Tải bản đầy đủ (.pdf) (32 trang)

vai trò của vốn fdi tới sự phát triển kinh tế việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (539.09 KB, 32 trang )

• ĐỀ TÀI: “VAI TRÒ CỦA VỐN FDI TỚI SỰ PHÁT TRIỂN KINH TẾ
VIỆT NAM”
I. Cơ sở lý luận chung về FDI
1. Cơ sở lý thuyết
a. Khái niệm về FDI
- FDI là hình thức đầu tư quốc tế mà nhà đầu tư nước ngoài góp một lượng
vốn đủ lớn để thiết lập các cơ sở sản xuất, kinh doanh, nhờ đó cho phép họ trực
tiếp tham gia điều hành đối tượng mà họ bỏ vốn đầu tư, cùng với các đối tác
nước nhận đầu tư chia sẻ rủi ro và thu lợi nhuận từ những hoạt động đầu tư đó.
Đến nay định nghĩa mà nhiều nước và các tổ chức hay dùng nhất là định
nghĩa của tổ chức Tiền tệ Thế giới (IMF) đã đưa ra vào năm 1977 như sau: “Đầu
tư trực tiếp nước ngoài là số vốn đầu tư được thực hiện để thu được lợi ích lâu
dài trong một doanh nghiệp hoạt động ở nền kinh tế khác với nền kinh tế của nhà
đầu tư. Ngoài mục đích lợi nhuận, nhà đầu tư còn mong muốn dành được chỗ
đứng trong việc quản lý doanh nghiệp và mở rộng thị trường”.
b. Hình thức của FDI
• Đầu tư FDI tồn tại dưới nhiều hình thức, song những hình thức chủ yếu là
hợp đồng hợp tác kinh doanh; doanh nghiệp liên doanh, doanh nghiệp 100% vốn
nước ngoài.
• Hợp đồng hợp tác kinh doanh
Hợp đồng hợp tác kinh doanh (Contractual-Business-Cooperation) là văn
bản ký kết giữa hai hoặc nhiều bên (gọi là bên hợp doanh) quy định rõ trách
nhiệm và phân chia kết quả kinh doanh cho mỗi bên để tiến hành đầu tư sản xuất
kinh doanh ở nước tiếp nhận đầu tư mà không thành lập một pháp nhân. Và ở
Việt Nam, hình thức này có 221 dự án chiếm 1,7% trong tổng số dự án và
khoảng 2,5% số vốn đầu tư tính đến tháng 7 năm 2011 ( Nguồn
www.vneconomy.vn)
• Doanh nghiệp liên doanh
Doanh nghiệp liên doanh (Joint Venture): là loại hình doanh nghiệp do hai
bên hoặc các bên nước ngoài hợp tác với các nước tiếp nhận đầu tư cùng góp
vốn, cùng kinh doanh, cùng hưởng lợi nhuận và chia sẻ rủi ro theo tỷ lệ vốn góp.


Doanh nghiệp liên doanh được thành lập theo hình thức công ty trách nhiệm hữu
hạn, có tư cách pháp nhân theo pháp luật của nước tiếp nhận đầu tư. Tính đến hết
tháng 7 năm 2011, nước ta có 2.388 dự án của các doanh nghiệp liên doanh,
chiếm 18,5% tổng số dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Việt Nam và chiếm
trên 30% số vốn đầu tư. (Nguồn www.vneconomy.vn)
• Doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài.
Doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài (100% Foreign Cantrerisce) là doanh
nghiệp thuộc sở hữu của nhà đầu tư nước ngoài (tổ chức hoặc cá nhân nước
ngoài) do nhà đầu tư nước ngoài thành lập tại nước tiếp nhận đầu tư, tự quản lý
và tự chịu trách nhiệm về kết quả sản xuất, kinh doanh. Ở Việt Nam, hình thức
này có xu hướng gia tăng cả về số dự án và vốn đăng ký. Hiện có trên 78% số dự
án và khoảng 62% số vốn đầu tư (đến tháng 7 năm 2011 có 10.143 dự án có hiệu
lực với trên 12 tỷ USD vốn đầu tư. Hiện nay trong đó tổng dự án và tổng vốn
trên thì nhà đầu tư đăng ký dưới hình thức 100% vốn nước ngoài chiếm 78% về
số dự án (62% về tổng vốn), đăng ký dưới hình thức liên doanh chiếm 18,5% về
số dự án (27% về tổng vốn đăng ký). Số còn lại đăng ký thuộc lĩnh vực hợp
doanh BOT công ty cổ phần và công ty quản lý vốn. (Nguồn
www.vneconomy.vn)
c. Vai trò của FDI đối với các nước đang phát triển
• Bổ sung vốn
Trong thời kỳ đầu mới phát triển, trình độ kinh tế của các nước đang phát
triển thấp, GDP và GDP tính theo đầu người thấp vì vậy khả năng tích lũy vốn
trong nội bộ nền kinh tế rất hạn chế. Trong khi đó, nhu cầu vốn đầu tư để phát
triển nhằm rút ngắn khoảng cách với các nước công nghiệp phát triển lại rất
lớn.FDI với vai trò là một nguồn vốn bổ sung từ bên ngoài, giúp các nước đang
phát triển giải quyết được bài toán thiếu vốn. Trong các nguồn vốn ĐTNN thì
nguồn vốn FDI được đánh giá là rất quan trọng với nhiều nước. FDI chiếm một
tỷ trọng đáng kể trong tổng vốn đầu tư toàn xã hội của các nước đang và kém
phát triển.
Ngoài ý nghĩa bổ sung một lượng vốn đáng kể cho đầu tư phát triển kinh tế,

cần nói đến chất lượng của vốn FDI. Sự có mặt của nguồn vốn này đã góp phần
tạo điều kiện cho nguồn vốn Nhà nước tập trung vào các vấn đề kinh tế xã hội
ưu tiên (cơ sở hạ tầng, các công trình phúc lợi…). Nguồn vốn này cũng góp phần
nâng cao chất lượng, hiệu quả các nguồn vốn trong nước. Các doanh nghiệp nhà
nước phải đầu tư và chú ý đến hiệu quả đầu tư trong điều kiện phải cạnh tranh
với các doanh nghiệp có vốn FDI. Các doanh nghiệp có vốn FDI tạo ra sự liên
kết với các công ty trong nước nhận đầu tư thông qua các mối quan hệ cung cấp
dịch vụ, nguyên vật liệu. Qua đó, FDI thúc đẩy đẩy đầu tư trong nước đang phát
triển. Nhờ vậy,các tiềm năng trong nước được khai thác hiệu quả hơn.
• Chuyển giao công nghệ
Thông qua FDI, các công ty nước ngoài sẽ đem lại công nghệ tiên tiến hơn
từ công ty mẹ vào sản xuất ở nước sở tại thông qua thành lập các công ty con
hay chi nhánh. Sự xuất hiện của các công ty nước ngoài xuất phát từ mục tiêu lợi
nhuận trên cơ sở tận dụng những lợi thế có được từ công ty mẹ để sẵn sang cạnh
tranh đối với các doanh nghiệp trong nước. Vì vậy, hoạt động của các doanh
nghiệp FDI sẽ khuyến khích nhưng cũng gây áp lực về đổi mới công nghệ nhằm
tăng năng lực cạnh tranh đối với các doanh nghiệp trong nước.
FDI không chỉ mang lại công nghệ cho các nước đang phát triển thông qua
con đường chuyển giao từ nước ngoài vào mà còn bằng cách xây dựng các cơ sở
nghiên cứu và phát triển, đào tạo cho đội ngũ lao động ở các nước đang phát
triển để phục vụ cho các dự án đầu tư. Ngoài ra, chuyển giao công nghệ còn
được thông qua việc chuyển lao động. Thông qua FDI, kĩ năng quản lý, kĩ năng
tay nghề lao động được truyền bá vào các nước đang phát triển.
• Tạo việc làm và phát triển nguồn nhân lực
FDI giúp các nước đang phát triển tận dụng được lợi thế về nguồn lao động
dồi dào. Ở nhiều nước, khu vực có vốn FDI tạo ra số lượng lớn việc làm cho
người lao động, đặc biệt trong lĩnh vực chế tạo. Nhìn chung, số lượng việc làm
trong khu vực có vốn FDI và tỷ trọng trong tổng lao động ở các nước phát triển
có xu hướng tăng lên.
Bên cạnh đó, FDI còn góp phần vào việc đào tạo, nâng cao trình độ cho

