Tải bản đầy đủ (.doc) (34 trang)

cán cân thương mại việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (319.07 KB, 34 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
KHOA KINH TẾ - LUẬT

ĐỀ TÀI TÀI CHÍNH QUỐC TẾ
GIÁO VIÊN HƯỚNG DẪN: TS. LÊ TUẤN LỘC
NHÓM THỰC HIỆN:
1. PHẠM TRUNG DŨNG K074020284
2. TRẦN THỊ MAI HƯƠNG K074020289
3. THẠCH PHUÔNG MALI K074020393
4. LÊ THỊ KIM NGỌC K074020336
5. NGUYỄN CHÍ NGHĨA K074020394
6. LÊ NGỌC UYÊN K074020383
MỤC LỤC
Trang
LỜI MỞ ĐẦU 1
CHƯƠNG I: GIỚI THIỆU CÁN CÂN THƯƠNG MẠI 2
I. CÁN CÂN THƯƠNG MẠI 2
II. TÁC DỤNG CỦA CÁN CÂN THƯƠNG MẠI 2
III. CÁC YẾU TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN CÁN CÂN THƯƠNG MẠI 3
IV. TÁC ĐỘNG CÁN CÂN THƯƠNG MẠI ĐẾN NỀN KINH TẾ 4
CHƯƠNG II: CÁN CÂN THƯƠNG MẠI QUA CÁC GIAI ĐOẠN 5
I. TỔNG QUAN CCTM 1990 – 2008 5
II. TỔNG QUAN CCTM 10 THÁNG ĐẦU NĂM 2009 14
CHƯƠNG III: KHUYẾN NGHỊ 31
LỜI KẾT 32
2
TÀI CHÍNH QUỐC TẾ

CÁN CÂN THƯƠNG MẠI VIỆT NAM
A. LỜI MỞ ĐẦU
Cán cân thương mại là một bộ phận quan trọng trong cán cân vãng lai, đặc biệt là đối với


các nước đang phát triển như chúng ta thì cán cân thương mại hàng hóa luôn chiếm tỷ
trọng lớn trong cán cân vãng lai. Do đó, ta có thể thấy được tầm quan trọng của cán cân
thương mại đối với nền kinh tế nói riêng và đời sống kinh tế - xã hội của quốc gia nói
chung. Để có cái nhìn tổng quan về cán cân thương mại Việt Nam, bài tiểu luận của
chúng tôi sẽ trình bày về tình hình cán cân thương mại từ năm 1991 đến nay, đặc biệt chú
ý phân tích sâu bối cảnh trong 10 tháng đầu năm 2009 sau cuộc khủng hoảng kinh tế toàn
cầu 2007- 2008. Bên cạnh đó, nhóm chúng tôi cũng đưa ra những nguyên nhân chung
cùng với những khuyến nghị góp phần cải thiện cán cân thương mại. Trong quá trình làm
đề tài sẽ không thể tránh khỏi những hạn chế, mong nhận được sự góp ý của thầy và các
bạn.
B. NỘI DUNG
CHƯƠNG I: GIỚI THIỆU CÁN CÂN THƯƠNG MẠI
I. Cán cân thương mại:
Cán cân thương mại là một mục trong tài khoản vãng lai của cán cân thanh toán quốc tế.
Cán cân thương mại ghi lại những thay đổi trong xuất khẩu và nhập khẩu của một quốc
gia trong một khoảng thời gian nhất định (quý hoặc năm) cũng như mức chênh lệch (xuất
khẩu trừ đi nhập khẩu) giữa chúng. Khi mức chênh lệch là lớn hơn 0, thì cán cân thương
mại có thặng dư. Ngược lại, khi mức chênh lệch nhỏ hơn 0, thì cán cân thương mại có
thâm hụt. Khi mức chênh lệch đúng bằng 0, cán cân thương mại ở trạng thái cân bằng.
3
Cán cân thương mại còn được gọi là xuất khẩu ròng hoặc thặng dư thương mại. Khi cán
cân thương mại có thặng dư, xuất khẩu ròng/thặng dư thương mại mang giá trị dương.
Khi cán cân thương mại có thâm hụt, xuất khẩu ròng/thặng dư thương mại mang giá trị
âm. Lúc này còn có thể gọi là thâm hụt thương mại. Tuy nhiên, cần lưu ý là các khái
niệm xuất khẩu, nhập khẩu, xuất khẩu ròng, thặng dư/thâm hụt thương mại trong lý luận
thương mại quốc tế rộng hơn các trong cách xây dựng bảng biểu cán cân thanh toán quốc
tế bởi lẽ chúng bao gồm cả hàng hóa lẫn dịch vụ.
II. Tác dụng của cán cân thương mại:
Các thông tin trong bảng cán cân thương mại có 4 tác dụng chính
Thứ nhất, cung cấp những thông tin liên quan đến cung cầu tiền tệ của một quốc gia, cụ

thể là thể hiện sự thay đổi tỉ giá hối đoái của đồng nội tệ so với ngoại tệ.
Thứ hai, phản ánh khả năng cạnh tranh trên thị trường quốc tế của một quốc gia.
Thứ ba, phản ánh tình trạng của cán cân tài khoản vãng lai và nợ nước ngoài, do đó ảnh
hưởng đến ổn định kinh tế vĩ mô. Để đánh giá khả năng chịu đựng của cán cân tài khoản
vãng lai thường sử dụng các chỉ số như là chỉ số xuất khẩu/GDP, chỉ số nợ/xuất khẩu, tỉ
lệ tăng trưởng nhập khẩu/ tăng trưởng xuất khẩu, tỉ lệ mức lãi xuất trả nợ trên mức tăng
xuât khẩu. Thông thường các chuyên gia thường sử dụng chỉ số nợ/xuất khẩu để đánh giá
tình trạng của cán cân tài khoản vãng lại
Tác dụng cuối là thể hiện mức tiết kiệm, đầu tư và thu nhập thực tế. Mối quan hệ giữa
cán cân thương mại với tiết kiệm và đầu tư được thể hiện qua công thức :
X – M = (S - I) + (T – G)
III. Các yếu tố ảnh hưởng đến cán cân thương mại:
Có 4 yếu tố chính ảnh hưởng đến cán cân thương mại : xuất khẩu, nhập khẩu, tỷ giá hối
đoái và các chính sách của chính phủ.
3.1/ Xuất khẩu : chủ yếu phụ thuộc vào những gì đang diễn biến tại các quốc gia khác vì
xuất khẩu của nước này chính là nhập khẩu của nước khác. Do vậy nó chủ yếu phụ thuộc
vào sản lượng và thu nhập của các quốc gia bạn hàng. Chính vì thế trong các mô hình
kinh tế người ta thường coi xuất khẩu là yếu tố tự định.
4
3.2/ Nhập khẩu : có xu hướng tăng khi GDP tăng và thậm chí nó còn tăng nhanh hơn. Sự
gia tăng của nhập khẩu khi GDP tăng phụ thuộc xu hướng nhập khẩu biên (Mm). Mm là
phần của GDP có thêm mà người dân muốn chi cho nhập khẩu. Ví dụ, Mm bằng 0,3
nghĩa là cứ 1 đồng GDP có thêm thì người dân có xu hướng dùng 0,3 đồng cho nhập
khẩu. Ngoài ra, nhập khẩu phụ thuộc giá cả tương đối giữa hàng hóa sản xuất trong nước
và hàng hóa sản xuất tại nước ngoài. Nếu giá cả trong nước tăng tương đối so với giá thị
trường quốc tế thì nhập khẩu sẽ tăng lên và ngược lại. Ví dụ: nếu giá xe đạp sản xuất tại
Việt Nam tăng tương đối so với giá xe đạp Nhật Bản thì người dân có xu hướng tiêu thụ
nhiều xe đạp Nhật Bản hơn dẫn đến nhập khẩu mặt hàng này cũng tăng.
3.3/ Tỷ giá hối đoái : là nhân tố rất quan trọng đối với các quốc gia vì nó ảnh hưởng đến
giá tương đối giữa hàng hóa sản xuất trong nước với hàng hóa trên thị trường quốc tế.

