuyện cổ
tích, truyền thuyết, thần thoại, ca dao có nhiều yếu tố của tri thức lịch
sử, phản ánh nhiều sự kiện lớn của công cuộc dựng nước và giữ nước
của dân tộc. Lịch sử của dòng họ, địa phương( xã, huyện, tỉnh, miền)
ra đời từ khá lâu, có tác dụng không nhỏ vào việc giáo dục truyền
thống, lòng tự hào và trách nhiệm đối với quê hương, Tổ Quốc.
Từ sau khi nước nhà thoát khỏi sự đô hộ của phong kiến phương
Bắc ( Thề kỉ thứ X). Nền giáo dục dân tộc hình thành và phát triển.
Lịch sử giữ một vai trò quan trọng trong việc dạy học, thi cử để tuyển
chọn nhân tài. Tuy có những hạn chế về thời đại và giai cấp, việc dạy
học lịch sử thời phong kiến dân tộc có nhiều khởi sắc. Nhằm vào mục
tiêu “ Dạy chữ để dạy người” việc học tập lịch sử để “ Ôn cố nhi tri
tân” (Nhắc cái cũ để biết cái mới) có tác dụng trọng việc đào tạo thế
hệ trẻ thành những thanh niên yêu nước>Nhiều tác phẩm sử học được
biên soạn như Đại Việt Sử kí của LêVăn Hưu ( thế kỉ XIII), Đại Việt
sử kí toàn thư của Ngô Sĩ Liên ( Thế kỉ XV), các tác phẩm của Lê
Trang1
S¸ng kiÕn kinh nghiÖm:\ NguyÔn Thµnh Vinh:\ Trêng THCS Giang Biªn
Quý Đôn, Phan Huy Chú, của Quốc Sử Quán Triều Nguyễn là công
trình nghiên cứu lịch sử dân tộc có giá trị, được sử dụng để làm tài
liệu học tập. Loại SGK lịch sử chẳng có bao nhiêu, như Quốc sử tiểu
học của Phạm Đình Hổ ( thế kỉ XIX) hoặc Việt sử tân ước toàn biên
của Hoàng Đạo Thành( Cử nhân năm 1881). Về phương pháp học tập,
tuy không thoát khỏi cách học kinh viện, khoa cử, song cũng có nhiều
kinh nghiệm hay trong trình bày, giảng giải lịch sử, liên hệ tri thức về
quá khứ với hiện tại .
Thực dân Pháp xâm chiếm và thống trị nước ta, cũng hình thành
một nền giáo dục ngu dân, phục vụ chế độ thuộc địa của chúng. Lịch
sử chỉ được dạy ở cấp tiểu học với quan niệm phản động, xuyên tạc
quá khứ trong việc mạt sát các cuộc đấu tranh của quần chúng, chông
áp bức bóc lột, ca tụng giai cấp thông trị, biện hộ cho những hành
động xâm lược, đô hộ của thực dân. ở bậc cao đẳng tiểu học(tương
đương với các lớp cấp II hiện nay) học sinh không được học lịch sử
dân tộc, mà chỉ học lịch sử Pháp, xem như quốc sử.
Trong phong trào giải phóng dân tộc, lịch sử được xem như một
công cụ đấu tranh, một vũ khí sắc bén trong tay các nhà yêu nước Việt
nam cuối thế kỉ XIX đầu thế kỉ XX, mà Phan Bội Châu là tiêu biểu.
Với nhiều tác phẩm lịch sử, cụ Phan đã khơi dậy lòng yêu nước, ý chí
đấu tranh chông xâm lược. Đông Kinh Nghĩa Thục cũng chú trọng
đến việc phổ biến, giảng dạy lịch sử dân tộc để thức tỉnh đồng bào,
song phải đến Nguyễn ái Quốc – Hồ Chí Minh, sử học Việt nam nói
chung và việc dạy học lịch sử nói riêng mới có sự chuyển biến lớn.
Cùng với việc truyền bá chủ nghĩa Mác – Lê Nin vào Việt nam,
Nguyễn ái Quốc đã vận dụng những quan điểm, nguyên lý của duy vật
Trang2
S¸ng kiÕn kinh nghiÖm:\ NguyÔn Thµnh Vinh:\ Trêng THCS Giang Biªn
lịch sử để nghiên cứu nhiều vấn đề của lịch sử dân tộc và thế giới,
nhằm tố cáo chủ nghĩa thực dân, thức tỉnh nhân dân, xác định con
đường cứu nước đúng. Các bài viết, tác phẩm như : bản án chế độ
thực dân Pháp, Đường cách mệnh, Lịch sử nước ta có nhiều nội dụng
lịch sử giá trị, và là những công trình sử học Mác Xít đầu tiên ở nước
ta. Hơn nữa Nguyễn ái Quốc đã thực sự giảng dạy như một giáo viên
lịch sử ở các lớp huấn luyện cán bộ cách mạng tại Quảng Châu( Trung
Quốc) những năm 1925 – 1927, ở trường đại học phương đông cho
các học viên việt nam, ở các lớp học của một số cán bộ ở Pắc bó.
Những bài viết và sách của người đã đi vào cuộc sống của nhân dân ta
lúc bấy giờ như những tài liệu giáo khoa lịch sử. Người cũng để lại
cho chúng ta nhiều kinh nghiệm quý về phương pháp giảng dạy, như
xác định kiến thức cơ bản, cách trình bày sinh động, cụ thể, có hình
ảnh, việc liên hệ đối chiếu tài liệu lịch sử quá khứ với hiện taị để rút
kinh nghiệm, bài học…
Có thể nói rằng, nhân ta coi trọng và có kinh nghiệm trong việc dạy
học lịch sử, để lại cho chúng ta nhiều bài học quý cần nghiên cứu,
khai thác và vận dụng một cách sáng tạo trong điều kiện ngày nay.
Việc nghiên cứu có hệ thống, toàn diện, sâu sắc về dạy học lịch sử ở
Việt Nam là yêu cầu quan trong được đặt ra, nhằm rút ra nhiều bài học
quý cho công cuộc cải cách giáo dục bộ môn hiện nay.
