Tải bản đầy đủ (.doc) (40 trang)

“ Cán cân thương mại Việt Nam sau gia nhập WTO

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (273.4 KB, 40 trang )

LỜI MỞ ĐẦU
Năm 2007, Việt Nam chính thức là thành viên thứ 150 của Tổ chức
Thương mại thế giới (WTO) đánh dấu một bước tiến lớn của Việt Nam trong
quá trình hội nhập kinh tế quốc tế. Sau 4 năm gia nhập, Việt Nam đã tận dụng
được nhiều cơ hội, tận dụng được nhiều hiệu ứng tốt do WTO mang lại, thể
hiện qua tăng trưởng của đầu tư và xuất nhập khẩu, cũng như vị thế trên
trường quốc tế ngày càng nâng cao. Tuy vậy, bối cảnh kinh tế Việt Nam sau
khi gia nhập WTO cũng gặp rất nhiều khó khăn và thử thách. Những năm gần
đây, nền kinh tế Việt Nam đã trải qua những thăng trầm do ảnh hưởng của
cuộc khủng hoảng tài chính tồn cầu cũng như xuất phát từ nội tại của nền
kinh tế: tăng trưởng cao nhưng chưa ổn định, lạm phát tăng cao và đặc biệt
hơn nữa là tình trạng thâm hụt cán cân vãng lai bắt nguồn từ thâm hụt cán cân
thương mại ngày càng gia tăng. Theo số liệu của Tổng cục Thống kê, khoảng
8 năm trở lại đây, cán cân thương mại Việt Nam thường xuyên bị thâm hụt,
đặc biệt kể từ khi gia nhập WTO. Bên cạnh đó, do tác động của cuộc khủng
hoảng tài chính tồn cầu và hiện trạng môi trường đầu tư của Việt Nam chưa
tăng trưởng vững chắc, hiện trạng này chắc chắn sẽ gây ảnh hưởng khơng nhỏ
đến cán cân thanh tốn quốc tế về khả năng chống đỡ các cú sốc bên ngồi và
tính bền vững của nền kinh tế khi dự trữ ngoại hối của Việt Nam có xu hướng
thu hẹp.Từ thực trạng trên, em chọn nghiên cứu vấn đề “ Cán cân thương
mại Việt Nam sau gia nhập WTO” nhằm tìm hiểu khái quát cán cân thương
mại và đi sâu vào tình trạng thâm hụt cán cân thương mại Việt Nam để tìm ra
ngun nhân sâu xa qua đó đưa ra giải pháp cải thiện tình trạng thâm hụt này
nhằm hạn chế tác động của nó đến nền kinh tế Việt Nam.
Trong quá trình thực hiện đề án, em đã nhận được sự giúp đỡ tận tình của
tiến sĩ Hồng Hương Giang, em xin chân thành cảm ơn cô. Do vốn kiến thức
cịn hạn hẹp nên đề án khơng tránh khỏi những thiếu sót, em rất mong nhận
được sự góp ý và giúp đỡ của các thầy cô.

1



Chương I: Tổng quan cán cân thương mại của một quốc gia
1.1Khái niệm cán cân thương mại của một quốc gia.
Cán cân thanh toán, hay cán cân thanh toán quốc tế ghi chép những giao
dịch kinh tế của một quốc gia với phần còn lại của thế giới trong một thời kì
nhất định. Những giao dịch này có thể được tiến hành bởi các cá nhân, các
doanh nghiệp cư trú trong nước hay chính phủ của quốc gia đó. Đối tượng
giao dịch bao gồm các hàng hoá, dịch vụ, tài sản thực, tài sản tài chính, và
một số chuyển khoản. Thời kì xem xét có thể là một tháng, một quý, song
thường là một năm. Những giao dịch đòi hỏi sự thanh toán từ người cư trú
trong nước tới người cư trú ngoài nước được ghi vào tài sản bên nợ. Các giao
dịch địi hỏi sự thanh tốn từ phía người cư trú ở ngoài nước cho người cư trú
ở trong nước được ghi vào bên tài sản có.
Cán cân thanh toán của một quốc gia bao gồm bốn thành phần: tài khoản
vãng lai, tài khoản vốn, thay đổi trong dự trữ ngoại hối nhà nước và sai số
thống kê. Tài khoản vãng lai ghi lại các giao dịch về hàng hoá, dịch vụ và một
số chuyển khoản. Tài khoản vốn ghi lại các giao dịch về tài sản thực và tài sản
tài chính. Thay đổi trong dự trữ ngoại hối nhà nước cho biết mức tăng hay giảm
trong dự trữ ngoại hối của ngân hàng trung ương. Mục sai số là mục cần phải có
trong cán cân thanh tốn qc tế vì khó có thể ghi chép đầy đủ các giao dịch
trong thực tế, nên giữa phần ghi chép được và thực tế có khoảng cách. Những
khoản cách này được ghi trong cán cân thanh toán như mục sai số.
Cán cân thương mại là một mục trong tài khoản vãng lai của cán cân
thanh toán quốc tế ghi lại những thay đổi trong xuất khẩu và nhập khẩu của
một quốc gia trong một khoảng thời gian nhất định (quý hoặc năm) cũng như
mức chênh lệch (xuất khẩu trừ đi nhập khẩu) giữa chúng. Về mặt kinh tế cán
cân thương mại thể hiện mối quan hệ tương quan giữa việc tăng hay giảm
lượng giá trị của một nền kinh tế nghĩa là nó phản ánh lượng tiền tăng lên hay
giảm đi của một quốc gia trong thời kì nhất định. Trạng thái của cán cân