Khi tỷ giá của đồng tiền của một quốc gia tăng lên thì giá cả của hàng hóa nhập khẩu sẽ
trở nên rẻ hơn trong khi giá hàng xuất khẩu lại trở nên đắt đỏ hơn đối với người nước
ngoài. Vì thế việc tỷ giá đồng nội tệ tăng lên sẽ gây bất lợi cho xuất khẩu và thuận lợi cho
nhập khẩu dẫn đến kết quả là xuất khẩu ròng giảm. Ngược lại, khi tỷ giá đồng nội tệ giảm
xuống, xuất khẩu sẽ có lợi thế trong khi nhập khẩu gặp bất lợi và xuất khẩu ròng tăng lên.
3.4/ Các chính sách của chính phủ: bao gồm chính sách thương mại, chính sách đầu tư,
chính sách tỉ giá và các chính sách khác như thuế, tài khóa, lãi suất, tiêu dùng, quản lý nợ
nước ngoài. Các chính sách của chính phủ có ảnh hưởng rất quan trọng đến cán cân
thương mại. Nó có thể tác động trực tiếp hoặc gián tiếp làm cho cán cân thương mại xấu
đi hay cải thiện cán cân thương mại trong ngắn hạn hay dài hạn. Ví dụ : chính sách
khuyến khích nhập khẩu hàng tiêu dùng sẽ làm xấu đi tình trạng cán cân thương mại,
chính sách khuyến khích nhập khẩu tue liệu sản xuất dử dụng để phát xuất khẩu sẽ cải
thiện cán cân thương mại trong dài hạn.
IV. Tác động của cán cân thương mại đến nền kinh tế
Cán cân thương mại hàng hóa và dịch vụ (X_M) cùng với các yếu tố khác như chi cho
tiêu dùng ( C ), chi tiêu đầu tư ( I ), chi tiêu của chính phủ ( G ) cấu thành tổng thu nhập
quốc dân (GDP). Như vậy, CCTM la một bộ phận cấu thành tông thu nhập quốc dân,
thặng dư hay thâm hụt CCTM ảnh hưởng trực tiếp đến tăng trưởng kinh tế.
Y = C + I + G + (X-M)
5
Như vậy CCTM có mối quan hệ mật thiết với các chỉ số kinh tế vĩ mô cơ bản. Trạng thái
của CCTM thể hiện động thái của nền kinh tế ở những thời điểm khác nhau. Chính vì
vậy, biến động của CCTM trong ngắn hạn và dài hạn là cơ sở để các chính phủ điều
chỉnh chiến lược và mô hình phát triển kinh tế, chính sách cạnh tranh,….

4.1/ Tác động tích cực : xuất khẩu ròng làm tăng lượng tài sản của nền kinh tế. Ngoài ra,
trạng thái của cán cân thương mại có tác động đến nhiều mặt của nền kinh tế, ví dụ nếu
thặng dư sẽ góp phần thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, tạo thêm công ăn việc làm mới, tăng
tích lũy quốc gia dưới dạng dự trữ ngoại hối, tạo uy tín và tiền đề để đồng nội tệ tự do
chuyển đổi.

4.2/ Tác động tiêu cực :
CCTM thâm hụt kéo dài nhiều năm, đồng nghĩa với việc phải cắt bớt nhập khẩu như là
một phần của những biện pháp tài chính và tiền tệ khắc khổ. Kết quả là làm giảm tăng
trường kinh tế, ổn định kinh tế vĩ mô, gia tăng tình trạng thất nghiệp.
Tuy nhiên, tình trạng của CCTM thặng dư hay thâm hụt trong ngắn hạn chưa nói lên
được trạng thái thực của nền kinh tế, vấn đề là ở chỗ thâm hụt cán cân thương mại ở mức
có thể đảm bảo sức chịu đựng cùa CCTKVL và nợ nước ngoài.
6
CHƯƠNG II: CÁN CÂN THƯƠNG MẠI QUA CÁC GIAI ĐOẠN
I. Tổng quan về tình hình CCTM từ 1990 – 2008:
Từ những năm đầu thập kỷ 90 của thế kỷ XX, với những tác động tích cực từ
chính sách đổi mới kinh tế của Đảng và Nhà nước theo hướng thị trường, mở cửa và hội
nhập kinh tế, năng lực sản xuất của nền kinh tế đã được giải phóng, lực lượng sản xuất
trong nước phát triển mạnh mẽ. Cơ cấu sản xuất chuyển dịch theo hướng tích cực, dần
dần từ sản xuất nhằm thay thế hàng nhập khẩu sang sản xuất nhằm mục đích xuất khẩu.
Sản xuất hàng xuất khẩu đã có sự chuyển biến tích cực theo hướng tăng các mặt hàng chế
biến, giảm tỷ trọng các sản phẩm thô, đa dạng hóa chủng loại sản phẩm hàng hóa. Hàng
hóa nhập khẩu chủ yếu là tư liệu sản xuất phục vụ sản xuất trong nước và xuất khẩu. Thị
trường xuất - nhập khẩu cũng tăng trưởng nhanh theo hướng đa dạng hóa và chuyển dần
từ giao dịch gián tiếp thông qua các thị trường xuất - nhập khẩu trung chuyển như
Singapore sang giao dịch trực tiếp tại các thị trường Mỹ, châu Âu và Nhật Bản. Việt Nam
cũng trở thành nước xuất khẩu lớn nhất, nhì thế giới về các mặt hàng như gạo, tiêu, điều,
cà phê,
Việt Nam đã từng bước hội nhập vào nền kinh tế khu vực và toàn cầu với việc gia
nhập ASEAN (năm 1995), ASEM (năm 1996), APEC (năm 1998) và đặc biệt là WTO
(năm 2006). Thị trường xuất - nhập khẩu của Việt Nam được mở rộng nhưng áp lực cạnh
tranh cũng ngày càng lớn. Các doanh nghiệp sản xuất hàng xuất khẩu đã từng bước đầu
tư chiều sâu để hạ giá thành, nâng cao chất lượng sản phẩm hàng hóa, đáp ứng ngày càng
tốt hơn yêu cầu chất lượng của những thị trường nhập khẩu khó tính nhất như EU, Nhật
Bản, Mỹ. Bên cạnh đó, đầu tư trực tiếp nước ngoài cũng góp phần quan trọng trong việc

nâng cao trình độ công nghệ và cung cấp vốn cho việc phát triển mở rộng sản xuất, kinh
doanh xuất - nhập khẩu.
Những sự kiện trên đây khẳng định rằng Việt Nam đang ngày càng hội nhập với
kinh tế Thế giới. Cùng với việc xuất khẩu được cải thiện là nhập khẩu cũng tăng cao dẫn
đến cán cân thương mại thâm hụt.
Nhập siêu là yếu tố cơ bản gây nên tình trạng thâm hụt cán cân tài khoản vãng lai, ảnh
hưởng xấu đến cán cân thanh toán và nợ quốc tế. Việc điều chỉnh cán cân thương mại,
hạn chế nhập siêu có vai trò quan trọng để lành mạnh hoá cán cân thanh toán quốc tế.
7
Tuy nhiên, tính từ năm 1990 – 2008 , khoảng thời gian 19 năm này Việt Nam đã liên tục
nhập siêu ( ngoại trừ trường hợp xuất siêu 1992 ), điều này vẫn chưa được cải thiện khi
Việt Nam đã là thành viên của WTO được 2 năm.
Trong giai đoạn 2001- 2008 đã diễn ra sự thâm hụt kép cả cán cân thương mại hữu hình
và cán cân thương mại vô hình. Tổng mức thâm hụt cán cân tài khoản vãng lai cộng dồn
của cả giai đoạn sẽ vào khoảng 72,5 tỷ USD (bằng 17,6% GDP). Trong đó, thâm hụt cán
cân thương mại hữu hình chiếm 78,6%, thâm hụt cán cân thương mại vô hình chiếm
21,4% (riêng thâm hụt cán cân dịch vụ chiếm 8,64%, thâm hụt cán cân thu nhập chiếm
12,68%).
Để biết rõ hơn tình hình xuất nhập khẩu cũng như xem xét cụ thể việc thâm hụt
cán cân thương mại của Việt Nam trong giai đoạn 1990 – 2008. Sau đây chúng tôi sẽ
trình bày những con số cụ thể và đặc biệt chú trọng đến nguyên nhân xuất siêu năm 1992,
tình hình xuất nhập khẩu năm đầu tiên Việt Nam là thành viên WTO – 2007, và năm xảy
ra khủng hoảng tài chính toàn cầu – 2008.
Năm Tổng số
Cán cân
thương mại
Xuất khẩu Nhập khẩu
Triệu đô la Mỹ
1990 5156,4 2404,0 2752,4 -348,4
1991 4425,2 2087,1 2338,1 -251,0