II.MÔN LỊCH SỬ TRONG NHÀ TRƯỜNG PHỔ THÔNG VIỆT NAM 1945 –1975.
Cũng như các môn học khác, việc dạy học bộ môn lịch sử ở trường
phổ thông từ cách mạng tháng tám 1945 đến nay trải qua nhiều giai
đoạn phát triển.
. Năm học đầu tiên sau cách mạng, Đại hội giáo giới toàn quốc
Trang3
S¸ng kiÕn kinh nghiÖm:\ NguyÔn Thµnh Vinh:\ Trêng THCS Giang Biªn
tháng tám 1946 đã khẳng định ba nguyên tắc xây dựng giáo dục mới
của Việt nam là: Dân tộc, khoa học, đại chúng. Tuy nhiên trong hoàn
cảnh gặp nhiều khó khăn các trường vẫn phải tạm thời áp dụng
chương trình cũ ( tức là “ chương trình Hoàng Xuân Hãn” ban hành
dưới thời chính phủ Trần Trọng Kim chứ chưa có thay đổi đáng kể ).
Ngày 19 tháng 12 năm1946 cuộc kháng chiến toàn quốc bắt đầu.
Đất nước chia thành hai vùng khác nhau với hai nền giáo dục khác
nhau. Ở vùng tự do, trong những năm đầu của cuộc kháng chiến
ngành giáo dục cách mạng non trẻ gặp rất nhiều khó khăn. Thầy trò
phải tản cư về nông thôn. Giáo viên vừa thiếu vừa chịu phần nào ảnh
hưởng của tư tưởng “ giáo dục trung lập”. Do vậy về cơ bản các môn
học trong đó có môn lịch sử vẫn thực hiện theo chương trình cũ, chỉ
sửa đổi một chút. Chẳng hạn bớt phần lịch sử thế giới để tăng phần
lịch sử cách mạng Việt Nam.
Năm 1950 cuộc cải cách giáo dục lần thứ nhất được tiến hành, xác
lập hệ thống giáo dục phổ thông duy nhất: 9 năm( cấp I: 4 năm, cấp II:
3năm, cấp III: 2 năm) xây dựng nhà trường dân chủ nhân dân thiết
thực phục vụ cách mạng, phục vụ kháng chiến. Chương trình lịch sử
được xây dựng và áp dụng từ năm học 1950 –1951. Tính đến năm
1954, chương trình đã được sửa đổi 2 lần ( 1951 –1953) theo hướng
giảm nhẹ khối lượng kiến thức cho phù hợp với thời gian học trong
kháng chiến và tăng nội dung chống phong kiến, làm nổi bật vai trò
của nông dân trong lịch sử nhằm thiết thực phục vụ thời kì phát động
giảm tô giảm tức. Nhìn chung chương trình lịch sử trong kháng chiến
đã có những thay đổi căn bản so với chương trình trước đó. Lịch sử
được trình bày và giải thích trên quan điểm duy vật lịch sử, bỏ lối dạy
Trang4
S¸ng kiÕn kinh nghiÖm:\ NguyÔn Thµnh Vinh:\ Trêng THCS Giang Biªn
theo triều đại với những chi tiết về các vua chúa. Nội dụng lịch sử
được lựa chọn theo quan niệm lịch sử là lịch sử đấu tranh giai cấp,
quần chúng nhân dân là lực lượng sáng tạo ra lịch sử. Do thời gian
học tập eo hẹp, điều kiện học tập khó khăn nên kiến thức được tinh
giản đến mức tối đa và hết sức thiết thực.
Tuy nhiên chương trình môn lịch sử trong giai đoạn này vẫn còn
bộc lộ những hạn chế đáng kể. Thời gian hạn hẹp nên chương trình
chưa đảm bảo được tính khoa học. Trong hai năm ở cấp III, số tiết 1,5
trên một tuần, học sinh phải học toàn bộ lịch sử thế giới từ cổ đại đén
hiện đại. Cấu trúc của chương trình cũng chưa hợp lí ( ở cấp II học
sinh được học toàn lịch sử dân tộc mà không được biết chút nào về
lịch sử thế giới; ngược lại hai năm ở cấp III học sinh chỉ được học lịch
sử thế giới mà không được nâng cao kiến thức về lịch sử dân tộc).
Cho tới nay, chung ta không có số liệu phản ánh chất lượng học
tập môn lịch sử trong giai đoạn này. Song theo đánh giá chung của Bộ
giáo dục chất lượng dạy học còn thấp. Sự đánh giá đó không chỉ căn
cứ ở mặt hạn chế của chương trình mà còn ở các điều kiện dạy học
khác. Về SGK tuy bộ giáo dục đã tổ chức hai trại tu thư, song do tình
hình chiến sự và thiếu điều kiện ấn loát nên hầu như không xuất bản
được cuốn sách giáo khoa nào. Nhiều địa phương cũng tổ chức viết
SGK nhưng kết quả chỉ in được một hai cuốn với số bản rất hạn chế.
Giáo viên dạy môn sử phần lớn không được đào tạo và bồi dưỡng đầy
đủ nhiều người từ các bộ môn khác kiêm nhiệm công việc này. Điều
kiện trường sở nghèo nàn, nhiều trường phải học vào ban đêm, thời
gian dạy học rất thất thường.
Tóm lại: Trong hoàn cảnh chiến tranh kéo dài với biết bao khó khăn
Trang5
S¸ng kiÕn kinh nghiÖm:\ NguyÔn Thµnh Vinh:\ Trêng THCS Giang Biªn
của nhà trường cũng như điều kiện sinh hoạt và học tập của học sinh
mà tiếp tục duy trì được việc dạy học bô môn theo chương trình mới
là một cố gắng rất lớn, đáng tự hào của thế hệ đi trước.
Cũng trong giai đoạn này, ở vùng tạm chiếm năm 1949 –1950. Bộ
giáo dục của Ngụy quyền cũng tiến hành cải cách giáo dục. Nguyên
tắc xây dựng chương trình môn lịch sử được đề ra là: Lịch sử nước
nhà, bấy lâu nay bị bỏ rơi, “ sẽ được đặt vào vị trí một môn học xứng
đáng và trình bày giảng dạy mộc cách khoa học”. Nguyên tắc là như
vậy, song khi chọn lựa và trình bày nội dung lịch sử thì lại khác. Ngay
từ lớp đệ ngũ, học sinh đã phải học nhiều về lịch sử nước Pháp.
