Tải bản đầy đủ (.pdf) (28 trang)

Chuyển biến quan hệ sở hữu trong cổ phần hóa doanh nghiệp Nhà nước ở Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (802.56 KB, 28 trang )



ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ
______________ _____ ______ ______ ________________________


NGUYỄN LÊ QUÝ HIỂN

CHUYỂN BIẾN QUAN HỆ SỞ HỮU TRONG
CỔ PHẦN HÓA DOANH NGHIỆP NHÀ NƯỚC
Ở VIỆT NAM


LUẬN ÁN TIẾN SỸ KINH TẾ CHÍNH TRỊ




HÀ NỘI - 2012




2
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ
______________ _____ ______ ______ ________________________

NGUYỄN LÊ QUÝ HIỂN
CHUYỂN BIẾN QUAN HỆ SỞ HỮU TRONG


CỔ PHẦN HÓA DOANH NGHIỆP NHÀ NƯỚC
Ở VIỆT NAM

Chuyên ngành : Kinh tế chính trị
Mã số: 62.31.01.01
LUẬN ÁN TIẾN SỸ KINH TẾ CHÍNH TRỊ

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
1. PGS.TS. NGUYỄN NGỌC THANH
2. TS. TRẦN TIẾN CƯỜNG

Hà Nội - 2012



3

MỤC LỤC
Trang
LỜI CAM ĐOAN
1
LỜI CẢM ƠN
2
MỤC LỤC
3
DANH MỤC CÁC HÌNH
5
DANH MỤC CÁC BẢNG VÀ HỘP
6
DANH MỤC CÁC PHỤ LỤC

7
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
8
PHẦN MỞ ĐẦU
9
Chương 1. Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về chuyển biến QHSH
trong CPH DNNN
19
1.1
Cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước
19
1.1.1
Doanh nghiệp nhà nƣớc
19
1.1.2
Cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nƣớc
26
1.2.
Chuyển biến quan hệ sở hữu trong quá trình cổ phần hóa
doanh nghiệp nhà nước
33
1.2.1
Chuyển biến quan hệ sở hữu
33
1.2.2
Chuyển biến quan hệ sở hữu trong quá trình cổ phần hóa doanh
nghiệp nhà nƣớc
40
1.3.
Kinh nghiệm về cổ phần hóa và chuyển biến quan hệ sở hữu ở

một số quốc gia
52
1.3.1
Các hình thức cải cách doanh nghiệp nhà nƣớc ở Nga và Trung
Quốc
52
1.3.2
Những bài học kinh nghiệm rút ra cho Việt Nam
62
KẾT LUẬN CHƢƠNG 1
66
Chương 2. Chuyển biến quan hệ sở hữu trong quá trình cổ phần
hóa doanh nghiệp nhà nước ở Việt Nam
67
2.1.
Tổng quan về quá trình cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước
ở Việt Nam
67
2.1.1.
Chủ trƣơng, đƣờng lối của Đảng và Nhà nƣớc về cổ phần hóa
doanh nghiệp nhà nƣớc
67

4
2.1.2.
Tổ chức thực hiện
74
2.2.
Chuyển biến quan hệ sở hữu trong quá trình cổ phần hóa
doanh nghiệp nhà nước ở Việt Nam

90
2.2.1.
Cơ cấu sở hữu trong các doanh nghiệp cổ phần hóa
90
2.2.2.
Quan hệ quản lý và quan hệ phân phối trong các doanh nghiệp
cổ phần hóa
100
2.2.3.
Tác động của chuyển biến quan hệ sở hữu đến hiệu quả hoạt
động của các doanh nghiệp cổ phần hóa
107
2.3.
Đánh giá chung về tác động của chuyển biến quan hệ sở hữu
trong quá trình cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước
134
2.3.1.
Một số đánh giá chung về quá trình cổ phần hóa doanh nghiệp
nhà nƣớc
135
2.3.2.
Hiệu quả hoạt động của các doanh nghiệp cổ phần hóa
139
2.3.3.
Hiệu quả hoạt động kinh tế theo mức độ chi phối của sở hữu
nhà nƣớc trong doanh nghiệp cổ phần hóa
140
KẾT LUẬN CHƢƠNG 2
144
Chương 3. Quan điểm và giải pháp thúc đẩy chuyển biến quan hệ

sở hữu trong quá trình cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước ở Việt
Nam giai đoạn từ nay đến 2015, tầm nhìn đến 2020
145
3.1.
Bối cảnh kinh tế thế giới và Việt Nam
145
3.1.1.
Bối cảnh kinh tế thế giới
145
3.1.2.
Bối cảnh kinh tế trong nƣớc
147
3.2.
Quan điểm và giải pháp thúc đẩy chuyển biến quan hệ sở
hữu trong quá trình cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước ở
Việt Nam giai đoạn từ nay đến 2015, tầm nhìn đến 2020
154
3.2.1.
Một số quan điểm về hoàn thiện quan hệ sở hữu trong quá trình
cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nƣớc ở Việt Nam
154
3.2.2.
Một số giải pháp thúc đẩy chuyển biến tích cực quan hệ sở hữu
nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp cổ phần hóa
trong giai đoạn từ nay đến 2015, tầm nhìn đến 2020
161
KẾT LUẬN CHUNG
177
DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH ĐÃ CÔNG BỐ
180

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
181
PHẦN PHỤ LỤC
187
4
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Đổi mới doanh nghiệp nhà nước là một yêu cầu có tính phổ biến
ở tất cả các quốc gia trong quá trình chuyển đổi từ cơ chế kế hoạch hóa
tập trung sang kinh tế thị trường. Cổ phần hóa (CPH) doanh nghiệp Nhà
nước (DNNN) là một chủ trương lớn của Đảng và Nhà nước nhằm sắp
xếp, tổ chức lại, đổi mới, nâng cao hiệu quả hoạt động của hệ thống
DNNN. Từ năm 1992 đến nay, Đảng và Nhà nước đã từng bước xây
dựng, bổ sung và hoàn thiện các quan điểm, đường lối, chính sách, biện
pháp, bước đi và đã tiến hành CPH một số lượng khá lớn DNNN. Quá
trình này đã có những tác động tích cực, đúng hướng đối với sự chuyển
biến quan hệ sở hữu (QHSH) trong DNCPH; song cũng đã bộc lộ không
ít những khuyết điểm, thiếu sót, hạn chế cả ở phương diện nhận thức,
lý luận cũng như thực tế triển khai.
CPH DNNN là một quá trình chuyển đổi sở hữu về tư liệu sản
xuất trong doanh nghiệp nhà nước đã cổ phần hóa (DNCPH từ độc
quyền nhà nước sang đa sở hữu nên nó sẽ làm chuyển biến QHSH trong
những doanh nghiệp này. Vậy, chuyển biến QHSH trong quá trình CPH
DNNN sẽ tác động như thế nào đến quan hệ quản lý, phân phối và hiệu
quả hoạt động sản xuất, kinh doanh của DNCPH? Thực trạng chuyển
biến QHSH tác động đến kết quả hoạt động sản xuất, kinh doanh của
DNCPH giai đoạn 1992 – 2010 ở Việt Nam như thế nào? Cần có giải
pháp gì để thúc đẩy chuyển biến QHSH nhằm nâng cao hiệu quả hoạt
động của DNCPH trong giai đoạn từ nay đến 2015, tầm nhìn đến 2020?
Đi tìm câu trả lời cho những câu hỏi nghiên cứu trên, tác giả chọn đề tài