1992 5121,5 2580,7 2540,8 39,9
1993 6909,1 2985,2 3923,9 -938,7
1994 9880,1 4054,3 5825,8 -1771,5
1995 13604,3 5448,9 8155,4 -2706,5
1996 18399,4 7255,8 11143,6 -3887,8
1997 20777,3 9185,0 11592,3 -2407,3
1998 20859,9 9360,3 11499,6 -2139,3
1999 23283,5 11541,4 11742,1 -200,7
2000 30119,2 14482,7 15636,5 -1153,8
2001 31247,1 15029,2 16217,9 -1188,7
2002 36451,7 16706,1 19745,6 -3039,5
2003 45405,1 20149,3 25255,8 -5106,5
2004 58453,8 26485,0 31968,8 -5483,8
2005 69208,2 32447,1 36761,1 -4314,0
2006 84717,3 39826,2 44891,1 -5064,9
2007 111326,1 48561,4 62764,7 -14203,3
2008 143398,9 62685,1 80713,8 -18028,7
8
Năm 1992
Năm 1992 là năm xuất siêu duy nhất của nước ta trong giai đoạn 1990 – 2008.
Nguyên nhân xuất siêu của năm 1992:
- Năm 1992, tổ chức hỗ trợ kinh tế các nước xã hội chủ nghĩa SEV tan rã, Việt Nam
nhanh chóng xúc tiến quá trình bình thường hóa quan hệ thương mại với khối các nước
EU , ASEAN và nhiều nước khác trên thế giới, đồng thời tiến hành đàm phán gia nhập
diễn đàn kinh tế các nước khu vực châu Á - Thái Bình Dương.
- Hiến pháp mới được ban hành, luật doanh nghiệp hình thành, mở ra một thời kỳ thông
thoáng hơn cho nền kinh tế Việt Nam trong giai đoạn đổi mới.
- Giá trị xuất khẩu gạo và một số nông sản khác như tiêu, điều, cà phê của Việt Nam năm
1992 tăng đột biến, Việt Nam từ nước vô danh trở thành một trong những quốc gia xuất
khẩu gạo hàng đầu thế giới, trong khi xuất khẩu trước đây chỉ chủ yếu trông cậy vào dầu

thô.
- Quá trình bình thường hóa quan hệ giữa Việt Nam và Hoa Kỳ đang diễn ra hết sức tốt
đẹp, Hoa Kỳ đã nới lỏng hơn chính sách cấm vận đối với Việt Nam và đang cân nhắc
quyết định xóa bỏ nó.
Những lý do trên là một trong những nguyên nhân nhất định cho sự chuyển biến trong
tình hình xuất nhập khẩu của Việt Nam năm 1992 (Việt Nam xuất siêu).
Năm 2007:
 Xu t kh uấ ẩ
Hoạt động xuất khẩu tiếp tục đạt được những kết quả tích cực, thể hiện trên những
mặt chủ yếu như sau:
- Quy mô và tốc độ tăng trưởng kim ngạch xuất khẩu được duy trì ở mức cao, tỷ
trọng hàng hóa chế biến, chế tạo, có hàm lượng công nghệ và chất xám cao tăng dần, tỷ
trọng hàng hóa chưa qua chế biến giảm dần. Giá trị kim ngạch xuất khẩu cả năm đạt
48,387 tỷ USD, tăng 21,5% so với năm 2006 (kế hoạch Chính phủ đề ra là 46,7 tỷ USD,
tăng 17,4%), trong đó hàng hóa công nghiệp chiếm 76,3% tổng kim ngạch xuất khẩu
(năm 2006 là 76,1%) tiếp tục là động lực cho hoạt động xuất khẩu, khu vực có vốn đầu tư
nước ngoài xuất khẩu đạt 27,8 tỷ USD, chiếm 57,5% và tăng 21,0% so với năm 2006;
9
khu vực doanh nghiệp 100% vốn trong nước đạt 20,6 tỷ USD, chiếm 42,5% và tăng
22,2%.
- Về mặt hàng xuất khẩu, các mặt hàng xuất khẩu chủ lực có kim ngạch trên 1 tỷ USD
(11 mặt hàng và nhóm hàng ) vẫn duy trì được tốc độ tăng trưởng khá (trừ dầu thô) là
thủy sản, gạo, cà phê, cao su, than đá, dệt may, giầy dép, điện tử và linh kiện máy tính,
sản phẩm gỗ và nhóm sản phẩm cơ khí; trong đó có 4 mặt hàng là dầu thô, dệt may, giày
dép và thuỷ sản kim ngạch đạt trên 3 tỷ USD, 2 mặt hàng điện tử và sản phẩm gỗ đạt trên
2 tỷ USD. Một số nhóm hàng mới mặc dù có kim ngạch chưa cao nhưng tốc độ tăng
trưởng tương đối nhanh như dây điện và cáp điện tăng 25,6%; túi xách, vali, mũ, ô dù
tăng 26,2%; sản phẩm nhựa tăng 52,0%; hàng thủ công mỹ nghệ tăng 18,9% . Kim ngạch
xuất khẩu tuy tăng khá 21,5%, trong đó có yếu tố giá xuất khẩu tăng cao, những vẫn chưa
đạt yêu cầu và còn thấp hơn mức tăng của một số năm trước (Chi tiết xem Phụ lục 1e).

Như vậy, so với năm 2006, qui mô và tốc độ tăng trưởng kim ngạch xuất khẩu
tiếp tục được duy trì ở mức cao, các chỉ tiêu về tăng trưởng đều thực hiện đạt và vượt kế
hoạch. Kim ngạch xuất khẩu của khu vực các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài
tiếp tục chiếm tỷ trọng lớn và có vai trò quan trọng đối với tăng trưởng xuất khẩu của cả
nước.
- Cơ cấu hàng hoá xuất khẩu có chuyển dịch tích cực theo hướng tăng dần tỷ
trọng nhóm hàng chế biến, chế tạo, nhóm hàng có hàm lượng công nghệ và chất xám cao
như: thuỷ sản, dệt may, giầy dép, hàng điện tử và linh kiện điện tử, sản phẩm gỗ ,giảm
dần xuất khẩu hàng thô (mặc dù xét về kim ngạch thì nhóm hàng nhiên liệu khoáng sản
vẫn tăng cao do được giá).
- Tuy nhiên, qui mô xuất khẩu vẫn còn nhỏ bé, tốc độ tăng trưởng nhanh nhưng
chưa vững chắc và rất dễ bị tổn thương bởi các biến động bên ngoài như giá cả,các rào
cản thương mại mới của nước ngoài bởi sự phu thuộc vào nguyên vật liệu nhập khẩu
còn lớn.
- Sức cạnh tranh của hàng hoá chưa được cải thiện rõ rệt, cơ cấu mặt hàng còn
chưa hợp lý thể hiện ở chỗ chủng loại đơn điệu, chậm xuất hiện những mặt hàng xuất
khẩu mới có kim ngạch đáng kể; giá trị gia tăng thấp.
10
- Nhiều doanh nghiệp chưa nắm bắt được những cơ hội để thâm nhập và khai thác
các thị trường xuất khẩu; chưa tận dụng triệt để lợi ích từ việc gia nhập WTO, các hiệp
định thương mại song phương và khu vực đã ký kết giữa Việt Nam và các đối tác nhất là
việc cắt giảm thuế quan để khai thác hết tiềm năng của các thị trường lớn như Hoa Kỳ,
EU, Trung Quốc…
- Thị trường xuất khẩu tăng không đều, trong khi thị trường ASEAN, EU, Mỹ
tăng khá cao thì một số thị trường quan trọng khác tăng chậm hoặc giảm như Trung
Quốc, Nhật Bản và Ôxtrâylia.
 Nh p kh u v cán cân th ng m iậ ẩ à ươ ạ
Tổng kim ngạch nhập khẩu năm 2007 đạt 60,78 tỷ USD, tăng 35,4% so với năm 2006,
trong đó doanh nghiệp 100% vốn trong nước nhập khẩu 39,27 tỷ USD, chiếm 64,6%,
tăng 38,3% và doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài nhập khẩu 21,51 tỷ USD, chiếm