Những sự kiện lớn như cách mạng tháng Mười Nga. Cách mạng
Trung Quốc… không được học trong chương trình. Còn về lịch sử
dân tộc những cuộc khởi nghĩa của nông dân đều được coi là phiến
loạn: Trái lại, cuộc xâm lược của Đế quốc Pháp vào nước ta thì gọi là
“ Một cuộc xung đột giữa Pháp và triều đình Huế” toàn bộ chương
trình lịch sử nặng về đề cao vai trò của các dòng họ vua chúa nhất là
dòng họ triều Nguyễn mà ít nhắc tới lịch sử đấu tranh của nhân dân
trong công cuộc dựng nước và giữ nước.
. Năm 1954 ở miền Bắc vẫn song song tồn tại hai chương trình,
chương trình phổ thông 9 năm của vùng giải phóng cũ và chương
trình trung tiểu học của vùng mới giải phóng, trong một thời gian
ngắn. Chương trình lịch sử vùng mới giải phóng có được cải
tiến( 1955 – 1956) như rút nhẹ phần cổ sử thế giới, bớt phần lịch sử
Pháp, thêm những biến cố lịch sử như công xã Pari, cách mạng tháng
mười Nga, cách mạng Trung Quốc. Phần lịch sử dân tộc thêm nội
dung lịch sử cách mạng và kháng chiến. Tuy nhiên về cơ bản chương
Trang6
S¸ng kiÕn kinh nghiÖm:\ NguyÔn Thµnh Vinh:\ Trêng THCS Giang Biªn
trình này cũng không có gì thay đổi, chủ yếu vẫn là lịch sử của các
triều đại, dung lượng kiến thức còn nặng nề, cấu trúc thiếu tính hệ
thống.
Cuộc cải cách giáo dục lần thứ II năm 1956 đã thống nhất hai hệ
thống giáo dục đang tồn tại lúc đó thành hệ thông giáo dục phổ thông
10 năm, đặt cơ sở bước đầu cho việc xây dựng nhà trường Xã hội chủ
nghĩa ở Việt Nam. Chương trình lịch sử cũng như chương trình các
môn học khác của nhà trường phổ thông đã được xây dựng theo tinh
thần: “ Dựa trên cơ sở chue nghĩa Mác – Lênin, đào tạo bồi dưỡng
thanh niên và thiếu nhi trở thành những người phát triển về mọi mặt,
những người công dân tốt trung thành cho tổ Quốc, những người chủ
tương lai của nước nhà có tài có đức để phát triển chế độ dân chủ nhân
dân tiến lên xây dựng chủ nghĩa xã hội đồng thời thực hiện thống nhất
nước nhà trên cở sở độc lập và dân chủ”
Trong thực tế, do điều kiện thời gian gấp rút và quan niệm giản đơn
không tính đến những điều kiện cần thiết để thực hiện chương trình
như trình độ của thầy, cơ sở vật chất của trường…nên chương trình và
SGK chủ yếu là dựa vào chương trình và SGK phổ thông 10 năm của
Liên Xô. Vì vậy chương trình học tuy đảm bảo được tính hệ thống
nhưng bộc lộ những nhược đểm mà rõ nhất là sự ôm đồm, nặng nề.
Học sinh cấp II học toàn bộ lịch sử thế giới từ cổ đại đến hiện đại, với
tổng số giờ là 111 tiết; nên cấp III học sinh lại được học nâng cao
phần lịch sử thế giới cận và hiện đại với tổng số giờ là 134 tiết.
Chương trình và nội dung SGK quá nặng như vậy làm cho giáo viên
không dạy tốt, hiệu quả học tập của học sinh thấp.
Đến năm học 1958 – 1959 trước thực tế trên chương trình được
Trang7
S¸ng kiÕn kinh nghiÖm:\ NguyÔn Thµnh Vinh:\ Trêng THCS Giang Biªn
lược giản mạnh mẽ. Một số phần được tước bỏ hẳn ( phần lớn lịch sử
thế giới ở cấp II, trừ một số bài thuộc thời kì hiện đại ở lớp 7 và lịch
sử Việt Nam từ nguồn gốc đến giữa thế kỉ XIX ở cấp III). Sự lược
giản lại quá mức và tiến hành một cách đơn giản như vậy tuy làm cho
chương trình gọn nhẹ nhưng tạo ra những lỗ hổng trong hệ thống kiến
thức cung cấp cho học sinh từng cấp nhất là về mặt lịch sử thế giới. Vì
vậy từ năm học 1960 – 1961 liên tiếp có sự điều chỉnh, bổ sung
chương trình và SGK để khắc phục nhược điểm trên (1960 –1961;
1961 – 1962; 1964 – 1965; 1969 –1970).
Tóm lại: Đến trước cải cách giáo dục lần thứ ba (1981) chương trình
và SGK lịch sử ở trường phổ thông căn bản là theo chương trình 1958
– 1959. Tất nhiên trong thời kì kháng chiến chống Mỹ có thay đổi
chút ít.
Ưu điểm nổi bật nhất của các chương trình trước năm 1981 ở miền
Bắc là đã có phương hướng tư tưởng chính trị đúng đắn và ngày càng
rõ nét. Việc lựa chọn trình bày kiến thức đã cố gắng quán triệt các
quan diểm cơ bản của chủ nghĩa Mác – LêNin về lịch sử và cập nhật
với sự phát triển khoa học lịch sử và thực tế dạy học ở phổ thông.
Tuy nhiên, sau nhiều lần chỉnh lý, chương trình và SGK đến trước
năm 1981 vẫn còn một số thiếu sót lớn.
Trước hết phải nói đến tính chắp vá không hợp lí về mặt phân phối
nội dung của chương trình. Đây là một trong những thiếu sót khiến
chương trình không thể đáp ứng những yếu cầu và mục tiêu đào tạo
của từng cấp học.