2


thương mại thường rơi vào ba trạng thái. Trạng thái đó dựa vào sự chênh lệch
của giá trị giao dịch xuất khẩu và nhập khẩu. Khi mức chênh lệch lớn hơn
khơng, thì cán cân thương mại có thặng dư, ngược lại là thâm hụt và khi
chênh lệch bằng khơng, thì cán cân thương mại cân bằng. Thâm hụt và thặng
dư cán cân thương mại thường ảnh hưởng lớn đến cán cân vãng lai và cán cân
thanh toán quốc tế, đồng thời tác động trực tiếp đến cung cầu, giá cả hàng hoá
và sự biến động của tỉ giá, tiếp đến sẽ tác động đến cả cung và cầu nội tệ và
tình hình lạm phát của một quốc gia. Và điều đáng nói là hầu như các nước
trên thế giới đều rơi vào tình trạng thâm hụt thương mại. Vấn đề đặt là là liệu
thâm hụt thương mại có đồng hành cùng sự trì trệ của GDP hay đó là dấu hiệu
của sự tăng trưởng kinh tế. Thực tế, nếu nền kinh tế hấp thụ vốn đầu tư tốt,
đầu tư hiệu quả thì thâm hụt thương mại cao là tiền đề cho sự tăng trưởng
trong các giai đoạn phát triển tiếp theo và ngược lại.
1.2 Các nhân tố ảnh hưởng đến cán cân thương mại.
1.2.1 Xuất khẩu
Xuất khẩu là một trong hai thành phần chính tác động trực tiếp đến cán cân
thương mại. Xuất khẩu phụ thuộc vào những gì đang diễn biến tại các quốc gia
khác vì xuất khẩu của nước này chính là nhập khẩu của nước khác. Do vậy nó
chủ yếu phụ thuộc vào sản lượng và thu nhập của các quốc gia bạn hàng.
1.2.2 Nhập khẩu
Nhập khẩu có xu hướng tăng khi GDP tăng và thậm chí nó cịn tăng
nhanh hơn. Sự gia tăng của nhập khẩu khi GDP tăng phụ thuộc xu hướng
nhập khẩu biên (MPZ). MPZ là phần của GDP có thêm mà người dân muốn
chi cho nhập khẩu. Ví dụ, MPZ bằng 0,2 nghĩa là cứ 1 đồng GDP có thêm thì
người dân có xu hướng dùng 0,2 đồng cho nhập khẩu. Ngoài ra, nhập khẩu
phụ thuộc giá cả tương đối giữa hàng hóa sản xuất trong nước và hàng hóa
sản xuất tại nước ngoài. Nếu giá cả trong nước tăng tương đối so với giá thị

trường quốc tế thì nhập khẩu sẽ tăng lên và ngược lại. Ví dụ: nếu giá một
chiếc TV sản xuất tại Việt Nam tăng tương đối so với giá một chiếc TV Nhật

3


Bản sản xuất thì người dân có xu hướng tiêu thụ nhiều TV Nhật Bản hơn dẫn
đến nhập khẩu mặt hàng này cũng tăng
1.2.3 Tỉ giá hối đoái
Tỉ giá hối đoái là nhân tố quan trọng đối với các quốc gia vì nó ảnh
hưởng đến giá tương đối giữa hàng hoá sản xuất trong nước và hàng hoá trên
thị trường quốc tế. Khi đồng nội tệ phá giá (giảm giá), giá hàng xuất khẩu trở
nên rẻ một cách tương đối sẽ giúp xuất khẩu thuận lợi hơn, trong khi đó hàng
nhập khẩu đắt một cách tương đối, và nhu cầu hàng nhập khẩu giảm. Ngược
lại khi đồng nội tệ tăng giá, sẽ khuyến khích nhập khẩu và hạn chế xuất khẩu
dẫn đến xuất khẩu rịng giảm.
Ta có thể lấy ví dụ minh hoạ về việc phá giá đồng VND để xem tác động
của nó tới cán cân thương mại. Giả sử ban đầu tỉ giá hối đoái VND/USD = r.
Phá giá đồng VND (tỉ giá giảm) thì lượng nhập khẩu sẽ giảm vì mức giá bán
bằng VND (= const) quy ra USD giá sẽ giảm. Việc giảm giá này dẫn đến các
nhà xuất khẩu không muốn bán hàng cho Việt Nam. Như vậy phá giá VND sẽ
làm giảm nhập khẩu hàng hoá. Ngược lại đối với xuất khẩu, khi VND mất giá
thì với mức giá bán bằng USD (= const) quy ra VND người xuất khẩu Việt
Nam sẽ được hưởng nhiều lợi và hàng hoá Việt Nam sẽ cạnh tranh hơn trên
thị trường quốc tế. Có thể thấy rằng, sự thay đổi tỉ giá VND/USD làm hoạt
động thương mại quốc tế thay đổi theo chiều hướng có lợi, xuất khẩu có xu
hướng tăng, nhập khẩu giảm và xuất khẩu rịng tăng.
1.2.4 Yếu tố khác
a) Ảnh hưởng của dòng vốn: Cán cân thương mại là một trong những yếu tố
của tài sản quốc gia. Cán cân thương mại phụ thuộc vào chênh lệch giữa đầu

tư và tiết kiệm trong nền kinh tế. Mức chênh lệch giữa tiết kiệm và đầu tư
được bù đắp bởi các dịng vốn đầu tư nước ngồi như FDI, ODA, FPI, kiều
hối và các dòng vốn vay thương mại khác.

4


b) Ảnh hưởng của thu nhập: Khi thu nhập trong nước tăng, nhu cầu nhập khẩu
hàng hoá cũng đồng thời tăng theo. Trong khi đó, khi kinh tế nước ngồi tăng
trưởng, họ cũng tăng nhu cầu nhập khẩu hàng hoá từ nước khác và làm cho
xuất khẩu của đối tác thương mại tăng lên. Do vậy cán cân thương mại phụ
thuộc vào tăng trưởng kinh tế.
c) Các chính sách thương mại và phát triển kinh tế: Các chính sách thuế, bảo
hộ hàng hoá trong nước cũng ảnh hưởng mạnh đến cán cân thương mại.
Những rào cản này hạn chế nhập khẩu một số mặt hàng để cải thiện cán cân
thương mại. Các chính sách liên quan đến phát triển kinh tế và xuất nhập
khẩu khác cũng sẽ ảnh hưởng mạnh đến cán cân thương mại. Ngoài ra, cán
cân thương mại còn phụ thuộc vào cơ cấu của nền kinh tế và chiến lược phát
triển công nghiệp của quốc gia.
1.3 Các tác động của cán cân thương mại đến nền kinh tế một quốc gia
Thứ nhất, cán cân thương mại cung cấp những thông tin liên quan đến
cung cầu tiền tệ của một quốc gia, cụ thể là thể hiện sự thay đổi của tỉ giá hối
đoái của đồng nội tệ so với đồng ngoại tệ. Chẳng hạn, nếu một nước nhập
khẩu nhiều hơn xuất khẩu nghĩa là cung đồng tiền quốc gia đó có xu hướng
vượt cầu trên thị trường hối đối nếu các yếu tố khác khơng thay đổi. Và như
vậy, có thể suy đốn rằng, đồng tiền nước đó sẽ bị sức ép giảm giá so với
đồng tiền khác. Ngược lại nếu một quốc gia xuất khẩu nhiều hơn nhập khẩu
thì đồng tiền quốc gia đó có khuynh hướng tăng giá.
Thứ hai, cán cân thương mại phản ánh khả năng cạnh tranh trên thị
trường quốc tế của một quốc gia. Nếu như một nước trong nhiều năm liền bị

thâm hụt thương mại trầm trọng thì thể hiện các ngành sản xuất trong nước
khơng có khả năng cạnh tranh quốc tế. Và ngược lại thặng dư cán cân thương
mại phản ánh khả năng cạnh tranh cao của hàng hoá xuất khẩu trên thị trường
quốc tế. Tuy nhiên trong nhiều trường hợp cũng phải tính đến yếu tố là một số
nước có chính sách hạn chế nhập khẩu (bảo hộ cao cho ngành sản xuất trong
nước) cịn xuất khẩu có khả năng tăng mạnh nhờ khai thác được lợi thế như
sản phẩm thô, lao động rẻ…ở giai đoạn đầu của q trình tự do hố thương