người lao động. Năng suất lao động trong các doanh nghiệp có vốn FDI thường
cao hơn trong các doanh nghiệp nhà nước. Với tiêu chí coi hiệu quả làm việc là
ưu tiên hàng đầu trong tuyển dụng và sử dụng lao động, các doanh nghiệp có
vốn FDI thường xây dựng đội ngũ công nhân, nhân viên lành nghề, có tác phong
công nghiệp và kỷ luật cao.
• Mở rộng thị trường xuất khẩu và nâng cao năng lực cạnh tranh trên thị trường
thế giới
Vai trò này của FDI thể hiện rõ nhất ở các nước áp dụng chính sách thu hút
FDI hướng vào xuất khẩu. Sự xuất hiện của các dự án FDI đi kèm với công
nghệ, máy móc, thiết bị hiện đại đã giúp các nước nâng cao chất lượng và đa
dạng hóa các mặt hàng xuất khẩu. Bên cạnh đó, thông qua các mối quan hệ sẵn
có của các nhà đầu tư nước ngoài, hàng hóa của các doanh nghiệp có vốn FDI
được tiếp cạn với thi trường thế giới.
• Củng cố và mở rộng quan hệ hợp tác quốc tế, đẩy nhanh tiến trình hội nhập
vào nền kinh tế khu vực và thế giới.
Hoạt động FDI góp phần làm phong phú, đa dạng và sâu sắc các mối quan
hệ kinh tế đối ngoại của các nước đang phát triển. Nền kinh tế trong nước dần
dần tham gia sâu rộng hơn vào nền kinh tế khu vực và thế giới. Điều này tạo
thuân lợi cho các nước tham gia vào các hiệp định hợp tác song phương, đa
phương.
Ngoài ra, FDI còn góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế của các nước đang
phát triển theo hướng tích cực: tỷ trọng của ngành nông nghiệp giảm dần, thay
vào đó là tỷ trọng các ngành công nghiệp và dịch vụ tăng dần. Bên cạnh đó, FDI
giúp tăng trưởng kinh tế, tăng ngân sách nhà nước…
2. Các mô hình về vai trò của nguồn vốn đối với tăng trưởng
II. Thực trạng FDI tại Việt Nam giai đoạn 2000-2011
1. Quy mô FDI vào Việt nam giai đoạn 2000 - 2011
( nguồn : cục đầu tư nước ngoài – Bộ kế hoạch và đầu tư)
Vốn đầu tư nước ngoài vào Việt Nam trong giai đoạn 2000-2011 có nhiều biến động.
Nhìn vào biểu đồ ta dễ nhận thấy từ năm 2000 đến 2004 vốn FDI vào nước ta

biến chuyển chậm chạp xoay quanh mốc 4 tỷ USD do các nhà đầu tư nước ngoài
mới tiếp cận thị trường Việt Nam nên còn nhiều e ngại và thận trọng vì chưa nắm
bắt được các đặc điểm của thị trường đầu tư.
Từ năm 2005 đến 2008, số vốn FDI tăng mạnh cả vốn đăng ký lẫn vốn giải ngân.
( Việt Nam gia nhập WTO mở rộng thương mại quốc tế). Năm 2008 vốn FDI
đăng ký đạt mức rất cao gấp hơn 3.5 lần năm 2007 song số vốn giải ngân giai
đoạn 2005-2008 không tăng tương xứng.Đặc biệt năm 2008, vốn giải ngân chỉ
đạt 11.5 tỷ USD thấp hơn rất nhiều so với con số 71 tỷ. Có thể thấy kết quả đó là
do chính phủ Việt Nam quá chú trọng con số FDI đăng ký mà tạo nhiều điều
kiện thuận lợi cho nhà đầu tư, chấp nhận các dự án FDI không chọn lọc, chạy
theo số lượng bỏ quên chất lượng khiến các dự án FDI ồ ạt vào VN và cũng
nhiều trong số đó gặp vấn đề, bị bỏ dở hoặc kéo dài thời gian triển khai, gây
nhiều ảnh hưởng tiêu cực cho nền kinh tế…
Từ năm 2008 trở lại đây, lượng vốn FDI lại giảm xuống 14.696 tỷ USD năm 2011
do tác động của khủng hoảng kinh tế.Tuy nhiên số vốn giải ngân giai đoạn này
vẫn khá ổn định.
C c u đ u t theo ngành.ơ ấ ầ ư
Vốn đầu tư FDI cũng có sự chuyển dịch dần theo hướng giảm mạnh tỷ trọng trong
nông nghiệp và tăng mạnh trong lĩnh vực dịch vụ. Năm 2011 vốn FDI đầu tư trong
ngành nông –lâm - ngư nghiệp đã giảm xuống chỉ còn 1% trong tổng vốn đầu tư
đăng ký - mức thấp nhất từ trước đến nay.
- ĐTNN trong lĩnh vực Nông-Lâm-Ngư :
Hiện nay do nhiều nguyên nhân, trong đó có nguyên nhân rủi ro đầu tư cao
trong lĩnh vực này, nên kết quả thu hút ĐTNN vào lĩnh vực Nông – Lâm ngư chưa
được như mong muốn.
Đến hết năm 2007, lĩnh vực Nông- Lâm- Ngư nghiệp có 933 dự án còn hiệu
lực, tổng vốn đăng ký hơn 4,4 tỷ USD, đã thực hiện khoảng 2,02 tỷ USD; chiếm
10,8% về số dự án ; 5,37% tổng vốn đăng ký và 6,9% vốn thực hiện, (giảm từ 7,4%
so với năm 2006). Trong đó, các dự án về chế biến nông sản, thực phẩm chiếm tỷ
trọng lớn nhất 53,71% tổng vốn đăng ký của ngành, trong đó, các dự án hoạt động

có hiệu quả bao gồm chế biến mía đường, gạo, xay xát bột mì, sắn, rau. Tiếp theo là
các dự án trồng rừng và chế biến lâm sản, chiếm 24,67% tổng vốn đăng ký của
ngành. Rồi tới lĩnh vực chăn nuôi và chế biến thức ăn gia súc chiếm 12,7%. Cuối
cùng là lĩnh vực trồng trọt, chỉ chiếm gần 9% tổng số dự án. Có 130 dự án thuỷ sản
với vốn đăng ký là 450 triệu USD,
Các dự án ĐTNN trong ngành nông-lâm-ngư nghiệp tập trung chủ yếu ở phía
Nam. Vùng Đông Nam Bộ chiếm 54% tổng vốn đăng ký của ngành, đồng bằng sông
Cửu Long 13%, duyên hải Nam Trung Bộ 15%. Miền Bắc và khu vực miền Trung,
lượng vốn đầu tư còn rất thấp, ngay như vùng đồng bằng sông Hồng lượng vốn đăng
ký cũng chỉ đạt 5% so với tổng vốn đăng ký của cả nước.
- ĐTNN trong lĩnh vực dịch vụ:
Nước ta đã có nhiều chủ trương chính sách, tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt
động kinh doanh dịch vụ phát triển từ khi thi hành Luật Đầu tư nước ngoài (1987).
Nhờ vậy, khu vực dịch vụ đã có sự chuyển biến tích cực đáp ứng ngày càng tốt hơn
nhu cầu sản xuất, tiêu dùng và đời sống nhân dân, góp phần đẩy nhanh tăng trưởng
kinh tế. Một số ngành dịch vụ (bưu chính viễn thông, tài chính, ngân hàng, bảo
hiểm, vận tải hàng không, vận tải biển, du lịch, kinh doanh bất động sản) tăng trưởng
nhanh, thu hút nhiều lao động và thúc đẩy xuất khẩu. Cùng với việc thực hiện lộ
trình cam kết thương mại dịch vụ trong WTO, Việt Nam tiếp tục đẩy mạnh thu hút
ĐTNN, phát triển các ngành dịch vụ trực tiếp phục vụ sản xuất và xuất khẩu.
Trong khu vực dịch vụ ĐTNN tập trung chủ yếu vào kinh doanh bất động sản,
bao gồm: xây dựng căn hộ, văn phòng, phát triển khu đô thị mới, kinh doanh hạ tầng
khu công nghiệp (42% tổng vốn ĐTNN trong khu vực dịch vụ), du lịch-khách sạn
(24%), giao thông vận tải-bưu điện (18%) (xem bảng).
- Lĩnh vực công nghiệp và xây dựng:
Từ khi ban hành Luật Đầu tư nước ngoài năm 1987, Việt Nam đã chú trọng
thu hút ĐTNN vào lĩnh vực công nghiệp-xây dựng. Qua mỗi giai đoạn các lĩnh vực
ưu tiên thu hút đầu tư, các sản phẩm cụ thể được xác định tại Danh mục các lĩnh vực
khuyến khích và đặc biệt khuyến khích đầu tư. Trong những năm 90 thực hiện chủ
trương thu hút ĐTNN, Chính phủ ban hành chính sách ưu đãi, khuyến khích các dự

