Tải bản đầy đủ (.pdf) (79 trang)

Giáo trình Bảo tồn đa dạng sinh học: Phần II BẢO TỒN Ở CẤP QUẦN XÃ - ThS. Nguyễn Mộng

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.9 MB, 79 trang )

Chương 4. BẢO TỒN Ở CẤP QUẦN XÃ
Bảo tồn các quần xã sinh vật nguyên vẹn là cách bảo tồn có hiệu quả nhất tồn
bộ tính đa dạng sinh học. Có 3 cách bảo tồn quần xã sinh vật, đó là xây dựng các khu
bảo tồn, thực hiện các biện pháp bên ngoài các khu bảo tồn và phục hồi các quần xã
sinh vật tại các nơi cư trú bị suy thoái.
4.1. Các khu bảo tồn
Một trong những bước đi cơ bản quan trọng nhất trong việc bảo tồn các quần xã
sinh vật là chính thức thành lập các khu bảo tồn.
Có nhiều định nghĩa về các khu bảo tồn, theo IUCN, một khu bảo tồn là: một
vùng đất và/hay biển được thiết kế đặc biệt để bảo vệ và duy trì đa dạng sinh học và
các nguồn tài nguyên thiên nhiên và văn hóa, được quản lý qua luật pháp hay các biện
pháp hữu hiệu khác.
Theo Công ước về Đa dạng sinh học (CBD) thì khu bảo tồn là: một vùng địa lý
xác định, được chỉ định hay kiểm soát và quản lý để đạt được những mục tiêu bảo tồn
cụ thể. Định nghĩa này được thừa nhận bởi 188 nước và rõ ràng là rất có trọng lượng,
tuy nhiên so với định nghĩa của IUCN thì ít có giá trị hơn do không đề cập đến lĩnh
vực văn hóa của các khu bảo tồn.
Cịn theo Chương trình con người và sinh quyển của UNESCO thì khu bảo tồn
sinh quyển là: một vùng đất trên cạn, vùng ven biển hay trên biển được cơng nhận trên
bình diện quốc tế trong việc xúc tiến và biểu hiện mối quan hệ cân bằng giữa con
người và thiên nhiên.
Theo Hiệp định về Bảo tồn thiên nhiên và tài nguyên thiên nhiên Đông Nam Á,
Vườn Quốc gia là: khu vực tự nhiên rộng lớn đủ để các hệ sinh thái tự điều chỉnh và
khu vực này về căn bản chưa bị con người chiếm cứ hay khai thác. (Stuart Chape,
Mark Spalding et al., 2008).
Có thể thành lập các khu bảo tồn theo nhiều cách, song có hai phương thức phổ
biến nhất, đó là thông qua nhà nước (thường ở cấp trung ương, nhưng đơi khi có thể ở
cấp khu vực hay địa phương) và các tổ chức bảo tồn hay cá nhân mua lại các khu đất
đó. Các khu bảo tồn cịn được hình thành bởi các cộng đồng truyền thống vì họ muốn
giữ gìn lối sống của họ. Chính phủ ở nhiều nơi đã thừa nhận quyền sở hữu của các
cộng đồng này đối với đất đai.


Một khi vùng đất đã được bảo vệ thì cần phải có những quyết định cho phép con
người được tác động lên đó ở mức độ nào. IUCN (International Union for the
Conservation of Nature and Natural Resources) đã xây dựng một hệ thống phân loại
các khu bảo tồn, trong đó định rõ các mức độ sử dụng từ nhỏ đến lớn. (N. Dudley,
2008).

68


Phân hạng của IUCN và WCPA (World Conservation Protected Areas) về các
khu bảo tồn và các mục tiêu quản lý như sau:
I. Khu bảo vệ nghiêm ngặt (Strict protection)
Ia. Khu bảo tồn thiên nhiên nghiêm ngặt (Strict Nature Reserve): các vùng
bảo vệ chủ yếu dùng cho mục đích nghiên cứu khoa học và quan trắc;
Ib. Khu hoang dã (Wilderness Area): là các vùng rộng lớn, ít bị biến đổi,
được bảo vệ và quản lý để bảo tồn các đặc điểm tự nhiên hoang dã;
II. Các vườn Quốc gia (National Park): bảo tồn các hệ sinh thái và giải trí;
III. Bảo tồn các cơng trình tự nhiên (Natural Monument): bảo tồn các địa
điểm tự nhiên, văn hóa nỗi bật, có giá trị;
IV. Các khu quản lý loài và sinh cảnh (Habitat/Species Management Area):
quản lý nơi ở và lồi thơng qua các hoạt động chủ động;
V. Bảo vệ cảnh quan trên đất liền và trên biển: (Protected
Landscape/seascape): các khu bảo vệ cảnh quan trên đất liền, vùng ven bờ hay trên
biển có giá trị thẩm mỹ, văn hóa và sinh thái;
VI. Quản lý tài nguyên khu bảo vệ (Managed Resources Protected Area):
các khu bảo vệ được quản lý chủ yếu cho việc sử dụng bền vững các nguồn tài nguyên
thiên nhiên. (N. Dudley, 2008)
Mục tiêu quản lý tổng hợp đối với từng hạng mục được tổng kết như ở bảng 4.1.
Bảng 4.1. Các mục tiêu quản lý trong các khu bảo tồn
Các mục tiêu quản lý


Ia

Ib

II

III

IV

V

VI

Nghiên cứu khoa học

1

3

2

2

2

2

3


Bảo vệ thiên nhiên hoang dã

2

1

2

3

3

-

2

Bảo tồn da dạng di truyền và lồi

1

2

1

1

1

2


1

Duy trì các dịch vụ mơi trường

2

1

1

-

1

2

1

Các đặc điểm văn hố, thiên nhiên đặc trưng

-

-

2

1

3


1

3

Du lịch và giải trí

-

2

1

1

3

1

3

Giáo dục

-

-

2

2


2

2

3

Sử dụng bền vững các nguồn tài ngun

-

3

3

-

2

2

1

Duy trì các thuộc tính văn hố, truyền thống

-

-

-


-

-

1

2

Chú thích: 1. Mục tiêu hàng đầu; 2. Mục tiêu thứ yếu; 3. Mục tiêu có thể áp dụng;
- không áp dụng.

69


4.1.1. Các khu bảo tồn hiện có
Khái niệm và thực tiễn của việc thiết lập các vùng tự nhiên và bán tự nhiên thành
các khu bảo vệ riêng biệt hoặc hạn chế sử dụng, đã có từ rất lâu (bảng 4.2.).
Bảng 4.2. Một số cột mốc lịch sử của việc hình thành các khu bảo tồn Thế giới
Thời gian Sự kiện
10.000 BC Do nông nghiệp chuyển đổi mối quan hệ giữa con người và thiên nhiên, các cộng
đồng địa phương nhận ra được những “vùng thiêng liêng đặc biệt” và bảo vệ
chúng khỏi sự sử dụng của con người.
252 BC

Hoàng đế Asoka ở Ấn Độ hình thành một khu bảo vệ các lồi thú, chim, cá và
rừng, có thể coi đây là khu bảo vệ tài nguyên đầu tiên của chính phủ.

1865


Yosemite (California) được quốc Hội Hoa kỳ thành lập, thực sự là mơ hình đầu
tiên cấp quốc gia về các khu bảo tồn. Yellowstone (1872) Vườn Quốc gia đầu
tiên.

1882

El Chico National Park được thành lập, Vườn quốc gia đầu tiên ở Châu Mỹ La
tinh.

1925

Angkor Wat, (Cambodia) Vườn quốc gia đầu tiên ở Châu Á.

1948

IUCN được thành lập, là công cụ thúc đẩy việc bảo tồn trên Thế giới.

1961

WWF được thành lập, là tổ chức phi chính phủ, tập hợp các hỗ trợ cho bảo tồn,
đặc biệt từ quảng đại quần chúng

1968

Chương trình Con người và Sinh quyển của UNESCO, thiết lập các khu dự trữ
sinh học (năm 2007 có 529 khu trong 105 nước, diện tích hơn 5 triệu km2.)

1971

Cơng ước RAMSAR được thơng qua, (năm 2007 có 1.708 điểm, thuộc 157 nước

thành viên, chiếm hơn 1,5 triệu km2)

1972

Hội nghị Thượng đỉnh Tồn cầu về Mơi trường và Phát triển ở Stockholm, Thụy
Điển, dẫn đến việc thành lập UNEP.

1982

Đại hội Các Vườn Quốc gia Thế giới lần thứ 3 tại Bali, Indonesia. Nhấn mạnh
tầm quan trọng của các khu bảo tồn là nhân tố thiết yếu trong kế hoạch phát triển
quốc gia. Mục tiêu là mỗi biome trên Thế giới phải được bảo tồn 10%.

1987

Tương lai chung của chúng ta (báo cáo Bruntland) báo cáo của ủy ban Liên hiệp
Quốc về Phát triển bền vững. Kêu gọi sử dụng 12% diện tích đất cho bảo tồn và
ủng hộ các hành động toàn cầu cho bảo tồn đa dạng sinh học.