5


mại nên có thể xảy ra tình trạng thặng dư thương mại. Nhưng tình trạng này
khơng nên kéo dài vì sẽ dẫn đến hàng hóa trong nước khơng có khả năng cạnh
tranh với hàng hoá quốc tế về dài hạn.
Thứ ba, tình trạng của cán cân thương mại phán ánh tình trạng của cán
cân vãng lai và nợ nước ngồi, do đó ảnh hưởng đến ổn định kinh tế vĩ mô.
Đây được coi là ảnh hưởng lớn nhất của cán cân thương mại đến nền kinh tế.
Như trên đã trình bày cán cân thương mại có ba trạng thái. Trong đó trạng
thái thâm hụt là hiện tượng phổ biến ở những nước có nền kinh tế thị trường
phát triển theo hướng mở. Ngay như Hoa Kỳ, nền kinh tế hùng mạnh nhất thế
giới, cũng nhập siêu trong suốt 3 thập kỷ qua. Thâm hụt thương mại (nhập
siêu) là khi kim ngạch nhập khẩu cao hơn xuất khẩu trong một thời gian nhất
định. Xét trên nhiều phương diện, nhập khẩu ở một chừng mực nào đó sẽ có
lợi cho nền kinh tế, đặc biệt đối với các nước trong giai đoạn đang phát triển.
Việc nhập khẩu cơng nghệ, máy móc trang thiết bị cao cấp giúp nâng cao
trình độ kỹ thuật, tiến gần trình độ phát triển cao của thế giới, nhờ đó tạo ra
các sản phẩm xuất khẩu có chất lượng, có khả năng cạnh tranh cao. Trong
điều kiện ngành sản xuất nguyên liệu cao cấp trong nước chưa phát triển thì
việc nhập khẩu nguyên liệu giúp cho các nước này thực hiện tốt chiến lược
cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa hướng về xuất khẩu. Hàng nhập khẩu trong

nhiều trường hợp tạo mơi trường cạnh tranh kích thích sản xuất trong nước
hoàn thiện và phát triển. Nhập khẩu từ nguồn vốn ODA của các tổ chức tài
chính quốc tế giúp cải thiện mau chóng hạ tầng cơ sơ tạo điều kiện thuận lợi
để phát triển kinh tế. Đối với xã hội, việc nhập khẩu hàng tiêu dùng, sản phẩm
khoa học và văn hóa cịn góp phần phát triển nguồn nhân lực và nâng cao
mức sống người dân. Nhập khẩu từ nguồn vốn đầu tư nước ngồi trực tiếp
chẳng những góp phần đẩy nhanh tốc độ tăng trương kinh tế mà cịn tạo thêm
cơng ăn, việc làm cho người lao động, cải thiện đời sống xã hội. Tuy nhiên,
nhập siêu quá cao sẽ tác động xấu đến nền kinh tế. Giới chuyên gia kinh tế
cảnh báo những hiểm họa của tình trạng nhập siêu lớn. Chẳng hạn, nhập khẩu
tràn lan vượt q kiểm sốt của chính phủ sẽ dẫn tới hiện tượng lãng phí

6


ngoại tệ, tác động xấu đến sản xuất trong nước. Việc nhập khẩu hàng tiêu
dùng quá nhiều sẽ dẫn tới xu hướng “sùng ngoại”, khiến hàng nội địa khó tiêu
thụ hơn. Quan trọng hơn, nhập siêu thường xuyên sẽ dẫn đến tình trạng cạn
kiệt ngoại tệ, khiến các chính phủ phải gia tăng vay nợ bằng cách phát hành
thêm trái phiếu. Trong một thời gian dài, nhập siêu sẽ khiến con số nợ cơng
của một nước ngày càng tăng vì suy cho cùng các nước đều phải dựa vào xuất
khẩu để trả nợ và lãi. Xét ở mặt khác, nhập siêu có thể gây ra khủng hoảng nợ
cơng như tại Hy Lạp, nước nhập siêu tới 13,5% GDP (năm 2009), dẫn đầu top
các nền kinh tế bị nhập siêu tính theo tỷ lệ với GDP. Nước này đã rơi vào
cuộc khủng hoảng nợ công tồi tệ nhất châu Âu kể từ đầu năm 2010 và cho
đến nay vẫn chưa cải thiện tình hình, dù đã nhận được các gói ứng cứu từ bên
ngoài. Hoặc như trường hợp của Hoa Kỳ, nước có kim ngạch nhập siêu tuyệt
đối (tính bằng USD) lớn nhất. Hoa Kỳ hiện cũng lâm vào một cuộc khủng
hoảng nợ công, nhưng ở mức độ và sắc thái khác vơi Hy Lạp. Ngồi ra nhập
siêu cịn được coi là ngun nhân nhấn chìm thị trường chứng khốn. Trang

web chuyên giải thích về đầu tư InvestOpedia cho rằng đối với thị trường
chứng khốn, nhập siêu kéo dài có thể gây nên những hậu quả tai hại. Giải
thích của InvestOpedia cũng dựa trên 2 tác động chính của tình trạng nhập
siêu là gia tăng nợ công và làm suy yếu sức cạnh tranh của hàng hóa trong
nước. Nếu trong một thời gian dài một đất nước nhập khẩu nhiều hàng hóa
hơn xuất khẩu, họ sẽ lâm vào cảnh nợ nần, trong khi hàng hóa nội địa ngày
càng bị hàng ngoại lấn át. Qua thời gian, giới đầu tư sẽ nhận thấy tình trạng
suy yếu trong tiêu thụ hàng hóa nội địa, một diễn biến gây tổn hại cho các nhà
sản xuất trong nước và cũng làm suy giảm giá trị cổ phiếu của họ. Thời gian
càng kéo dài, giới đầu tư càng nhận ra rằng cơ hội đầu tư tốt ở thị trường nội
địa càng ít đi và bắt đầu chuyển hướng sang các thị trường cổ phiếu ở nước
khác. Điều đó sẽ làm giảm nhu cầu đối với thị trường cổ phiếu ở trong nước
và khiến thị trường ngày càng đi xuống.