“Chuyển biến QHSH trong CPH DNNN ở Việt Nam” làm đề tài nghiên
cứu của Luận án Tiến sỹ của mình.
5
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Hiện nay ở Việt Nam đã có một số công trình nghiên cứu về vấn đề
CPH DNNN dưới nhiều góc độ khác nhau cả về lý luận, thực tiễn cũng
như đề xuất các giải pháp… nhưng có thể khẳng định, chưa có nghiên cứu
nào trình bày một cách đầy đủ và có hệ thống về chuyển biến QHSH
trong quá trình CPH DNNN ở Việt Nam đến năm 2010.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của luận án
a. Mục đích nghiên cứu
Mục đích nghiên cứu của Luận án là phân tích thực trạng chuyển
biến QHSH trong quá trình CPH DNNN từ 1992 đến nay; làm rõ
chuyển biến QHSH đã tác động như thế nào đến hiệu quả sản xuất, kinh
doanh của DNCPH; trên cơ sở đó Luận án đề xuất các giải pháp thúc
đẩy chuyển biến QHSH tại DNCPH nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động
của các doanh nghiệp này trong bối cảnh kinh tế thế giới và nước ta
trong thời gian sắp tới.
b. Nhiệm vụ nghiên cứu.
Để thực hiện mục đích nghiên cứu đặt ra, luận án phải giải quyết
những nhiệm vụ nghiên cứu cụ thể sau: Một là, làm rõ nhận thức, lý
luận về một số vấn đề liên quan đến QHSH, chuyển biến QHSH trong
quá trình CPH DNNN. Hai là, tham khảo kinh nghiệm quốc tế về CPH
DNNN ở Nga và Trung Quốc về vấn đề nghiễn cứu. Ba là, tổng quan
quá trình xây dựng quan điểm, đường lối, chính sách liên quan đến
chuyển biến QHSH trong quá trình CPH DNNN. Đồng thời, tổng hợp,
đánh giá lại quá trình thực hiện công tác CPH DNNN ở nước ta thời
gian qua để khẳng định những thành công, kết quả và phát hiện những
thiếu sót, tồn tại liên quan đến mặt công tác này. Bốn là, phân tích thực
trạng chuyển biến QHSH trong CPH DNNN, chỉ rõ chuyển biến sở hữu

này có tác động như thế nào đến hiệu quả hoạt động sản xuất, kinh
doanh của DNCPH. Năm là, đề xuất quan điểm và giải pháp thúc đẩy
chuyển biến QHSH trong quá trình CPH DNNN ở nước ta trong giai
đoạn từ nay đến 2015, tầm nhìn 2020.
6
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu.
a. Đối tượng nghiên cứu.
Đối tượng nghiên cứu của Luận án là chuyển biến QHSH trong
quá trình CPH DNNN thời gian qua; trong đó, chủ yếu nghiên cứu tác
động của chuyển biến QHSH tới quan hệ quản lý, phân phối và cuối
cùng đến hiệu quả sản xuất kinh doanh của DNCPH.
b. Phạm vi nghiên cứu.
(1) Về quan điểm, đường lối, chính sách và giải pháp CPH
DNNN được hệ thống hóa từ tháng 1992 đến nay. (2) Nghiên cứu
chuyển biến QHSH trong quá trình CPH DNNN thông qua phân tích
định tính về tác động của chuyển biến QHSH đối với hiệu quả hoạt động
của các DNCPH.
5. Phương pháp nghiên cứu
Luận án áp dụng phương pháp luận của Chủ nghĩa duy vật biện
chứng, Chủ nghĩa duy vật lịch sử; sử dụng phương pháp lô gíc lịch sử
của chủ nghĩa Mác - Lênin trên cơ sở vận dụng những quan điểm,
đường lối chính sách của Đảng và Nhà nước về phát triển và hội nhập
kinh tế; kết hợp với các phương pháp nghiên cứu truyền thống khác
như phân tích và tổng hợp, đối chiếu và so sánh Bên cạnh đó, Luận
án đã sử dụng phương pháp nghiên cứu định lượng để phân tích hiệu
quả hoạt động sản xuất kinh doanh của các DNCPH, trong đó đặc biệt
so sánh sự thay đổi các chỉ tiêu hiệu quả kinh tế giữa các DNCPH có
sở hữu Nhà nước chi phối và các DNCPH mà sở hữu Nhà nước không
chi phối. Ở đây, luận án đã thực hiện phương pháp thống kê chọn mẫu
cho việc phân tích sự thay đổi trong hiệu quả kinh doanh của các

DNCPH thuộc Tổng Công ty Đầu tư và Kinh doanh vốn Nhà nước
(SCIC) quản lý giai đoạn 2006 - 2010. Mẫu nghiên cứu bao gồm 77
doanh nghiệp, được thiết kế dựa trên phân tầng về ngành và quy mô,
kết hợp với tham khảo ý kiến chuyên gia nhằm đảm bảo tính đại diện
cũng như thỏa mãn các tiêu chí nghiên cứu của đề tài. Các chỉ tiêu
nghiên cứu về hiệu quả kinh tế bao gồm: Các thước đo tuyệt đối như
7
doanh thu; tài sản; vốn chủ sở hữu; lợi nhuận; và các thước đo tương
đối như tỷ suất lợi nhuận/vốn chủ sở hữu (ROE); tỷ suất lợi
nhuận/doanh thu (ROS); và tỷ suất lợi nhuận/tài sản (ROA).
6. Đóng góp mới của của Luận án
(1) Khái quát những vấn đề lý luận cơ bản về sở hữu, QHSH ,
về chuyển biến QHSH trong CPH DNNN thông qua các hình thức,
phương thức CPH và tác động đến quan hệ quản lý, phân phối cũng
như hiệu quả sản xuất kinh doanh của DNCPH. (2) Trên cơ sở phân
tích kinh nghiệm tư nhân hóa ở CHLB Nga và CPH DNNN ở Trung
Quốc, Luận án đã rút ra một số kinh nghiệm quốc tế cho chuyển biến
QHSH trong quá trình CPH DNNN ở Việt Nam. (3) Phân tích, đánh
giá về mặt định tính và định lượng về tác động của chuyển biến QHSH
đến hiệu quả hoạt động của các DNCPH đối với mức độ chi phối về
vốn của CTSH Nhà nước ở Việt Năm trong giai đoạn 2006 - 2010. (4)
Đề xuất một số giải thúc đẩy chuyển biến QHSH trong quá trình CPH
DNNN nhằm thúc đẩy quá trình này và nâng cao hiệu quả kinh doanh
của các DNCPH trong thời gian tới.
7. Bố cục của luận án
Ngoài phần mở đầu, kết luận, bảng chữ cái viết tắt, danh mục tài
liệu tham khảo , nội dung của Luận án được kết cấu thành 3 chương:
Chương 1. Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về chuyển biến quan hệ
sở hữu trong cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước.
Chương 2. Chuyển biến quan hệ sở hữu trong quá trình cổ phần hóa

doanh nghiệp Nhà nước ở Việt Nam.
Chương 3. Quan điểm và giải pháp thúc đẩy chuyển biến quan hệ sở hữu
trong quá trình cổ phần hóa doanh nghiệp Nhà nước ở Việt
Nam trong gian đoạn từ nay đến 2015, tầm nhìn đến 2020
8
Chương 1: Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về chuyển biến quan
hệ sở hữu trong cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước
1.1. Cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước
1.1.1. Doanh nghiệp nhà nước
Sau khi nêu ra khái niệm, đặc trưng cơ bản và vai trò của sở hữu nhà
nước trong nền kinh tế thị trường có sự điều tiết của nhà nước. Luận án
đã nêu ra một số khái niệm về doanh nghiệp nhà nước (DNNN), vai trò
của DNNN trong nền kinh tế và các loại hình DNNN. Tác giả quan tâm
tới hình thức phân loại DNNN theo tỷ lệ vốn góp; theo đó có 4 loại hình
là (1) Doanh nghiệp 100% vốn nhà nước; (2) Doanh nghiệp trong đó sở
hữu nhà nước nắm vai trò chi phối; (3) Doanh nghiệp trong đó sở hữu
nhà nước không nắm giữ cổ phần chi phối; (4) Doanh nghiệp trong đó
sở hữu nhà nước nắm giữ cổ phần đặc biệt.
1.1.2. Cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước
CPH) DNNN là một quá trình chuyển một phần hoặc toàn bộ sở hữu
nhà nước trong doanh nghiệp sang các hình thức sở hữu khác nhằm mục
đích huy động các nguồn lực từ các thành phần kinh tế phi nhà nước để
nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp.
Có 3 mục tiêu của CPH DNNN, trong đó, mục tiêu nâng cao hiệu quả
hoạt động của doanh nghiệp là quan trọng nhất. Có 3 loại hình CPH cơ
bản phụ thuộc vào tỷ lệ sở hữu nhà nước còn lại tại doanh nghiệp CPH.
Có 3 phương thức CPH: (1) Phát hành cổ phiếu lần đầu trên thị trường
chứng khoán hay phương thức IPO. (2) Bán cổ phiếu cho các cổ đông
chiến lược. (3) Bán cổ phiếu cho các cổ đông là nhân viên trong công ty.
1.2. Chuyển biến QHSH trong CPH DNNN