án : (i) sản xuất sản phẩm thay thế hàng nhập khẩu, (ii) sản xuất hàng xuất khẩu (có
tỷ lệ xuất khẩu 50% hoặc 80% trở lên), (iii) sử dụng nguồn nguyên liệu trong nước
và có tỷ lệ nội địa hoá cao.
Sau khi gia nhập và thực hiện cam kết với WTO (năm 2006), Việt Nam đã bãi
bỏ các quy định về ưu đãi đối với dự án có tỷ lệ xuất khẩu cao, không yêu cầu bắt
buộc thực hiện tỷ lệ nội địa hoá và sử dụng nguyên liệu trong nước. Qua các thời kỳ,
định hướng thu hút ĐTNN lĩnh vực công nghiệp- xây dựng tuy có thay đổi về lĩnh
vực, sản phẩm cụ thể nhưng cơ bản vẫn theo định hướng khuyến khích sản xuất vật
liệu mới, sản phẩm công nghệ cao, công nghệ thông tin, cơ khí chế tạo, thiết bị cơ
khí chính xác, sản xuất sản phẩm và linh kiện điện tử Đây cũng chính là các dự án
có khả năng tạo giá trị gia tăng cao và Việt Nam có lợi thế so sánh khi thu hút
ĐTNN. Nhờ vậy, cho đến nay các dự án ĐTNN thuộc các lĩnh vực nêu trên (thăm
dò và khai thác dầu khí, sản xuất các sản phẩm công nghệ cao, sản phẩm điện và
điện tử, sản xuất sắt thép, sản xuất hàng dệt may ) vẫn giữ vai trò quan trọng đóng
góp cho tăng trưởng kinh tế, xuất khẩu và tạo nhiều việc làm và nguồn thu nhập ổn
định cho hàng triệu lao động trực tiếp. Cơ cấu đầu tư có chuyển biến tích cực theo
hướng gia tăng tỷ trọng đầu tư vào lĩnh vực công nghệ cao, lọc dầu và công nghệ
thông tin (IT) với sự có mặt của các tập đoàn đa quốc gia nổi tiếng thế giới: Intel,
Panasonic, Canon, Robotech.v.v. Hầu hết các dự án ĐTNN này sử dụng thiết bị hiện
đại xấp xỉ 100% và tự động hoá đạt 100% cho sản lượng, năng suất, chất lượng cao,
do đó có ảnh hưởng lớn đến các chỉ tiêu giá trị của toàn ngành.
2. Cơ cấu FDI theo đối tác đầu tư
Tính đến hết năm 2009, đã có 89 quốc gia và vùng lãnh thổ có dự án FDI vào VN
Trong đó các nước châu Á chiếm 69%.Trong khu vực này, Asean chiếm 19% tổng
vốn đăng kí, châu Âu chiếm 24% tổng số vốn đăng kí, riêng Euro 10%, châu Mỹ 5%
và riêng Mỹ chiếm 3,6%.
Giai đoạn 2000-2006: Vốn FDI từ các nước ASEAN vào Việt Nam giảm rõ
rệt Vốn FDI vào Việt Nam chủ yếu là từ châu Âu.
Năm 2009
FDI từ các nước châu Âu, châu Mỹ và Đông á tiếp tục tăng mạnh

Gaii đoạn 2006-2011: Đài Loan, Singapore, Hàn Quốc, Nhật Bản, Hồng Kông vẫn
là 5 nước đứng đầu danh sách về đầu tư FDI vào Việt Nam
Năm 2011:
Nước( vùng lãnh
thổ)
số vốn đăng ký mới và
tăng thêm( tỷ USD)
tỷ lệ phần
%
Hong Kong 3.09 21%
Nhật Bản 2.43 16.60%
singgapo 2.2 15%
Hàn Quốc 1.47 10%
Trung Quốc 0.747 5.10%
Số liệu: Cục đầu tư nước ngoài- Bộ kế hoạch và Đầu tư
3. Cơ cấu FDI theo lãnh thổ
Lượng vồn FDI tập trung vào các địa phương có điều kiện kinh tế thuận lợi, cơ sở hạ
tầng phát triển
Trong giai đoạn này, các tỉnh phía nam luôn thu hút nhiều vốn đầu tư nước ngoài
nhất. Đặc biệt thành phố Hồ Chí Minh thường đứng đầu
Về số vốn đăng ký. Lợi thế của thành phố là có vị trí địa lý thuận lợi, trung tâm kinh
tế và là một thị trường năng động nhất của vùng kinh tế trọng điểm phía Nam, có
tiềm năng về nguồn nhân lực dồi dào đến năm 2009 TPHCM luôn là địa phương
dẫn đầu cả nước về thu hút đầu tư nước ngoài với hơn 3.141 dự án đầu tư được cấp
giấy chứng nhận còn hiệu lực trên tổng số vốn đăng ký khoảng 25,6 tỷ USD. Năm
2011, Thành phố Hồ Chí Minh là địa phương thu hút nhiều vốn ĐTNN nhất với 3 tỷ
USD chiếm 20.4% tổng vốn đầu tư, Hải Dương thứ 2, Hà Nội thứ 3. Quảng Nam là
địa phương thu hút nhiều vốn ĐTNN nhất trong năm 2010 với 4,2 tỷ USD vốn đăng
ký mới và tăng thêm. Tiếp theo là Bà Rịa – Vũng Tàu, Quảng Ninh, thành phố Hồ
Chí Minh, Nghệ An với quy mô vốn đăng ký lần lượt là 2,56 tỷ USD, 2,2 tỷ USD

USD, 2 tỷ USD và 1,3 tỷ USD.
Năm 2009 Bà Rịa-Vũng Tàu là địa phương thu hút nhiều vốn ĐTNN nhất trong năm
2009 với 6,73 tỷ USD vốn đăng ký mới và tăng thêm. Tiếp theo là Quảng Nam,
Bình Dương, Đồng Nai và Phú Yên với quy mô vốn đăng ký lần lượt là 4,1 tỷ USD;
2,5 tỷ USD; 2,36 tỷ USD và 1,7 tỷ USD.
Năm 2008, tỉnh Ninh Thuận đứng đầu về số vốn đăng ký do có dự án liên doanh sản
xuất thép giữa tập đoàn Lion Malaysia với Vinashin tổng vốn đăng ký 9,79 tỷ USD
Bà Rịa -Vũng Tàu đứng thứ hai với 4 dự án, tổng vốn đăng ký 9,35 tỷ USD. Đáng
chú ý là quy mô dự án đã tăng lên, bình quân 51,47 triệu USD/dự án, cao hơn rất
nhiều so với thời gian trước.
4. Cơ cấu FDI theo hình thức đầu tư
• Hợp đồng hợp tác kinh doanh
Ở Việt Nam, hình thức này có 221 dự án chiếm 1,7% trong tổng số dự án và
khoảng 2,5% số vốn đầu tư tính đến tháng 7 năm 2011 ( Nguồn
www.vneconomy.vn).
• Doanh nghiệp liên doanh
Tính đến hết tháng 7 năm 2011, nước ta có 2.388 dự án của các doanh nghiệp
liên doanh, chiếm 18,5% tổng số dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Việt Nam
và chiếm trên 30% số vốn đầu tư. (Nguồn www.vneconomy.vn)
• Doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài.
Ở Việt Nam, hình thức này có xu hướng gia tăng cả về số dự án và vốn đăng ký.
Hiện có trên 78% số dự án và khoảng 62% số vốn đầu tư (đến tháng 7 năm 2011
có 10.143 dự án có hiệu lực với trên 12 tỷ USD vốn đầu tư. Hiện nay trong đó
tổng dự án và tổng vốn trên thì nhà đầu tư đăng ký dưới hình thức 100% vốn
nước ngoài chiếm 78% về số dự án (62% về tổng vốn), đăng ký dưới hình thức
liên doanh chiếm 18,5% về số dự án (27% về tổng vốn đăng ký). Số còn lại đăng
ký thuộc lĩnh vực hợp doanh BOT công ty cổ phần và công ty quản lý vốn.
(Nguồn www.vneconomy.vn)
Vai trò của FDI đến phát triển kinh tế Việt Nam
1. Tác động tích cực