1991

Quỹ Mơi trường tồn cầu (GEF) được thành lập.

1992

Hội nghị Thượng đỉnh Toàn cầu, ở Rio de Janeiro, Brazil. Xuất bản Lịch trình 21
và chuẩn y CBD và Cơng ước khung về biến đổi khí hậu.

2002


Hội nghị Thượng đỉnh tồn cầu về Phát triển bền vững ở Johannesburg, Nam
Phi.

2003

Hội nghị về Các Vườn Quốc gia Thế giới lần thứ V tại Durban, Nam Phi. Tập
trung vào lợi ích bên ngồi các khu bảo tồn, nhấn mạnh lại về tầm quan trọng của
các khu bảo tồn cho phát triển bền vững

70


Do dân số tiếp tục tăng trưởng và tác động của chúng ta vào các nguồn tài
nguyên trên Trái đất ngày càng tăng, không gian sống của chúng ta ngày càng giảm và
tài ngun thì suy thối. Do vậy, việc bảo vệ các nguồn tài nguyên thiên nhiên ngày
càng được nhận thức đầy đủ. Các khu bảo tồn cận đại đầu tiên được thôi thúc thực
hiện bắt nguồn từ những tác động sinh thái rất rõ rệt của chế độ xâm chiếm và thuộc
địa phương tây lên châu Phi, châu Mỹ, châu Á, châu Úc và hàng loạt các đảo ở dại
dương. Các khu bảo tồn được thiết lập để bảo vệ phần cịn sót lại của các hệ sinh thái
bản địa đang biến dần thành nông trại, ruộng vườn và thành phố.
Vườn Quốc gia Yellowstone được coi là vườn quốc gia chính thức đầu tiên được
hình thành vào ngày 1 tháng 3 năm 1872 khi tổng thống Mỹ, Ulysses Grant chỉ định
800.000 ha ở vùng đông bắc Wyoming làm Vườn Quốc gia để bảo tồn và thoát ra khỏi
việc định cư hay chiếm hữu.
Đến cuối năm 2005, WCPA đã thống kê hơn 114.000 khu bảo tồn, chiếm hơn 19
triệu km2 hay 12,9% diện tích bề mặt Trái đất. Rõ ràng là bảo tồn thiên nhiên đã trở
thành một trong những nỗ lực quan trọng nhất của loài người trên hành tinh. Vẫn còn
sự chênh lệch đáng kể giữa các khu bảo tồn trên cạn và trên biển. Chỉ có 0,5% các
vùng biển Thế giới với diện tích khoảng 1,7 triệu km2 nằm trong các khu bảo tồn.
Trong số 191 Quốc gia có khu bảo tồn, 36 quốc gia có khu bảo tồn chiếm 10 20% diện tích đất đai, 24 Quốc gia có diện tích các khu bảo tồn lớn hơn 20% diện tích

lãnh thổ (Stuart Chape, Mark Spalding et al., 2008).
Bảng 4.3. Số lượng và diện tích các khu bảo tồn trên Thế giới đến năm 2005
Hạng

Số lượng

Tỷ lệ theo số
lượng

Diện tích
(1.000 km2)

Tỷ lệ theo diện
tích

Ia

5.549

4,6

1.048

5,5

Ib

1.371

1,3


1.015.512

5,4

II

4.022

3,8

4.413.142

23,6

III

19.813

19,4

275.432

1,5

IV

27.466

27,1


3.022.515

16,1

V

8.495

6,4

1.056.008

5,6

VI

4.276

4,0

4.377.091

23,3

43.304

33,4

3.569.820


19,0

114.296

100,00

19.381

12,90%

Chưa phân hạng
Tổng

(Stuart Chape, Mark Spalding et al., 2008)

71


Đến năm 2010, có trên 148.000 khu bảo tồn trên tồn Thế giới, chiếm 13% diện
tích bề mặt Trái đất. Tuy vậy, các khu bảo tồn biển vẫn chỉ chiếm khoảng 7% diện tích
nước vùng ven bờ (vùng nước mở rộng ra đến 12 hải lý) và 1,4% diện tích các đại
dương.
Mục tiêu mới về quy mô của các khu bảo tồn tồn cầu được thiết đặt từ các chính
phủ trong Nghị định thư Nayoga, được đàm phán vào tháng 10 năm 2010. Nhiệm vụ là
đến năm 2020, có khoảng 17% diện tích đất và nước nội địa cùng với khoảng 10%
vùng ven bờ và đại dương là những vùng đặc biệt quan trọng trong việc bảo tồn đa
dạng sinh học và các dịch vụ sinh thái (UNEP, 2011).

Phân hạng của IUCN


Các khu bảo tồn nghiêm ngặt (Ia và Ib) chiếm t lệ nhỏ, trong khi đó phân hạng
II theo IUCN là các Vườn Quốc gia, mặc dù có số lượng khơng nhiều nhưng diện tích
của các vườn rất lớn, phản ảnh một thực tế là các Vườn Quốc gia có xu hướng chứa
đựng một vùng địa lý rộng lớn. Ngược lại, ở phân hạng III và một phần của phân hạng
IV, có nhiều khu bảo tồn có kích thước nhỏ (hình 4.1.).
Ia
Ib
II
III

Diện tích

IV

Số lượng

V
VI

Khơng phân hạng
0% 5% 10% 15% 20% 25% 30% 35%

Hình 4.1. Các khu bảo tồn Thế giới theo IUCN

4.1.2. Các khu bảo tồn cộng đồng
Các khu bảo tồn cộng đồng có thể được định nghĩa là "hệ sinh thái tự nhiên và
biến đổi bao gồm đa dạng sinh học có ý nghĩa quan trọng, các dịch vụ sinh thái và các
giá trị văn hóa” được các cộng đồng bản địa và địa phương liên quan, tự nguyện bảo
tồn thông qua các luật tục, phương tiện hữu hiệu khác. Những sáng kiến này rất khác

nhau về xuất xứ, mục đích và hình thức, nhưng có ba đặc điểm cần thiết để xác định:
 Cộng đồng bản địa và địa phương có liên quan đều có liên quan về các
hệ sinh thái nhất định - Nó thường có ý nghĩa quan trọng về văn hóa hay
sinh kế;
 Quyết định quản lý tự nguyện và nỗ lực của cộng đồng có hiệu quả trong
việc bảo tồn mơi trường sống, các loài sinh vật, các dịch vụ sinh thái,
cùng với các giá trị văn hóa - mặc dù mục tiêu quy định của việc thực
hành quản lý có thể khơng liên quan đến bảo tồn;
72


 Cộng đồng bản địa và địa phương là những người nắm giữ quyền lực
trong việc đưa ra quyết định và thực hiện các quyết định trong việc quản
lý các hệ sinh thái.
Ví dụ về các khu bảo tồn cộng đồng bao gồm: các địa điểm thiêng liêng ví dụ
như rừng Kaya ở Đông Phi; quản lý cộng đồng đồng cỏ và rừng, như ở nhiều nơi trên
Thế giới; nghề cá khu vực cộng đồng, chẳng hạn như nghề cá rạn san hô do cộng đồng
quản lý phổ biến phần lớn miền nam Thái Bình Dương,...
Các khu vực bảo tồn của cộng đồng có thể phục vụ nhiều chức năng quan trọng,
như kho lưu trữ của các thành phần quan trọng của đa dạng sinh học, các hành lang
bảo tồn liên kết các khu bảo tồn và cũng như các địa điểm có tầm quan trọng về văn
hóa và kinh tế cho người dân địa phương. Các khu bảo tồn này có thể cung cấp các bài
học có giá trị trong quản trị có sự tham gia của quan chức trong các khu bảo tồn, cung
cấp các ví dụ về các hệ thống pháp lý nhiều cấp của việc bảo tồn, tích hợp các luật tục
với luật định và thường được xây dựng trên hệ thống kiến thức sinh thái tinh vi, những
yếu tố có tiềm năng ứng dụng rộng lớn hơn.
Tuy nhiên, các khu bảo tồn này phải đối mặt với những thách thức quan trọng để
tiếp tục tồn tại và tăng trưởng. Mặc dù có một lịch sử lâu đời, ở nhiều nơi trên Thế
giới, các khu vực bảo tồn cộng đồng đang nhanh chóng bị suy thối, do "phát triển"
khơng thích hợp và "giáo dục" mới đang làm mất đi những hệ thống kiến thức đã từng

quản lý các khu bảo tồn. Điều này càng trầm trọng hơn bởi xu hướng thực dân hay hệ
thống chính trị tập trung làm suy yếu các thể chế truyền thống bằng giảm đi nhiều
trách nhiệm và quyền hạn của cộng đồng. Thiếu cơng nhận chính thức thường cản trở
những nỗ lực của cộng đồng để duy trì các khu bảo tồn, và ở những nơi chương trình
khuyến khích được đưa ra, chúng thường thiếu nguồn nhân lực và vật lực. Thay đổi xã
hội nhanh chóng có thể làm cho cộng đồng tự cảm thấy gắn bó ít hơn với các giá trị
của khu bảo tồn, và có thể ưa thích chuyển đổi chúng thành một vài sử dụng thương
mại. Thay đổi xã hội cũng thường dẫn đến sự phân hóa và bất bình đẳng ngày càng
tăng trong cộng đồng, làm cho việc quản lý bền vững các khu bảo tồn cộng đồng, càng
khó khăn hơn.
4.1.3. Tính hiệu quả của các khu bảo tồn
Nếu như các khu bảo tồn chỉ chiếm một t lệ nhỏ trên Trái đất thì hiệu quả bảo
tồn các loài của Thế giới được đến đâu? Các ví dụ sau đây sẽ minh họa hiệu quả tiềm
tàng của các khu bảo tồn
Chính phủ Indonesia có kế hoạch bảo vệ các quần thể của những loài chim
và linh trưởng bản địa trong hệ thống các Vườn quốc gia và khu bảo tồn của nước này.
Mục tiêu nói trên sẽ đạt được nhờ vào việc tăng diện tích các khu bảo tồn từ 3,5% lên
10% so với tổng diện tích đất đai của cả nước.
Ě