1.2.1. Chuyển biến QHSH
Quan hệ sở hữu (QHSH) là quan hệ giữa người với người về đối
tượng sở hữu (ĐTSH). QHSH đóng vai trò quyết định trong quan hệ sản
xuất (QHSX) vì nó chi phối tới quan hệ tổ chức, quản lý sản xuất và
quan hệ phân phối sản phẩm. Sự hình thành, phát triển và biến đổi các
hình thức sở hữu về tư liệu sản xuất nói riêng và QHSH nói chung là
quá trình lịch sử tự nhiên do đòi hỏi của sự phát triển lực lượng sản xuất
9
xã hội, có tính quy luật, chịu sự chi phối của quy luật về sự phù hợp của
QHSX với tính chất, trình độ phát triển của lực lượng sản xuất.
Sự biến đổi, phát triển của các hình thức sở hữu có tính lịch sử; trong
đó sự phát triển không ngừng của LLSX đóng vai trò quyết định; hình
thức sở hữu trước là tiền đề cho hình thức sở hữu sau và các hình thức
sở hữu giúp khuyến khích sự phát triển của LLSX sẽ tồn tại, phát triển,
không bị triệt tiêu. Như vậy, sự phát triển không ngừng của LLSX cũng
chính là nguyên nhân làm biến đổi QHSH. Mặt khác, khi đề cập tới sự
biến đổi QHSH tức là ta đề cập tới sự biến đổi về CTSH, hoặc ĐTSH và
mối quan hệ giữa các CTSH về ĐTSH. QHSH biến đổi sẽ làm biến đổi
quan hệ tổ chức quản lý và quan hệ phân phối.
1.2.2. Chuyển biến QHSH trong CPH DNNN
Chuyển biến QHSH trong CPH DNNN là sự biến đổi QHSH trong
quá trình CPH DNNN theo hướng khuyến khích phát triển sản xuất, nâng
cao hiệu quả sản xuất, kinh doanh của các doanh nghiệp này. CPH
DNNN đã tạo nên sự biến đổi về chất của QHSH, nó được thể hiện thông
qua ba mặt cơ bản sau: Một là, CPH DNNN làm biến đổi căn bản cơ cấu
CTSH trong DNCPH nên nó đã làm biến đổi CTSH từ đơn nhất thành đa
chủ sở hữu. Hai là, tính mục đích được thể hiện rõ trong CPH DNNN là
thông qua sự biến đổi cơ cấu CTSH để khai thác hiệu quả hơn ĐTSH vì
đây cũng chính là mục tiêu quan trọng nhất của CPH DNNN. Ba là, CPH
DNNN làm biến đổi căn bản mối quan hệ nội tại của CTSH về ĐTSH do

CPH đã làm CTSH đã biến đổi từ đơn sở hữu thành đa sở hữu. Như vậy,
CPH DNNN làm chuyển biến QHSH trong DNCPH nên sẽ có tác động
tới quan hệ tổ chức, quản lý và phân phối.
Với mỗi hình thức CPH khác nhau cũng sẽ tác động tới chuyển biến
QHSH không giống nhau: (1) Hình thức CPH trong đó sở hữu nhà nước
vẫn nắm giữ vai trò chi phối đối với các hình thức sở hữu khác có làm
biến đổi QHSH trong DNNN sau CPH nhưng không đáng kể vì sở hữu
nhà nước vẫn tiếp tục đóng vai trò chi phối toàn bộ QHSX; về cơ bản
một số hạn chế về QHSH trong DNNN khó được khắc phục cũng như
sự chi phối trực tiếp của nhà nước vào hoạt động của doanh nghiệp vẫn
10
chưa được hạn chế. Do đó, hiệu quả đối với việc điều chỉnh quan hệ
quản lý, phân phối thông qua chuyển đổi cơ cấu CTSH khó đạt yêu
cầu đặt ra; mục tiêu nâng cao hiệu quả của DNNN rất khó thực hiện. (2)
Hình thức CPH trong đó sở hữu nhà nước có tham gia nhưng không chi
phối các hình thức sở hữu khác làm biến đổi cơ bản cơ cấu sở hữu của
doanh nghiệp CPH nên sẽ làm biến đổi các quan hệ liên quan tới QHSH
trong doanh nghiệp. Cơ cấu sở hữu thay đổi nên quyền quản lý, tổ chức
sản xuất và phân phối sản phẩn làm ra do tập thể cổ đông quyết định.
Mục tiêu tạo chuyển biến tích cực trong khai thác ĐTSH thông qua sự
biến đổi của CTSH có tính khả thi cao. (3) Hình thức CPH trong đó nhà
nước rút toàn bộ vốn tại doanh nghiệp CPH làm biến đổi toàn bộ QHSH
trong DNNN sau CPH do nó làm thay đổi hoàn toàn CTSH. Mọi quan
hệ từ tổ chức, quản lý sản xuất đến phân phối sản phẩm làm ra đều do
đại diện của các hình thức sở hữu phi Nhà nước chi phối.
1.3. Kinh nghiệm quốc tế
Thông qua kinh nghiệm tư nhân hóa ở Nga và CPH DNNN ở Trung
Quốc, Luận án đã rút ra một số bài học kinh nghiệm đối với Việt Nam
là: Một là, CPH DNNN hay tạo chuyển biến sở hữu trong DNCPH là
một chương trình nằm trong kế hoạch tổng thể cải cách DNNN nên cần

có lộ trình cụ thể, triển khai quyết liệt nhưng tránh nóng vội. Hai là,
đảm bảo chính sách cho người lao động là một yêu cầu quan trọng đặt ra
của CPH DNNN nhưng không được thực hiện theo tư tưởng “cào bằng”
chủ nghĩa; đồng thời không để các đại diện CTSH nhà nước trước CPH
và người lao động năm trên 50% vốn điều lệ. Ba là, cần thực hiện tách
quyền sở hữu và quyền quản lý, kinh doanh ra độc lập để nhà nước chỉ
đảm nhận vai trò là chủ sở hữu, quyền quản lý, kinh doanh giao cho ban
điều hành doanh nghiệp. Bốn là, xây dựng, hoàn thiện hệ thống pháp
luật liên quan tới CPH DNNN để điều chỉnh, kiểm soát được quá trình
chuyển biến QHSH trong DNCPH; tránh tình trạng biến tài sản thuộc sở
hữu nhà nước sang sở hữu tư nhân; từ độc quyền nhà nước sang độc
quyền tư nhân. Năm là, tách chức năng đại diện CTSH và chức năng
quản lý nhà nước để tạo môi trường cạnh tranh bình đẳng.
11

Chương 2: Chuyển biến QHSH trong quá trình CPH DNNN ở Việt Nam
2.1. Tổng quan về quá trình CPH DNNN ở Việt Nam
2.1.1. Chủ trương, đường lối của Đảng và Nhà nước về CPH DNNN
Nhận thức được thực trạng hoạt động yếu kém của hệ thống DNNN
nên chỉ 5 năm sau khi chuyển đổi nền kinh tế từ cơ chế tập trung, quan
liêu, bao cấp sang cơ chế thị trường định hướng XHCN, Đảng và Nhà
nước ta có chủ trương về CPH DNNN như một phương thức để sắp xếp
lại hệ thống DNNN. Đây là một hướng đi đúng trong việc đổi mới và
nâng cao hiệu quả hoạt động của hệ thống DNNN. Các chủ trương,
đường lối của Đảng và Nhà nước về CPH DNNN là nhất quán và ngày
càng được cụ thể hoá về mục tiêu, phương thức, đối tượng và giải pháp.
Tuy nhiên, do đây là một công tác còn tương đối mới cả về lý luận và
thực tiễn; vừa triển khai, vừa rút kinh nghiệm nên có nơi, có lúc những ý
kiến chỉ đạo chưa thật sự kịp thời, chưa theo sát thực tiễn sinh động của
mặt công tác này.