a. Vai trò của FDI đến tăng trưởng kinh tế
Đầu tư nước ngoài đóng góp đáng kể vào sự tăng trưởng kinh tế của Việt Nam.
Các dự án đầu tư nước ngoài đã làm thay đổi dần đời sống sản xuất, kinh doanh
của địa phương, có tác dụng kích thích sản xuất của các thành phần kinh tế khác.
Cụ thể:
*)Góp phần tăng nguồn vốn, giải quyết vấn đề thiếu vốn cho phát triển
KTXH
• Đóng góp quan trọng dễ thấy nhất đó là tăng cường nguồn vốn đầu tư cho tăng
trưởng. Vốn FDI (giải ngân) đã tăng từ 2,451 tỷ USD năm 2001 lên 8,100 tỷ
USD năm 2007 đạt đỉnh điểm ở mức 11500 tỷ vào năm 2008. Giai đoạn từ 2008
đến 2011 số vốn FDI giải ngân tuy có sự giảm nhẹ, song vẫn giữ được ở mức
khá cao, trung bình khoảng 10 tỷ USD. Đóng góp của FDI trong tổng vốn đầu tư
xã hội có biến động lớn, từ tỷ trọng chiếm 13,1% vào năm 1990 đã
tăng lên mức 20% năm 2000 .Trong 5 năm 2001-2005 chiếm khoảng 16% tổng
vốn đầu tư xã hội; hai năm 2006-2007 chiếm khoảng 16%. Vốn FDI chiếm
25,8% tổng vốn đầu tư toàn xã hội năm 2010. Ưu điểm vượt trội của nguồn vốn
này so với các nguồn vốn đầu tư khác là đi kèm theo chuyển giao công nghệ,
thúc đẩy xuất khẩu, tiếp nhận kiến thức quản lý hiện đại. Mặt khác, so với các
nguồn vốn nước ngoài khác, vốn FDI “ít bị nhạy cảm” trước những biến động
của thị trường tài chính toàn cầu.
• Tỷ trọng đóng gớp của khu vực có vốn FDI vào GDP cũng tương đối ổn định và
có xu hướng tăng dần qua các năm.Điều này tiếp tực khẳng định vai trò quan
trọng của đầu tư nước ngoài đối với bổ sung vốn đầu tư phát triển của Việt Nam.
( nguồn: tổng cục thống kê)
*) FDI với nguồn thu ngân sách và các cân đối vĩ mô.
Cùng với sự phát triển , FDI đóng góp ngày càng tăng vào nguồn thu ngân sách
cho nhà nước thông qua việc đánh thuế vào các công ty nước ngoài Bên cạnh
đó, FDI đã góp phần quan trọng vào việc thặng dư của tài khoản vốn, góp phần
cải thiện cán cân thanh toán nói chung.
Trong 5 năm 2001-2005, thu ngân sách trong khối doanh nghiệp FDI đạt hơn 3,6

tỷ USD, tăng bình quân 24%/năm. Riêng 2 năm 2006 và 2007 khu vực kinh tế
có vốn FDI đã nộp ngân sách đạt trên 3 tỷ USD, gấp đôi thời kỳ 1996-2000 và
bằng 83% thời kỳ 2001-2005. Năm 2010, các doanh nghiệp FDI nộp ngân sách
nhà nước đạt 3,1 tỉ USD, tăng 26% so với năm 2009, vượt 6% so với kế hoạch
đề ra và đóng góp 18,4% tổng thu ngân sách nội địa.
• Góp phần nâng cao năng lực công nghệ cho nước chủ nhà và góp phần tạo
động lực cho việc nâng cao năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp trong
nước.
Sự tham gia của doanh nghiệp FDI góp phần phá vỡ cơ cấu thị trường độc
quyền, tăng tính cạnh tranh của thị trường. Điều này đã đưa lại tác động tích cực
lẫn tiêu cực:
+ Doanh nghiệp FDI với lợi thế về vốn, công nghệ, trình độ tổ chức sản xuất, các
bí quyết marketing đã tạo ra sức ép đáng kể buộc các doanh nghiệp trong nứơc
phải thay đổi cách thức quản lý, nâng cao công nghệ, sử dụng các hoạt động
marketing nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh của mình.
Cùng với việc cung cấp vốn, thông qua FDI các công ty nước ngoài đã chuyển
giao công nghệ từ nước mình hoặc nước khác sang cho Việt Nam. Chuyển giao
công nghệ qua các dự án FDI là một trong những kênh chủ yếu, có
tính đột phá để nâng cao năng lực công nghệ của Việt Nam. Chuyển giao công
nghệ qua các dự án FDI luôn đi kèm với đào tạo nhân lực vận hành, quản lý, nhờ
đó đã hình thành được đội ngũ cán bộ, công nhân kỹ thuật có trình độ, tay nghề
khá cao. Khảo sát cho thấy, có 44% doanh nghiệp FDI thực hiện đào tạo lại lao
động với các mức độ khác nhau (cho khoảng 30% số lao động tuyển dụng). Đối
với một số khâu chủ yếu của dây chuyền công nghệ tiên tiến hoặc đặc thù, lao
động sau khi tuyển dụng được đưa đi bồi dưỡng ở các doanh nghiệp mẹ ở nước
ngoài. Đến nay, hầu hết các công nghệ có trình độ tiên tiến và đội ngũ cán bộ,
công nhân kỹ thuật cao ở Việt .
• Tác động tới xuất khẩu và cán cân thanh toán
- FDI thúc đẩy hoạt động thương mại, tạo hành lang cho hoạt động xuất khẩu
và tiếp cận nhanh nhất với thị trường thế giới. Xuất khẩu là một trong những

giải pháp tăng trưởng kinh tế, góp phần tăng thu nhập cho nền kinh tế, từ đó
giải quyết các vấn đề xã hội. Theo quy luật của các nước đang phát triển, cán
cân thanh toán của các nước này luôn ở tình trạng thâm hụt. Do vậy, hoạt
động FDI đã góp phần vào việc hạn chế một phần nào đó tình trạng thâm hụt
của cán cân thanh toán thông qua thặng dư xuất khẩu và chuyển vốn đầu tư
vào nước tiếp nhận FDI. Thông qua FDI, hoạt động xuất nhập khẩu của các
nền kinh tế chủ nhà được kích hoạt, trở nên hết sức sôi động. Khởi đầu là
xuất khẩu các sản phẩm nông, lâm, ngư nghiệp và khai khoáng, tiếp đến là
các sản phẩm thuộc các ngành công nghiệp cần nhiều lao động như dệt may,
công nghiệp chế biến và sau đó là các sản phẩm có hàm lượng tư bản cao như
sản phẩm điên, điện tử, cơ khí
- Thời kỳ 1996-2000, xuất khẩu của khu vực FDI chỉ đạt 10,6 tỷ USD (không
kể dầu thô), chiếm 23% kim ngạch xuất khẩu cả nước.Đến năm 2000, tỷ lệ
này đã tăng lên chiếm 25%, năm 2003 chiếm 31%, tính cả dầu thô thì tỷ trọng
này đạt khoảng 54% năm 2004 và chiếm trên 55% trong các năm 2005, 2006
và 2007. Năm 2008 xuất khẩu của khu vực FDI chiếm khoảng 44%, đạt 24,2
tỷ USD, tăng 24% so với năm 2007 (không tính dầu thô, nếu tính cả dầu thô
thì kim ngạch của doanh nghiệp FDI đạt 34,5 tỷ USD, chiếm 55% tổng kim
ngạch xuất khẩu) Xuất khẩu của khu vực ĐTNN (kể cả dầu khí) trong năm
2010 đạt 38,8 tỷ USD, tăng 27,8% so với cùng kỳ và chiếm 53,1% tổng xuất
khẩu cả nước.Xuất khẩu của khu vực ĐTNN (kể cả dầu khí) trong 12 tháng
đầu năm 2011 đạt 54,46 tỷ USD, tăng 39% so với cùng kỳ năm 2010 và
chiếm 56,57% kim ngạch xuất khẩu.