7


Chương 2: Cán cân thương mại của Việt Nam sau khi
gia nhập WTO
2.1 Tình hình xuất nhập khẩu của Việt Nam sau khi gia nhập WTO.
Xuất nhập khẩu là một ngành kinh tế quan trọng, có ý nghĩa quyết định
đến sự thành cơng của cơng cuộc cơng nghiệp hố. Hơn hai mươi năm trước,
kể từ Đại hội Đảng VI (1986), công cuộc đổi mới đã tạo nên tiền đề vững
chắc, đẩy nền kinh tế Việt Nam chuyển mình thốt khỏi tình trạng kém phát
triển. Năm 1986, Việt Nam chuyển đổi từ mơ hình kinh tế bao cấp tập trung sang
mơ hình kinh tế nhiều thành phần. Năm 1994, Hoa Kì bỏ đi chính sách cấm vận
Việt Nam. Đặc biệt hiệp định thương mại Việt Nam – Hoa Kì được kí kết năm
2000 và có hiệu lực vào cuối năm 2001 tạo điều kiện thuận lợi cho sự gia tăng
đáng kể giá trị xuất nhập khẩu của Việt Nam so với giai đoạn trước đó. Tuy
nhiên tốc độ tăng trưởng cũng không ổn định thể hiện ở bảng số liệu sau

Năm

Xuất

Nhập

Tốc độ

khẩu
2001
2002
2003
2004
2005
2006

Tốc độ
tăng (%)

khẩu

tăng (%)

nhập

3,4
21,8
27,9
26,5
15,4

22

siêu (%)
7,9
18,2
25,3
20,6
14,4
12,8

15,027
16,705
20,149
26,504
32,233
39,5

3,8
11,2
20,6
31,5
21,6
22

16,162
19,733
25,256
31,954
36,881
44,8


Nhập siêu

1,135
3,027
5,106
5,450
4,648
5,3

Tỉ lệ

Đơn vị : Triệu USD
Hình 2.1: Tổng hợp kim ngạch và tốc độ tăng kim ngạch xuất nhập khẩu,
nhập siêu và tốc độ tăng nhập siêu từ năm 2001 – 2006
Hội nhập WTO là một cú hích đưa vị thế Việt Nam lên một tầm cao mới
ổn định và tăng tốc. Trên các mặt trận, ngoại thương ln giữ vững vị trí tiên
phong, khẳng định vai trò quan trọng trong tăng trưởng kinh tế, ổn định chính

8


trị xã hội và thúc đẩy nhanh quá trình hội nhập kinh tế quốc tế. Tỉ lệ xuất
nhập khẩu có bước chuyển rõ rệt. Thuận lợi khi gia nhập WTO là Việt Nam
lập tức được hưởng sự đối xử bình đẳng trong thương mại và mở cửa thị trường
của 150 nước thành viên. Các hàng rào thuế quan phi WTO mà hàng hoá Việt
Nam bị áp đặt một cách bất lợi bị bãi bỏ, nhờ đó Việt Nam có thể tăng khả năng
xuất khẩu hàng hố của mình sang thị trường các nước thành viên. Mặt khác, với
việc thực hiện các cam kết mở cửa thị trường và do yêu cầu đầu vào của nhiều
ngành sản xuất, nhập khẩu vào Việt Nam cũng tăng rất mạnh.

Năm 2007
Năm 2007, kinh tế toàn cầu chịu nhiều ảnh hưởng bởi những biến động
lớn về giá hàng hoá, chủ yếu là giá nguyên, nhiên liệu, nông sản, thực phẩm
tăng cao liên tục. Những biến động bất thường của giá dầu thô, giá vàng cùng
với dấu hiệu của suy thối kinh tế Hoa Kì, đồng đô la mất giá nhanh so với ngoại
tệ mạnh khác đã tác động không tốt và lan toả tới nhiều nền kinh tế. Hội nhập
kinh tế thế giới Việt Nam khơng thể khơng tránh khỏi những ảnh hưởng đó.
Tổng kim ngạch xuất nhập khẩu hàng hoá trong năm 2007 đạt 111,2 tỷ
USD, tăng 31,3% so với năm 2006, trong đó xuất khẩu đạt 48,56 tỷ USD,
tăng 21,9% so với năm trước. Trong đó, khu vực kinh tế trong nước chiếm
42% và tăng 22,3%; khu vực FDI chiếm 58% và tăng 18,4%. Các mặt hàng
xuất khẩu chủ yếu là khoáng sản và nhiên liệu (dầu thô, than đá), hàng chế
biến như dệt may, giầy dép, gỗ và sản phẩm gỗ, máy vi tính, sản phẩm điện tử
và linh kiện, hàng nơng lâm thuỷ sản như gạo, cà phê, cao su,hải sản. Thị
trường xuất khẩu chính của Việt Nam là Hoa Kỳ, EU, Nhật Bản, Asean,
Trung Quốc, Hàn Quốc… Năm 2007 dù đã là thành viên chính thức của
WTO nhưng xuất khẩu dường như chưa đạt được mức tăng trưởng tương
xứng so với tiềm năng và cơ hội mang lại. Kết quả là xuất khẩu chỉ tăng bình
quân 22%.

9


Trong khi đó, cùng với việc là thành viên chính thức của Tổ chức
Thương mại Thế giới (WTO), hoạt động nhập khẩu đã thực sự sôi động ngay
từ các tháng đầu tiên. Tính đến hết năm 2007, tổng kim ngạch nhập khẩu cả
nước là 62,68 tỷ USD, tăng 39,6% so với năm 2006. Trong đó các mặt hàng
nhập khẩu chủ yếu là máy móc thiết bị dụng cụ phụ tùng, phân bón, xăng dầu,
sắt thép, nhóm hàng nguyên phụ liệu phục vụ dệt may và da giày… Như vậy
có thể thấy mặt hàng nhập khẩu chính của Việt Nam là máy móc thiết bị và

nguyên vật liệu đầu vào. Thị trường nhập khẩu chủ yếu là Trung Quốc, Hàn
Quốc, Singapore, Đài Loan…
Năm 2008
Năm 2008, kinh tế xã hội nước ta diễn ra trong bối cảnh tình hình thế
giới và trong nước có nhiều biến động phức tạp, khó lường. Giá dầu thơ và
giá nhiều loại ngun liệu, hàng hố khác trên thị trường thế giới tăng mạnh
trong những tháng giữa năm kéo theo sự tăng giá ở mức cao của hầu hết các
mặt hàng trong nước, từ đó cũng ảnh hưởng đến kim ngạch xuất nhập khẩu
nước ta năm 2008.
Tổng kim ngạch xuất nhập khẩu hàng hoá đạt 143,4 tỷ USD, tăng 28,9%
so với năm 2007, trong đó xuất khẩu đạt 62,9 tỷ USD, tăng 29,1% so với
năm trước. Kim ngạch xuất khẩu của các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước
ngoài là 34,9 tỷ USD, chiếm 49,7%, khu vực kinh tế trong nước ước đạt 28 tỷ
USD, chiếm 50,3% tổng kim ngạch xuất khẩu cả nước. Trong tổng kim ngạch
hàng hố xuất khẩu năm 2008, nhóm hàng cơng nghiệp nặng và khống sản
chiếm tỷ trọng 31%, nhóm hàng nơng sản chiếm 16,3%, cịn lại là cơng
nghiệp nhẹ, tiểu thủ cơng nghiệp và mặt hàng khác chiếm 52,7%. Hoa Kì,
EU, Nhật Bản và Asean vẫn là những đối tác xuất khẩu lớn của Việt Nam.
Về nhập khẩu, cả năm kim ngạch hàng hố nhập khẩu ước tính là 80,71
tỷ USD tăng 29,1% so với năm 2007. Trong tổng kim ngạch hàng hoá nhập