35,4%, tăng 30,5% so với năm 2006.
Những mặt hàng nhập khẩu chủ yếu có trị giá tăng cao so với năm 2006 gồm: ô tô
nguyên chiếc các loại tăng 145,5%; linh kiện ô tô tăng 82,2%; thép thành phẩm tăng
75,6%; phôi thép tăng 38,9%; phân bón các loại tăng 45,1%; sợi các loại tăng 36,8%; hóa
chất nguyên liệu tăng 39,1%; máy móc, thiết bị, phụ tùng tăng 56,3%; điện tử, máy tính
và linh kiện tăng 43,6%; vải tăng 33,6%
Các mặt hàng nhập khẩu có kim ngạch lớn thuộc nhóm máy móc, thiết bị phụ tùng,
nguyên nhiên vật liệu (không kể xăng dầu) và chiếm 58% tỷ trọng tổng kim ngạch nhập
khẩu. Trong đó có một số mặt hàng chiếm tỷ trọng cao như: sắt thép, kim loại và phôi
thép 6,7 tỷ USD; phân bón các loại 997 triệu USD; máy móc, thiết bị, phụ tùng 10,3 tỷ
USD; hoá chất, chất dẻo nguyên liệu 3,9 tỷ USD, điện tử máy tính linh kiện 2,9 tỷ USD;
vải, sợi, bông và nguyên phụ liệu dệt may, da 7,2 tỷ USD, gỗ nguyên liệu 1,0 tỷ USD,
thức ăn gia súc và nguyên liệu 1,1 tỷ USD, tân dược và nguyên liệu 861 triệu USD.
Qua đó cho thấy nhập khẩu hàng hóa năm 2007 chủ yếu là máy móc, thiết bị, phụ tùng và
nguyên, nhiên phụ liệu đã đáp ứng nhu cầu đầu tư phát triển và sản xuất hàng hóa phục
vụ trong nước và xuất khẩu, góp phần đổi mới công nghệ và hiện đại hóa sản xuất; đảm
bảo cung cấp đầy đủ và kịp thời nhiều mặt hàng thiết yếu, đáp ứng đa dạng nhu cầu tiêu
dùng trong nước; .Lượng hàng tiêu dùng nhập khẩu chiếm tỷ trọng nhỏ (trên 3%) trong
11
tổng kim ngạch nhập khẩu (khoảng 2 tỷ USD). Tuy nhiên, nhập khẩu gia tăng nhanh
chóng làm tăng nhập siêu không đạt mục tiêu kế hoạch đề ra.
Nhập siêu cả năm 2007 ước khoảng 12,3 tỷ USD tăng 144,7% so với năm 2006, bằng
25,6% kim ngạch xuất khẩu (năm 2006 là 12,7%). Đây là mức nhập siêu cao so với cùng
kỳ nhiều năm qua do tác động của các nguyên nhân khách quan và chủ quan như: nền
kinh tế tiếp tục tăng trưởng cao, đầu tư nước ngoài tăng mạnh, giá và lượng một số mặt
hàng nguyên nhiên vật liệu nhập khẩu tăng, ảnh hưởng của việc cắt giảm thuế theo cam
kết và nhu cầu tiêu dùng, sức mua trong nước tăng cao.
Năm 2008
Hoạt động thương mại năm 2008 bên cạnh một số thuận lợi như một số mặt hàng trong
một số tháng đầu năm được lợi về giá, về thị trường, nhưng cũng gặp không ít khó khăn

do cạnh tranh thị trường, về chính sách giám sát hàng dệt may của Mỹ, việc áp thuế bán
phá giá giày mũ da của EU, các quy định của Luật nông nghiệp Mỹ, đặc biệt việc khủng
hoảng tài chính, tiền tệ của Mỹ và một số nền kinh tế lớn đã làm giảm sút sức mua, sức
thanh tóan của các nhà nhập khẩu trong những tháng cuối năm đã làm cho nhu cầu và
mức tiêu thụ giảm, kim ngạch xuất khẩu qua từng tháng cuối năm bị giảm dần, ảnh
hưởng tới tổng kim ngạch cả năm. Trước tình hình kim ngạch xuất khẩu hàng hóa vào
EU và Hoa Kỳ có xu hướng tăng không cao như năm 2007, chúng ta đã đẩy mạnh việc đa
dạng hoá thị trường, nhiều loại hàng hoá đã vào được các thị trường xuất khẩu mới, nhất
là thị trường châu Phi đã tăng đột biến đồng thời giảm dần xuất khẩu qua các thị trường
trung gian.
Về nhập khẩu, khi mức nhập khẩu và nhập siêu những tháng đầu năm ở mức cao, Chính
phủ đã chỉ đạo thực hiện nhiều giải pháp quyết liệt kiềm chế nhập siêu, nên mức nhập
siêu đã giảm dần và thực hiện vượt yêu cầu đề ra.
 Xu t kh u ấ ẩ
Kim ngạch cả năm đạt xấp xỉ 63 tỷ USD, tăng trên 29,5% so với năm 2007. Kim ngạch
của khu vực doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài đạt 34,87 tỷ USD, chiếm tỷ trọng
55,4%, tăng 25,5% so với năm 2007; của khu vực doanh nghiệp 100% vốn trong nước
đạt 28,02 tỷ USD, chiếm tỷ trọng 44,6%, tăng 34,9%, so với năm 2007.
12
Tốc độ tăng trưởng kim ngạch xuất khẩu giữ được ở mức cao do trong những tháng đầu
năm dầu thô, than đá và nhiều mặt hàng nông sản gặp thuận lợi về giá và thị trường xuất
khẩu. Những mặt hàng có tốc độ tăng trưởng xuất khẩu cao như gạo, nhân điều, khoáng
sản.
Ngoài 10 mặt hàng có kim ngạch trên 1 tỷ USD đã thực hiện được từ năm 2007 (chủ yếu
thuộc nhóm hàng công nghiệp chế biến, nông sản) là thủy sản, gạo, cà phê, cao su, dầu
thô, dệt may, giầy dép, điện tử và linh kiện máy tính, sản phẩm gỗ và nhóm sản phẩm cơ
khí, trong năm nay xuất hiện thêm 1 mặt hàng có khả năng đạt kim ngạch trên 1 tỷ USD
là dây điện và cáp điện.
Một số mặt hàng xuất khẩu chủ lực có khối lượng giảm nhưng do giá thế giới tăng mạnh
nên về mặt trị giá tăng khá so với năm 2007 như: Dầu thô tăng 23,1% nhưng lượng giảm