Trong khi một bộ phận lớn học sinh học hết cấp II có nhiệm vụ trực
tiếp tham gia lao động sản xuất và chiến đấu, chương trình các môn
Trang8
S¸ng kiÕn kinh nghiÖm:\ NguyÔn Thµnh Vinh:\ Trêng THCS Giang Biªn
học trong đó có môn sử phải có tính tương đối hoàn chỉnh. Nhưng ở
cấp II các em không đựoc học một giờ nào về lịch sử thế giới cổ,
trung cận đại và bắt đầu học ngay lịch sử hiện đại thế giới với số giờ ít
ỏi
( 10 tiết).
Ở cấp III ngay từ đầu cấp học sinh học toàn bộ lịch sử thế giới từ
cổ đại đến cận đại với bao nhiêu kiến thức. Do vậy quá tải đối sức
nhận thức của học sinh. Đồng thời để đảm bảo tính hệ thống của lịch
sử thế giới, chương trình cấp III dành một phần hai số tiết học lịch sử
thế giới do đó lịch sử Việt Nam chỉ đựoc học từ thế kỉ XIX trở đi. Vì
vậy nhận thức của học sinh cấp III về lịch sử dân tộc không khỏi nông
cạn.
Nhược điểm lớn nhất của chương trình và SGK miền Bắc từ 1959
đến trước 1981 là tính chắp vá, cấu trúc vừa nặng nề vừa sơ lược.
Ngoài ra còn có các nhược điểm khác như quá chú trọng đến lịch sử
chính trị mà xem nhẹ lịch sử kinh tế, văn hoá: Chưa chú trọng đúng
mức việc trình bày lịch sử các nước xung quanh ta và có liên quan dến
lịch sử nước ta.
Ở miền Nam từ 1954 đến 1975 về cơ bản cũng có hai vùng với hai
đường lối giáo dục khác nhau.
Ở vùng giải phóng mục tiêu của giáo dục được ghi rõ ở điểm 5 trong
chương trình 10 điểm của mặt trận dân tộc giải phóng miền nam Việt
Nam: “ Bài trừ văn hoá nô dịch đồi bại kiểu Mỹ, xây dựng một nền
văn hoá và giáo dục dân tộc và tiến bộ”. Chương trình các môn học ở
trường phổ thông đã được xây dựng trên tinh thần đó. Song do hoàn
cảnh khó khăn đối với cấp II và cấp III tạm thời vẫn dùng SGK của
Trang9
S¸ng kiÕn kinh nghiÖm:\ NguyÔn Thµnh Vinh:\ Trêng THCS Giang Biªn
ngụy quyền được tu chỉnh lại.
Tới năm 1972 với sự giúp đỡ của cơ quan giáo dục miền Bắc
chương trình và SGK môn sử cũng như các môn học khác ở các
trường phổ thông vùng giải phóng đã được ấn hành về cơ bản.
Chương trình và SGK môn sử tiếp thu những mặt ưu điểm và khắc
phục những nhược điểm của chương trình và SGK miền Bắc.
Ở vùng ngụy quyền quản lý, từ năm 1954 đến 1975 về cơ bản
chương trình môn sử cũng như các môn học khác đã trải qua hai lần
cải tổ: 1954 và 1970.
Từ 1954 đến 1970 chương trình môn sử đã nhiều lần cải tiến ( 1958,
1961, 1970) theo hướng cập nhật hoá với khoa học lịch sử còn về cơ
bản không có gì thay đổi lớn.
Từ năm 1970 bộ giáo dục ngụy quyền tiến hành thực hiện chương
trình trung học tổng hợp trên 100 trường.
Cấu trúc của hai chương trình cũng có những điểm khác nhau.
Chương trình cũ trình bày lịch sử theo diễn biến cuả thời gian, còn
chương trình trung học tổng hợp trình bày lịch sử theo vấn đề được bổ
dọc( lược sử, lịch sử văn minh, lịch sử kinh nghiệm…) chương trình
cũ xem nhẹ nội dung lịch sử thế giới ( chiếm 1/7 tổng số thời gian) và
chỉ học lịch sử cận hiện đại thế giới. Chương trình trung học tổng hợp
có coi trọng hơn, số giờ nhiều hơn và học cả lịch sử cổ, trung đại thế
giới.
Tuy nhiên, cả với hai cấu trúc như vậy học sinh sẽ không nhận thức
được một cách hệ thống và toàn diện lịch sử thế giới. Trước mắt học
sinh lịch sử nhân loại phát triển không hề có quy luật.
Ngoài điểm khác nhau về cấu trúc như trên, về cơ bản hai chương
Trang10
S¸ng kiÕn kinh nghiÖm:\ NguyÔn Thµnh Vinh:\ Trêng THCS Giang Biªn
trình có nhiều điểm giống nhau:
Trước hết hai chương trình đều đề cao lịch sử dân tộc. Ngay nội
dung lịch sử thế giới được chọn cũng tập trung vào các nước gần ta
hoặc có liên quan đến lịch sử dân tộc như các nước Đông Nam Á, Ấn
Độ, Trung Quốc…
Thứ hai, là cả hai chương trình đặc biệt là chương trình trung học
tổng hợp đã quan tâm tới quan điểm lịch sử là lịch sử văn minh trong
quá trình trình bày nội dung lịch sử.
Tuy nhiên cả hai chương trình có nhiều điểm giống nhau trọng việc
chọn lựa và trình bày nội dung thể hiện nhược điểm cơ bản của nó.