10


khẩu năm 2008, tư liệu sản xuất chiếm 88,8%; hàng tiêu dùng chiếm 7,8%;
vàng chiếm 3,4%. Nhìn chung, mặt hàng nhập khẩu chủ yếu là để phục vụ sản
xuất. Đối tác nhập khẩu chính vẫn là Asean, Trung Quốc, EU, Đài Loan…
Năm 2009
Năm 2009, khủng hoảng kinh tế thế giới đã có tác động khơng nhỏ đến
nền kinh tế Việt Nam đặc biệt là khu vực xuất khẩu. Do sức tiêu thụ hàng hoá

trên thị trường thế giới thu hẹp, giá cả của nhiều loại hàng hoá giảm mạnh nên
kim ngạch xuất nhập khẩu giảm mạnh. Kim ngạch xuất khẩu hàng hố năm
2009 ước tính đạt 56,6 tỷ USD, giảm 9,7% so với năm 2008, bao gồm: khu
vực kinh tế trong nước đạt 26,7 tỷ USD, giảm 5,1%, khu vực có vốn đầu tư
nước ngồi đạt 29,9 tỷ USD, giảm 13,5%. Mặt hàng và thị trường xuất khẩu
chính khơng có thay đổi nhiều so với các năm trước. Về nhập khẩu, tương tự
xuất khẩu tính chung cả năm 2009, kim ngạch nhập khẩu hàng hố ước tính
đạt 68,8 tỷ USD, giảm 14,7% so với năm 2008, bao gồm khu vực kinh tế
trong nước đạt 43,9 tỷ USD, giảm 16,8%; khu vực có vốn đầu tư nước ngồi
đạt 24,9 tỷ USD, giảm 10,8%. Trong các nhóm hàng nhập khẩu năm 2009,
máy móc thiết bị dụng cụ phụ tùng chiếm tỷ trọng 29,5% tổng kim ngạch
nhập khẩu hàng hoá; nguyên nhiên vật liệu chiếm 61,3%; hàng tiêu dùng
chiếm 8,7%; vàng chiếm 0,5%. Về thị trường nhập khẩu hàng hoá, 8 đối tác
chủ yếu chiếm hơn 85% tổng kim ngạch nhập khẩu năm 2009 gồm: Trung
Quốc, Asean, Nhật Bản, Hàn Quốc, Đài Loan, EU, Mỹ, Ôx-trây-li-a.

Năm 2010
Năm 2010, kinh tế thế giới mặc dù đang phục hồi sau khủng hoảng tài
chính tồn cầu và có những chuyển biến tích cực, song nhìn chung chưa thực
sự ổn định và còn tiềm ẩn nhiều yếu tố bất lợi tác động đến kinh tế nước ta.

11


Tính chung năm 2010, kim ngạch hàng hóa xuất khẩu đạt 71,6 tỷ USD, tăng
25,5% so với năm 2009, bao gồm: khu vực kinh tế trong nước đạt 32,8 tỷ USD,
tăng 22,7%; khu vực có vốn đầu tư nước ngồi đạt 38,8 tỷ USD, tăng 27,8%.
Nhìn chung xuất khẩu hàng hóa năm nay có nhiều thuận lợi do đơn giá nhiều
mặt hàng trên thị trường thế giới tăng cao. Cơ cấu kim ngạch hàng hóa xuất
khẩu năm nay có sự thay đổi ở một số nhóm hàng so với năm trước, trong đó

nhóm hàng cơng nghiệp nhẹ và tiểu thủ cơng nghiệp tăng từ 42,8% lên 46%;
nhóm hàng cơng nghiệp nặng và khống sản giảm từ 29,4% xuống 27,2%;
nhóm hàng thủy sản giảm từ 7,4% xuống 6,9%; vàng và các sản phẩm vàng
giảm từ 4,6% xuống 4%. Về thị trường xuất khẩu, tính đến hết tháng 11/2010,
Hoa Kỳ vẫn là thị trường xuất khẩu lớn nhất của Việt Nam với kim ngạch ước
tính đạt 12,8 tỷ USD, chiếm 17,9% tổng kim ngạch hàng hóa xuất khẩu và tăng
25,4% so với cùng kỳ năm trước.
Tính cả năm 2010, kim ngạch hàng hóa nhập khẩu đạt 84 tỷ USD, tăng
20,1% so với năm trước, bao gồm khu vực kinh tế trong nước đạt 47,5 tỷ USD,
tăng 8,3%; khu vực có vốn đầu tư nước ngoài đạt 36,5 tỷ USD, tăng 39,9%. Cơ
cấu kim ngạch hàng hóa nhập khẩu năm nay khơng có sự thay đổi lớn so với
năm trước, trong đó nhóm tư liệu sản xuất vẫn chiếm tỷ trọng cao nhất với
90,2%; nhóm hàng vật phẩm tiêu dùng giảm từ 9,3% xuống 8,6%; nhóm vàng
và các sản phẩm vàng tăng từ 0,5% lên 1,2%. Trung Quốc vẫn là thị trường
nhập khẩu hàng hóa lớn nhất của nước ta (chiếm 24,9% tổng kim ngạch
nhập khẩu) với các mặt hàng nhập khẩu chủ yếu gồm: máy móc, thiết bị
dụng cụ phụ tùng, vải, máy tính và linh kiện, sắt thép, xăng dầu.
Như vậy sau 4 năm gia nhập, Việt Nam đã tận dụng được nhiều cơ hội,
tận dụng được nhiều hiệu ứng tốt do WTO mang lại, thể hiện qua tăng trưởng
của đầu tư và xuất nhập khẩu, cũng như vị thế trên trường quốc tế ngày càng
được nâng cao. Tuy vậy, bối cảnh kinh tế của Việt Nam sau 4 năm gia nhập

12


WTO cũng có nhiều khó khăn, đặc biệt là năm 2009. Trong hai năm 2007 và
2008, mức tăng xuất nhập khẩu của Việt Nam đạt bình quân khoảng 25 %/
năm. Năm 2009, do khủng hoảng toàn cầu nên tỷ lệ tăng xuất nhập khẩu của
Việt Nam bị tụt xuống đáng kể, nhưng vẫn ở mức cao so với nhiều nền kinh
tế khác. Năm 2010 mức tăng xuất nhập khẩu đã tăng trở lại đạt mức 23,6%.