7,7%, than đá tăng 44,3% nhưng lượng giảm 38,3%, cà phê tăng 5,8% nhưng lượng giảm
18,3%, cao su tăng 14,6% nhưng lượng giảm 9,8%, chè tăng 12,2% nhưng lượng giảm
8,8%.
Sản phẩm tàu thuyền, sản phẩm từ gang thép, sản phẩm từ cao su có mức tăng trưởng cao
so với năm 2007, là những mặt hàng có triển vọng tăng mạnh trong những năm tới.
Cơ cấu thị trường hàng hoá có sự chuyển dịch, thị trường Châu Á chiếm 44,5% (năm
2007 là 41,9%), Châu Âu chiếm 18,3% (năm 2007 là 18,7%), Châu Mỹ 20,6% (năm
2007 là 21,9%), Châu Đại dương 6,7% (năm 2007 là 6,4%), Châu Phi 1,9% (năm 2007 là
1,27%).
Đến nay, hàng hoá xuất khẩu nước ta đã vươn tới hầu hết các quốc gia và vùng lãnh thổ.
Cuộc khủng hoảng tài chính đã ảnh hưởng đến xuất khẩu của nước ta vào EU và Hoa Kỳ
khiến tốc độ tăng xuất khẩu vào hai thị trường này giảm so với năm 2007 nhưng năm qua
chúng ta tiếp tục đẩy mạnh việc đa dạng hoá thị trường xuất khẩu, nhiều chủng loại hàng
hoá đã vào được các thị trường xuất khẩu mới, giảm dần xuất khẩu qua các thị trường
trung gian, đặc biệt xuất khẩu vào thị trường châu Phi tăng đột biến.
Nhận định chung về các kết quả đạt được
Trên cơ sở những kết quả đạt được trong hoạt động xuất khẩu năm 2008, có thể rút ra
một số nhận định cơ bản như sau:
o Những thành tựu:
13
Năm 2008 do chịu ảnh hưởng của biến động của kinh tế thế giới nên xuất khẩu diễn biến
không theo quy luật, những tháng đầu năm xuất khẩu gặp thuận lợi về giá, KNXK đạt
mức cao trong 2 tháng 7 và 8 tuy nhiên đến tháng 9 xuất khẩu giảm mạnh và tiếp tục
giảm trong những tháng cuối năm. Nhìn chung cả năm 2008, xuất khẩu đã đạt được mức
tăng trưởng cao, phát triển cả về quy mô, tốc độ, thị trường và thành phần tham gia xuất
khẩu. Có thể nhìn nhận như sau:
Thứ nhất, qui mô và tốc độ tăng trưởng kim ngạch xuất khẩu tiếp tục được duy trì ở mức
cao.
Thứ hai, các mặt hàng xuất khẩu truyền thống vẫn giữ được nhịp độ tăng trưởng cao, nhất
là các mặt hàng gạo, rau quả, hạt điều, than đá, hàng điện tử và linh kiện máy tính, sản

phẩm nhựa, túi xách và li và ô dù Xuất khẩu hàng hoá tăng còn có sự đóng góp của
nhiều mặt hàng mới ví dụ như sản phẩm từ cao su, sản phẩm chế tạo từ gang, thép, máy
biến thế, động cơ điện, tàu thuyền các loại
Thứ ba, cơ cấu hàng hoá xuất khẩu vẫn tiếp tục chuyển dịch tích cực theo hướng tăng tỷ
trọng nhóm hàng chế biến, chế tạo, giảm tỷ trọng xuất khẩu thô. Những hàng hoá có tốc
độ tăng trưởng xuất khẩu cao và giá trị xuất khẩu lớn là nhóm hàng công nghiệp và chế
biến như: thuỷ sản, hàng điện tử và linh kiện điện tử, sản phẩm nhựa, túi xách va li, mũ
và ô dù
Thứ tư, bên cạnh việc tập trung khai thác tối đa các thị trường trọng điểm, năm qua chúng
ta tiếp tục giữ vững thị trường truyền thống, đẩy mạnh việc đa dạng hoá thị trường xuất
khẩu, nhiều chủng loại hàng hoá xuất khẩu đã vào được các thị trường mới, điển hình là
các thị trườn tại khu vực Châu Phi-Tây Nam Á, Châu Á, và Châu Đại Dương .
o Những hạn chế :
Thứ nhất, một số mặt hàng xuất khẩu chủ lực gặp khó khăn do phải đối mặt với những
rào cản thương mại mới ngày càng nhiều với các hành vi bảo hộ thương mại tinh vi tại
các thị trường lớn. Việc tăng giá trị xuất khẩu phụ thuộc nhiều vào giá thế giới và những
thị trường xuất khẩu lớn, khi những thị trường này có biến động thì KNXK bị ảnh hưởng.
Thứ hai, nhu cầu của thị trường xuất khẩu bị thu hẹp, các đơn hàng xuất khẩu dệt may, đồ
gỗ, một số nông sản vào Mỹ và EU đều giảm do ảnh hưởng từ cuộc khủng hoảng tài
14
chính toàn cầu; Trong khi thị trường xuất khẩu gặp khó khăn thì các chi phí đầu vào
không giảm, thậm chí còn tăng cao như lương công nhân, lãi suất ngân hàng, do lạm phát
khiến nhiều doanh nghiệp dệt may phải chuyển từ sản xuất mua nguyên liệu bán thành
phẩm sang gia công để bảo toàn vốn, vì vậy giá trị gia tăng trên sản phẩm dệt may ngày
càng thấp là lợi nhuận giảm.
Thứ ba, xuất khẩu vẫn phụ thuộc nhiều vào các mặt hàng khoáng sản, nông, lâm, thuỷ,
hải sản; các mặt hàng công nghiệp chế biến chủ yếu vẫn mang tính chất gia công; Các
mặt hàng xuất khẩu chưa đa dạng, phong phú, số lượng các mặt hàng xuất khẩu mới có
kim ngạch lớn, tốc độ tăng trưởng nhanh chưa nhiều. Xuất khẩu chủ yếu dựa vào khai
thác lợi thế so sánh sẵn có mà chưa khai thác được lợi thế cạnh tranh thông qua việc xây

dựng các ngành công nghiệp có mối liên kết chặt chẽ với nhau để hình thành chuỗi giá trị
gia tăng xuất khẩu lớn.
Thứ tư, vẫn chưa tận dụng triệt để lợi ích từ việc gia nhập WTO, các hiệp định thương
mại song phương và khu vực đã ký kết giữa Việt Nam và các đối tác để khai thác hết
tiềm năng của các thị trường lớn như Hoa Kỳ, EU, Trung Quốc.
Thứ năm, việc tiếp cận nguồn vốn vay bằng VNĐ cho sản xuất kinh doanh vẫn còn bất
cập, nhất là đối với các mặt hàng nông sản, thuỷ sản, trong khi đó lãi suất cho vay mặc dù
đã giảm nhưng vẫn ở mức cao , điều này đã làm chi phí tăng cao ảnh hưởng tới khả năng
cạnh tranh của hàng hoá xuất khẩu.
 Nh p kh u v cán cân th ng m iậ ẩ à ươ ạ
Tổng kim ngạch nhập khẩu năm 2008 đạt 79,90 tỷ USD, tăng 27,5% so với năm 2007,
trong đó doanh nghiệp có vốn trong nước nhập khẩu khoảng 51,5 tỷ USD, tăng 25,6% và
doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài nhập khẩu khoảng 28,5 tỷ USD, tăng 31% .
Những mặt hàng nhập khẩu chủ yếu có trị giá tăng cao so với năm 2007 gồm: ôtô nguyên
chiếc các loại tăng 78,9% (so với cuối năm 2007 và đầu năm 2008 thì đã giảm rất nhiều),
linh kiện ôtô tăng 52,6%, thép tăng 22%, phôi thép tăng 42,9%, phân bón tăng 47%, xăng
dầu tăng 41,2%, bông tăng 75%, đá quý và kim loại tăng200,9%, thức ăn gia súc và
nguyên liệu tăng 47,2%
15
Các mặt hàng nhập khẩu có kim ngạch lớn thuộc nhóm thiết bị máy móc, nguyên nhiên,
vật liệu, phụ liệu (không kể xăng dầu). Trong đó có một số mặt hàng chiếm tỷ trọng cao
như: thép thành phẩm chiếm 6,1 %, máy móc thiết bị chiếm 17%, vải chiếm 5,5%, điện
tử linh kiện, máy tính chiếm 4,6%, nguyên phụ liệu dệt, may, da chiếm 2,9 %
Về thị trường nhập khẩu, KNNK từ Châu Á vẫn chiếm tỷ trọng lớn nhất 75,6% và ngày
càng tăng (năm 2007 chiếm 72,2%) trong đó chủ yếu là nhập khẩu từ Trung Quốc và
ASEAN, trong khi đó nhập khẩu từ thị trường Châu Âu vẫn ở mức khiêm tốn chiếm
10,3%
Nhập siêu cả năm 2008 là 17 tỷ USD với tỷ lệ nhập siêu/xuất khẩu là 27%, giảm so với
năm 2007 (năm 2007 là 29,1%). So với mục tiêu ban đầu là 20 tỷ USD đã phấn đấu giảm
được 3 tỷ USD nhập siêu.