• Tác động tới quá trình mở rộng quan hệ đối ngoại và hội nhập kinh tế quốc
tế
Quan hệ đối ngoại và hội nhập kinh tế quốc tế là một xu hướng vận động tất yếu
của các nền kinh tế trên thế giới trong điều kiện hiện nay, khi quá trình toàn cầu
hoá, khu vực hoá và quốc tế hoá đang diễn ra hết sức nhanh chóng dưới sự tác
động của mạnh mẽ của cuộc cách mạng khoa học công nghệ.Đối với các nước

đang và kém phát triển nói chung cũng như Việt Nam nói riêng thì quan hệ đối
ngoại và hội nhập kinh tế quốc tế là con đường tốt nhất để rút ngắn tụt hậu so với
các nước khác trong khu vực và trên thế giới, có điều kiện phát huy tối ưu hơn
những lợi thế so sánh của mình trong phân công lao động quốc tế. Trong xu thế
quốc tế hoá và khu vực hoá các hoạt động kinh tế hiện nay, mức độ thành công
của mở cửa và hội nhập kinh tế với thế giới có tác động chi phối mạnh mẽ tới sự
thành công của công cuộc đổi mới, đến kết quả của sự nghiệp CNH-HĐH cũng
như tốc độ phát triển của nền kinh tế Việt Nam.
Đầu tư nước ngoài cũng như khu vực có vốn đầu tư nước ngoài và đặc biệt là
hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài FDI đã trở thành một động lực quan trọng
thức đẩy quá trình phát triển, đổi mới và hội nhập kinh tế quốc tế của tất cả các
quốc gia nói chung và Việt Nam nói riêng, là nhân tố cơ bản có vai trò đặc biệt
quan trọng tác động tới quá trình mở rộng quan hệ đối ngoại và hội nhập kinh tế
quốc tế.
b. Vai trò của FDI với chuyển dịch cơ cấu kinh tế
FDI góp phần tái cấu trúc nền kinh tế, FDI làm thay đổi cơ cấu kinh tế theo
hướng phù hợp với chiến lược công nghiệp hoá của các nước chủ nhà.
• Huy động vốn để thay đổi cơ cấu kinh tế với tỷ trọng công nghiệp và dịch vụ
tăng lên.
Trong 10 năm qua ĐTNN đóng một vai trò quan trọng cho sự tăng trưởng của
nền kinh tế nói chung và cho ngành công nghiệp nói riêng, trong đó từng bước
trở thành nguồn đầu tư quan trọng của Quốc gia, góp phần phát triển các ngành
công nghiệp và tạo công ăn việc làm cho người lao động. Nhiều công trình lớn
đã hoàn thành đưa vào sản xuất, phát huy hiệu quả đầu tư, nhiều công trình trọng
điểm làm cơ sở cho tăng trưởng giai đoạn sau đó được khởi công và đẩy nhanh
tiến độ, nhất là các công trình điện, dầu khí, công nghiệp nặng, công nghiệp phục
vụ xuất khẩu
Tốc độ tăng trưởng công nghiệp của khu vực kinh tế có vốn ĐTNN cao hơn mức
tăng trưởng công nghiệp chung của cả nước, góp phần thúc đẩy chuyển dịch cơ
cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa (CNH, HĐH), tăng tỷ

trọng của khu vực kinh tế có vốn ĐTNN trong ngành công nghiệp qua các năm
(từ 23,79% vào năm 1991 lên 40% năm 2004, 41% năm 2005 và năm 2006).
Giá trị sản xuất công nghiệp của khu vực kinh tế có vốn ĐTNN trong 5
năm qua chiếm trung bình 42,5% giá trị sản xuất công nghiệp của cả nước. Cụ
thể tỷ trọng trên tăng từ 41,3% vào năm 2000 lên 43,7% vào 2 năm 2004 và
2005. Đặc biệt, một số địa phương (Bình Dương, Đồng Nai, Vĩnh Phúc ) tỷ lệ
này đạt đến 65-70% giá trị sản xuất công nghiệp của địa bàn.
ĐTNN đã tạo ra nhiều ngành công nghiệp mới và tăng cường năng lực của nhiều
ngành công nghiệp như dầu khí, công nghệ thông tin, hóa chất, ô tô, xe máy,
thép, điện tử và điện tử gia dụng, công nghiệp chế biến nông sản thực phẩm, da
giày, dệt may… Hiện ĐTNN đóng góp 100% sản lượng của một số sản phẩm
công nghiệp (dầu khí, thiết bị máy tính, máy giặt, điều hòa), 60% cán thép, 33%
hàng điện tử, 76% dụng cụ y tế chính xác, 49% sản phẩm da giày, 55% sản
lượng sợi, 25% hàng may mặc.
ĐTNN đã góp phần hình thành và phát triển trong cả nước hệ thống các khu
công nghiệp, khu chế xuất, khu công nghệ cao tương đối đồng bộ và hiện đại,
đem lại hiệu quả sử dụng đất cao hơn ở một số địa phương đất đai kém màu mỡ.
Giá trị sản xuất công nghiệp theo giá thực tế phân theo thành phần kinh tế ( tỷ
đồng)

2005 2006 2007 2008 2009
TỔNG SỐ 988540.0 1199139.5 1466480.1 1903128.1 2298086.6
Kinh tế Nhà nước 246334.0 265117.9 291041.5 345278.3 420956.8
Trung ương 189275.9 207964.0 232495.7 286593.7 352573.5
Địa phương 57058.1 57153.9 58545.8 58684.6 68383.3
Kinh tế ngoài Nhà
nước 309087.6 401869.6 520073.5 709903.3 885517.2
Tập thể 4009.8 4650.3 4910.3 6640.9 8730.3
Tư nhân 225053.6 306967.0 407537.2 572723.3 722550.9
Cá thể 80024.2 90252.3 107626.0 130539.1 154236.0

Khu vực có vốn đầu
tư nước ngoài 433118.4 532152.0 655365.1 847946.5 991612.6
Cơ cấu %
TỔNG SỐ 100.0 100.0 100.0 100.0
Kinh tế Nhà nước 24.9 22.1 19.9 18.1
Trung ương 19.2 17.3 15.9 15.1
Địa phương 5.8 4.8 4.0 3.1
Kinh tế ngoài Nhà
nước 31.3 33.5 35.5 37.3
Tập thể 0.4 0.4 0.3 0.4
Tư nhân 22.8 25.6 27.8 30.1
Cá thể 8.1 7.5 7.3 6.9
Khu vực có vốn đầu
tư nước ngoài 43.8 44.4 44.7 44.6
• Thực hiện công nghiệp hoá nông thôn.
Mặc dù nguồn vốn đầu tư còn hạn chế song, các dự án FDI đã góp phần không nhỏ
trong việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp, phát triển sản xuất hàng hoá quy
mô lớn, nâng cao giá trị xuất khẩu cho nông sản Việt Nam, trên cơ sở phát huy các
lợi thế so sánh và áp dụng các công nghệ mới, công nghệ cao, có khả năng cạnh
tranh khi tham gia hội nhập. Với 758 dự án đã và đang triển khai, lĩnh vực FDI
trong nông nghiệp đem lại doanh thu hàng năm khoảng 312 triệu USD, xuất khẩu
trên 100 triệu USD/năm và tăng mạnh trong thời gian gần đây.
Những đóng góp tích cực:
- Cơ cấu vốn đầu tư nước ngoài tương đối phù hợp với yêu cầu chuyển dịch cơ cấu
kinh tế của ngành, nguồn vốn được thu hút khá đồng đều vào các lĩnh vực trồng trọt,
chế biến nông, lâm sản, sản xuất mía đường, sản xuất thức ăn chăn nuôi, chăn nuôi
gia súc, gia cầm, trồng rừng và sản xuất nguyên liệu giấy;
- Các dự án FDI đã góp phần tạo thêm năng lực sản xuất mới, công nghệ sản xuất
tiên tiến, nâng cao tính cạnh tranh của hàng nông lâm sản. Các chương trình mía
đường, trồng và chế biến rau quả, chương trình trồng rừng, chuyển giao công nghệ