Nhược điểm đó là quan niệm lịch sử là lịch sử của các vĩ nhân; chiều
hướng phát triển của lịch sử là do các chính quyền quyết định ở đây
không có vai trò của nhân dân. Lịch sử dân tộc chịu ảnh hưởng rất
nhiều của văn hoá ngoại lai đặc biệt là sự cực đoan trong việc phân
chia các nước, các giai cấp về hai phe dân chủ và phát xít theo quan
điểm của chế độ nguỵ quyền. Dẫn đến nhận thức sai lầm của học sinh
về việc coi cộng sản Việt Nam là kẻ cướp công trong cách mạng tháng
Tám 1945; Xếp Liên Xô vào hàng ngũ các nước phát xít như các nước
Đức, Ý…
Tóm lại: Chương trình và SGK từ năm 1954 đến 1975 ở vùng ngụy
quyền quản lý tuy chú trọng đề cao lịch sử dân tộc, quan tâm lựa chọn
và trình bày lịch sử theo quan điểm lịch sử là lịch sử văn minh nhưng
còn rất nhiều nhược điểm về mặt khoa học, quan điểm như coi nhẹ
tính hệ thống và sự phát triển có quy luật của lịch sử thế giới; không
đả động tới vai trò của nhân dân trong lịch sử đặc biệt là xuyên tạc
hoạt động của những người công sản, lấy việc, khác biệt về ý thức hệ
Trang11
S¸ng kiÕn kinh nghiÖm:\ NguyÔn Thµnh Vinh:\ Trêng THCS Giang Biªn
giữa quốc gia và công sản để che đậy biện minh cho các hành động
phản dân hại nước của bọn tay sai đế quốc thực dân.
. Năm 1975 đất nước thống nhất nền giáo dục Việt Nam đi theo con
đường xã hội chủ nghĩa.
Năm 1978 chương trình môn lịch sử ở trường phổ thông đã được
thống nhất trong cả nước. Cấu trúc của chương trình không có nhiều
thay đổi so với chương trình miền Bắc trước đó. Tuy nhiên trong việc
lựa chọn trình bày nội dung cũng như xác định mức dộ của nội dung
cũng có những thay đổi lớn đáng kể nhằm cập nhật với sự phát triển
của sử học và mang tính khả thi lớn.
Song song với việc thống nhất chương trình và SGK trong cảc nước,
chúng ta tiến hành lập chương trình môn sử cho cải cách giáo dục.
Năm 1980 chương trình được hoàn thiện và từ năm 1981 chương trình
đã được đưa vào thực dạy.
Hiện nay chương trình trung học chuyên ban có nhiều tiến bộ, thể
hiện khá rõ nét toàn diện, tính tư tưởng và tính khách quan khoa học
song vẫn còn sơ lược chưa cập nhật hoá với tiến độ sử học hiện đại…
những hạn chế này đang được khắc phục sửa chữa.
III. MÔN LỊCH SỬ TRONG CÁC TRƯỜNG PHỔ THÔNG HIỆN NAY.
. Các nguyên tắc xây dựng chương trình cải cách giáo dục.
Qua hơn mười năm xây dựng chương trình, sau nhiều cuộc hội thảo
khoa học, tổng kết kinh nghiệm mọi người đều khẳng định các nguyên
tắc: Hiện đại, cơ bản, Việt Nam. “ Đây là nguyên tắc vàng, không thể
thêm bớt gì nữa” cần tìm hiều và nẵm vững nguyên tắc ấy được vận
dụng và xây dựng chương trình lịch sử.
Hiện đại hoá chương trình môn học: Khoa học luôn luôn phát triển,
Trang12
S¸ng kiÕn kinh nghiÖm:\ NguyÔn Thµnh Vinh:\ Trêng THCS Giang Biªn
ngày càng thu được nhiều thành tựu mới. Nhận thức con người luôn
luôn phong phú thêm, từ chưa biết đến biết, từ sai đến đúng, từ nông
cạn đến sâu sắc. Trong hơn hai mươi năm qua, khoa học lịch sử đã
đạt được nhiều thành tựu mới. Chương trình phải thể hiện nhiều thành
tựu mới, được thừa nhận của khoa học lịch sử, phải thay thế những sự
kiện hoặc kết luận không phù hợp.
Trước hết, phải hiện đại về lí luận, về quan điểm. Đối với chúng ta,
chủ nghĩa duy vật lịch sử vẫn là cơ sở lí luận có ý nghĩa chỉ đạo đối
với việc nghiên cứu và học tập lịch sử. Đây là sự khẳng định về
nguyên tắc, một trong những cơ sở quan trọng để cải tiến chương trình
cải cách giáo dục bộ môn lịch sử ở trường phổ thông. Các quan điểm
cơ bản của sử học Mác xít được quán triệt trong chương trình bộ môn.
Tư tưởng của CácMác về sự phát triển xã hộ như một quá trình lịch sử
tự nhiên mà nội dung của nó là sự tiến triển của các hình thái kinh tế –
xã hội, mà căn bản là các trình độ phát triển sản xuất là cơ sở để hiểu
các chặng đường phát triển xã hội, các giai đoạn và thời kì lịch sử.
Chương trình có ý định cho học sinh nắm được sự tiến triển có quy
luật của lịch sử loài người theo tư tưởng trên, thông qua lịch sử cụ thể
của các mô hình kinh tế – xã hội hoặc các sự kiện, các quá trình lịch
sử của một số nước.
Các nhân tố hợp thành một hình thái kinh tế – xã hội có quan hệ qua
lại, tác động lẫn nhau và đều có vai trò quan trọng. Trong các nhân tố
đó, nhân tố quyết định xét đến cùng, là quá trình sản xuất và tái sản
xuất ra đời sống hiện thực. Chương trình đã dành một số tiết thích
hợp cho các phần nói về điều kiện kinh tế, sự phát triển của sản xuất
nhằm cho học sinh biết được trình độ sản xuất và sinh hoạt vật chất
Trang13
S¸ng kiÕn kinh nghiÖm:\ NguyÔn Thµnh Vinh:\ Trêng THCS Giang Biªn
của loài người trong lịch sử và tạo điều kiện cho việc giải thích cội
nguồn của các biến cố lịch sử. Lịch sử loài người diễn ra vô cùng
phong phú, quanh co và đầy mâu thuẫn. Trong đó sự phát triển của
các nền sản xuất đã dẫn đến sự xuất hiện tư hữu, tình trạng giàu nghèo
và những giai cấp khác nhau. Và lịch sử xã hộ loài người từ khi chia
thành giai cấp là một quá trình diễn ra liên tục những cuộc đấu tranh
giai cấp, đấu trânh xã hôị mà chính những cuộc đấu tranh này là một
nhân tố cực kì quan trọng tác động trở lại vào tiến trình của lịch sử
loài người.
Những vấn đề cốt lõi nói trên của sử học Mác xít vẫn giữ nguyên
giái trị đúng đắn mặc dù đã trải qua nhiều biến động theo thời gian.