Ngoài các nước ASEAN, Việt Nam cũng nhập siêu lớn từ các nước Châu Á khác. Các
mặt hàng nhập siêu như nguyên phụ liệu dệt may, da giầy, xăng dầu, hoá chất, phân bón,
sắt thép, máy móc thiết bị phụ tùng đều là nguyên liệu sản xuất hàng xuất khẩu của ta
sang các thị trường khác.
Trên đây là tình hình xuất nhập khẩu của Việt Nam từ năm 1990 – 2008. Từ đó chúng ta
có thể thấy được nguyên nhân cán cân thương mại tiếp tục thâm hụt. Hệ quả của việc mở
cửa là chúng ta xuất khẩu nhiều hơn nhưng bên cạnh đó nhập khẩu cũng tăng cao. Tình
trạng nhập siêu hay thâm hụt cán cân thương mại vẫn tiếp tục diễn ra.
II. Cán cân thương mại 10 tháng đầu năm 2009
2.1. Tình hình xuất nhập khẩu quý I/ 2009 “Xuất siêu – yếu tố bất ngờ”
Kết thúc năm 2008 với một nền kinh tế đầy bất ổn tổng giá trị nhập siêu năm 2008
khoảng 17,5 tỉ USD, tăng 24,1% so với năm 2007. Tuy có giảm hơn so với dự báo (30%),
và giảm so với năm 2007 (29,1%), nhưng mức nhập siêu cả năm 2008 còn rất cao, bằng
27,8% so với tổng kim ngạch xuất khẩu (62,7 tỉ usd). Chưa có nước nào hiện có mức
nhập siêu lớn như vậy đó là một điều đáng lo ngại cho cán cân thương mại Việt Nam.
(Trích trong một bảng kế hoạch Bộ công thương công bố 31/12/2008).
Tuy nhiên, bước vào năm 2009, cũng trong bản kế hoạch của Bộ Công thương được
công bố ngày 31/12, dự kiến kim ngạch nhập khẩu cả nước năm nay ở mức 90,3 tỉ USD,
16
tăng 13% so với năm 2008. Như vậy, nhập siêu ở mức 19,2 tỉ USD, bằng 27% kim ngạch
xuất khẩu.
• Tình hình tháng 1:
Trải qua một năm đầy biến động bước sang tháng 1/2009 kim ngạch xuất nhập khẩu
cũng ít nhiều bị ảnh hưởng và theo ươc tính của bộ kế hoạch đâu tư thì có khả năng trong
tháng 1 năm nay kim ngạch xuất khẩu của ta là 3,8 tỉ USD và kim ngạch nhập khẩu sẽ là
4,1 tỉ USD và dự tính ta sẽ nhập siêu khoảng 300 tỉ.Nhưng tình hình thực tế tháng 1 vừa
qua lại không hoàn toàn đúng với dự đoán của Bộ kế hoạch và đầu tư.
Trong tháng 1 kim ngạch xuất khẩu thực hiện của nước ta là 3,719 tỉ USD giảm 18,6% so
với tháng 12/2008 và giảm 24,36% so với cùng kỳ năm trước.Trong khi kim ngạch nhập
khẩu thực hiện chỉ đạt 3,329 tỉ USD thấp hơn khoảng 771 triệu USD so với ước tính của

bộ kế hoach đầu tư và giảm 55,21% so với cùng kì thay vì dự đoán chỉ giảm khoảng
45%.Điềm nổi bật trong tháng này là cán cân thương mại của ta xuất siêu khoảng 0,39 tỉ
USD.
Bảng thống kê một số mặt hàng xuất khẩu tiêu biểu tháng 1/2009
Các mặt hàng xuất khẩu Trị giá tháng 1/2009 (triệu
USD)
So với cùng kì 1/2008 (%)
dệt, may 550 -33,2
dầu thô 424 -52,4
giày dép 350 -26
thủy sản 250 -18,6
cà phê 217 -30,2
gỗ và sản phẩm gỗ 200 -31,8
Bảng thống kê một số mặt hàng nhập khẩu tháng 1/2009
Các mặt hàng nhập khẩu Trị giá tháng 1/2009 (triệu
USD)
So với cùng kì 1/2008 (%)
máy móc thiết bị, dụng 1000 -19,5
17
cụ phụ tùng
Xăng dầu 244 -75,2
vải 230 -20,6
hàng điện tử, máy tính
và linh kiện
200 -45,1
sắt thép 155 -82,3
chất dẻo 130 -53
nguyên phụ liệu dệt,
may, da đạt
110 35,9

Qua những con số trên ta dễ dàng nhận thấy nguyên nhân tháng 1 ta xuất siêu là do kim
ngạch nhập khẩu có sự giảm mạnh so với sự sụt giảm của kim ngạch xuất khẩu.

• Tình hình tháng 2:
Cùng với đà xuất siêu của tháng 1/2009 sang tháng 2 tình hình cán cân thương mại nước
ta tiếp tục xuất siêu đầy bất ngờ trái với dự tính sẽ nhập siêu là 100 triệu USD.Cụ thể
trong tháng 2 kim ngạch xuất khẩu thực hiện là 5,028 tỉ USD chênh lệch khá lớn với con
số dự tính của Bộ kế hoạch đầu tư đưa ra chỉ là 4300 trong khi kim ngach nhập khẩu chỉ
là 4,188 tỉ USD lệch gần 200 triệu USD so với con số dự tính là 4,4 tỉ USD.Như vậy tính
riêng tháng 2 ta đã xuất siêu 840 triệu USD và tính chung 2 tháng đầu năm kim ngạch
xuất khẩu thực hiện là 8,747 tỉ USD tăng 2,48% so với cùng kì,kim ngạch nhập khẩu thực
hiện 2 tháng là 7,517 tỉ USD giảm 5,54% so với cùng kì.Con số xuất siêu đã lên đến 1,23
tỉ USD đây thật sự là con số kỉ lục của nước ta.
Yếu tố chính tác động đến 2 tháng đầu năm ta xuất siêu với một giá trị lớn không chỉ đơn
giản là do sự sụt giảm của kim ngạch nhập khẩu giảm, mà là có sự tăng đột biến
3.152,6% trong xuất khẩu 939 triệu USD của nhóm hàng đá quý, kim loại quý và sản
phẩm trong hai tháng qua so với cùng kỳ năm 2008, cho nên nếu loại trừ phần 939 triệu
USD tăng khó có thể lặp lại này, thì tổng kim ngạch xuất khẩu hai tháng đầu năm nay chỉ
còn là 7,808 tỷ USD và xuất siêu chỉ còn là 291 triệu USD.
Bảng số liêu một số mặt hàng xuất khẩu tiêu biểu 2 tháng đầu năm 2009
Các mặt hàng xuất khẩu Trị giá xuất khẩu (triệu So với cùng kì năm 2008
18
USD) (%)
Dầu thô 958 57,6
Cao su 101 49,5
Gỗ và sản phẩm gỗ 327 73,7
Giày dép 658 92,7
Dây điện và cáp điện 83 55,4
Đá quý, kim loại quý và sản
phẩm