Tại hầu hết các quốc gia nhiệt đới lớn vùng châu Phi, đa số quần thể của
các loài chim bản địa là nằm trong các khu bảo tồn. Ví dụ Zaia có trên 1000 lồi chim,
Ě

73


thì 89% số lồi xuất hiện trong các khu bảo tồn với diện tích chỉ chiếm 3,9% tổng diện
tích đất đai của cả nước.
Một ví dụ điển hình về vai trị của các khu bảo tồn nhỏ đó là Vườn quốc gia

Santa Rosa ở vùng Tây bắc Costa Rica. Vườn này chỉ chiếm 0,2 diện tích của Costa
Rica song nó đã chứa tới 55% số lượng các quần thể của 135 lồi bướm đêm của nước
này. Những ví dụ trên đã cho thấy rõ rằng những khu bảo tồn được lựa chọn cẩn thận
thì có thể ni dưỡng và che chở cho rất nhiều, nếu khơng nói là hầu hết, các loài của
một quốc gia.
Ě

4.1.4. Những giá trị và lợi ích của các khu bảo tồn
Ngồi việc góp phần cụ thể vào bảo tồn đa dạng sinh học, các khu bảo tồn cịn có
một số giá trị và lợi ích khác.
Khái niệm về Tổng giá trị kinh tế (TEV) đã được sử dụng rộng rãi để chuyên đổi
tất cả giá trị và lợi ích của các khu bảo tồn thành dạng kinh tế dễ hiểu (hình 4.2.).

Tổng giá trị kinh tế TEV

Giá trị sử dụng

Sử dụng
trực tiếp

Sử dụng
gián tiếp

Giá trị khơng sử dụng

Giá trị
lựa chọn

Giá trị
tồn tại


Giá trị
kế thừa

Hình 4.2. Các thành phần cơ bản của tổng giá trị kinh tế
Mặc dù vậy, để có thể đánh giá lợi ích của các khu bảo tồn dưới dạng kinh tế, thì
vẫn cịn tồn tại một số vấn đề do có nhiều giá trị khó đánh giá về mặt kinh tế.
Các tiếp cận đánh giá cũng cần xem xét khi đánh giá lợi ích các khu bảo tồn.
Những sai khác về của cải vật chất giữa các cộng đồng và giữa các quốc gia khác
nhau, nên trong khi đánh giá có thể dẫn đến những sai lệch. Các khu bảo tồn có thể là
công ăn việc làm duy nhất ở một số vùng hoặc là nguồn cung cấp chất đốt, chất đạm
trong bửa ăn hàng ngày của người dân địa phương. Chuyển các giá trị này thành đơ la
trên thị trường thì có vẻ rất nhỏ, nhưng mất mát các lợi ích này có thể là thảm họa cho
người dân.
74


USD/ha
7000
6000
5000

Nguyên trạng
Chuyển đổi

4000
3000

2000
1000

0

Đất ngập nước
Canada

Rừng nhiệt đới
Camerun

Rừng ngập mặn
Thailand

Rừng nhiệt đới
Campuchia

Hình 4.3. So sánh TEV của việc chuyển đổi mục đích sử dụng ở
một số vùng trên Thế giới
(Millennium Ecosystem Assessment, 2005)

4.1.4.1. Các giá trị sử dụng và lợi ích trực tiếp






Giải trí du lịch: đơi khi thường được biểu hiện đơn giản bằng khoản thu lệ phí
của các khu bảo tồn. Thật ra, quan trọng hơn đó là sự kết hợp ảnh hưởng kinh tế
của du lịch khu bảo tồn và kinh tế vùng bao gồm các chi phí di chuyển, ăn ở và
các khoản chi tiêu khác. Các giá trị như thế cũng có thể được xem xét dưới dạng
công ăn việc làm cho người dân địa phương.

Các sản phẩm thu hoạch: tùy thuộc vào mục tiêu quản lý, thơng thường có thể
cho phép khai thác bền vững và thu hoạch một số tài nguyên thiên nhiên trong
các khu bảo tồn. Ví dụ như trong phân hạng V và VI của IUCN về các khu bảo
tồn. Các hoạt động trong các khu bảo tồn này bao gồm chăn thả gia súc, câu cá,
săn bắn, sử dụng các sản phẩm phi gỗ, khai thác nước ngọt và các nguồn gene.
Khai thác các nguồn tài nguyên không tái tạo: một vài hoạt động khai thác các
nguồn tài nguyên không tái tạo trong các khu bảo tồn, điển hình là dầu mỏ và
khống sản. Nhìn chung hoạt động này trái với khái niệm “bảo tồn và duy trì”
gắn liền với định nghĩa về các khu bảo tồn. Có một số trường hợp mà q trình
khai thác có những tác động hạn chế và vật liệu khai thác có thể là khơng cần
thiết đối với mục tiêu và chức năng của khu bảo tồn. Trong trường hợp như thế,
lý lẽ về lợi ích kinh tế của q trình khai thác có thể biện minh cho hoạt động
này.

75


Nghiên cứu khoa học: các khu bảo tồn thường mang đến những cơ hội tốt nhất để
hiểu rõ và giải thích các q trình sinh thái tự nhiên. Cung cấp các cơ sở dữ liệu
tự nhiên để đối chứng với những thay đổi trong các hệ thống môi trường tự
nhiên, một vấn đề ngày càng nghiêm trọng trong thời kỳ thay đổi mơi trường
tồn cầu chưa từng thấy.
4.1.4.2. Giá trị sử dụng gián tiếp và giá trị lựa chọn
















Ảnh hưởng khí hậu: các khu bảo tồn có vai trị trong việc duy trì khí hậu, bao
gồm cả lượng mưa. Các khu bảo tồn cũng là những điểm rộng rãi, có vai trò
trong quan trọng trong việc giảm thiểu tác động của biến đổi khí hậu, với vai trị
bể chứa carbon.
Cấp nước và chống xói mịn: các khu bảo tồn có vai trò quan trọng trong việc
bảo vệ lưu vực, bảo đảm việc cung cấp nước cho cộng đồng kế cận và ổn định
đất dốc. Sự hiện diện của hệ thực vật tự nhiên, đặc biệt rừng và các vùng đất
ngập nước, giảm thiểu được dịng chảy và có vai trị trong điều tiết lũ lụt. Các
dịch vụ này bảo đảm cho việc cấp nước đối với các vùng phụ cận, giảm thiểu lũ
lụt trong mùa mưa và hạn hán trong mùa khô.
Bảo vệ vùng bờ: bảo vệ các sinh cảnh như rừng ngập mặn, đụn cát, các rạn san
hô rộng lớn vai trò trong việc bảo vệ vùng bờ. Duy trì hệ thống rừng ngập mặn
có ý nghĩa rất lớn trong việc giảm thiểu tác động của sóng thần, như đã minh
chứng trong đợt sóng thần năm 2004 ở Đơng Nam Á.
Các ảnh hưởng sinh thái khác: các khu bảo tồn có những lợi ích rõ ràng cho các
vùng đất và nước kế cận các khu bảo tồn. Đặc biệt đối với các quần xã sinh vật
biển. Tình trạng xuống cấp của đại dương và sự suy thoái của nhiều ngư trường
đã tạo nên một nhu cầu cấp thiết cho việc quản lý hiệu quả hơn đối với đa dạng
sinh học biển, các quần thể khai thác và sự hưng thịnh chung của biển cả. Việc
thiết lập các khu bảo tồn biển rất cần thiết trong việc quản lý bền vững nghề cá
thông qua việc bảo vệ các nơi ở nhạy cảm và các loài, nguồn cung cấp mẫu
chuẩn và hổ trợ nguồn lợi. Ví dụ một mạng lưới 5 khu bảo vệ nằm ở Đảo Quốc