Điểm tích cực đáng kể nữa là cơ cấu xuất khẩu hàng hoá của Việt Nam tiếp
tục thay đổi theo hướng giảm dần các mặt hàng nguyên liệu thô, nông sản
chưa chế biến và tăng dần số lượng cũng như giá trị các mặt hàng hàng chế
biến, hàng cơng nghiệp có giá trị gia tăng cao.
2.2 Cán cân thương mại Việt Nam sau khi gia nhập WTO
Từ sau giai đoạn mở cửa kinh tế, thương mại của Việt Nam tăng lên rất
nhanh. Tính trung bình từ năm 1990 đến 2010, xuất khẩu của Việt Nam tăng
trung bình hàng năm 18,7%/năm, trong khi đó nhập khẩu tăng trung bình
20,1%/năm. Tỷ lệ xuất khẩu/GDP tăng từ 30% năm 1996 lên tới 68,5% năm
2010, trong khi tỷ lệ nhập khẩu/GDP còn tăng mạnh hơn, từ 45,6% lên đến
80% trong cùng thời kỳ. Thâm hụt thương mại theo đó cũng ngày càng lớn.

Hình 2.2: Cán cân thương mại Việt Nam giai đoạn 1999-2010.

13


Qua số liệu thống kê cho thấy, từ năm 1999 đến 2001, cán cân thương
mại Việt Nam ở trạng thái cân bằng hoặc thặng dư. Nhưng từ năm 2002 đến
nay, cán cân thương mại ln ở tình trạng thâm hụt và giá trị thâm hụt ngày
càng lớn. Nếu như năm 2003, thâm hụt thương mại vào mức 2.581 tỷ USD thì
đến 2008 mức thâm hụt lên đến 12.781 tỷ USD, gấp 5 lần so với năm 2003.
Năm 2009, mức thâm hụt là 15.412 tỷ USD, gấp 5,9 lần so với năm 2003.
Trong năm 2010, cán cân thương mại tiếp tục nghiêng về nhập siêu với mức
thâm hụt khoảng trên 12 tỷ USD. Nếu so sánh giá trị thâm hụt thương mại với
giá trị GDP qua các năm thì từ năm 2002 ( năm bắt đầu có thâm hụt thương
mại) thì tỷ lệ thâm hụt thương mại so với GDP ngày càng tăng và trở nên
đáng báo động trong những năm gần đây (2007 – 2010), khi tỷ lệ này vượt lên
10% GDP. Đây cũng là giai đoạn sau khi Việt Nam gia nhập WTO. Theo
IMF, mức độ thâm hụt tài khoản vãng lai so với GDP nếu vượt quá 5% thì

được xem là nghiêm trọng, vì vậy vấn đề thâm hụt thương mại của Việt Nam
cần phải được xem xét thấu đáo. Tình trạng nhập siêu thể hiện rõ ở cơ cấu
hàng nhập khẩu, thị trường và nhập siêu theo khu vực sở hữu.
Xuất khẩu ròng của Việt Nam với các thị trường nhập siêu chính (triệu USD)
Xuất khẩu rịng 2001
2002
2003
2004
2005
2006
của VN
Với KV châu Á
- TBD
Với Asean
Với Đông Bắc
Á
Với Trung Quốc
Với Singapore
Với Đài Loan
Với Hàn Quốc
Với Thái Lan
Với Ấn Độ
Với toàn thế

2007

-3,785

- 6,028


-8,178

-10,420

- 11,134

- 15,44

- 26.201

-1,637
-2,789

-2,336
-4,695

-2,991
-6,262

-3,722
-7,999

-3,600
-9,535

-6,186
-11,69

-8,078
-20,43


-189
-1,435
-1,203
-1,481
-469
-1,891

-640
-1,572
-1,705
-1,811
-728
-3,309

-1,255
-1,851
-2,166
-2,133
-946
-5,106

-1,696
-2,133
-2,807
-2,751
-1,340
-5,483

-2,671

-2,565
-3,369
-2,930
-1,511
-4,536

-4,361
-4,643
-3,854
-3,028
-2,136
-5,056

-9.145
-5,407
-5,777
-4,081
-2,703
-1,177
14,121

14


giới

Hình 2.3: Xuất khẩu rịng của Việt Nam với các thị trường nhập siêu chính
Nhập siêu theo thị trường: Hình 2.3 cho thấy giai đoạn 2001 - 2007
chúng ta chủ yếu nhập siêu với thị trường khu vực châu Á – Thái Binh
Dương, Asean, Trung Quốc. Đặc biệt từ năm 2007 đến nay thì Trung Quốc

vươn lên là thị trường nhập siêu lớn nhất của Việt Nam. Năm 2008, mức thâm
hụt thương mại là 12.781 tỷ USD thì thâm hụt với quốc gia láng giềng Trung
Quốc chiếm tới 68,5%, tiếp theo là thâm hụt với các đối thủ cạnh tranh khác
là Asean và Hàn Quốc…Nhập khẩu chủ yếu của nước từ các thị trường này là
máy móc thiết bị. Nhập khẩu từ Hoa Kì, Nhât Bản, EU chủ yếu là máy móc
thiết bị cơng nghệ nguồn và một số ngun vật liệu phụ trợ, nhưng lượng
nhập còn khiêm tốn và tỷ trọng có xu hướng giảm. Như vậy Việt Nam đang
nhập khẩu máy móc thiết bị, cơng nghệ ở mức độ trung bình của thế giới từ
Trung Quốc, Hàn Quốc, Asean…thay vì nhập khẩu cơng nghệ hiện đại hơn từ
các nước phát triển. Hệ quả trong dài hạn là hiệu quả nền kinh tế khơng cao,
khó tạo ra tăng trưởng xuất khẩu để giảm nhập siêu.
Nhập siêu theo khu vực sở hữu: số liệu ở hình 2.4 cho thấy trong các
năm vừa qua khu vực FDI luôn xuất siêu và khu vực vốn trong nước luôn
nhập siêu. Cụ thể hơn, khu vực FDI nhập khẩu ít hơn (chỉ chiếm 32% tổng
nhập khẩu), nhưng lại đóng góp vào xuất khẩu nhiều hơn so với khu vực
trong nước (chiếm gần 60% tổng xuất khẩu). Đây chính là bằng chứng phản
bác lại quan điểm cho rằng nhập siêu mạnh chủ yếu do luồng FDI vào nhiều
tạo nhu cầu lớn đối với máy móc thiết bị. Khu vực vốn trong nước nhập khẩu
tỷ trọng lớn hơn (gấp đôi so với FDI), tuy nhiên lại đóng góp ít hơn cho xuất
khẩu, đồng thời lại khơng thể phát triển ngành công nghiệp trong nước đủ
hiệu quả để cạnh tranh với hàng nhập khẩu. Điều đó thể hiện hiệu quả đầu tư
kém của khu vực vốn trong nước so với khu vực FDI.
Nhập siêu theo khu vực sở hữu 2005 – 2007, 6 tháng năm 2008
Đơn vị tính: Kim ngạch XNK: triệu USD, tỷ lệ %