mới, tạo ra các loại giống cây trồng, giống vật nuôi và các sản phẩm chế biến đạt
tiêu chuẩn quốc tế;
- Tạo việc làm cho hàng vạn lao động công nghiệp (đến nay có khoảng 75.000 lao
động công nghiệp đang làm việc tại các doanh nghiệp FDI của ngành), sản xuất
nguyên liệu và các dịch vụ lao động cho công nghiệp chế biến, v.v Đội ngũ cán bộ
quản lý, cán bộ kỹ thuật ngày càng trưởng thành, công nhân được nâng cao trình độ,
tay nghề;
c. Vai trò của FDI với đảm bảo phúc lợi xã hội cho con người
• Tác động tới việc làm và chất lượng nguồn lao động
Vấn đề giải quyết việc làm cho người lao động hiện đang được xã hội quan tâm và
coi đây là một trong những nhân tố góp phần làm cho xã hội phát triển công bằng và
bền vững. Mọi người có việc làm sẽ làm giảm tỷ lệ thất nghiệp, các vấn đề xã hội
đựơc giải quyết, nâng cao đời sống cho mọi tầng lớp dân cư.Song song với việc giải
quyết việc làm là việc không ngừng nâng cao hơn nữa chất lượng lao động, tạo ra
cho nền kinh tế nhiều đội ngũ lao động có tay nghề, có trình độ khoa học công nghệ
cao, đội ngũ cán bộ quản lý có năng lực quản lý vĩ mô, góp phần quan trọng trong
phát triển kinh tế xã hội. Tạo ra nhiều việc làm cho người lao động trong nước cũng
như nâng cao hơn nữa chất lượng lao động là một trong những mục tiêu đặt ra khi
thực thi chính sách thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài. Đến nay đây là mục tiêu mà
chúng ta đã thu được kết quả cao hơn so với các mục tiêu khácSố liệu thống kê cũng
cho thấy tầm quan trọng ngày càng tăng của các doanh nghiệp FDI trong việc tạo ra
việc làm mới trong hai thập kỷ qua, đặc biệt trong những năm gần đây
Lao động từ 15 tuổi trở lên đang làm việc tại thời điểm 1/7 hàng năm phân theo
thành phần kinh tế

Tổng số
Chia ra
Kinh tế
Nhà nước
Kinh tế

ngoài Nhà
nước
Khu vực có vốn
đầu tư nước
ngoài
Nghìn người
2000 37075.3 4358.2 32358.6 358.5
2001 38180.1 4474.4 33356.6 349.1
2002 39275.9 4633.5 34216.5 425.9
2003 40403.9 4919.1 34731.5 753.3
2004 41578.8 5031.0 35633.0 914.8
2005 42774.9 4967.4 36694.7 1112.8
2006 43980.3 4916.0 37742.3 1322.0
2007 45208.0 4988.4 38657.4 1562.2
2008 46460.8 5059.3 39707.1 1694.4
2009 47743.6 5040.6 41178.4 1524.6
2010 49048.5 5107.4 42214.6 1726.5
Cơ cấu (%)
2000 100.0 11.7 87.3 1.0
2001 100.0 11.7 87.4 0.9
2002 100.0 11.8 87.1 1.1
2003 100.0 12.1 86.0 1.9
2004 100.0 12.1 85.7 2.2
2005 100.0 11.6 85.8 2.6
2006 100.0 11.2 85.8 3.0
2007 100.0 11.0 85.5 3.5
2008 100.0 10.9 85.5 3.6\
2009 100.0 10.6 86.2 3.2
2010 100.0 10.4 86.1 3.5
2011


• Nâng cao mức sống, mức thu nhập của người dân
Số liệu công bố qua các cuộc điều tra gần đây về tiền lương cho thấy các doanh
nghiệp FDI đang thắng thế trong cạnh tranh thu hút nhân lực cấp cao, như các
chức danh quản lý doanh nghiệp. Mức lương trả cho lao động quản lý trong các
doanh nghiệp FDI trung bình là 12 triệu đồng/tháng(năm2005), cao hơn nhiều so
với mức lương tương ứng ở các doanh nghiệp nhà nước (4,3 triệu) và doanh
nghiệp tư nhân (3 triệu). Nếu tính bình quân lương tháng của toàn bộ lao động
trong doanh nghiệp qua các cuộc khảo sát tiền lương do Bộ Lao động - Thương
binh và Xã hội tiến hành từ đầu thập kỷ này thì người lao động trong doanh
nghiệp FDI vẫn được hưởng mức lương cao hơn so với ở các doanh nghiệp trong
nước khác (thấp nhất là ở doanh nghiệp tư nhân).
• Nâng cao cơ sở hạ tầng cho xã hội.
Kết cấu hạ tầng giữ vai trò quan trọng, nó tạo điều kiện để thu hút vốn đầu tư
nước ngoài, qua đó quyết định sự tăng trưởng kinh tế, tạo ra chuyển đổi căn bản
cơ cấu kinh tế đặc biệt là công nghiệp xây dựng và dịch vụ, tạo sự phát triển
đồng đều giữa các vùng trong cả nước, tạo việc làm và tăng thu nhập cho người
dân.Việc nâng cao kết cấu hạ tầng sẽ làm tăng khả năng thu hút FDI vào Việt
Nam. Vì vậy, Chính phủ nên kêu gọi khu vực kinh tế tư nhân trong và ngoài
nước tham gia đầu tư vào lĩnh vực cơ sở hạ tầng, vì sự tham của khu vực kinh tế
tư nhân trong phát triển cơ sở hạ tầng là rất cần thiết, đặc biệt trong lĩnh vực
cảng biển, điện năng. Việt Nam cần phải chuyển từ lời kêu gọi thuần túy sang
việc cho phép trên thực tế, để các nhà đầu tư có thể tham gia và nhanh chóng
phát triển hệ thống cơ sở hạ tầng mà Việt Nam đang rất cần.
2. TÁC ĐỘNG TIÊU CỰC CỦA FDI ĐẾN PHÁT TRIỂN KINH TẾ. 2000-
2011
Bên cạnh những lợi ích do việc đầu tư trực tiếp nước ngoài mang lại, còn có những
ảnh hưởng không tốt sự phát triển kinh tế ngắn hạn và dài hạn.
2.1 Về mặt kinh tế
a. Từ FDI - nhà đầu tư có lợi nhiều hơn

Hoạt động FDI nhiều khi làm lợi cho nhà đầu tư nước ngoài nhiều hơn nước được
nhận vì để thu hút FDI nước nhận đầu tư phải áp dụng các chính sách ưu đãi: miễn
thuế , giảm thuế trong thời gian khá dài cho phần lớn các dự án ở nước ngoài, ngoài
ra còn có trường hợp nhà đầu tư thường tính giá cao cho nguyên liệu,bán thành
phẩm, máy móc thiết bị mà họ nhập khẩu để thực hiện đầu tư.
Trong tổng lượng vốn đăng ký, có một nữa số vốn là vào các ngành khai thác
tài nguyên, tận dụng bảo hộ, công nghiệp gây ô nhiễm và bất động sản. Vốn đầu tư
vào khai thác tài nguyên thì không có tác dụng lan tỏa; vốn đầu tư vào các ngành
bảo hộ thì không có sức cạnh tranh chỉ làm cho chi phí của nền kinh tế gia tăng; vốn
đầu tư vào các ngành công nghiệp gây ô nhiễm thì lợi nhuận nhà đầu tư hưởng còn
hậu quả và chi phí khắc phục thì nước ta chịu; vốn đầu tư vào bất động sản thì có thể
làm căng thêm “bong bóng”, dễ gây ra bất ổn.
Mặt khác để hấp thụ được 1 USD đầu tư nước ngoài, theo tính toán của các
chuyên gia thế giới, nước tiếp nhận cũng phải có sự bỏ vốn đầu tư đối ứng từ 0,5 – 3
USD, thậm chí nhiều hơn.
b. Nguy cơ lạm phát
Thực tiễn thế giới cho thấy, dòng vốn đầu tư FDI chỉ thực sự tích cực và góp
phần làm dịu lạm phát khi chúng làm tăng cung những hàng khan hiếm, tăng nhập
khẩu phụ tùng thiết bị sản xuất và công nghệ tiên tiến, từ đó làm tăng tiềm lực xuất
khẩu, khả năng cạnh tranh, cải thiện cán cân thanh toán, tăng thu ngân sách cho
nước chủ nhà và giúp hạn chế sức ép tăng tỷ giá tiền tệ thực tế. Ngược lại, nếu thiên
về khuynh hướng kích thích nền kinh tế bong bóng, kích thích và thoả mãn những
tiêu dùng cao cấp vượt quá khả năng kinh tế và sự tích luỹ cần thiết của nước tiếp
nhận đầu tư, thì về lâu dài, chúng sẽ có hại cho các nguồn lực tăng trưởng kinh tế,
tăng nhập siêu và làm mất cân đối tài khoản vãng lai, do đó làm tăng các xung lực
lạm phát tương lai của đất nước.
Thêm nữa, lượng ngoại tệ đổ vào trong nước sẽ làm tăng lượng cung tiền tệ lẫn
lượng cầu hàng hoá và dịch vụ tương ứng. “Hợp lực” của những yếu tố đó sẽ tạo nên
những xung lực lạm phát mới do tính chất “quá nóng” của tăng trưởng kinh tế gây ra
c. Cơ cấu kinh tế bất hợp lí