Saint Lucia (phía đơng vùng biển Caribe, Đại Tây Dương), đã gia tăng nghề cá
thủ công lên đến 49-90% ở khu vực rộng lớn cận kề, chủ yếu là câu cá.
Tại Tazania, săn bắn trộm và săn bắt voi khơng kiểm sốt ở Vườn Quốc gia
Tarangire đã làm gia tăng cây gỗ trong Vườn. Điều đó đã làm gia tăng số lượng
ruồi tse-tse và thiệt hại vật nuôi của người dân địa phương. Bảo vệ voi có thể
nâng cao năng suất cơng nghiệp vật ni!
Tài ngun di truyền: các khu bảo tồn có vai trò là các khu bảo tồn tại chỗ các
vật liệu di truyền, đó là các giống cây trồng vật ni hoang dại của bao đời
người nông dân và là nguồn dược liệu. Mặc dù khó để tính tốn được tồn bộ,
nhưng các khu bảo tồn rất quan trọng trong việc duy trì tài nguyên lương thực
và cung cấp các vị thuốc. Ví dụ như vào đầu những năm 1990, Viện Ung thư
76


Hoa Kỳ đã xác định 3.000 lồi thực vật có khả năng phịng chống bệnh ung thư,
70% các lồi này ở rừng mưa nhiệt đới, được bảo vệ tốt trong những khu bảo
tồn.
4.1.4.3. Những giá trị không thể thấy được
WCPA đã định nghĩa về giá trị không thể thấy được “là những gì làm phong phú
trí tuệ, tâm lý, cảm xúc, tinh thần, văn hóa, sự sáng tạo về cách sống và sự thịnh
vượng của loài người”. Những giá trị như thế là nền tảng cho việc nhận thức và bảo
tồn các nơi chốn đặc biệt của nhiều nền văn hóa khác nhau qua hàng thiên niên k .
Các giá trị không thấy được của các khu bảo tồn là:
 Giá trị giải trí: các đặc điểm của các khu bảo tồn tương tác với con người qua
việc cải thiện, phục hồi hoặc tạo ra những kích thích và rèn luyện tâm trí và
thân thể.
 Giá trị tinh thần: là những đặc điểm của các khu bảo tồn truyền cảm hứng cho
con người gắn liền đến việc tơn kính sự thiêng liêng của tự nhiên.
 Giá trị văn hóa: các đặc tính có thể là xác thực hoặc khơng rõ ràng mà nhiều
nhóm người, các tơn giáo, các cộng đồng truyền thống gán cho các khu bảo

tồn, hoặc là các hệ thống giá trị đáp ứng các nhu cầu của con người để hiểu
biết và kết nối với căn nguyên của mơi trường và những phần cịn lại của tự
nhiên.
 Giá trị nghệ thuật: các đặc điểm tự nhiên kích thích trí tưởng tượng, sự sáng
tạo của con người.
 Giá trị thẩm mỹ: nhận thức về ý nghĩa của sự hài hòa, vẻ đẹp và sự sâu thẳm
của thiên nhiên.
 Giá trị giáo dục: các đặc điểm tự nhiên làm sáng tỏ mối quan hệ giữa con
người và tự nhiên, mở rộng ra là mối quan hệ giữa con người với nhau, nhờ
vậy tạo ra sự tôn trọng và hiểu biết.
 Giá trị hịa bình: bao gồm chức năng của các khu bảo tồn trong việc cổ vũ ổn
đinh và hịa bình trong khu vực, thơng qua việc quản lý hợp tác quốc tế giữa
các vùng biên giới trên đất liền hay trên biển. Đó là khơng gian của các nền
văn hóa khác nhau vì sự phát triển và hiểu biết giữa các cộng đồng bản địa và
xã hội hiện đại cũng như giữa các nền văn hóa riêng biệt và sự hịa bình giữa
xã hội và tự nhiên. Biên giới của các khu bảo tồn có vai trị trong việc giải
quyết hịa bình những xung đột giữa một số quốc gia trong thập niên qua.
Nhận thức tầm quan trọng bề biên giới của các khu bảo tồn, WCPA đã đưa ra
các hướng dẫn dựa vào các kinh nghiệm của các nhà quản lý trên khắp Thế
giới.
 Giá trị chữa bệnh: mối liên hệ giữa con người và thiên nhiên trong các khu
bảo tồn tạo ra khả năng chữa bệnh và tăng cường sự khỏe mạnh cả về thân thể
và tâm lý. (Stuart Chape, Mark Spalding et al., 2008)
77


4.1.5. Những tồn tại của các khu bảo tồn
Mặc dù đã có những hiệu quả nhất định, các khu bảo tồn hiện nay trên Thế giới
vẫn còn một số hạn chế như sau:
Hầu hết các khu bảo tồn có diện tích nhỏ, khó để duy trì sự sống cịn của

các quần thể động vật có xương sống kích thước lớn. Để hạn chế điều đó, có thể xây
dựng các hành lang để liên kết các khu bảo tồn với nhau. Tuy vậy, trong thực tế chỉ có
một số ít khu bảo tồn có các hành lang liên kết, cịn phần lớn vẫn chưa thực hiện được
do vấn đề này vẫn cịn nhiều tranh cải.


Các khu bảo tồn có xu hướng nghiêng về các vùng đất có giá trị kinh tế
thấp, ít có sự tranh chấp về việc sử dụng đất và các đơn vị hành chánh. Kết quả là các
khu bảo tồn này không đại diện đầy đủ cho các hệ thực vật tự nhiên hay sự xuất hiện
của loài.


Trong thực tế nhiều khu bảo tồn hoạt động rất ít hay hầu như không hoạt
động (các “khu bảo tồn giấy”).


Mạng lưới bảo tồn hiện có được hình thành theo ngun tắt hơi tĩnh, không
đáp ứng được với những sự thay đổi về vùng phân bố của loài do sự thay đổi khí hậu.
Sự thay đổi khí hậu là nguyên nhân gây ra sự thay đổi vùng phân bố của loài, điển
hình là sự mở rộng dọc theo phạm vi ranh giới vùng này và thu hẹp ở các vùng khác.
Tuy nhiên, khi các khu bảo tồn trở thành các vùng biệt lập về hệ thực vật tự nhiên do
môi trường biến đổi, thường cách biệt với các khu vực khác bởi một khoảng cách
tương đối xa, thì khả năng di chuyển của loài trở nên càng hạn chế.


4.2. Thiết lập các ưu tiên cho việc bảo vệ
Do nguồn kinh phí có hạn, cần thiết phải thiết lập được các ưu tiên cho bảo tồn
đa dạng sinh học và quan trọng nhất là bảo tồn loài. Câu hỏi được đặt ra ở đây là làm
sao để có thể giảm thiểu sự mất mát của các lồi với một nguồn tài chính và sức lực có
hạn. Những câu hỏi có mối quan hệ tương tác lẫn nhau mà các nhà hoạch định công

tác bảo tồn cần phải làm sáng tỏ là: cần phải bảo vệ cái gì, bảo vệ ở đâu và bảo vệ như
thế nào. Có thể dùng 3 tiêu chí sau để lập ra các ưu tiên cho bảo tồn lồi và quần xã.
Tính đặc biệt: một quần xã được ưu tiên bảo vệ cao hơn nếu ở đó là nơi sinh
sống chủ yếu của nhiều lồi đặc hữu q hiếm so với quần xã chỉ gồm các loài phổ biến.
Một lồi thường có giá trị bảo tồn nhiều hơn nếu có tính độc nhất về phân loại học, tức
lồi duy nhất của giống hay họ, so với loài là thành viên của một giống có nhiều lồi.
Ě

Tính nguy cấp: một lồi đang có nguy cơ tuyệt chủng sẽ được quan tâm
nhiều hơn so với những lồi khơng bị đe dọa tuyệt chủng. Những quần xã sinh học mà
đang bị đe dọa và sắp sửa bị tiêu diệt cũng cần được ưu tiên bảo vệ.
Ě

Tính hữu dụng: những lồi đã có giá trị kinh tế hoặc tiềm năng đối với con
người sẽ được ưu tiên bảo vệ nhiều hơn so với các lồi khơng có giá trị rõ ràng.
Ě

78


Lồi rồng đất Komodo ở Indonesia là ví dụ về lồi được ưu tiên bảo vệ theo cả 3
tiêu chí trên: nó là lồi thằn lằn lớn nhất trên Thế giới (tính đặc biệt); chỉ xuất hiện trên
một vài đảo nhỏ của một quốc gia đang phát triển nhanh (tính nguy cấp) và nó có tiềm
năng lớn cho du khách cũng như là mối quan tâm lớn của các nhà khoa học (tính hữu
dụng) (Richard B. Primack, 1995).