15


Chủ thể NK


2005

2006

2007

6 tháng

Tính cả giai

đầu 2008

đoạn

1.Các DN có vốn đầu tư nước ngoài
- Xuất khẩu

18553

23013

27776

17014

86356

- Nhập khẩu

13640


16489

21715

14020

65864

- Xuất khẩu rịng

+4913

+6524

+6061

+2994

+20492

- Tỷ lệ xuất siêu so

26.5

28.3

21.8

17.6


23.7

với kim ngạch NK
2.DN có 100% vốn nhà nước
- Xuất khẩu

13889

16813

20785

13603

65090

- Nhập khẩu

18425

28402

40967

30820

118614

- Xuất khẩu rịng


-4536

-11589

-20182

-17217

-53524

68.9

97.1

126.5

82.2

- Tỷ lệ nhập siêu so 32.6
với kim ngạch XK

Hình 2.4: Nhập siêu theo khu vực sở hữu 2005 – 2007, 6 tháng 2008.
Tổng kết lại, qua nghiên cứu tình trạng nhập siêu của nước ta, có thể đưa
ra các nhận định sau. Thứ nhất, tỷ lệ nhập siêu những năm gần đây ở mức
tương đối cao. Nhập khẩu chủ yếu là máy móc, thiết bị, nguyên vật liệu đầu
vào phục vụ cho nhu cầu đầu tư. Kinh nghiệm các nước cho thấy, khi tăng
nhập khẩu thông qua tăng đầu tư trong nước thì có thể kỳ vọng vào sự tăng
năng lực sản xuất hàng xuất khẩu và tăng trưởng kinh tế trong tương lai. Nhìn
từ góc độ này, nhập khẩu cao là một dấu hiệu tích cực của nền kinh tế. Tuy

nhiên, có thể thấy rằng, tỷ lệ nhập khẩu nguyên liệu thô, bán thành phẩm

16


chiếm tỷ trọng rất cao (khoảng trên 60%). Tỷ trọng kim ngạch nhập khẩu máy
móc thiết bị quá thấp (khoảng 27%) so với các nước đang tiến hành cơng
nghiệp hố (khoảng 40%). Nhập khẩu dịch vụ quá nhỏ đặc biệt là các phát
minh, sáng chế gần như chưa có. Điều này, một mặt làm hạn chế q trình
đẩy mạnh cơng nghiệp hoá - hiện đại hoá, mặt khác làm hạn chế tăng năng
suất nhân tố tổng hợp và kết quả là giảm khả năng cạnh tranh của hàng hoá,
dịch vụ. Hơn nữa, sự phụ thuộc quá mức hiện nay của Việt Nam vào nguồn
nguyên liệu, bán thành phẩm phục vụ cho xuất khẩu đã làm gia tăng mức độ
rủi ro xuất khẩu, bởi vì đây là nhóm hàng có độ co giãn về giá cao, dễ bị biến
động lớn về giá khi môi trường kinh tế thay đổi. Những yếu tố này làm cho
việc giảm nhập siêu trong dài hạn gặp nhiều khó khăn.
Vấn đề thứ hai ta có thể nhận thấy là Việt Nam nhập siêu chủ yếu với các
nước châu Á như thị trường Asean, Hàn Quốc, Hồng Kông, Nhật Bản, Đài
Loan, Trung Quốc và xuất siêu đối với các thị trường các nước phát triển như
EU, Nhật Bản, Hoa Kỳ. Từ năm 2001 đến nay, mức độ nhập siêu từ khu vực
châu Á có xu hướng gia tăng, đặc biệt là với Trung Quốc. Điều này, một mặt
cho thấy Việt Nam phụ thuộc quá lớn vào thị trường châu Á với nguồn
nguyên nhiên liệu, công nghệ, máy móc, hàng tiêu dùng chất lượng trung
bình. Điều này cũng phản ánh trình độ sản xuất và khả năng cạnh tranh thấp
của Việt Nam so với các nước trong khu vực. Xu hướng này khác hẳn với các
nước công nghiệp hoá ở châu Á trước đây, là nhập khẩu của họ từ các nước
phát triển chiếm tỷ trọng lớn trong tổng kim ngạch nhập khẩu.
Thứ ba, tỷ trọng nhập siêu cao thể hiện khả năng cạnh tranh thấp của
hàng hoá xuất khẩu và hàng hoá thay thế nhập khẩu được sản xuất trong
nước. Điều này thể hiện trước hết là tăng trưởng xuất khẩu của ta chủ yếu

tăng về lượng, yếu tố gia tăng chưa phải là đặc trưng của hàng xuất khẩu.
Nhóm hàng nơng sản của ta chủ yếu là xuất thô, với giá thấp hơn nhiều với

17


các sản phẩm cùng loại của các nước khác. Các sản phẩm dệt may, da giày,
hàm lượng nguyên liệu nhập khẩu cịn q cao. Tỷ trọng xuất khẩu hàng cơng
nghệ cao quá nhỏ, trong khi đó Việt Nam lại cần nhập khẩu nguyên phụ liệu,
bán thành phẩm bởi vì chất lượng và sản phẩm nhóm hàng này được sản xuất
trong nước còn thấp. Tỷ trọng nhập siêu gia tăng còn thể hiện hiệu quả đầu tư
thấp. Trong dài hạn, có thể hạn chế nhập siêu nếu nhập khẩu phục vụ cho xuất
khẩu và cải thiện khả năng cạnh tranh của hàng hoá tiêu dùng trong nước.
Trong những năm qua, đầu tư và nhập khẩu của ta còn tập trung vào các
ngành sử dụng nhiều vốn. Nhiều dự án đầu tư mang lại hiệu quả thấp và thậm
chí kéo dài, chưa tạo ra sản phẩm dịch vụ mới.
Thứ tư, nhập siêu mức độ lớn và kéo dài thể hiện sự chậm chạp trong
chuyển dịch cơ cấu xuất khẩu theo hướng gia tăng tỷ trọng xuất khẩu hàng
công nghiệp chế biến. Phân tích cơ cấu xuất khẩu của nước ta cho thấy, mức
độ gia tăng hàng xuất khẩu chế biến là quá thấp so với các nước cơng nghiệp
hố như Malaysia, Singapore, Thái Lan, Hàn Quốc, Trung Quốc… Không
tăng được tỷ trọng hàng xuất khẩu cơng nghiệp chế biến thì khả năng cải thiện
cán cân thương mại là rất khó khăn.
Như vậy thực trạng cán cân thương mại của Việt Nam luôn ở trạng thái
thâm hụt. Đây là điều khó tránh khỏi cho các nước trong q trình cơng
nghiệp hố như nước ta. Trước mắt, thâm hụt cán cân thương mại chưa gây
biến động lớn đối với ổn định kinh tế vĩ mô, mà trong nhiều năm qua chúng
được bù đắp chủ yếu bằng thặng dư của cán cân vốn, các khoản chuyển giao
như viện trợ nước ngoài và nguồn kiều hối. Mặc dù bản chất thâm hụt thương
mại là không xấu. Tuy nhiên, xét về dài hạn, thâm hụt cán cân thương mại