Chúng đã được quán triệt đầy đủ ttrong chương trình cải cách giáo
dục, cũng như những qua điểm, nguyên lí giáo dục của Đảng cộng sản
Việt Nam. Đồng thời với việc quán triệt các quan điểm của sử học
Mác xít, chương trình đã đưa vào nhiều thành tựu mới của sử học,
những hiểu biết mới về các cuộc chiến tranh, các quan hệ quốc tế qua
các thời kì, về vai trò căn bản của nền sản xuất và vai trò của thượng
tầng kiến trúc, về các nền văn minh, những kinh nghiệm và truyền
thống dân tộc…Mặt khác chương trình cũng khắc phục những qua
niệm cứng nhắc về phương thức sản xuất, về cách nhìn nhận đánh giá
các vấn đề lịch sử một cách phiến diện, thiếu căn cứ tư liệu theo các
kết luận có sẵn. Nhiều thành tựu mới về các vấn đề lịch sử choàng thể,
nhiều tư liệu cụ thể đã được đưa vào chương trình. Đáng kể nhất là
những hiểu biết mới về các nước trong khu vực, về thời kì lịch sử Việt
Nam, về đưa các thành tựu mới của khảo cổ học, dân tộc học vào lịch
sử cổ đại. Những nội dung mới này đòi hỏi giáo viên phải nắm vững
Trang14
S¸ng kiÕn kinh nghiÖm:\ NguyÔn Thµnh Vinh:\ Trêng THCS Giang Biªn
theo kịp một cách thường xuyên, đặc biệt là hiểu thấu đáo những cái
mới của chương trình và SGK thì mới có thể thực hiện tốt nhiệm vụ
giảng dạy và giáo dục của mình.
Xác định kiến thức cơ bản của môn học: Trong thời đại ngày nay,
khi thông tin về khoa học kĩ thuật phát triển nhanh, nổi lên vấn đề có
tính chất toàn cầu đối với giáo dục. Đó là việc giải quyết mâu thuẫn
ngày càng tăng giữa khối lượng tri thức dường như vô hạn với thời
gian học tập có giới hạn trong nhà trường. Một trong những giải pháp
quan trọng là lựa chọn đúng đắn những vấn đề có bản của nội dung,
sao cho trong một thời gian nhất định đạt đến sự phát triển tốt nhất
nhân cách của học sinh.
“ Cơ bản” không phải là một khái niệm chỉ sự vật mà là khái niệm các
mối quan hệ. Nói đến cơ bản, không chỉ tìm hiểu: “ cơ bản là gì” mà
chủ yếu là: “ cơ bản của cái gì? cơ bản đối với ai? đâu là cái cơ bản?”
vì vậy “ nói cơ bản thực chất là nói đến sự lựa chọn” vấn đề trung tâm
khi biên soạn chương trình và SGK lịch sử hiện nay ở các nước cũng
là vấn đề lựa chọn. Lịch sử bao gồm nhiều giai đoạn diễn ra ở nhiều
nước khác nhau. Ở mỗi nước có biết bao sự kiện phức tạp, mỗi thời kì,
mỗi chế độ xã hội lại có vô vàn qua hệ chằng chéo phức tạp. Đối với
học sinh phổ thông chúng ta không thể cho học sinh học tất cả mà chỉ
có thể và cần phải cho các em học những cái gì thật then chốt, thật có
ích. Trong dạy học lịch sử cái cơ bản có hai mặt. Một mặt đó là những
nội dung cốt lõi, thiết yếu của khoa học lịch sử mà nhờ đó học sinh có
thể hình dung ra được lịch sử đã diễn ra như thế nào. Mặt khác những
nội dung đó cần phải có ý nghĩa quan trọng đối với sự phát triển nhân
cách của học sinh. Như vậy cái cơ bản trong dạy học lịch sử tuỳ thuộc
Trang15
S¸ng kiÕn kinh nghiÖm:\ NguyÔn Thµnh Vinh:\ Trêng THCS Giang Biªn
vào yêu cầu và qua điểm về khoa học lịch và khoa học giáo dục.
Những yếu tố đó lại thay đổi theo thời gian và không giống nhau giữa
nước này với nước khác, quy định sự khác nhau khi lựa chọn nội dung
lịch sử cho giảng dạy học tập.
Từ quan điểm trên chương trình đã tập trung vào những sự kiện,
những hiện tượng và những quá trình lịch sử tiêu biểu của các giai
đoạn phát triển của xã hội loài người, chú ý làm rõ các khái niệm lịch
sử cơ bản, các hướng vận động của các thời kì lịch sử.
Việc lựa chọn kiến thức cơ bản gắn liền với việc hiện đại hóa kiến
thức, vì quá trình phát triển của khoa học là quá trình đi gần đến chân
lí khách quan, ngày càng đi sâu vào bản chất của sự vật hiện tượng.
Trong trường hợp này kiến thức hiện đại đồng thời là kiến thức cơ bản
các khoa học. Tuy nhiên khi lựa chọn vào chương trình cần cân nhắc
các điều kiện để xác định vừa sức đối với cả việc dạy và việc học.
Nói tóm lại trong khuôn khổ một quỹ thời gian có hạn đã được quy
định cần cho học sinh học những gì cần và thật thiết thực đối với học
sinh Việt Nam, cái gì hiện đại nhất nhưng cốt lõi nhất, vừa sức với
các em.
Phù hợp với thực tiễn Việt Nam và những yêu cầu của đất nước:
Những kiến thức được chọn đưa vào chương trình phải vừa cơ bản,
vừa hiện đại, vừa thích hợp và cần thiết đối với yêu cầu đào tạo của
nước ta, phù hợp với đặc điểm học sinh, với điều kiện thực tế của việc
dạy học ở nước ta. Điều này đặc biệt có ý nghĩa đối một số môn trong
đó có môn sử. Đối với học sinh hững tri thức lịch sử nào gần gũi với
họ, liên quan trực tiếp hoặc gián tiếp đến lịch sử Tổ Quốc họ thì được
lĩnh hội hào hứng hơn, tác dụng truyền cảm mạnh mẽ hơn.