2.1.2. Tổ chức thực hiện
- Giai đoạn thí điểm CPH (6/1992 - 6/1998): Mặc dù kết quả CPH
còn rất nhiều hạn chế nhưng Chính phủ đã nhận thức được tầm quan trọng
của công tác CPH DNNN đối với yêu cầu đổi mới, sắp xếp lại DNNN
nhằm mục tiêu nâng cao hiệu quả và hoạt động phù hợp với cơ chế thị
trường định hướng XHCN.
- Giai đoạn tăng tốc CPH (6/1998 - 5/2002): Với một hệ thống cơ chế
chính sách mới, chi tiết hơn, thông thoáng hơn; phân cấp, phân quyền đã cụ
thể hơn; chú trọng hơn đến việc hỗ trợ cho doanh nghiệp cũng như quyền
lợi của nhà đầu tư đã thực sự tạo ra một động lực mới thúc đẩy tiến trình
CPH DNNN trong giai đoạn này.
- Giai đoạn đẩy mạnh (bắt đầu từ tháng 6/2002): Mặc dù đã liên tục
có những điều chỉnh chính sách, song quá trình CPH đến hết năm 2008
chỉ thực hiện được đối với hơn 3.836 DNNN (đa số là doanh nghiệp quy
mô nhỏ); còn khoảng 2.000 DNNN cỡ vừa và lớn. Nếu tính đến hết năm
2010, cả nước đã CPH được 4.047 doanh nghiệp còn khoảng hơn 1.000
12
doanh nghiệp. Tuy nhiên, phần lớn các doanh nghiệp nhóm này chưa sẵn
sàng với CPH kiểu này
2.2. Chuyển biến QHSH trong CPH DNNN
Bản chất của CPH DNNN của Việt Nam, đó là một quá trình xã hội
hóa sở hữu nhà nước trong DNNN để nâng cao hiệu quả hoạt động của
các DNNN. Quá trình xã hội hóa sở hữu nhà nước đó được thực hiện
thông qua việc Nhà nước chuyển một phần hoặc toàn bộ sở hữu nhà
nước trong doanh nghiệp sang các hình thức sở hữu khác. Quá trình này
sẽ dẫn đến sự thay đổi trong cơ cấu sở hữu vốn cũng như phương thức
quản lý và phân phối tại các doanh nghiệp; qua đó có thể giúp các doanh
nghiệp CPH nâng cao năng lực cạnh tranh và hoạt động hiệu quả hơn.
Sau gần 20 năm triển khai CPH, chuyển biến QHSH trong các DNNN
của Việt Nam đã diễn ra như thế nào và có tác động gì đối với sự phát

triển của các doanh nghiệp nói riêng và nền kinh tế nói chung?
2.2.1. Cơ cấu sở hữu trong các DNCPH
Khi đề cập tới chuyển biến QHSH tức là đề cập tới sự biến đổi về
CTSH hoặc ĐTSH hay mối quan hệ phát sinh giữa các CTSH liên quan
tới ĐTSH.
Ở giai đoạn thí điểm, sự biến đổi CTSH trong cơ cấu sở hữu DNCPH
giai đoạn này có diễn ra nhưng không có nhiều tác động tới việc khai thác
ĐTSH do CTSH Nhà nước vẫn đóng vai trò chi phối. Bước sang giai
đoạn mở rộng diện CPH, sự thay đổi trong cơ cấu sở hữu không có nhiều
khác biệt so với giai đoạn thí điểm do CPH mang nặng tính nội bộ trong
công ty và tỷ trọng vốn Nhà nước trong các doanh nghiệp vẫn còn rất lớn
(trên 50%). Chuyển biến trong cơ cấu CTSH DNCPH chỉ bước đầu khởi
sắc khi CPH chuyển sang giai đoạn tăng tốc và đẩy mạnh. Đến giai đoạn
này, sự biến đổi CTSH đã sâu sắc hơn, mạnh mẽ hơn. Nếu ở giai đoạn
trước, cơ cấu CTSH không có người Việt Nam định cư ở nước ngoài,
người nước ngoài sinh sống, làm việc tại Việt Nam thì nay đã có nhóm
CTSH này. Nếu trước đây, dù đa sở hữu nhưng sở hữu Nhà nước vẫn
đóng vai trò chi phối hoàn toàn thì hiện nay có nơi, có lúc, chủ sở hữu
Nhà nước chỉ còn bình đẳng như các cổ đông khác; thậm chí không còn
sở hữu Nhà nước tại các DNCPH (khi Nhà nước thoái vốn hoàn toàn).
13
Chuyển biến QHSH trong giai đoạn này được lý giải bằng chuyển biến cơ
cấu CTSH của DNCPH theo hướng CTSH Nhà nước giảm dần vai trò chi
phối tới các CTSH khác trong doanh nghiệp cũng như rút khỏi cơ cấu
CTSH của doanh nghiệp sau CPH. Ngoài ra, sự xuất hiện của SCIC - năm
2006 đã làm cho cơ cấu sở hữu của DNCPH đa dạng hơn; đặc biệt là số
lượng doanh nghiệp sau CPH không còn sự hiện diện của CTSH Nhà
nước đã tăng nhanh.
Một nội dung quan trọng khác trong chuyển biến cơ cấu CTSH của
DNCPH chính là những chủ thể thực sự sở hữu DNCPH. Mặc dù, từ sau

1998, Nhà nước đã mở rộng đối tượng mua cổ phần với cả nhà đầu tư
nước ngoài, đồng thời trong nước cũng xóa bỏ quyền ưu tiên mua cổ
phần đối với từng nhóm nhà đầu tư, nhưng cơ cấu CTSH xét về chủ thể
thực sự sở hữu DNCPH vẫn chưa có sự thay đổi đáng kể (nhất là đối với
CTSH có yếu tố nước ngoài). Do đó, mục tiêu đặt ra là từ sự thay đổi về
cơ cấu CTSH thông qua QHSH tác động tích cực để nâng cao hiệu quả
khai thác ĐTSH là rất thiếu tính khả thi nếu không muốn nói là không
có tính khả thi.
Tóm lại, sau gần 20 năm triển khai CPH, xét về cơ cấu sở hữu trong
DNCPH thì đã có sự thay đổi trong cơ cấu CTSH (bên cạnh CTSH Nhà
nước đã xuất hiện các CTSH khác); các nhà đầu tư trong và ngoài nước có
xu hướng tham gia vào các doanh nghiệp CPH ngày càng tăng (mặc dù tỷ
lệ còn thấp). Tuy nhiên, sự thay đổi này diễn ra hết sức chậm chạp và
thường chỉ bùng nổ ngay sau những điều chỉnh chính sách CPH. Hơn nữa,
sự đa dạng trong cơ cấu CTSH tại các DNCPH mới chỉ thể hiện ở số
lượng doanh nghiệp, chưa thể hiện nhiều ở tỷ lệ vốn cổ phần mà các
CTSH phi nhà nước nắm giữ. Có thể khẳng định CPH đã làm thay đổi cơ
cấu CTSH tại các DNCPH riêng lẻ nhưng chưa làm thay đổi cấu trúc sở
hữu của nền kinh tế (sở hữu Nhà nước vẫn thống trị).
2.2.2. Quản lý và phân phối của DNCPH
Chuyển biến QHSH trong các DNCPH được phản ánh thông qua
những thay đổi trong quan hệ quản lý và phân phối tại các doanh nghiệp
này do CTSH sẽ có quyền sử dụng, định đoạt, phân phối các nguồn lực
bên trong doanh nghiệp cũng như những kết quả kinh doanh. Trước
CPH, Nhà nước là CTSH duy nhất và Nhà nước toàn quyền chi phối
14
mọi quan hệ liên quan đến quản lý và phân phối nguồn lực của doanh
nghiệp. Sau CPH, do sự đa dạng về CTSH nên sự chi phối tới quan hệ
quản lý và phân phối nguồn lực của doanh nghiệp sẽ thay đổi và làm
phát sinh những quan hệ mới về quản lý, phân phối nguồn lực trong