Cơ cấu kinh tế bất hợp lí đầu tư theo ngành và theo địa phương kém hợp lí gây đầu
tư tràn lan và sử dụng lãng phí tài nguyên thiên nhiên, các nhà đầu tư nhiều khi sản
xuất và bán các sản phẩm không thích hợp với các nước đang phát triển thậm chí đôi
khi còn có hại cho con người và gây ảnh hưởng đến sức khỏe.
d. Nguy cơ thâm hụt cán cân thương mại
Lĩnh vực xây dựng trong ngành dịch vụ chiếm tới 22,7 tỷ đôla trong tổng số vốn
đăng ký mới, là lĩnh vực có tỷ trọng lớn nhất (38,4%), trên cả lĩnh vực công nghiệp
nặng (32,9%). Hai lĩnh vực này đã chiếm trên 70% tổng vốn đăng ký mới. Nếu xét
đến vốn thực hiện thì tình hình cũng gần tương tự, với hai ngành trên chiếm sấp xỉ
70%. Điều đáng chú ý là trong lĩnh vực công nghiệp nặng thì hai dự án thép
Vinashin Lion và Hưng Nghiệp Fomosa đã có số vốn đăng ký lên tới 17,6 tỷ đôla.
Điều có thể rút ra từ những con số này là chúng sẽ làm trầm trọng thêm tình
trạng thâm hụt cán cân mậu dịch của Việt Nam, do bản chất của những loại hình
doanh nghiệp này là hướng vào thị trường nội địa hoặc có doanh thu chủ yếu là nội
tệ (do không phải là loại hình doanh nghiệp xuất khẩu, trong khi phải nhập vật tư và
thiết bị để xây dựng). Hai dự án thép nói trên có thể hướng tới xuất khẩu một phần
sản lượng của mình, nhưng điều này có lẽ chỉ xảy ra một thời gian sau, sau khi hoàn
thành và đi vào sản xuất với sản lượng dư thừa so với sức tiêu thụ trong nước. Vả
lại, việc họ có xuất khẩu được hay không còn phụ thuộc vào tính cạnh tranh quốc tế,
là điều khó có thể nói chắc được vào thời điểm ban đầu này, lại rơi đúng vào thời kỳ
suy thoái kinh tế toàn cầu, chưa kể đến uy tín và thương hiệu của các chủ đầu tư
trong các dự án này là hoàn toàn không tồn tại trong ngành sản xuất thép thế giới
Trong khi đó, hiện tại, các doanh nghiệp FDI đang có xu hướng tạo ra thêm thâm
hụt mậu dịch, với tỷ trọng xuất khẩu/doanh thu nhỏ hơn nhập khẩu/doanh thu và và
khoảng cách này đã tăng lên trong thời gian 2007- 2008. Khối doanh nghiệp FDI đã
nhập siêu tới hơn 4 tỷ đôla trong 11 tháng của 2008, tăng mạnh so với con số 1,8 tỷ
cùng kỳ năm 2007. Kết hợp với xu hướng đầu tư thiên lệch vào ngành xây dựng bất
động sản và ngành thép trong năm 2008 với độ trễ thực hiện sang năm 2009, có thể
dự đoán rằng tình hình nhập siêu của khối doanh nghiệp FDI sẽ trở nên trầm trọng
hơn trong năm 2009 (với giả thiết rằng các nhà đầu tư nước ngoài huy động được đủ

vốn để tiến hành, hoặc vẫn muốn tiến hành, đầu tư đúng theo kế hoạch ban đầu).
Lưu ý rằng con số nhập siêu trên 4 tỷ đôla (của 11 tháng) là một con số rất lớn nếu
so với mức thâm hụt mậu dịch chung (mục tiêu) là khoảng 10 tỷ đôla trong năm
2008.
2.2.Môi trường, chuyển giao công nghệ
Tốc độ tăng trưởng cao sẽ sử dụng nhiều tài nguyên thiên nhiên và chất thải từ hoạt
động sản xuất là nguyên nhân chính gây ra ô nhiễm môi trường. các dự án dùng
nhiều đất nông nghiệp, tạo áp lực thất nghiệp và là nguồn phát thải, gây ô nhiễm môi
trường lớn trong tương lai. Đặc biệt, các dự án xây dựng sân golf ở đồng bằng, vùng
đất màu mỡ và những dự án “bán bờ biển” cho các nhà kinh doanh du lịch nước
ngoài rất dễ làm tổn thương đến lợi ích lâu dài của các thế hệ tương lai.
Hoạt động đầu tư của doanh nghiệp FDI chủ yếu vào lĩnh vực công nghiệp
nếu chất thải không được xử lí tốt sẽ gây ô nhiễm môi trường
Việc chuyển giao công nghệ lạc hậu từ nước đầu tư sang nước nhận đầu tư
cũng là một nguyên nhân gây ô nhiễm môi trường , nước đi đầu tư hoàn toàn có lợi :
chuyển giao công nghệ lạc hậu để đổi mới công nghệ nước mình, có được nguồn thu
còn nước nhận đầu tư thì chịu hậu quả. Một trong những nguyên nhân khác gây ô
nhiễm môi trường là các doanh nghiệp ĐTTTNN không thực hiện đúng Luật bảo vệ
môi trường. Có nhiều doanh nghiệp không lắp đặt hệ thống xử lý chất thải hoặc có
lắp nhưng chỉ mang tính chất đối phó.
Nếu việc chuyển giao công nghệ (cả phần “cứng” lẫn phần “mềm”) không được
thực hiện đầy đủ, hoặc chỉ chuyển giao những công nghệ lạc hậu, thì mặc nhiên
“những lợi thế tương đối của nước bắt đầu muộn” sẽ bị tước bỏ – đó là một mặt. Mặt
khác, khi đó nước tiếp nhận không chỉ không cải thiện được tình trạng công nghệ,
khả năng xuất khẩu, mà còn phải chịu thêm gánh nặng nuôi dưỡng và dỡ bỏ những
công nghệ “bất cập” này theo kiểu “bỏ thì vương, thương thì tội”. Ngoài ra, còn phải
kể thêm tình trạng phụ thuộc một chiều vào đối tác nước ngoài về kinh tế – kỹ thuật
của nước tiếp nhận dòng đầu tư kiểu ấy gây ra. Do đó, hiệu quả tiếp nhận vốn đầu tư
sẽ không như mong đợi, hoặc không tương xứng với chi phí của nước chủ nhà bỏ ra,
cả về chi phí tài chính, nhân lực và môi trường, tức “một tiền gà, ba tiền thóc”. Nguy

cơ trở thành bãi rác cho các nước phát triển là một vấn nạn mà các nhà chính sách
cần lưu ý.
2.3.FDI làm gia tăng khoảng cách giàu nghèo của nước nhận đầu tư
Hoạt động FDI làm tăng thu nhập của địa phương, nó chỉ ưu tiên những vùng,
địa phương có điều kiện thuận lợi,những vùng trọng điểm kinh tế, đó cùng thường là
nơi khá giả nhất.bởi vậy, FDI sẽ làm cho những nơi giàu thì giàu nhanh hơn, còn
những vùng khó khăn thì khó mời gọi FDI thì thay đổi một cách chậm chạp.
2.4.Về canh tranh
Những công ty FDI thường sở hữu công nghệ hiện đại, trình độ tổ chức sản xuất
Tiên tiến, vốn lớn hơn so với các doanh nghiệp trong nước, đó là những đối thủ cạnh
tranh đáng lưu tâm đối với các doanh nghiệp trong nước, không ít trường hợp hàng
hóa dịch vụ công ty đa quốc gia dần chiếm thị trường của các doanh nghiệp bản địa,
thậm chí khiến các doanh nghiệp này đi đến phá sản hoặc bị thôn tính.
2.5.Về lao động
Người lao động ở doanh nghiệp FDI thường đòi hỏi có trình độ cao nêu không đáp
ứng được thưởng bị sa thải , một trong những nguyên nhân dẫn đến người lao động
bị sa thải đó là do sự hợp nhất, sát nhập và giải thế các công ty, tập đoàn kinh tế
mạnh trến thế giới ngày càng tăng
Bên cạnh những mặt tích cực của ĐTTTNN như giải quyết việc làm, nâng cao trình
độ lao động thì mối quan hệ giữa người sử dụng lao động và người lao động hiện
nay đang là vấn đề được xã hội quan tâm. Trong một số trường hợp, nhà đầu tư nước
ngoài vì mục tiêu thu lợi nhuận cao đã không thực hiện đúng và đầy đủ các quy định
của Luật Lao động. Những việc làm này đã gây phản ứng trong xã hội, gây nên các
cuộc đình công, làm mất trật tự an toàn xã hội và tạo ra cái nhìn không thiện cảm với
các doanh nghiệp ĐTTTNN ở Hà Nội.
Những nguyên nhân chủ yếu gây ra mâu thuẫn giữa người sử dụng lao động trong
các doanh nghiệp ĐTTTNN và người lao động thường liên quan đến điều kiện và
môi trường làm việc, thời gian làm việc, tiền lương. Vụ đình công xảy ra vào tháng
4/2010: gần 1,000 công nhân công ty TNHH Young Past Việt Nam (khu công
nghiệp Thạch Thất, Quốc Oai, Hà Nội) đình công để phản đối một số chính sách của