Hình 4.4. Rồng đất Komodo
4.2.1. Các phương pháp tiếp cận về lồi
Có thể thành lập các khu bảo tồn để bảo vệ những lồi độc nhất vơ nhị. Nhiều
khu vườn Quốc gia đã được hình thành để bảo vệ những lồi thú lớn đẹp đẽ là những

loài thu hút sự quan tâm của cơng chúng, có giá trị biểu trưng và tính quyết định cho
du lịch sinh thái. Trong quá trình bảo vệ các loài này, toàn bộ các quần xã của hàng
ngàn loài khác cũng được bảo vệ.
Xác định và chỉ ra được những loài cần ưu tiên nhất là bước đầu tiên trong quá
trình lập kế hoạch bảo tồn cho từng lồi. Chương trình Hành động do U ban về sự
Sinh tồn của các loài thuộc IUCN gồm khoảng 2.000 nhà khoa học, tập hợp trong 80
nhóm chuyên gia khác nhau để đánh giá và khuyến nghị bảo tồn cho các lồi thú,
chim, động vật khơng xương sống, bị sát, cá và thực vật. Có một nhóm đã xây dựng
Chương trình hành động cho các loài Linh trưởng ở Châu Á, trong đó đã xếp loại ưu
tiên cho 64 lồi dựa vào mức độ đe dọa, tính đặc hữu về phân loại học và mối liên
quan tới các loài linh trưởng khác đang có nguy cơ tuyệt diệt.
4.2.2. Phương pháp tiếp cận quần xã và hệ sinh thái
Một số người quan tâm đến bảo tồn đã cho rằng nên tập trung vào bảo tồn các
quần xã hoặc các hệ sinh thái hơn là chỉ bảo tồn loài. Bảo tồn các quần xã có thể sẽ
79


bảo vệ được một số lượng lớn hơn các loài, trong khi đó việc cứu hộ các lồi cụ thể
nào đó lại thường khơng đơn giản, tốn kém và ít hiệu quả.
Việc hình thành các khu bảo tồn mới cần phải đảm bảo được càng nhiều đại diện
của các loại quần xã sinh học càng tốt. Định ra được những khu vực nào trên Thế giới
đã được bảo vệ thỏa đáng và những khu vực nào cần khẩn trương bổ sung bảo tồn là
một việc có tính quyết định trong phong trào bảo tồn Thế giới.
4.2.2.1. Phân tích khiếm khuyết
Một cách nhằm xác định tính hiệu quả của các chương trình bảo tồn quần xã và các
hệ sinh thái là so sánh các ưu tiên về đa dạng sinh học với các khu bảo tồn đã có hoặc sắp
thành lập. Sự so sánh này có thể sẽ xác định được những lỗ hổng trong bảo tồn đa dạng
sinh học bằng cách thành lập các khu bảo tồn mới.
Ở qui mô quốc gia, đa dạng sinh học được bảo vệ có hiệu quả nhất bằng cách bảo
đảm rằng tất cả các dạng hệ sinh thái chủ yếu đều nằm trong các khu bảo tồn.

Hệ thống thông tin địa lý (GIS) là bước phát triển mới nhất trong kỹ thuật phân
tích các khuyếm khuyết thơng qua việc sử dụng máy tính để tích hợp các dữ liệu về
mơi trường tự nhiên với các thơng tin về sự phân bố của lồi. Phân tích bằng GIS có
thể chỉ ra được những khu vực nguy cấp cần được đưa vào các vườn quốc gia hay các
khu bảo tồn và cần tránh triển khai các dự án phát triển tại đây.

Địa hình và thảm thực vật

Sự phân bố của các lồi q
hiếm, đặc hữu

Diện tích các khu bảo vệ

Bản đồ cuối cùng làm rõ
những khu vực cần bảo vệ
nhiều hơn

Hình 4.5. GIS tích hợp nhiều dữ liệu khác nhau được biểu diễn trên bản đồ
80


GIS bao gồm việc lưu trữ, hiển thị và tập hợp nhiều loại dữ liệu bản đồ, ví dụ các
kiểu thảm thực vật, khí hậu, thổ nhưỡng, địa hình, địa chất, thủy văn và sự phân bố của
loài. Kỹ thuật này có thể giúp thể hiện mối tương quan giữa các thành phần vô sinh và
hữu sinh của cảnh quan, giúp qui hoạch các vườn quốc gia nơi có tính đa dạng về hệ
sinh thái, và thậm chí cịn có thể đề xuất các địa điểm để tìm kiếm các lồi qui hiếm.
Khơng ảnh và viễn thám là những nguồn dữ liệu bổ trợ cho việc phân tích GIS.
4.2.2.2. Các trung tâm đa dạng sinh học
Để có thể đưa ra các ưu tiên cho việc bảo tồn, IUCN, Trung tâm quan trắc bảo
tồn Thế giới (WCMC) và các tổ chức khác đã cố gắng xác định các khu vực then chốt

có tính đa dạng sinh học và có tính đặc hữu cao trên Thế giới đang đứng trước sự đe
dọa bị tuyệt chủng loài và hủy hoại nơi cư trú: những nơi được gọi là điểm nóng phải
được bảo tồn.
1) Các điểm nóng đa dạng sinh học
Là những vùng đang bị đe doạ và chứa một t lệ cao đa dạng sinh học trên Thế
giới. Hơn ½ lồi đặc hữu trên Trái đất chỉ chiếm một diện tích khoảng 16% diện tích
bề mặt Trái đất.
Các vùng này cần phải được bảo tồn ngay để chống lại việc mất mát của các lồi
do tuyệt chủng. Nếu chúng ta khơng thành cơng trong việc bảo tồn một phần nhỏ diện
tích của Trái đất này, chúng ta sẽ mất đi hơn ½ di sản thiên nhiên của chúng ta.

Biodiversity Hotspots

Hình 4.6. Các điểm nóng đa dạng sinh học trên Thế giới

81













Mục tiêu của khái niệm điểm nóng là những nơi bị đe dọa lớn nhất tới số

loài lớn nhất và cho phép những nhà bảo tồn tập trung những nổ lực về chi
phí hiệu quả ở đó. Năm 1988, Norman Myers đưa ra Khái niệm điểm nóng
khi xác định 10 khu vực rừng nhiệt đới có độ đặc hữu cao về thực vật cũng
như có mức độ mất mát nơi ở.
Năm 1989, Tổ chức Bảo tồn Thế giới đã chấp nhận khái niệm điểm nóng
của Mayers.
Năm 1999 danh sách điểm nóng trên tồn Thế giới lên 25 điểm.
Đến nay đã có 34 điểm nóng đa dạng sinh học chiếm 15,7% diện tích bề mặt
Trái đất.
86% nơi cư trú ở các điểm nóng bị phá hủy.
Chỉ 2,3% diện tích ngun thủy cịn sót lại trong các điểm nóng.
Hơn 50% các lồi thực vật trên toàn Thế giới và 42% các loài động vật có
xương sống ở cạn đặc hữu có mặt tại 34 điểm nóng.

Có hai nhân tố được xem xét để chỉ định điểm nóng. Điểm nóng là những vùng
chứa đựng một số lớn các loài đặc hữu và đồng thời bị tác động một cách đáng kể các
hoạt động con người.
Tính đặc hữu là tiêu chí đầu tiên để xác định điểm nóng. CI (Conservation
International) đã lấy tổng số loài thực vật đặc hữu như là chỉ thị cho tính đặc hữu nói
chung. Để là một điểm nóng, một vùng phải có 1.500 lồi cây đặc hữu (0,5% số lồi
thực vật tồn cầu).
Sự có mặt của thực vật ngun sinh là cơ sở để đánh giá tác động con người
trong một vùng; để là một điểm nóng, một vùng phải bị mất đi hơn 70% môi trường
sống nguyên thu của nó.
Các điểm nóng chỉ chiếm khoảng 1/8 diện tích bề mặt Trái đất nhưng lại chứa
đến 1/5 dân số của Thế giới. Việc gia tăng dân số nhanh trong các điểm nóng góp phần
tới sự suy thối điểm nóng do việc du nhập của những loài ngoại lai, việc bn bán bất
hợp pháp những lồi bị đe dọa, nền nông nghiệp đốt nương làm rẫy, khai mỏ, xây
dựng đường cao tốc, đập nước và tràn dầu. Mười một điểm nóng đã mất ít nhất 90%
cây cỏ tự nhiên ngun thu và ba trong số đó đã mất 95%.