doanh nghiệp CPH. Tuy nhiên, ở gian đoạn này, sự thay đổi về cơ cấu
CTSH chưa đủ lớn để đạt được mục tiêu nêu trên do CTSH Nhà nước
vẫn nắm vai trò chi phối.
Vậy tính đa dạng trong cơ cấu CTSH DNCPH sẽ làm thay đổi quan
hệ quản lý và phân phối như thế nào? Có 3 trường hợp xảy ra, tùy thuộc
vào sự chi phối của CTSH Nhà nước sau CPH: (1) CTSH Nhà nước vẫn
nắm vai trò chi phối (sở hữu >50% cổ phần); (2) CTSH Nhà nước bình
đẳng như các CTSH khác (sở hữu < 50%); (3) CTSH Nhà nước rút khỏi
cơ cấu sở hữu tại các doanh nghiệp sau CPH. Sau khi phân tích thực
trạng chuyển biến QHSH với ba trường hợp như trên, Luận án đi đến kết
luận: Sự thay đổi trong cơ cấu CTSH là nguyên nhân của những chuyển
biến trong quan hệ quản lý và phân phối tại các DNCPH, đặc biệt trong
các doanh nghiệp mà CTSH Nhà nước không nắm vai trò chi phối hoặc
không còn sự hiện diện. Tuy nhiên, sự chuyển biến này không được như
chủ trương về CPH kỳ vọng do có rất ít sự thay đổi trong nhân sự quản
lý cũng như người đại diện vốn Nhà nước tại DNCPH. Điều này dẫn đến
không ít các DNNN sau khi CPH vẫn giữ nguyên tắc quản lý, phong
cách làm việc như trước đây. Hơn nữa, việc quản lý và phân phối các
nguồn lực đối với các DNNN nắm giữ cổ phần chi phối vẫn còn nhiều
bỡ ngỡ, mới mẻ; có nơi, có lúc vẫn sử dụng mệnh lệnh hành chính để
điều hành doanh nghiệp Những hạn chế này cho thấy cần phải có
những giải pháp bổ sung để nâng cao hiệu quả điều chỉnh quan hệ quản
lý và phân phối tại các doanh nghiệp hậu CPH khi cơ cấu CTSH đã có
sự thay đổi.
2.2.3. Tác động của chuyển biến QHSH đến hiệu quả hoạt động
của các DNCPH
- Tác động chung: Sau gần 20 năm tiến hành CPH, quy mô và hiệu
quả kinh doanh của khối các DNCPH đã thay đổi theo chiều hướng tích
cực trên một số khía cạnh nhất định như: Quy mô vốn và lao động; hiệu
15

quả kinh doanh, giá trị tài sản cố định và đầu tư dài hạn trung bình của
một DNCPH; trong khi đó, tỷ suất lợi nhuận trên doanh thu lại biến động
thất thường qua các năm. Những kết quả này cho thấy vẫn còn những hạn
chế đối với hiệu quả kinh doanh xét trên phương diện bình quân một
DNCPH.
- Tác động riêng đối với từng loại hình sở hữu: Như đã phân tích ở
trên, phần lớn các DNCPH đều có được những sự cải thiện đáng kể về
hiệu quả kinh doanh và năng lực cạnh tranh, thể hiện bởi sự phát triển
của các chỉ số kinh tế quan trọng. Thành tựu đó có thể được giải thích
chủ yếu bởi những thay đổi trong hoạt động quản trị doanh nghiệp,
trong ý thức điều hành doanh nghiệp vốn bắt nguồn từ chuyển biến
QHSH trong DNCPH (giảm dần quyền lực của CTSH Nhà nước). Trên
thực tế, sự giảm dần vai trò của CTSH Nhà nước có mức độ khác nhau
giữa các doanh nghiệp; và kết quả tựu chung lại có thể chia ra: (1)
DNCPH có sở hữu Nhà nước chi phối (thường tỷ lệ vốn Nhà nước tại
doanh nghiệp > 50%) và (2) DNCPH mà Nhà nước không nắm giữ vai
trò chi phối (tỷ lệ vốn Nhà nước tại doanh nghiệp < 50%). Cách phân
chia này thực chất là dựa trên vai trò của CTSH Nhà nước trong doanh
nghiệp sau thời điểm CPH.
Theo yêu cầu của vấn đề nghiên cứu, tác giả Luận án lựa chọn 77
doanh nghiệp đã được giao cho SCIC quản lý và thực hiện CPH từ 2006
đến nay và chia làm 3 nhóm: Số doanh nghiệp không thay đổi cơ cấu sở
hữu vốn so với thời điểm SCIC nhận bàn giao (nhóm 1 chiếm 27,3%
mẫu); Số doanh nghiệp đã giảm vốn sở hữu Nhà nước nhưng vẫn giữ tỷ lệ
chi phối tại doanh nghiệp (nhóm 2 chiếm 22,1%); và Số doanh nghiệp đã
giảm vốn sở hữu Nhà nước dưới tỷ lệ chi phối (nhóm 3 chiếm 50,6%).
Như vậy, nhóm 1 và nhóm 2 bao gồm các doanh nghiệp mà Nhà nước vẫn
duy trì tỷ lệ vốn chi phối chiếm 49,4% mẫu nghiên cứu.
Để phân tích liệu chuyển biến QHSH trong CPH thể hiện thông qua sự
thay đổi cơ cấu CTSH theo hướng giảm tỷ lệ nắm giữ cổ phần của Nhà

nước ảnh hưởng như thế nào đến kết quả hoạt động của doanh nghiệp
CPH, tác giả nghiên cứu các chỉ tiêu kinh tế, tài chính như sau: Doanh thu
16
thuần, lợi nhuận trước thuế, tài sản, vốn chủ sở hữu (E), tỷ suất lợi nhuận
so với tài sản (ROA), tỷ suất lợi nhuận so với vốn chủ sở hữu (ROE), và tỷ
suất lợi nhuận so với doanh thu (ROS).
Qua phân tích bằng phương pháp thống kê chọn mẫu đã cho kết quả
về hiệu quả hoạt động của các DNCPH như sau: (1) Về doanh thu: Các
doanh nghiệp nhóm 1, đã giảm xuống mức 0,906 ở 62% doanh nghiệp
thuộc nhóm này; doanh nghiệp thuộc nhóm 2 và nhóm 3 đều có sự gia
tăng ở các mức tương ứng 1,080 và 1,076 với số doanh nghiệp được kỳ
vọng doanh thu tăng đạt 65% và 64% (với các mức ý nghĩa khác nhau. (2)
Về lợi nhuận: Lợi nhuận của doanh nghiệp nhóm 1 cũng giảm nhẹ
xuống 0.937 và có 52% doanh nghiệp kỳ vọng giảm trong khi đó lợi
nhuận tăng ở các doanh nghiệp nhóm 2 và nhóm 3 lần lượt với 1,082
(59%) và 1,538 (62%). Các thống kê đều không đạt mức ý nghĩa ngoại
trừ sự gia tăng rất đáng kể trong lợi nhuận của nhóm 3 với mức ý nghĩa
0,3%. (3) Về tài sản: Có 81% doanh nghiệp nhóm 1 được kỳ vọng có tài
sản giảm và giá trị trung bình đã giảm mạnh xuống 0,768 với mức ý
nghĩa thống kê 0,5%; trái lại tài sản tăng ở các doanh nghiệp nhóm 2 và
nhóm 3 lần lượt với 1,100 (59%) và 1,102 (67%). Các thống kê về tài
sản của nhóm 3 đều đạt ý nghĩa thống kê 5% và 10%. (4) Về vốn chủ sở
hữu: 72% doanh nghiệp nhóm 1 được kỳ vọng có vốn chủ sở hữu giảm
và thực tế là giá trị trung bình cũng giảm mạnh xuống mức 0,872 với
mức ý nghĩa thống kê 5%. Ngược lại, vốn chủ sở hữu của nhóm 2 và
nhóm 3 đều tăng, đặc biệt nhóm 3 tăng mạnh lên 1,355 với độ tin cậy rất
cao. (5) Về tỷ suất lợi nhuận so với vốn chủ sở hữu (ROE): ROE của
nhóm 1 và nhóm 3 tăng nhẹ lên 1,030 và 1,032; trong khi giảm xuống
0,859 ở nhóm 2. Số doanh nghiệp được dự đoán thể hiện sự thay đổi này
đạt tương ứng 52% (nhóm 1), 63% (nhóm 2) và 50% (nhóm 3). Tất cả