công ty liên quan đến việc không thực hiện đúng cam kết khi tuyển lao động. Hoặc
vụ đinh công xảy ra vào ngày 5 và 6/5/2010: hơn 800 công nhân công ty Katolec
(khu công nghiệp Quang Minh, Mê Linh, Hà Nội) chuyên sản xuất vi mạch điện tử
đã đồng loạt nghỉ việc, tập trung trước cổng công ty đình công để yêu cầu tăng
lương cơ bản thêm 500.000 đồng/tháng, nghỉ phép không bị trừ tiền chuyên cần…
Vấn đề xung đột lợi ích giữa một bên là người lao động Việt Nam, một bên là nhà
ĐTNN là vấn đề không chỉ mang tính kinh tế mà còn mang tính chính trị - xã hội và
gây ấn tượng không tốt về lao động và môi trường đầu tư của Việt Nam
2.6. Sự mất cân đối về ngành nghề, vùng lãnh thổ:
Mục đích cao nhất của các nhà đầu tư là lợi nhuận. Do đó những lĩnh vực, ngành, dự
án có tỷ suất lợi nhuận cao đều được các nhà đầu tư quan tâm, còn những dự án, lĩnh vực
mặc dù rất cần thiết cho dân sinh, nhưng không đưa lại lợi nhuận thỏa đáng thì không thu hút
được đầu tư nước ngoài.
Các nhà ĐTNN trong khi lựa chọn địa điểm để triển khai dự án đầu tư thường tập
trung vào những nơi có kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội thuận lợi, do đó các thành phố lớn,
những địa phương có cảng biển, cảng hàng không, các tỉnh đồng bằng là nơi tập trung nhiều
dự án ĐTNN nhất. Trong khi đó, các tỉnh miềm núi, vùng sâu, vùng xa, những địa phương
cần được đẩy nhanh tốc độ phát triển kinh tế, mặc dù chính phủ và chính quyền địa phương
có những ưu đãi cao hơn nhưng không được các nhà đầu tư quan tâm.
Tình trạng đó đã dẫn đến một nghịch lý, những địa phương có trình độ phát triển cao
thì thu hút được ĐTNN nhiều, do đó tốc độ tăng trưởng kinh tế vượt quá tốc độ tăng trưởng
trung bình của cả nước. Trong khi đó, những vùng có trình độ kém phát triển thì có ít dự án
ĐTNN, tốc độ tăng trưởng kinh tế vẫn thấp.
Đối với các ngành nghề cũng xảy ra tình trạng tương tự, các nhà ĐTNN chỉ đầu tư
vào các ngành có khả năng sinh lợi cao, rủi ro thấp, còn các ngành, lĩnh vực có khả năng sinh
lời thấp, rủi ro cao không được sự quan tâm của các nhà ĐTNN
III. Một số vấn đề còn tồn tại
1. Những vướng mắc và trở ngại
Trong thời gian qua, Chính Phủ Việt Nam thường xuyên lắng nghe các nhà đầu
tư và đã ban hành nhiều biện pháp cải thiện môi trường đầu tư, tháo gỡ khó khăn

cho các doanh nghiệp đầu tư nước ngoài như sửa đổi luật đầu tư nước ngoài,
miễn giảm thuế, tiền thuê đất, giảm giá phí một số mặt hàng, dịch vụ, điều chỉnh
mục tiêu hoạt động của nhiều dự án, bổ sung các biện pháp khuyến khích và bảo
đảm đầu tư, xử lý linh hoạt việc chuyển đổi hình thức đầu tư…. Tuy nhiên, cho
đến nay vẫn còn một số vướng mắc gây khó khăn cho việc thu hút đầu tư nước
ngoài. Sự cạnh tranh gay gắt trong việc thu hút FDI của các nước trong khu vực.
Xu hướng gia tăng đầu tư trực tiếp nước ngoài trên thế giới là yêu cầu tất yếu
của quá trình quốc tế hóa đời sống kinh tế quốc tế đang diễn ra ngày càng mạnh
mẽ. Xu hướng này mang tính lâu dài, cho dù trong những thời điểm cụ thể lượng
vốn FDI có thể giảm do suy thoái kinh tế, nhất là với các nước phát triển. Tuy
vậy nhưng tổng số vốn FDI trên thế giới là rất lớn, song tỷ trọng đầu tư vào các
nước phát triển trong tổng FDI chỉ chiếm lượng nhỏ và có thể giảm xuống trong
những năm tới. Do đó cuộc cạnh tranh thu hút FDI giữa các nước đang phát triển
còn tiếp tục tăng.
Hệ số ICOR của Việt Nam và một số quốc gia châu Á
Chỉ số ICOR cao đang khiến Việt Nam đối diện với nguy cơ cao bị mất FDI vào
tay các quốc gia khác trong khu vực
-Cơ sở hạ tầng còn yếu kém
Do xuất phát thấp nên cơ sở hạ tầng còn kém của Việt Nam đã tồn tại qua nhiều thế
kỷ qua, gây ra những ấn tượng không mấy hấp dẫn cho các nhà đầu tư nước ngoài.
Đồng thời gây khó khăn cho việc triển khai và hoạt động của các dự án FDI. Sự quá
tải và lạc hậu của hệ thống giao thông vận tải, thông tin liên lạc cung cấp điện nước
là sự nổi bật của cơ sở hạ tầng Việt Nam cụ thể:
Trong số 15 sân bay cả nước mới chỉ có 2 sân bay Nội Bài – Tân Sơn Nhất là sân
bay quốc tế
Hệ thống đường sắt với nhược điểm là đơn tuyến, với đường ray khổ hẹp trong khi
hệ thống tín hiệu thô sơ, nền đường không đảm bảo chất lượng dẫn đến tốc độ di
chuyển không cao
Theo báo cáo của WEF Cơ sở hạ tầng giao thông cũng là một vấn đề của Việt
Nam với vị trí thứ 103 trên bảng xếp hạng. Mật độ sân bay thấp (xếp thứ 104),

chất lượng đường bộ kém (95) cũng như thiếu các công trình phụ trợ (93) đã gây
cản trở không nhỏ cho quá trình tăng tốc nền kinh tế.
So sánh một số chỉ tiêu của Việt Nam với các quốc gia trong khu vực Đông Nam
Á.
Nguồn: WEF(Diễn đàn kinh tế thế giới)
Với yêu cầu pháp triển của nền kinh tế thì yêu cầu phát triển hệ thống giao thông
vận chuyển là hết sức cần thiết
+ Hệ thống thông tin liên lạc: VN tuy có nhiều tiến bộ vượt bậc trong những
năm gần đây nhưng nhìn chung vẫn chưa đủ về số lượng và chất lượng phục vụ
cho các hoạt động kinh tế, đặc biệt trong thời đại bùng nổ công nghệ thông tin
hiện nay
Nguồn : APNIC - Tổ chức quản lý IP cấp vùng Châu Á – Thái Bình Dương
+, Thêm vào đó chi phí trong ngành viễn thông còn khá cao so với khu vực và
trên thế giới
Nguồn : BMI - một công ty hàng đầu chuyên cung cấp các thông tin, dịch vụ tài
chính như các báo cáo phân tích về quốc gia, ngành kinh tế.

×