Có một số nhân tố quan trọng để việc xác định tình trạng ưu tiên của một điểm
nóng. Các nhân tố quan trọng nhất để xem xét là số của những loài thực vật và động
vật tìm thấy trong điểm nóng và khơng có ở nơi nào khác trên Thế giới; mức độ của sự
mất mát nơi ở và số loài thực vật và động vật đặc hữu trên đơn vị diện tích.
Lấy tất cả những nhân tố này để tính tốn, thì vùng Madagascar và những hịn
đảo ở Ấn Độ Dương, Philippines, Sundaland, Atlantic Forest và vùng Caribbean được
coi như những nơi nóng nhất của các điểm nóng (Bảng 4.4.). Nói cách khác, đa dạng

82


sinh học độc nhất của năm điểm nóng này bị mất đi và có nguy cơ cao của việc mất nó
nếu khơng có hoạt động bảo tồn có hiệu quả và tức thời.
Bảng 4.4. Các điểm nóng nhất về đa dạng sinh học trên Thế giới
Các điểm nóng

Thực vật
đặc hữu

Động vật có
xương đặc
hữu

Thực vật đặc ĐVCX đặc
hữu /100
hữu /100
2
km
km2


% hệ thực
vật còn lại

Madagascar & Indian
Ocean Islands

9.704

771

16.4

1.3

9.9

Philippines

5.832

518

64.7

5.7

3.0

Sundaland


15.000

701

12.0

0.6

7.8

Atlantic Forest

8.000

654

8.7

0.6

7.5

Caribbean

7.000

779

23.5


2.6

11.3

Indo-Burma

7.000

528

7.0

0.5

4.9

Western Ghats & Sri
Lanka

2.180

355

17.5

2.9

6.8

Eastern

Arc
Mountains & Coastal
Forests

1.500

121

75.0

6.1

6.7

2) Các đơn vị đại đa dạng sinh học
Một cách tiếp cận có giá trị khác là các đơn vị đại đa dạng sinh học
(Megadiversity). Theo cách tiếp cận này, những quyền tập trung ưu tiên vào đa dạng
sinh học được hiểu theo nghĩa một đơn vị chính trị hơn là một thuật ngữ sinh thái.
Điều này công nhận một số ít đơn vị (17 nước) là trung tâm có độ đa dạng sinh học
cao (Hình 4.7.). 17 nước này chiếm 2/3 nguồn tài nguyên sinh học trên Trái đất trong
đó có hơn 80% lồi thực vật bị đe dọa trên toàn Thế giới. Những nước này cũng là
những nước có tầm quan trọng về đa dạng văn hố.
Phương pháp dựa trên quốc gia này nhằm nâng cao ý thức quốc gia về bảo tồn đa
dạng sinh học trong các quốc gia có đa dạng sinh học cao, có nhiều loài độc nhất. Khái
niệm này bổ sung vào các điểm nóng đa dạng sinh học và các khu hoang dã có đa dạng
sinh học cao để đạt được mức độ đáng kể về việc bảo tồn các nguồn tài nguyên sinh
học của Thế giới. Khái niệm các đơn vị đại đa dạng sinh học lần đầu tiên được đề xuất
vào năm 1988 và được UNEP-WCMC ủng hộ. Các đơn vị đại đa dạng sinh học dựa
trên bốn cơ sở:


83


1. Đa dạng sinh học của mỗi quốc gia và là cực kỳ quan trọng cho sự sống còn
của quốc gia đó, và phải được coi là một thành phần cơ bản của bất kỳ chiến lược phát
triển quốc gia hoặc khu vực;
2. Đa dạng sinh học không phân bố đều trên hành tinh của chúng ta, và một số
nước, đặc biệt là ở vùng nhiệt đới, là nơi tập trung nhiều đa dạng sinh học hơn những
nơi khác;
3. Một số các quốc gia giàu nhất và đa dạng nhất cũng có các hệ sinh thái đang bị
đe dọa nghiêm trọng nhất;
4. Để đạt được tác động tối đa với nguồn lực hạn chế, chúng ta phải tập trung rất
nhiều (nhưng khơng duy nhất) vào các quốc gia giàu có sự đa dạng và đặc hữu và bị đe
dọa nghiêm trọng nhất, đầu tư trong các nước đó sẽ góp phần đáng kể đối với bảo tồn
đa dạng sinh học tồn cầu.
Tiêu chí cơ bản của các đơn vị đại đa dạng sinh học là tính đặc hữu, đầu tiên là ở
cấp độ lồi và sau đó ở các mức phân loại cao hơn, chẳng hạn như giống và họ. Để hội
đủ điều kiện là một đơn vị đại đa dạng sinh học, một quốc gia phải có ít nhất 5.000
loài thực vật đặc hữu của Thế giới.

1 Autralia

5 RDC

9 Madagascar

14 Nam Phi

2 Brazil


6 Ecuador

10 Malaysia

15 Tân Guinea

3 China

7 India

11 Mexico

16 United Nations of America

4 Colombia

8 Indonesia 12 Perou

17 Venezuela

13 Philippines
Hình 4.7. Các đơn vị đại đa dạng sinh học Thế giới
84


3) Các khu hoang dã
Các khu hoang dã lớn cũng là một ưu tiên quan trọng cho công tác bảo tồn. Các
khu hoang dã là những vùng đất lớn trên 1 triệu ha, có ít nhất 70% hệ thực vật ngun
thu cịn lại, mật độ dân cư thấp, ít hơn 5 người/km2 và có rất ít tác động của con
người. Các khu hoang dã nhiều khả năng không phát triển trong tương lai có lẽ sẽ là

những nơi duy nhất cịn lại trên Trái đất mà các q trình tiến hố tự nhiên có thể tiếp
tục xảy ra. Các khu hoang dã này có thể duy trì để làm các khu đối chứng cho thấy các
khu tự nhiên sẽ như thế nào nếu khơng có tác động của con người.
Conservation International (CI) đã bước đầu xác định 24 khu hoang dã, chiếm
44% diện tích Trái đất nhưng chỉ chứa 3% dân số Thế giới (Mittermeier et al. 2003).

CÁC KHU HOANG DÃ THẾ GiỚI

Hình 4.8. Các khu hoang dã Thế giới
Các khu hoang dã là:
Kho chứa của đa dạng sinh học và các lưu vực quan trọng.
Là những khu đối chứng để đánh giá mức độ quản lý ở các điểm nóng bị
phá hu .
Có vai trị quan trọng trong việc ổn định khí hậu.
Là những nơi cuối cùng trên Thế giới mà người dân bản địa có thể duy trì
lối sống truyền thống của họ.
Có những giá trị về văn hoá, thẩm mỹ và tinh thần.
85


* Các khu hoang dã có tính đa dạng sinh học cao (High-Biodiversity
Wilderness Areas, HBWAs)
Năm 2003, CI đã xác định 5 khu trong số 24 khu hoang dã Thế giới, có tính đa
dạng sinh học cao và chúng được xác định là các điểm ưu tiên bảo tồn. Các khu hoang
dã này chiếm khoảng 6,1% diện tích bề mặt Trái đất với diện tích 8.981.000 km2.
Khu vực Amazon: một khu hoang dã gồm có rừng mưa, đồng cỏ và núi,
nhưng có rất ít người, chạy qua miền nam của Guyana, miền nam của Venezuela, miền
bắc Brazil, Colombia, Ecuador, Peru và Bolivia
New Guinea: Hịn đảo Guinea có những vùng rộng lớn khơng bị xâm nhập
trong khu vực châu Á Thái bình Dương, mặc dầu có bị ảnh hưởng bởi nạn chặt phá

rừng, khai khống và chương trình di dân. Một nửa phía đơng của hịn đảo này là quốc
gia độc lập Papua New Ghine, nửa phía tây của hịn đảo là một bang của Indonesia.
Các cánh rừng ở Congo, vùng Trung Phi
Các hoang mạc ở Bắc Mỹ
Các hoang mạc và khu rừng ở Nam Phi
Tiêu chí hàng đầu của các khu hoang dã có tính đa dạng sinh học cao là tính đặc
hữu (ít nhất là 0,5% của thực vật của Thế giới). Các khu hoang dã có tính đa dạng sinh
học cao chiếm giữ 17% tổng số của thực vật có mạch tồn cầu, và 8% trong tổng số
của động vật có xương sống trên cạn tồn cầu là đặc hữu, trong khi tất cả 24 khu vực
hoang dã chỉ chiếm t lệ không đáng kể là 18% và 10% tương ứng.

Hình 4.9. Các khu hoang dã có tính đa dạng sinh học cao

86


Sai khác giữa điểm nóng và khu hoang dã có đa dạng sinh học cao
Các điểm nóng đa dạng sinh học chủ yếu chứa đựng các hệ sinh thái bị khai
thác quá mức và chia cắt nặng nề;
Các vùng hoang dã có đa dạng sinh học cao là những khu vực có kích thước
lớn, cịn ngun sơ và có mật độ dân số thấp;
Điểm nóng là những nơi cần có những hành động cấp thiết để ngăn chặn sự
tuyệt chủng;
Các khu hoang dã là những vùng cịn có nhiều cơ hội để triển khai các hoạt
động tiên phong về bảo tồn.
4.3. Các thỏa thuận Quốc tế
4.3.1. Công ước về Đa dạng Sinh học
Công ước đa dạng sinh học (CBD) được ký kết năm 1992 tại Hội nghị Thượng
đỉnh ở Rio de Janeiro bởi 150 nước và có hiệu lực kể từ tháng 12 năm 1992. Đây là
cam kết quốc tế đầu tiên giữa các chính phủ trong việc bảo vệ tài nguyên đa dạng sinh