các trị thống kê liên quan đến ROE ở cả 3 nhóm đều không đạt ý nghĩa
thống kê. (6) Về tỷ suất lợi nhuận so với tài sản (ROA): ROA của cả 3
nhóm đều tăng đến 1,184 (nhóm 1), 1,062 (nhóm 2) và 1,258 (nhóm 3)
với số doanh nghiệp được kỳ vọng thể hiện sự gia tăng này lần lượt là
57%, 53% và 63% của từng nhóm. Sự gia tăng của nhóm 1 và nhóm 3
17
đều có ý nghĩa thống kê ở mức 5%. (7) Về tỷ suất lợi nhuận so với
doanh thu (ROS): ROS của nhóm 3 giảm xuống 0,846 với mức ý nghĩa
8,5% và có phần trăm doanh nghiệp giảm đạt 67%. ROS của nhóm 1 và
nhóm 2 tăng lần lượt 1,152 và 1,264 (mức ý nghĩa 1,8%) với phần trăm
doanh nghiệp tăng tương ứng 53% và 58%.
Những kết quả kiểm định trên cho thấy nhóm 1 có hiệu quả kinh tế
giảm ở hầu hết các chỉ tiêu, đặc biệt sự giảm của tài sản, vốn chủ sở
hữu và ROS là tương đối rõ rệt và có ý nghĩa thống kê lần lượt ở các
mức ở 1%, 5% và 10%. Sự gia tăng của ROE và ROA của nhóm 1
tương ứng với mức lợi nhuận có thể được lý giải bởi sự sụt giảm của tài
sản và vốn chủ sở hữu ở mức độ lớn hơn. Như vậy, có thể thấy từ sau
khi được bàn giao cho SCIC, các DNCPH duy trì tỷ lệ vốn của CTSH
Nhà nước chi phối không đổi đã không có được những kết quả tích cực
về phương diện hiệu quả kinh tế trong thời kỳ nghiên cứu. Đối với nhóm
2, hiệu quả kinh tế có vẻ được cải thiện khi hầu hết các chỉ số đều tăng
ngoại trừ ROE, có đến 63% doanh nghiệp của nhóm 2 giảm ở chỉ số này
mặc dù mức tăng trong giá trị trung vị của lợi nhuận cao hơn so với của
vốn chủ sơ hữu. Tuy nhiên, toàn bộ các chỉ số đều không có ý nghĩa
thống kê trong cả kiểm định Wilcoson và kiểm định tỷ lệ. Do đó, việc
kết luận hiệu quả kinh tế tăng đối với nhóm 2 trong mẫu nghiên cứu là
chưa có cơ sở rõ ràng. Kết luận đã được tìm thấy trong phân tích chung
về doanh nghiệp CPH chỉ được tìm thấy trong các kết quả kiểm định của
nhóm 3. Toàn bộ các chỉ số kinh tế của nhóm doanh nghiệp mà tỷ lệ vốn
sở hữu Nhà nước giảm dưới mức chi phối đã tăng đáng kể và đều có ý

nghĩa thống kê ở các mức 1% và 5% (ngoại trừ ROE không có ý nghĩa
thống kê). Như vậy, giả thuyết về việc giảm tỷ lệ sở hữu vốn Nhà nước
có ảnh hưởng tích cực đối với hoạt động kinh tế tại các doanh nghiệp
CPH là hoàn toàn thuyết phục.
Liệu sự gia tăng trong các chỉ tiêu của nhóm 3 và nhóm 2 có thể so
sánh với sự giảm tương ứng của nhóm 1? Để việc so sánh có giá trị, tác
giả sử dụng kiểm định Mann-Whitney đối với từng cặp nhóm trong mẫu.
Kết quả kiểm định Mann Whitney cho thấy hiệu quả hoạt động kinh tế
18
của nhóm 3 cao hơn nhóm 1 và nhóm 2, trong khi đó phần lớn các chỉ tiêu
của nhóm 2 cao hơn nhóm 1 ngoại trừ ROE và ROA, mặc dù về cơ bản
không đạt ý nghĩa thống kê. Nhìn chung, kiểm định Mann Whitney mặc
dù không đưa ra cơ sở chắc chắn cho khẳng định nhóm 3 hoạt động hiệu
quả hơn nhóm 2 nhưng đối với nhóm 1 với 5/7 tiêu chí bác bỏ giá trị trung
vị của cặp nhóm 1 - 3 bằng nhau có thể kết luận rằng hiệu quả hoạt động
của nhóm 3 cao hơn nhóm 1 hay các doanh nghiệp có tỷ lệ vốn sở hữu
Nhà nước dưới mức chi phối đã hoạt động hiệu quả hơn so với các doanh
nghiệp vẫn duy trì tỷ lệ chi phối sau thời điểm CPH.
Tóm lại, qua phân tích cỡ mẫu gồm 77 doanh nghiệp CPH do SCIC
quản lý trong giai đoạn 2006 - 2010, chuyển biến QHSH thông qua CPH
có tác động tích cực đối với hoạt động kinh tế của các doanh nghiệp
thông qua cải thiện các chỉ số doanh thu, lợi nhuận, tài sản, vốn chủ sở
hữu, và các tỷ suất ROE, ROA, ROS. Đối với toàn bộ cỡ mẫu, phần lớn
các chỉ tiêu đều thể hiện sự cải thiện hiệu quả trong thời kỳ nghiên cứu
mặc dù mức độ cải thiện khác nhau và do đó những bằng chứng thực
nghiệm này thống nhất với các kết luận của các nghiên cứu, đánh giá
trước đây về tác động của CPH đối với hoạt động doanh nghiệp. Tuy
nhiên, trái với các kết luận tham chiếu đó, Luận án phát hiện sự giảm
xuống của ROE trong mẫu cũng như mức độ tăng rất ít, không đáng kể
của tài sản, đặc biệt không thể bác bỏ được giả thiết tài sản của các

doanh nghiệp không đổi khi CPH với SCIC. Những điều này cho thấy
cần có những phân tích cụ thể hơn đối với các doanh nghiệp trong mẫu
với cấu trúc sở hữu khác nhau.
Kiểm định Wilcoson đối với từng nhóm DNCPH đã cho thấy tác
động của CPH đối với từng nhóm doanh nghiệp có tỷ lệ sở hữu của
chủ thể Nhà nước khác nhau là khác nhau: Các chỉ tiêu kinh tế tài
chính đã giảm ở các doanh nghiệp giữ nguyên tỷ lệ sở hữu vốn Nhà
nước chi phối tại thời điểm bàn giao về SCIC, trong khi đó tăng nhẹ ở
các doanh nghiệp có xu hướng giảm tỷ lệ sở hữu vốn Nhà nước so với
thời điểm CPH (mặc dù vẫn >50%), đồng thời tăng mạnh ở các doanh
nghiệp đã giảm tỷ lệ vốn sở hữu Nhà nước xuống dưới mức chi phối.
19
Các kiểm định tỷ lệ và kiểm định Mann Whitney cũng đặc biệt hỗ trợ
kết luận về sự gia tăng các chỉ tiêu ở nhóm 3. Điều này cho thấy tỷ lệ
chi phối của vốn sở hữu Nhà nước ở những mức độ khác nhau có ảnh
hưởng khác nhau tới hoạt động sản xuất kinh doanh của các DNCPH.
Hơn nữa, nhìn nhận theo một góc độ khác đối với 3 nhóm doanh
nghiệp kể trên: nhóm 1 chính là những doanh nghiệp đã dừng lại sau
thời điểm CPH; nhóm 2 bao gồm các doanh nghiệp vẫn tiếp tục tiến
hành CPH nhưng chưa quyết liệt; và nhóm 3 là các doanh nghiệp đang
trên tiến trình CPH triệt để. Với cách nhìn này, kết luận về tác động
của chuyển biến QHSH đối với hoạt động của các DNCPH càng rõ nét
hơn theo chiều hướng khi các doanh nghiệp này giảm dần tỷ lệ vốn sở
hữu Nhà nước xuống dưới mức chi phối thì hiệu quả hoạt động sản
xuất kinh doanh đã được nâng lên. (Mặc dù vẫn còn một số hạn chế
như: Tính ngẫu nhiên không được bảo đảm do Nha nước chỉ đạo phải
duy trì tỷ lệ vốn sở hữu tại một số doanh nghiệp; các dữ liệu là dữ liệu
thô chưa loại trừ tác động của môi trường kinh tế, sự khác biệt về quy
mô của các doanh nghiệp nghiên cứu ).
- Một số yếu tố khác tác động và xu hướng chuyển biến QHSH sau CPH