939 3152,6
• Tình hình tháng 3 và đánh giá chung quí I/2009:
Tổng kim ngạch xuất nhập khẩu hàng hoá 3 tháng đầu năm 2009 đạt 26,8 tỷ USD, giảm
24% so với cùng kỳ năm 2008. Trong đó, kim ngạch xuất khẩu đạt 14,14 tỷ USD, tăng
5,5% so với cùng kỳ năm 2008 và nhập khẩu là 12,63 tỷ USD, giảm 42,1% so với cùng
kì năm 2008. Cán cân thương mại tháng 3 của Việt Nam xuất siêu 269 triệu USD và quý
I/2009 thặng dư là 1,5 tỷ USD.
Yếu tố chính hỗ trợ trong tháng 3 này vẫn là việc xuất Đá quý, kim loại quý & sản phẩm
Kim ngạch mặt hàng này trong tháng đạt 1,09 tỷ USD, tuy có giảm 16,4% so với tháng 2
nhưng hết tháng 3, nhóm hàng này đã vượt hàng dệt may, dầu thô trở thành nhóm hàng
dẫn đầu về kim ngạch với 2,53 tỷ USD (do tái xuất vàng), tăng mạnh 3457% so với quí
I/2008.
Thị trường chủ yếu nhập khẩu mặt hàng này là Thụy Sĩ: 2,24 tỷ USD, Nam Phi: 190
triệu USD, Ôxtrâylia: 38,3 triệu USD, Nhật Bản: 18,7 triệu USD,…
Như vậy đánh giá chung 3 tháng đầu năm cán cân thương mại của ta đã xuất siêu 1,5 tỉ
USD để có được thành tựu xuất siêu này chủ yếu là do tác động của một vài yếu tố nhưng
nhìn chung là nó chỉ là những yếu tố đột biến không thể lặp lại để có thể duy trì tình trạng
xuất siêu lâu dài cho cán cân thương mại Việt Nam. Có thể nói cụ thể các yếu tố đột biến
đó là:
Thứ nhất, việc kim ngạch nhập khẩu giảm trong 3 tháng qua chủ yếu là do tác động
khủng hoảng kinh tế năm 2008 khiến nhiều doanh nghiệp vẫn còn thu hẹp sản xuất và
cũng do tình trạng “lỡ ôm vào” do doanh nghiệp đã nhập nhiều hàng hóa trong năm trước
nên đã làm kim ngạch nhập khẩu có sự giảm đáng kể trong 3 tháng đầu năm.
19
Thứ hai, việc kim ngạch nhập khẩu có sự gia tăng trong 3 tháng đầu cũng là do sự tăng
đột biến của việc xuất mặt hàng đá quý ,kim loại quý và sản phẩm (chủ yếu là vàng) sang
các thị trường lớn.
Qua đây ta có thể nhận thấy một điều đáng lo ngại cho cán cân thương mại tuy đã có 3
tháng xuất siêu kỉ lục nhưng đó xuất phát từ những yếu tố đột biến khó có thể lặp lại
được.Có thể nói cán cân thương mại của ta đang trong tình trạng “xuất siêu hôm nay ,nỗi

lo ngày mai”.
2.2. Tình hình xuất khẩu quý II: “Nhập siêu trở lại”
Không nằm ngoài dự đoán như trên ta đã đưa ra một khi các yếu tố đột biến đã hết duy trì
thì cán cân thương mại của ta nhâp siêu trở lại chỉ là “chuyện thường ngày” không có gì
là bất ngờ.
• Tình hình tháng 4:
Trong tháng 4 kim ngạch xuất khẩu thực hiện là 4,279 tỉ USD thấp hơn so với con số của
bộ kế hoạch đầu tư dự tính là 4,5 tỉ USD so với cùng kì kim ngạch xuất khẩu đã giảm
18,54 % so với cùng kì.
Tính chung, kim ngạch xuất khẩu bốn tháng đầu năm 2009 đạt 18,4 tỉ USD, gần bằng
mức thực hiện cùng kỳ năm ngoái và bằng 26,3% kế hoạch năm (70,83 tỉ USD).
Giá cả hàng hóa xuất khẩu giảm sút liên tục mấy tháng qua không những đã làm suy
giảm kim ngạch xuất khẩu, mà còn triệt tiêu luôn mức tăng trưởng về khối lượng của các
mặt hàng chủ lực. Tính sơ bộ, giá cả hàng hóa xuất khẩu bình quân bốn tháng đầu năm đã
giảm tới 26,48% so với cùng kỳ năm 2008 làm cho kim ngạch xuất khẩu chung giảm tới
6,4 tỉ USD. Theo tình hình này trong những tháng tới kim ngạch xuất khẩu ít có khả năng
tăng nhanh, dù theo thông lệ hàng năm thì những tháng cuối quí 2 và đầu quí 3 là thời
điểm kim ngạch xuất khẩu đạt mức cao nhất trong năm.
Về nhập khẩu, kim ngạch tháng 4 ước đạt 5,2 tỉ USD thấp hơn so với con số thực hiện là
5,456 tỉ USD, tuy vẫn giảm 35,15% so với cùng kỳ năm trước nhưng đây là tháng có kim
ngạch nhập khẩu cao nhất trong 4 tháng đầu năm nay.
Tính chung, kim ngạch nhập khẩu bốn tháng năm 2009 đạt hơn 18,086 tỉ USD, giảm
40,05% so với cùng kỳ năm 2008 và bằng 19,9% kế hoạch năm.Cán cân thương mại đã
có thay đổi so với những tháng vừa qua. Sau ba tháng xuất siêu đạt tổng cộng 1,5 tỉ USD,
20
đến tháng 4 nhập siêu đã quay trở lại, lên đến 1,177 tỉ USD. Như vậy, tính chung bốn
tháng đầu năm 2009 tổng mức xuất siêu chỉ còn 323 triệu USD.
Lí do của việc 4 tháng nhập siêu chỉ còn lại 323 triệu USD là do các yếu tố bất ngờ đã
qua đi việc xuất vàng trong tháng 4 đã giảm.Cụ thể, trong tháng 3 kim ngạch xuất khẩu
nhóm hàng đá quý, vàng và đồ trang sức bằng vàng lên tới 1,089 tỉ USD, nhưng sang

tháng này lại không xuất khẩu thêm vàng nguyên liệu, xuất khẩu nhóm hàng này trong
tháng chỉ đạt khoảng 15 triệu USD, chủ yếu từ gia công đá quý và đồ trang sức.
Thêm vào đó đã có sự chững lại của kim ngạch xuất khẩu trong khi kim ngạch nhập khẩu
đã tăng trở lại do các doanh nghiệp đã giải quyết xong lượng hàng tồn đã lỡ nhập vào
thời gian trước và có sự mở rộng sản xuất.Điều này làm cho kim ngạch nhập khẩu tháng
4 cao nhất trong 4 tháng đầu năm đồng thời cho thấy tín hiệu nhập siêu đã trở lại.
• Tình hình tháng 5:
Theo Cục thống kê tháng 5 cán cân thương mại đã nhập siêu 1,254 tỉ USD. Kim ngạch
xuất khẩu thực hiện tháng 5 là 4,415 tỉ USD và kim ngạch nhập khẩu thực hiện là 5,669 tỉ
USD.
Nhập siêu tháng 5 tăng mạnh là do xuất khẩu giảm mạnh trong khi nhập khẩu lại có xu
hướng gia tăng nhiều hơn trước.
Bảng thống kê sự tăng trưởng của một số mặt hàng xuất khẩu 5 tháng 2009 so với cùng kì
2008
Một số mặt hàng xuất khẩu Tốc độ tăng trưởng so với 5 tháng
2008 (%)
Chè 13
Gạo 20
Sắn 129
Đá quí, kim loại quí 3318,7
Cao su -49
Dấu thô -44
21
Dây điện, cáp điện -41
Gốm sứ -24

Qua bảng thống kê ta thấy đạt mức tăng trưởng xuất khẩu dương trong 5 tháng đầu năm
so với cùng kỳ năm trước, chỉ có 4 nhóm hàng là chè tăng 13%, gạo tăng 20%, sắn tăng
129%, đặc biệt là đá quí, kim loại quí tăng tới 3318,7%. Tháng 5, việc tái xuất vàng đã
tăng mạnh trở lại, với trị giá xuất khẩu tăng gấp 4 lần so với tháng 4.