học trên Trái đất. Đến tháng 01 năm 2004 đã có 188 nước ký vào cơng ước, trong đó
Mỹ là một trong số những nước ký sau cùng.
Cơng ước về Đa dạng Sinh học có ba mục tiêu: bảo vệ đa dạng sinh học; sử dụng
bền vững đa dạng sinh học; phân phối công bằng lợi nhuận của các sản phẩm mới lấy
từ các loài hoang dã và các lồi thuần dưỡng. Hai mục đích đầu khơng phức tạp, mục
đích thứ ba chấp nhận rằng các nước đang phát triển phải được nhận sự đền bù hợp lý
cho việc sử dụng các loài được thu thập từ vùng lãnh thổ nước họ. Nước Mỹ đã không
phê chuẩn Cơng ước này vì lý do lo sợ ngành công nghệ sinh học khổng lồ của họ sẽ
bị hạn chế.
Khi ký vào công ước, các nước thành viên đã đồng ý thực hiện nhiều biện pháp
khác nhau để bảo tồn đa dạng sinh học. Các biện pháp đó là:
1. Xây dựng kế hoạch quốc gia về bảo tồn đa dạng sinh học
2. Xác định các hệ sinh thái, các loài và các nguồn gene quan trọng để bảo
tồn và sử dụng bền vững đa dạng sinh học
3. Quan trắc đa dạng sinh học và các nhân tố có thể tác động đến đa dạng
sinh học
4. Thiết lập hệ thống các khu bảo tồn
5. Quản lý tài nguyên sinh học để đảm bảo cho việc bảo tồn và sử dụng bền
vững
6. Phục hồi các hệ sinh thái bị suy thoái
7. Thiết lập hệ thống bảo tồn chuyển chỗ
4.3.2. Công ước Ramsar
Công ước Ramsar được ký kết vào ngày 2 tháng 2 năm 1971 tại thành phố
Ramsar, Iran. Công ước Ramsar, là một hiệp ước quốc tế về bảo tồn và sử dụng khôn
ngoan các vùng đất ngập nước. Khi tham gia, mỗi bên ký kết có nghĩa vụ chỉ định ít
87


nhất một điểm đất ngập nước để đưa vào Danh mục các vùng đất ngập nước có tầm
quan trọng quốc tế (thường được gọi là "Điểm Ramsar"). Mục tiêu chính của nghĩa vụ

này là "để phát triển và duy trì một mạng lưới quốc tế các vùng đất ngập nước quan
trọng đối với việc bảo tồn đa dạng sinh học tồn cầu và duy trì sự sống con người
thơng qua việc duy trì các thành phần, các quá trình và lợi ích hay dịch vụ của các hệ
sinh thái đất ngập nước".
Hiện có 160 Bên ký kết Cơng ước Ramsar, với 1.970 điểm, chiếm diện tích là
190.737.829 ha. Cơng ước này sử dụng một định nghĩa rộng rãi của vùng đất ngập
nước bao gồm các hồ, sông, đầm lầy, đồng cỏ và vùng đất than bùn ướt, các đảo, cửa
sông, vùng đồng bằng và bãi triều, các khu vực gần bờ biển, rừng ngập mặn và rạn san
hô, và các điểm nhân tạo như ao cá, ruộng lúa, hồ chứa, và ruộng muối.
Các điểm lựa chọn bởi các bên ký kết bằng cách tham chiếu các tiêu chí xác định
các vùng đất ngập nước có tầm quan trọng quốc tế. Các điểm phải đáp ứng một hoặc
nhiều trong 9 tiêu chí sau đây:
Đại diện quý hiếm hoặc độc đáo của một loại đất ngập nước tự nhiên hoặc bán tự
nhiên.
Hỗ trợ các lồi có nguy cơ tuyệt chủng, hoặc cực kỳ nguy cấp hoặc dễ bị tổn
thương hay các quần xã sinh thái bị đe dọa.
Hỗ trợ các quần thể động, thực vật quan trọng cho việc duy trì sự đa dạng sinh
học của một khu vực địa sinh học cụ thể.
Hỗ trợ các loài động, thực vật ở giai đoạn quan trọng trong chu kỳ sống của
chúng, hoặc cung cấp nơi trú ẩn trong điều kiện bất lợi.
Thường xuyên hỗ trợ cho 20.000 hoặc nhiều hơn cá thể chim nước.
Thường xuyên hỗ trợ 1% cá thể trong một quần thể của một loài hoặc phân loài
chim nước.
Hỗ trợ một t lệ đáng kể của các họ, loài, phân loài cá bản địa, hoặc chu kỳ sống,
tương tác loài hoặc quần thể là đại diện lợi ích hoặc các giá trị của đất ngập nước và do
đó góp phần bảo vệ đa dạng sinh học toàn cầu.
Là một nguồn thức ăn quan trọng cho các loài cá, là bãi đẻ, nơi ni dưỡng hoặc
là đường di cư mà các lồi cá trong vùng đất ngập nước hoặc ở nơi khác, phụ thuộc.
Thường xuyên hỗ trợ 1% cá thể trong một quần thể của một lồi hoặc phân lồi
động vật, khơng phải là chim, phụ thuộc đất ngập nước.

4.3.3. Công ước bảo vệ các di sản văn hoá và thiên nhiên Thế giới
Có liên quan đến UNESCO, IUCN và Hội đồng quốc tế về địa danh và di sản.
Công ước này đã nhận được sự ủng hộ cực kỳ rộng rãi. Với sự tham gia của 109 nước,
công ước này được coi là một trong số những công ước về bảo tồn được tham gia đông
đảo nhất. Mục tiêu của công ước này là để bảo vệ các vùng thiên nhiên có ý nghĩa
quốc tế thơng qua chương trình Địa danh Di sản Thế giới. Công ước này ưu việt ở chỗ
88


nó thừa nhận rằng cộng đồng quốc tế có nghĩa vụ hỗ trợ về tài chánh cho những nơi
này.
4.3.4. Chương trình con người và sinh quyển
Năm 1971, chương trình con người và sinh quyển của UNESCO (Man And
Biosphere, MAB) đã xây dựng mạng lưới quốc tế về các khu bảo tồn sinh quyển.
Chương trình Con người và Sinh quyển nhằm cố gắng đưa các hoạt động của con
người, các hoạt động nghiên cứu và bảo vệ môi trường vào cùng một địa điểm.
Các khu bảo tồn sinh quyển được thiết kế thành những mơ hình chứng minh sự
tương ứng giữa bảo tồn và phát triển bền vững vì quyền lợi của người dân địa phương.
Tới năm 1994, đã có tất cả 312 khu bảo tồn sinh quyển được ra đời tại hơn 70 nước,
chiếm tổng cộng khoảng 1,7 triệu km2. (Stuart Chape, Mark Spalding et al., 2008)

Hình 4.10. Các vùng trong Khu bảo tồn sinh quyển
4.4. Thiết kế các khu bảo tồn
Các nhà sinh học bảo tồn đã thận trọng trong việc đưa ra các hướng dẫn
chung và đơn giản trong việc thiết kế các khu bảo tồn bởi vì mọi tình huống bảo tồn
đều địi hỏi sự quan tâm đặc biệt. Những câu hỏi then chốt mà các nhà bảo tồn cố gắng
giải quyết là:


Một khu bảo tồn cần rộng đến mức nào để bảo tồn được loài?




Tạo ra một khu bảo tồn lớn tốt hơn hay tạo ra nhiều khu bảo tồn nhỏ tốt

hơn?
Cần phải bảo vệ trong khu bảo tồn bao nhiêu cá thể của một loài nguy cấp
là đủ để ngăn cho lồi đó khỏi bị tuyệt diệt?




Hình dạng hợp lý nhất cho một khu bảo tồn thiên nhiên là hình gì?

89


Khi một số khu bảo tồn được hình thành, chúng nên nằm gần nhau hay xa
nhau, và chúng nên biệt lập với nhau hay là nên liên hệ với nhau qua những đường hành
lang?