Trang16
S¸ng kiÕn kinh nghiÖm:\ NguyÔn Thµnh Vinh:\ Trêng THCS Giang Biªn
Theo tinh thần đó chương trình lịch sử phổ thông trung học cải cách
giáo dục cung cấp cho học sinh những kiến thức cơ bản sau:
Thứ nhất, dành cho lịch sử Việt Nam vị trí chủ yếu trong chương
trình, một lượng thời gian cần thiết để giúp học sinh học sâu, hiểu kĩ
về những bước đi của lịch sử dân tộc. Tuy vậy không thể coi nhẹ lịch
sử thế giới. Phải làm cho lịch sử thế giới đảm bảo được chức năng là
cho học sinh nhận thức được bước đi chung của lịch sử nhân loại, góp
phần hiểu rõ hơn lịch sử dân tộc và giáo dục thế giới quan; không phải
biết lịch sử của từng nước cộng lại nhất là các nước lớn.
Thứ hai, về nội dung cụ thể chương trình quan tâm hơn đến những
mô hình gần gũi, những nước gần gũi hoặc có liên quan với lịch sử
nước ta. Chẳng hạn như: Xã hội có giai cấp đầu tiên ở Tây á, xã hội
phong kiến phương đông qua lịch sử Trung Quốc, ấn Độ; nước Pháp
trong số các nước Tư bản chủ nghĩa thời cận đại; Liên Xô và Mỹ
trong thời kì hiện đại…
Thứ ba, trong kịch sử các nước đó, trong rất nhiều sự kiện lớn nhỏ
khác nhau cần đặc biệt chú ý những sự kiện có liên quan tới lịch sử
Việt Nam (chủ trương xâm lược, chính sách kinh tế – xã hội, những
biểu hiện của chủ nghĩa thực dân cũ và mới…). Mặt khác trong mối
quan hệ gắn bó giữa lịch sử thế giới và lịch sử dân tộc, những sự kiện
của lịch sử Việt Nam có ảnh hưởng tới thế giới và trong khu vực được
dành thời gian thích hợp để học kĩ hơn.
Thứ tư, tuy cần hết sức tập trung làm nổi bật những mô hình hình
thái kinh tế – xã hội tiêu biểu nhưng chương trình cũng cho học sinh
hiểu biết đến mức nhất định về lịch sử và văn hoá của các nước trong
khu vực. Các nước Đông Nam Á, nhất là Lào và Căm Pu Chia có vị trí
Trang17
S¸ng kiÕn kinh nghiÖm:\ NguyÔn Thµnh Vinh:\ Trêng THCS Giang Biªn
qua trong trình chương trình của chúng ta.
Thứ năm, coi trọng và đẩy mạnh việc dạy học lịch sử địa phương.
. Cấu tạo chương trình lịch sử ở các trường phổ thông.
Chương trình lịch sử ở các trường phổ thông đã được hội dồng bộ
môn thông qua, được Bộ giáo dục và Đào tạo cho phép thực hiện từ
năm học 1990-1991. Đây là chương trình dành cho các lớp không
chuyên ban.
Lớp 6 học lịch sử Việt Nam từ nguồn gốc đến thế kỉ X.
Lớp 7 học lịch sử Việt Nam từ thế kỉ X đến thế kỉ XV.
Lớp 8 học lịch sử thế giới chủ yếu là cách mạng tư sản Anh thế kỉ
XVII đến cách mạng tháng mười Nga 1917 và lịch sử Việt Nam từ thế
kỉ XVI đến 1918.
Lớp 9 học lịch sử thế giới từ cách mạng tháng mười Nga đến nay và
lịch sử Việt Nam từ 1918 đến nay.
Nội dung nói trên được học như sau: Lớp 6: 1giờ/1tuần; lớp 7:
1giờ/1tuần; lớp 8: 2 giờ/1tuần; lớp 9: 2 giờ/ 1tuần.
Điểm mới so với chương trình cũ là chương trình lịch sử trung học
cơ sở lịch sử thể giới được giới thiệu cho học sinh tương đối đầy đủ,
có hệ thống và hoàn chỉnh. Chương trình đặt yêu cầu lựa chọn những
tri thức thật cơ bản thật cần thiết. Những sự kiện, hiện tượng lịch sử
được trình bày ở mức cho học sinh nhận biết nó diến ra như thế nào và
tiếp thu một cách khẳng định. Tuy nhiên do đặc điểm tâm lí lứa tuổi
của học sinh chương trình có sự phân biệt cần thiết giữa các lớp 6, 7
và các lớp 8,9. ở các lớp 6, 7 chú ý nhiều hơn đến các biến cố và các
sự kiện lịch sử cụ thể. Những vấn đề lí thuyết được giới hạn ở mức
thật cần thiết và trình bày một cách thật dễ hiểu. Ở các lớp 8,9 chương
Trang18
S¸ng kiÕn kinh nghiÖm:\ NguyÔn Thµnh Vinh:\ Trêng THCS Giang Biªn
trình tăng thêm ở mức độ vừa phải những vấn đề lí thuyết nhằm nâng
cao năng lực nhận thức và rèn luyện phương pháp học tập bộ môn cho
học sinh.
IV. NHỮNG YÊU CẦU CƠ BẢN ĐỐI VỚI VIỆC CẢI TIẾN DẠY HỌC LỊCH SỬ TRONG
VIỆC THỰC HIỆN CHƯƠNG TRÌNH CẢI CÁCH BỘ MÔN.
. Đảm bảo tính cụ thể của lịch sử:
Yêu cầu này xuất phát từ đặc trưng của khoa học lịch sử. Lịch sử là
những sự việc rất cụ thể đã diễn ra trong quá khứ. Đó là kết qủa hoạt
động của con người theo đuổi những mục đích nhất định, trong không
gian và thời gian xác định, trong những điều kiện cụ thể. Vì thế đối
với bộ môn lịch sử việc tạo ra ở học sinh những hình ảnh chân thực cụ
thể và sinh động về các sự kiện, hiện tượng lịch sử, việc khôi phục lại
chân dung của các nhân vật lịch sử, những hoạt động của họ trong
những điều kiện lịch sử cụ thể là nhiệm vụ hàng đầu.