Còn lại, hầu hết kim ngạch xuất khẩu của các nhóm hàng đều ở mức âm, suy giảm mạnh
nhất là cao su giảm 49%, dầu thô giảm 44%, dây điện, cáp điện giảm 41%, gốm sứ giảm
24%
Nguyên nhân nhập siêu trở lại là do 2 tháng của quý II, hiện tượng suy giảm nhập khẩu
đã bắt đầu chững lại, còn xuất khẩu vẫn càng ngày càng đi xuống cụ thể hầu hết kim
ngạch xuất khẩu của các nhóm hàng đều ở mức âm, suy giảm mạnh nhất là cao su giảm
49%, dầu thô giảm 44%, dây điện, cáp điện giảm 41%, gốm sứ giảm 24% trong khi đó
nhập khẩu chỉ có 4 nhóm phân bón, xăng dầu, lúa mì và thức ăn gia súc là có kim ngạch
nhập khẩu giảm so với tháng 4, còn lại đều tăng.
• Tình hình tháng 6 và đánh giá chung 2 Quý đầu năm:
Đánh giá tình hình tháng 6 và 2 quý đầu năm tổng kim ngạch xuất nhập khẩu hàng hoá
cả nước trong 2 quí đầu năm đạt 57,228 tỷ USD, giảm 24,5% so với cùng kỳ năm trước.
Trong đó, xuất khẩu là 27,571 tỷ USD, giảm 10,29% và nhập khẩu là 29,657 tỷ USD,
giảm 34,22%. Trong tháng, nhập siêu 1,16 tỷ USD, giảm 7,1% so với tháng trước, nâng
tổng mức thâm hụt cán cân thương mại 6 tháng đầu năm lên 2,086 tỷ USD, bằng 7,7%
kim ngạch xuất khẩu (nếu loại trừ yếu tố vàng tái xuất, mức thâm hụt sẽ là 4,74 tỷ USD
bằng 19% kim ngạch xuất khẩu ).
Biểu đồ 1 Kim ngạch xuất khẩu, nhập khẩu và cán cân thương mại từ tháng 1/2009 đến
hết 6/2009
22
2.3. Tình hình xuất khẩu quý III: “Báo động nhập siêu”
• Tình hình tháng 7:
Kết thúc quý II trong tình trạng nhập siêu trở lại cán cân thương mại thâm hụt
2,086 tỉ USD đây thật sự là một gánh nặng tác động rất lớn lên tài khoản vãng lai nói
chung và cán cân thương mại nói riêng.
Đúng như lo ngại tình hình xuất khẩu của Việt Nam vẫn chưa sáng sủa hơn khi 7 tháng
đầu năm, Nhập siêu 7 tháng đầu năm đã là 3,603 tỷ USD.Trong khi đó, theo Tổng cục
thống kê thì kim ngạch xuất khẩu âm 13,4% so với cùng kỳ năm trước kim ngạch xuất
khẩu của cả nước chỉ bằng 86,6% so với cùng kỳ năm 2008(32,347 tỷ USD). Chỉ có 4
nhóm hàng là chè, sắn, gạo và nhóm kim loại quí và đá quí là có tăng trưởng dương về

xuất khẩu. Còn lại, hầu hết các mặt hàng kim ngạch xuất khẩu đều suy giảm mạnh như
thuỷ sản giảm 8,9%, hạt điều giảm 17,7%, cà phê giảm 15,7%, dầu thô giảm 44,8%, cao
su giảm 43%. Riêng tháng 7/2009, xuất khẩu gần như chững lại, đạt 4,806 tỷ USD. Kết
quả này chỉ nhỉnh hơn có 69 triệu USD so với con số kim ngạch đạt được của tháng 6.
Với chiều hướng này, Bộ Công Thương nhận định, mục tiêu tăng trưởng xuất khẩu đạt
3% cho cả năm nay là khó thực hiện. Nếu kim ngạch xuất khẩu tiếp tục âm thì chắc chắn
sẽ ảnh hưởng lớn tới tăng trưởng GDP của cả nước, vì xuất khẩu chiếm tới 65% GDP.
Cùng với nỗi lo về suy giảm xuất khẩu, thương mại của Việt Nam còn phải đối mặt với
tình trạng nhập siêu ở con số lớn. Kim ngạch nhập khẩu tháng sau luôn tăng mạnh hơn so
với tháng trước. Cũng trong tháng 7/2009, cả nước đã nhập khẩu 6,323 tỷ USD, cao hơn
23
gần 421 triệu USD so với tháng 6. Nhập siêu trong tháng 7/2009 ở mức 1,517 tỷ USD.
Việc nhập khẩu chủ yếu ở các mặt hàng tiêu dùng quan trọng như ôtô, sữa, các nguyên
nhiên vật liệu phục vụ cho sản xuất như máy móc, thiết bị, phụ tùng, chất dẻo…
• Tình hình tháng 8:
“Âm toàn thị trưòng” là cụm từ có thể dành cho tháng 8/2009. Bức tranh xuất khẩu 8
tháng đầu năm không tươi sáng. Chỉ số âm có mặt ở hầu hết thị trường xuất khẩu của
Việt Nam.
Bảng thống kê một số thị trường xuất khẩu chính của Việt Nam:
Thị trường Chỉ số xuất khẩu (%)
Nhật Bản -34,8
Hoa Kỳ -5,8
Anh -20
Pháp -22,6
Đức -10,4
ASEAN -21,7
Trung quốc -9,8
Australia -45,8
Qua bảng số liệu ta có thể biết được nguyên nhân làm cho kim ngạch xuất khẩu giảm
mạnh đó chính là do việc xuất khẩu sang các thị trường lớn của ta đều giảm mạnh.

Việc kim ngạch xuất khẩu ở các thị trường đều giảm xuất phát từ viêc giá cả của các mặt
hàng trên thế giới giảm mạnh nên mặt bằng giá chung giá hàng xuất khẩu nước ta cũng
chịu ảnh hưởng mặc dù có tăng về lượng xuất khẩu như : dầu thô tăng 8% ,gạo tăng
43%,hạt tiêu tăng 47% nhưng do giá giảm đã kéo theo kim ngạch xuất khẩu giảm.
Trong khi xuất khẩu khá bi quan thì những tháng gần đây, nhập khẩu đã lấy lại ”đà tăng
trưởng”.
8 tháng, nhập siêu bằng 13,8% tổng kim ngạch xuất khẩu và đang có xu hướng tăng
mạnh do nhập khẩu bông, sợi dệt, vải, ôtô, máy móc, thiết bị, phụ tùng tăng trở lại.
Bằng chứng là tháng 8 vừa qua,kim ngạch xuất khẩu thực hiện chỉ là 4,523 tỉ USD trong
khi kim ngach nhập khẩu thực hiện là 5,848 tỉ USD, nhập siêu đã lên đến 1,325 tỷ USD.
24
Và tám tháng đã qua của năm 2009, Việt Nam đã nhập siêu 4,928 tỷ USD. Nếu không
tính tái xuất vàng, con số này là 7,75 tỷ USD
• Tình hình tháng 9 và đánh giá 3 quí 2009:
Với tình trạng bi quan của 8 tháng và 2 tháng của quý II nói riêng tình trạng nhập siêu
của cán cân thương mại không ngừng gia tăng và tình hình này cũng sẽ chẳng thể nào
tránh khỏi trong tháng cuối của quý III này điều quan trọng chỉ là con số này cụ thể sẽ là
bao nhiêu?. Câu trả lời đã được bộ kế hoạch-đầu tư đưa ra thông qua việc đánh giá tình
hình chung trong quý III nhập siêu cả nước 9 tháng qua đã lên tới con số 6,76 tỷ USD
chiếm 16,22% kim ngạch xuất khẩu. Trong khi đó, kim ngạch xuất khẩu cả nước 9 tháng
đầu năm đạt 41,444 tỷ USD giảm 14,83% so cùng kỳ, kim ngạch nhập khẩu vào khoảng
48,2 tỷ USD giảm 25,3% so cùng kỳ năm ngoái.
Biểu đồ 1: Kim ngạch xuất nhập khẩu và cán cân thương mại 9 tháng/2009
Như vậy, nhập siêu đang nhích dần qua từng tháng vào cuối năm. 8 tháng, con số này là
4,928 tỷ USD. Riêng tháng 9, cả nước đã nhập siêu tới 1,832 tỷ USD.
Suốt quí III, nhập khẩu mỗi tháng đều chênh lên so với xuất khẩu từ 1,2- 1,6 tỷ USD.
Một số mặt hàng công nghiệp nhập khẩu chủ yếu tăng lên là phân bón đạt 3,2 triệu tấn
(trong đó phân urê 1 triệu tấn) tăng 21%; thép các loại đạt 7,3 triệu tấn (trong đó phôi
thép 1,9 triệu tấn) tăng 1%; bông các loại đạt 221 nghìn tấn tăng 0,45%; sợi các loại đạt
25

×