4.4.1. Kích thước của khu bảo tồn
Các nhà bảo tồn đã tranh luận là liệu sự giàu có về lồi sẽ đạt được giá trị cực đại
trong một khu bảo tồn thiên nhiên rộng lớn hay trong tập hợp các khu bảo tồn nhỏ có
tổng kích thước tương ứng? Trong các tài liệu, vấn đề trên được gọi là “cuộc tranh
luận SLOSS” (Single Large Or Several Small). Ví dụ nên thành lập một khu bảo tồn
có diện tích 10.000 ha hay là nên thành lập bốn khu bảo tồn với diện tích 2.500 ha mỗi
khu?
Những người theo quan điểm khu bảo tồn lớn cho rằng chỉ có những khu bảo tồn

lớn mới có thể chứa đủ số lượng các lồi có kích thước lớn, có phạm vi hoạt động rộng
và mật độ thấp (ví dụ các lồi thú ăn thịt) để duy trì quần thể của chúng lâu dài. Đồng
thời một khu bảo tồn lớn cũng sẽ giảm bớt được hiệu ứng vùng biên, chứa đựng nhiều
loài hơn và có tính đa dạng nơi cư trú hơn. Những người cực đoan theo quan điểm này
còn cho rằng khơng nên duy trì các khu bảo tồn nhỏ bởi vì các khu này khơng có khả
năng hỗ trợ lâu dài cho các quần thể, do đó giá trị của chúng cho các mục đích bảo tồn
là rất ít.
Ngược lại với quan điểm trên, các nhà bảo tồn khác cho rằng các khu bảo tồn nhỏ
được lựa chọn tốt có khả năng chứa đựng nhiều kiểu hệ sinh thái cũng như quần thể
của các lồi q hiếm hơn là một khu vực rộng lớn có diện tích tương đương. Đồng
thời việc tạo ra nhiều khu bảo tồn, dẫu cho chúng có diện tích nhỏ đi nữa, cũng sẽ
tránh cho quần thể khỏi bị hủy diệt toàn bộ khi xảy ra sự cố như dịch bệnh, cháy rừng,
hay sự xâm nhập của các loài ngoại lai. Ngoài ra các khu bảo tồn nhỏ nằm gần các khu
dân cư sẽ là những trung tâm nghiên cứu và giáo dục lý tưởng về bảo tồn thiên nhiên.
Cho đến nay, sự thống nhất về kích thước khu bảo tồn có vẻ thiên về chiến lược là
tuỳ thuộc vào nhóm lồi cần được bảo tồn cũng như điều kiện khoa học. Điều được thừa
nhận là những khu bảo tồn lớn sẽ có khả năng hơn những khu bảo tồn nhỏ trong việc gìn
giữ các lồi khác nhau bởi vì nó có thể chứa đựng nhiều kiểu hệ sinh thái và những quần
thể kích thước lớn. Tuy nhiên, những khu bảo tồn nhỏ nếu được quản lý tốt thì cũng có
giá trị, đặc biệt trong trường hợp bảo tồn các loài cây, các loài động vật khơng xương sống
và những lồi động vật có xương sống nhỏ. Trên thực tế, ít có khả năng lựa chọn nào khác
ngoài việc chấp nhận phải bảo tồn các loài trong những khu bảo tồn nhỏ bởi vì xung
quanh các khu bảo tồn nhỏ khơng cịn thừa đất để sử dụng vào mục đích bảo tồn.
4.4.2. Sinh thái học cảnh quan
Sinh thái học cảnh quan nghiên cứu các kiểu nơi cư trú ở qui mô vùng và ảnh
hưởng của chúng đến sự phân bố của lồi và các q trình sinh thái. Theo định nghĩa

90



của Forman và Godron (1986), cảnh quan là một vùng mà tại đó một nhóm các hệ sinh
thái được lặp lại theo cùng một kiểu hình.
Sinh thái học cảnh quan có tầm quan trọng trong việc bảo vệ tính đa dạng sinh
học vì nhiều lồi khơng chỉ sống trong giới hạn của một nơi cư trú mà chúng còn di
chuyển giữa các nơi cư trú hoặc là sống tại vùng giáp ranh giữa hai nơi cư trú. Đối với
các loài này, loại hình của các kiểu nơi cư trú trên qui mô vùng là đặc biệt quan trọng.
Sự tồn tại và mật độ của nhiều lồi có thể bị ảnh hưởng bởi kích thước của nơi cư trú
và mức độ liên kết của chúng.
Các cảnh quan có thể được liên kết với nhau thông qua các hành lang. Các hành
lang có thể là tự nhiên hoặc là kết quả của các nhiễu động của con người đối với đất
nền canh tác (ví dụ như một dãi đất cịn lại khơng bị cày xới giữa hai cánh đồng). Cấu
trúc của hành lang có thể rất hẹp như các hàng rào, rộng hơn như hàng cây chắn gió,
hoặc là các hệ thực vật ven sơng. Có 5 loại hành lang:
Hành lang mơi trường (environmental corridors): là kết quả của hệ thực vật phản
ứng với môi trường như là hệ thực vật ven sông, theo loại đất hay theo cấu tạo địa
chất. Dải quanh co của hệ thực vật ven sông chạy song song các dịng suối là ví dụ
điển hình cho loại hành lang này.
Hành lang sót lại (remnant corridors): là sản phẩm rõ nét nhất của việc nhiễu loạn
vùng ven. Các dải thực vật ở các vùng dốc, vách đá, hoặc vùng đất ướt là phần thừa lại
khi đất được khai hoang cho sản xuất nơng nghiệp hay các mục đích khác. Kích thước
và hình dáng của hầu hết các hành lang sót lại rất khác nhau. Các hành lang sót lại
thường chứa các tập hợp cuối cùng của các loài thực, động vật bản địa.
Hành lang trồng (introduced corridors): hầu hết loại hành lang này được trồng từ
thế k XIV đến thế k XIX. Trong các vùng cảnh quan nông nghiệp, loại hành lang
kiểu này trở nên nơi cư trú quan trọng cho nhiều loài động vật hoang dã.
Hành lang xáo động (disturbance corridors): được hình thành do hoạt động của
việc quản lý đất, làm xáo động hệ thực vật trong một đường hay một dải đất. Kiểu
hành lang này được tạo ra để duy trì hệ thực vật trong một giai đoạn diễn thế mong
muốn. Chúng có thể đủ rộng để thiết lập một hàng rào đối với một số loài động vật
hoang dã, tách quần thể thành 2 quần thể biến thái. Hành lang này thường là nơi cư trú

quan trọng đối với các lồi bản địa địi hỏi nơi cư trú ở giai đoạn diễn thế sớm.
Hành lang tái sinh (regene rated corridors): là kết quả của sự tái phát triển của
thực vật ở dải đất bị xáo động. Tái phát triển có thể là sản phẩm của diễn thế tự nhiên
hay do ni trồng. Kích thước và hình dáng của hành lang này phụ thuộc vào dải đất
đã bị xáo động trước đó. Thực vật ở hành lang loại này phổ biến là các loài cỏ dại
trong các giai đoạn đầu của quá trình diễn thế.
* Một số nguyên lý thường được áp dụng khi thiết kế và bảo tồn hành lang:
91


Hành lang liên tục tốt hơn so với hành
lang bị cắt đoạn: các hành lang tạo ra sự
thuận tiện cho sự di chuyển của động vật qua
các vùng cảnh quan. Những ngắt quãng
trong hành lang sẽ làm cản trở việc di
chuyển của động vật, đặc biệt đối với những loài sống ở bên trong hành lang. Khả
năng của cá thể khi vượt qua các ngắt đoạn trong hành lang phụ thuộc vào mức độ
chịu đựng của chúng đối với các điều kiện biên, phụ thuộc vào đặc tính di chuyển và
phát tán.
Hàng lang rộng thì tốt hơn hành lang hẹp: hành lang rộng giảm thiểu được những
hiệu ứng biên đối với cá thể và quần thể khi
di chuyển trong đường biên. Tuy nhiên, các
nghiên cứu cũng chỉ ra rằng, các hành lang
rộng quá cũng có thể gây hại cho động vật
do chúng phải tốn nhiều thời gian khi vượt
qua đường biên và điều đó có thể gia tăng t lệ tử vong nói chung.
Nên duy trì và phục hồi các liên kết tự nhiên: Duy trì các mối liên kết tự nhiên
giữa các vùng sinh cảnh là cần thiết dể duy trì tính đa dạng lồi và năng lực của quần
thể. Ngăn chặn sự cắt đoạn các hành lang tự nhiên ít tốn kém hơn là phục hồi chúng.
Các liên kết nhân tạo nên có nghiên cứu kỹ càng: các quần thể của một loài sống

biệt lập nhau trong thời gian dài thường phát triển các các thích ứng di truyền đặc biệt
đối với môi trường sống của chúng. Việc kết nối các quần thể như thế lại với nhau có
thể làm mất đi những thích ứng đó.
Hai hay nhiều các hành lang kết nối giữa hai vùng biệt lập thì tốt hơn là một hành
lang: nếu có nhiều hành lang cho động vật
di chuyển từ một vùng này đến vùng khác
thì chúng sẽ dễ dàng thực hiện cuộc hành
trình. Động vật có thể khơng nhận ra hành
lang như là đường dẫn đến đích, chúng chỉ nhận ra đó như là một nơi cư trú liên tục và
khi ở trong hành lang, sự di chuyển của chúng bị giới hạn theo đường thẳng. Thường
thì tình cờ chúng đi từ đầu này tới đầu kia và càng nhiều cơ hội như vậy thì việc di
chuyển của chúng sẽ dễ xảy ra hơn.
4.4.3. Giảm thiểu các tác động của vùng biên và những tác động gây chia cắt
Nói chung mọi người đều nhất trí rằng cần thiết kế các khu bảo tồn thế nào để
giảm thiểu những nguy hại do hiệu ứng vùng biên. Những khu bảo tồn có hình trịn sẽ
có t lệ vùng biên nhỏ nhất, và vùng trung tâm của một khu bảo tồn như thế sẽ cách xa
biên hơn là so với các khu bảo tồn có hình dạng khác. Những khu bảo tồn có hình chữ
nhật và dài là có nhiều biên nhất và mọi điểm trong khu bảo tồn đều gần với biên. Áp
92


×