Những phân tích về ảnh hưởng tích cực của chuyển biến QHSH (sự
giảm dần tỷ lệ vốn sở hữu Nhà nước) đối với sự cải thiện hiệu quả hoạt
động sản xuất kinh doanh của các DNCPH cho thấy tầm quan trọng
mang tính quyết định của nhân tố này trong công cuộc CPH. Bởi vì
CPH DNNN ở Việt Nam mặc dù trải qua nhiều giai đoạn mở rộng và
thúc đẩy nhưng đến nay vẫn chưa hoàn thành. Vì vậy những triển vọng
tích cực của DNCPH vừa là kết quả vừa là động lực thúc đẩy CPH.
Không thể đẩy nhanh cũng như tiến hành CPH sâu rộng nếu như hiệu
quả hoạt động của DNCPH không được cải thiện. Lập luận này gợi ý
rằng cần phải phân tích sâu hơn những nhân tố phía sau chuyển biến
QHSH cũng như xu hướng biến đổi của nó ở các DNCPH để thấy được
đầy đủ vai trò của chuyển biến QHSH đối với CPH DNNN ở nước ta.
Luận án đã nêu ra một số yếu tố khác tác động đến xu hướng chuyến
biến QHSH trong DNNN sau CPH là: nhận thức về nền kinh tế nhiều
20
thành phần, và vai trò của kinh tế Nhà nước; yêu cầu đặt ra đối với quá
trình hội nhập kinh tế quốc tế; quyết tâm chính trị của Nhà nước và vấn
đề “nhóm lợi ích”; sự năng động của khu vực tư nhân; các chính sách
liên quan tới CPH DNNN; các yếu tố tâm lý xã hội và quan ngại về
“chệch hướng Xã hội Chủ nghĩa”
Tóm lại, từ những phân tích trên, có thể thấy rằng quá trình chuyển
biến QHSH trong quá trình CPH DNNN thời gian qua chịu sự chi phối
của tổng hòa nhiều yếu tố khác nhau. Trong giai đoạn đầu của CPH,
những lực cản từ nhận thức chưa đầy đủ về nền kinh tế thị trường, từ yếu
tố tâm lý xã hội cũng như các chính sách mang tính thử nghiệm (chưa thể
hiện quyết tâm cao trong việc CPH) đã khiến cho CPH diễn ra rất chậm
và phức tạp. Tuy nhiên, trong các giai đoạn sau này, những tác động tích
cực của quá trình hội nhập kinh tế quốc tế, sự năng động của khu vực tư
nhân và nhận thức về kinh tế thị trường ngày càng hoàn thiện hơn cùng
với quyết tâm chính trị cao hơn làm cho công tác CPH được tăng tốc và

mở rộng; mặc dù vẫn còn nhiều vấn đề đặt ra trong thời gian tới. Trong
bối cảnh mới, với quyết tâm chính trị ngày càng cao, trước sức ép của việc
thực hiện cam kết quốc tế và sự đòi hỏi phải phù hợp với yêu cầu của nền
kinh tế thị trường, sự đa dạng trong cấu trúc CTSH tại các DNCPH sẽ
được thực hiện. Tuy nhiên, nếu như chưa thực sự loại bỏ những tác động
tiêu cực của các yếu tố tâm lý xã hội, quyết tâm chính trị chưa đủ mạnh và
không có một chiến lược, quy hoạch phát triển kinh tế một cách bài bản
có tính đến các yếu tố vùng/miền, ngành/lĩnh vực thì Nhà nước sẽ vẫn
tiếp tục duy trì sự chi phối của mình trong cơ cấu đa sở hữu này, khi đó
cấu trúc CTSH của toàn bộ nền kinh tế sẽ không có nhiều thay đổi so với
hiện nay.
2.3. Đánh giá chung về tác động của chuyển biến QHSH đối với
các doanh nghiệp Nhà nước cổ phần hóa
2.3.1. Một số đánh giá chung về quá trình cổ phần hóa doanh
nghiệp Nhà nước
Trải qua ba giai đoạn từ thử nghiệm tới thích ứng và mở rộng, đẩy
mạnh; với những biện pháp, chính sách CPH khác nhau, quá trình CPH
21
DNNN ở Việt Nam đã thu được những kết quả quan trọng đối với tiến
trình cải cách DNNN nói riêng và nền kinh tế nói chung: (1) Về quy mô
doanh nghiệp CPH, nhìn chung, quá trình CPH đã diễn ra chủ yếu đối
với các doanh nghiệp vừa và nhỏ. (2) Về hiệu quả kinh tế, CPH DNNN
đã có những thành công do có sự tăng trưởng về một số chỉ tiêu cơ bản
như: số lượng các công ty cổ phần có vốn của Nhà nước; số lượng lao
động được thu hút trong các doanh nghiệp; năng lực vốn, giá trị tài sản cố
định và đầu tư tài chính dài hạn; và doanh thu, lợi nhuận và nộp ngân
sách Nhà nước nói chung cũng đạt những tín hiệu hết sức tích cực Như
vậy, nhìn chung, CPH đã có những tác động hết sức tích cực đối với cải
cách DNNN nói riêng và sự phát triển của nền kinh tế nói chung.
2.3.2. Hiệu quả hoạt động của các DNCPH

Bản chất của CPH DNNN là đa dạng hóa CTSH hay xã hội hóa sở
hữu các DNNN. Thực sự, mặc dù CPH DNNN ở nước ta đã diễn ra
trong gần 20 năm nhưng thực chất chuyển biến QHSH trong quá trình
này mới chỉ diễn ra đáng kể vào giai đoạn tăng tốc CPH. Do vậy sẽ thích
hợp hơn nếu ta đánh giá kết quả hoạt động của doanh nghiệp CPH từ
1999 đến nay. Luận án đã xem xét 3 nguồn số liệu thống kê về hiệu quả
hoạt động của DNCPH: (1) Báo cáo về tình hình doanh nghiệp Việt
Nam 2000 – 2008 của Tổng Cục Thống kê; (2) báo cáo điều tra DNCPH
2000 – 2009 của Bộ Tài chính; (3) Mẫu 77 DNCPH do SCIC quản lý
giai đoạn 2006 - 2010. Nhìn chung, các chỉ tiêu hiệu quả kinh tế của các
doanh nghiệp CPH đều có xu hướng tăng. Như vậy, hiệu quả kinh tế của
các DNCPH nói chung không chỉ được cải thiện ngay sau CPH mà còn
có tác dụng kéo dài. Đây là ý nghĩa thực sự quan trọng đối với tiến trình
nâng cao năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp Việt Nam.
Tuy nhiên những đánh giá về hiệu quả kinh tế của các doanh nghiệp
CPH vẫn cần có sự thận trọng nhất định. Thứ nhất, các chỉ tiêu tương
đối bao gồm tỷ lệ nộp thuế so với doanh thu, tỷ suất lợi nhuận trên vốn
và tỷ suất lợi nhuận trên doanh thu từ nguồn dữ liệu của Tổng cục
Thống kê cho thấy một xu hướng giảm nhẹ trong giai đoạn 2000 – 2008.
Thứ hai, kiểm định mẫu 77 doanh nghiệp SCIC nhận định tài sản của
22
các doanh nghiệp trong giai đoạn 2006 – 2010 tăng không đáng kể và tỷ
suất lợi nhuận trên vốn giảm, bất chấp có sự gia tăng của hầu hết các chỉ
tiêu kinh tế khác. Thứ ba, kiểm định tỷ lệ cho thấy khó có thể kết luận
phần lớn những chỉ tiêu phát triển của các DNCPH đều thể hiện xu
hướng tăng trong giai đoạn 2006 – 2010 (thực tế chỉ có hơn 30% doanh
nghiệp cải thiện được toàn bộ các chỉ tiêu ở mức ý nghĩa thống kê 5%).
Những bằng chứng thực nghiệm này cho thấy hiệu quả thực sự của CPH
đối với từng loại hình DNNN khác nhau có thể rất khác nhau.
2.3.3. Hiệu quả hoạt động kinh tế theo mức độ chi phối của sở hữu