Lịch sử là tồn tại khách quan, là những sự việc, hiện tượng quan
hệ…có thật đã diễn ra không thể phán đoán để tái hiện lịch sử. Vì vậy
để giúp học sinh biết được hiện thực lịch sử, nhất thiết họ phải được
thông tin về qua khứ lịch sử với những nét cụ thể của nó. Muốn vậy
trước hết phải nhờ đến sự truyền đạt sinh động của giáo viên và các
phương tịên trực quan để có biểu tượng về quá khứ. Điều này đòi hỏi
phải khắc phục tình trạng “ dạy chay” vẫn chưa chấm dứt ở nước ta.
. Tăng cường các tổ chức hoạt động nhận thức của học sinh.
Yêu cầu này xuất phát từ quan điểm cơ bản của tâm lí học sư phạm:
Nhân cách của học sinh chỉ được phát triển thông qua chính hoạt động
của học sinh. Trong dạy học hoạt động chủ đạo là hoạt động nhận
thức. Muốn phát triển nhân cách của học sinh trong dạy học cần phải
tổ chức hoạt động nhận thức của chính bản thân họ. Không thể có
Trang19
S¸ng kiÕn kinh nghiÖm:\ NguyÔn Thµnh Vinh:\ Trêng THCS Giang Biªn
được kết quả dạy học tốt nếu việc dạy học luôn luôn được tiến hành
theo lối truyền đạt kiến thức có sẵn, theo phương thức “thầy đọc trò
ghi” vì vậy trong dạy học lịch sử cần chú dành đủ thời gian cho trao
đổi, thảo luận các vấn đề, tổ chức công tác tự lập cho học sinh. Cần
thúc đẩy hoạt động trí tuệ, kích thích hoạt động lĩnh hội và phát triển
tư duy của học sinh bằng định hướng mục đích, đặt nhiệm vụ nhận
thức rõ ràng thông qua các câu hỏi. Đối với mỗi bài lịch sử cần xác
định hệ thống câu hỏi trong đó có câu hỏi cơ bản và từ ba đến năm
câu hỏi dẫn dắt. Trong tương lai tích cực hoá hoạt động nhận thức
của học sinh vẫn là một trong những phương hướng cơ bản của việc
cải tiến phương pháp dạy hhọc lịch sử. Vì thế kĩ năng của người thầy
giáo dạy lịch sử trong việc tạo lập những bài tập nhận thức, về việc
tạo tình huống có vấn đề cần được xem xét một cách nghiêm túc trong
việc dào tạo và bồi dưỡng giáo viên, trong của việc thường xuyên tự
bồi dưỡng nâng cao tay nghề của người thầy giáo.
. Xác định kiến thức cơ bản.
Khi xây dựng chương trình tri thức đã được một lần lựa chọn.
Nhưng chương trình chưa giải quyết xong mâu thuẫn giữa tài liệu học
tập và thời gian. Sách giáo khoa và sách giáo viên đã góp phần giải
quyết vấn đề này nhưng cần tiếp tục đi sâu hơn nữa. Bởi vì nói đến cái
cơ bvản là nói đến hai mặt: Một mặt là cái cơ sở, cái then chốt của
một bộ môn; mặt khác là nói đến những cái có ý nghĩa nhất, có tác
dụng nhất đối với sự phát triển nhân cách của học sinh. Khi xây dựng
chương trình, khi biên soạn SGK, SGV, các tác giả có tính đến đặc
điểm tâm lí của học sinh nhưng ở mức độ chung nhất của lớp học sinh
đó trên bình diện toàn quốc. Nhưng trong quá trình dạy học, học sinh
Trang20
S¸ng kiÕn kinh nghiÖm:\ NguyÔn Thµnh Vinh:\ Trêng THCS Giang Biªn
là những đối tượng cụ thể, những tình huống sư phạm cụ thể. Chỉ có
người thầy giáo mới hiểu rõ học sinh của mình, mới biết họ đã có cái
gì, cần có cái gì. Vì thế một lần nữa người thầy giáo cần phải lựa chọn
kiến thức cơ bản. Đây là một yêu cầu quan trọng đối với việc lập kế
hoạch và tiến hành dạy học lịch sử. Muốn thực hiện tốt yếu cầu này
cần phải:
- Nắm vững mục đích khoá trình, các chương và bài cụ thể. Biết roc
sự đóng góp của các bài cụ thể vào việc thực hiện mục đích của
của chương và khoá trình.
- Nắm vững nội dung bài học. Phân chia bài học thành những đơn vị
kiến thức khác nhau. Xác định vai trò ý nghĩa của các đơn vị kiến
thức đối với sự phát triển của nhân cách học sinh.
- Phân chia thời gian thích hợp cho các tài liệu học tập.
- Lựa chọn phương pháp dạy học thích hợp và các tài liệu học tập.
Ngoài các yêu cầu trên việc giáo dục tư tưởng chính trị, phẩm chất
đạo đức, giáo dục lao động, thẩm mỹ, năng lực tư duy và hoạt động
thực tiễn là những yêu cầu quan trọng trong dạy học lịch sử.
Nói tóm lại việc xác định ý nghĩa, vị trí của bộ môn trong hệ thống
chương trình ở trường phổ thông, việc điểm qua đôi nét về sự phát
triển của lịch sử và những vấn đề cải cách giáo dục bộ môn giúp
chúng ta nhận thức sâu sắc hơn nhiệm vụ của việc dạy học hiện nay.
Trên đây là những suy nghĩ của tôi về việc dạy bộ môn lịch sử
ở nhà trường phổ thông. Chắc chắn những suy nghĩ này còn nhiều hạn
chế, thiếu sót rất mong được sự đóng góp ý kiến của các bạn đồng
nghiệp để bản sáng kiến kinh nghiệm này được hoàn thiện hơn.
Xin chân thành cám ơn!
Trang21
S¸ng kiÕn kinh nghiÖm:\ NguyÔn Thµnh Vinh:\ Trêng THCS Giang Biªn
Giang Biên, ngày 20 tháng 10 năm 2007
Người viết
Nguyễn Thành Vinh
Trang22