Nhà nước trong DNCPH
Luận án đã tiếp cận phân tích sâu hơn về sự khác biệt trong hiệu quả
kinh tế của DNCPH đối với sự khác nhau về tỷ lệ sở hữu vốn của chủ
thể Nhà nước tại các doanh nghiệp này (<50% và >50% - chi phối hoặc
không chi phối trong cơ cấu CTSH doanh nghiệp ở thời điểm CPH). Kết
quả kiểm định cho thấy trái với mong đợi về CPH có tác động tích cực
kéo dài trong một khoảng thời gian nhất định, những DNNN đã được
CPH một phần sau khi được bàn giao về SCIC mà không tiếp tục thoái
vốn Nhà nước, đã chứng kiến sự giảm sút ở hầu hết các chỉ tiêu, đặc biệt
là sự giảm sút của tài sản, vốn chủ sở hữu và ROS là tương đối rõ rệt; có
thể khái quát cho các doanh nghiệp nhóm này khi có ý nghĩa thống kê
lần lượt ở các mức 1%, 5% và 10%. Trong khi đó, hầu hết các chỉ tiêu
đều tăng (ngoại trừ ROE) ở các DNCPH mà SCIC đã tiếp tục thoái bớt
vốn sau thời điểm CPH nhưng duy trì tỷ lệ sở hữu Nhà nước trên 50%;
tuy kết quả này không thể khái quát cho tổng thể bởi không có ý nghĩa
thống kê ở bất cứ tiêu chí nào. Những kết luận về tác động tích cực của
CPH chỉ thực sự diễn ra ở các doanh nghiệp cổ phần mà SCIC đã thoái
vốn tới mức tỷ lệ sở hữu Nhà nước dưới 50%. Như vậy, các DNCPH
theo hình thức trong đó sở hữu Nhà nước không nắm vai trò chi phối
hoạt động hiệu quả hơn các doanh nghiệp mà sở hữu Nhà nước vẫn
nắm vai trò chi phối trong giai đoạn 2006 – 2010. Bên cạnh đó, các
DNCPH trong đó Nhà nước vẫn nắm giữ cổ phần chi phối sẽ có hiệu
quả hoạt động cao hơn nếu Nhà nước tiếp tục thoái vốn sau thời điểm
23
CPH (kể cả vẫn giữ tỷ lệ trên 50% sau khi đã thoái vốn) so với các
DNCPH mà sở hữu Nhà nước nắm tỷ lệ cổ phần chi phối nhưng không
tiếp tục thoái vốn sau thời điểm CPH.
Như vậy, chuyển biến QHSH thông qua sự biến đổi cơ cấu CTSH tại
DNCPH sẽ tạo điều kiện tốt nhất để khai thác ĐTSH khi CTSH Nhà
nước không nắm vai trò chi phối trong cơ cấu CTSH sau CPH. Mục tiêu

nâng cao hiệu quả khai thác ĐTSH trong quá trình CPH có thể được
đáp ứng phần nào nếu CTSH Nhà nước tiếp tục thoái vốn sở hữu tại
DNCPH sau thời điểm CPH (kể cả vẫn nắm giữ vai trò chi phối tới các
CTSH khác). Hiệu quả hoạt động của các DNCPH theo phương thức ở
đó CTSH Nhà nước nắm vai trò chi phối tới các CTSH khác nhưng giữ
nguyên tỷ lệ sở hữu chi phối giảm sút ở hầu hết các chỉ tiêu kinh tế. Kết
quả khảo sát đã cho thấy, ở phương thức CPH này, chuyển biến QHSH
thông qua sự biến đổi cơ cấu CTSH theo cách này không những không
tạo điều kiện để nâng cao hiệu quả khai thác ĐTSH mà còn có những
tác động rất tiêu cực tới mục tiêu này.
Nguyên nhân quan trọng khiến các DNCPH có tỷ lệ sở hữu Nhà
nước dưới 50% hoạt động hiệu quả hơn là chất lượng quản trị doanh
nghiệp được cải thiện. Chuyển biến QHSH trong quá trình CPH DNNN
sẽ triệt để hơn khi CTSH Nhà nước không nắm giữ vai trò chi phối tới
các CTSH khác. Khi đó, những điều chỉnh trong quan hệ quản lý, phân
phối các nguồn lực của doanh nghiệp sẽ hướng tới mục tiêu khai thác
hiệu quả hơn ĐTSH; giải phóng sức sản xuất và nâng cao hiệu quả hoạt
động của DNCPH. Theo tác giả thì đây nên là đích đến cuối cùng của
CPH DNNN ở Việt Nam.
24

Chương 3: Quan điểm và giải pháp thúc đẩy chuyển biến QHSH
trong quá trình CPH DNNN ở Việt Nam giai đoạn từ nay đến 2015,
tầm nhìn đến 2020
3.1. Bối cảnh kinh tế thế giới và Việt Nam
3.1.1. Bối cảnh kinh tế thế giới
Kinh tế thế giới giai đoạn vừa qua đã có những bất ổn khó lường,
như: Khủng hoảng tài chính và nợ công tại các quốc gia phát triển đe
dọa sự phục hồi kinh tế toàn cầu; tăng trưởng kinh tế thế giới tiềm ẩn
nhiều rủi ro, khó dự báo; suy thoái kinh tế đang diễn ra trên phạm vi

toàn cầu; Xu hướng toàn cầu hóa kinh tế thế giới tiếp tục được đề cao đã
làm cho sự phụ thuộc, đan xen về quyền lợi kinh tế giữa các quốc gia
trên thế giới ngày càng sâu rộng
3.1.2. Bối cảnh kinh tế trong nước
Trong giai đoạn 2005-2010 tốc độ tăng trưởng kinh tế của Việt Nam
đã có những dấu hiệu chững lại sau một thời gian dài tăng trưởng với tốc
độ cao do những bất ổn liên quan đến chính sách kinh tế vĩ mô đã được áp
dụng từ những năm 2000 và kéo dài đến giai đoạn này. Bối cảnh kinh tế
trong nước giai đoạn vừa qua có một số nét lớn như: Mô hình tăng trưởng
kinh tế dựa vào chiều rộng đã “đạt đỉnh”, yêu cầu đặt ra về tái cấu trúc
nền kinh tế nói chung và DNNN nói riêng trở nên cấp bách; Đóng góp của
khu vực kinh tế nhà nước (chủ yếu là DNNN) vào tăng trưởng GDP luôn
có xu hướng giảm trong khi sử dụng một lượng lớn nguồn lực xã hội; Lợi
ích nhóm và sự bất bình đẳng giữa các doanh nghiệp thuộc các thành phần
kinh tế khác nhau là nguyên nhân cơ bản làm chậm tiến trình CPH DNNN
khi lộ trình CPH đang dần hướng đến những doanh nghiệp lớn và rất lớn;
Hội nhập, cạnh tranh kinh tế quốc tế và thực hiện các cam kết gia nhập
WTO cũng như các tổ chức kinh tế – tài chính quốc tế khác đang tạo sức
ép nâng cao tiến độ và chất lượng trong cải cách DNNN nói chung và
CPH DNNN nói riêng

×