đang tiềm ẩn nhiều yếu tố ảnh hưởng đến ổn định và tăng trưởng kinh tế bền
vững. Những biểu hiện đó là: hiệu quả sử dụng vốn thấp; đầu tư vào những
ngành cần nhiều vốn và mức sinh lời thấp; khả năng cạnh tranh của những
ngành xuất khẩu có giá trị gia tăng cao còn hạn chế; chuyển dịch cơ cấu xuất

18


khẩu sang công nghiệp chế biến và kỹ thuật cao thể hiện xu thế của cơng
nghiệp hố và hội nhập sâu chưa thật rõ nét; tỷ trọng nguyên liệu nhập khẩu
cịn cao và ngành cơng nghiệp hỗ trợ cịn yếu kém.Trong những năm tới, xu
hướng gia tăng thâm hụt cán cân thương mại vẫn cịn, do u cầu đẩy mạnh
cơng nghiệp hố - hiện đại hóa, mở cửa hội nhập kinh tế quốc tế, chuyển dịch
cơ cấu sang đầu tư chiều sâu, thị trường thế giới, đặc biệt là thị trường các
loại hàng hố đầu vào có xu hướng gia tăng. Do đó, nếu khơng có những biện
pháp thích hợp, những hạn chế nêu trên có thể sẽ gây nên tình trạng xấu đối
với nền kinh tế, như tăng dư nợ nước ngoài, làm yếu khả năng cạnh tranh,
giảm mức độ hội nhập và tốc độ cơng nghiệp hố. Vậy đâu là nguyên nhân
dẫn đến tình trạng nhập siêu của nước ta?
2.3 Nguyên nhân thâm hụt cán cân thương mại của Việt Nam.
2.3.1 Vấn đề tỷ giá
Việc cán cân thương mại của Việt Nam thâm hụt ngày càng lớn, đặc biệt
sau khi gia nhập WTO, đe doạ làm mất cân đối cán cân thanh toán tổng thể,
xuất phát từ những nguyên nhân khác nhau trong đó phải kể đến nguyên nhân
tỷ giá. Ngày nay, quan hệ thương mại là đa phương, một nước có quan hệ
bn bán với rất nhiều nước trên thế giới. Để có cái nhìn tồn diện hơn về vị
thế cạnh tranh của hàng hoá trong nước với các đối tác thương mại khác
người ta dùng tỷ giá thực đa phương. Tỷ giá thực đa phương là một chỉ số
phản ánh mức độ cạnh tranh về giá cả của quốc gia và là cơ sở để đánh giá
đồng nội tệ bị định giá cao hay thấp. Như chương 1 đã phân tích thì tỷ giá hối

đối và cán cân thương mại có mối quan hệ đồng biến với nhau. Các kết quả
hồi quy bằng mơ hình kinh tế lượng cũng cho thấy mối quan hệ giữa tỷ giá
thực và cán cân thương mại.
Từ đồ thị dưới đây có thể thấy trong giai đoạn quý I/1999 đến quý
IV/2003, REER có giá trị lớn hơn 100 và có xu hướng tăng, đến quý I/2004
REER vẫn có giá trị lớn hơn 100 nhưng có xu hướng giảm dần và đến quý
I/2008 REER có giá trị nhỏ hơn 100 và tiếp tục có xu hướng giảm cho những

19


quý tiếp sau. Theo lý thuyết kinh tế học, nếu REER lớn hơn 100 thì VND
được coi là giảm giá so với các đồng tiền còn lại. Khi VND giảm giá sức cạnh
tranh quốc tế của hàng hoá Việt Nam được cải thiện, xuất khẩu có lợi thế hơn
nhập khẩu nên cán cân thương mại thời kì này sẽ được cải thiện. Ngược lại,
khi VND tăng giá thực sức cạnh tranh quốc tế của hàng hoá Việt Nam sẽ bị
hạn chế, nhập khẩu sẽ có lợi thế hơn xuất khẩu. Vì vậy cán cân thương mại
thời kì này sẽ nghiêng về nhập siêu.

Hình 2.5: Tỷ giá thực (REER) và Cán cân thương mại Việt Nam theo
quý giai đoạn 1999 –Q1 2010
Xét trong thực tế, từ quý I/1999 đến quý IV/2003 là giai đoạn VND giảm
giá thực. So với quý I/1999 tại thời điểm quý IV/2003 VND giảm giá thực
16.01%, nên trong thời kì này cán cân thương mại Việt Nam có nhiều cải
thiện. Trong giai đoạn tiếp theo, từ quý I/2004 – quý IV/2007, VND giảm giá
thực nhưng tỷ lệ giảm so với thời điểm quý I/1999 giảm dần, cán cân thương
mại mất cân bằng mức thâm hụt thương mại bắt đầu gia tăng. Đến q I/2008,
VND khơng cịn lợi thế giảm giá thực so với các đồng tiền khác. Từ thời điểm
này VND bắt đầu tăng giá thực. VND tăng giá đã hỗ trợ cho hoạt động nhập


20


khẩu gia tăng và thực tế số liệu thông kê cho thấy từ quý I/2004 đến nay cán
cân thương mại nghiêng hẳn về nhập siêu.
2.3.2 Cơ cấu hàng hoá xuất nhập khẩu của Việt Nam.
Nguyên nhân thứ hai dẫn đến tình trạng nhập siêu của Việt Nam khó có
thể cải thiện xuất phát từ cơ cấu mặt hàng xuất nhập khẩu. Việt Nam là một
nước xuất thô, nhập tinh. Hơn một thập niên qua, Việt Nam xuất khẩu chủ
yếu các mặt hàng nơng lâm sản, cơng nghiệp nặng và khống sản, công
nghiệp nhẹ và tiểu thủ công nghiệp (TTCN).
Theo thống kê, trung bình giai đoạn 1999 - 2010, hàng nơng lâm sản
chiếm khoảng 15%, trong đó chủ yếu là hàng nơng sản với các sản phẩm
chính như gạo, hồ tiêu, cao su; hàng cơng nghiệp nặng và khống sản chiếm
khoảng 34% mà chủ yếu là khoáng sản với mặt hàng chính là than đá và dầu
thơ; hàng cơng nghiệp nhẹ và tiểu thủ công nghiệp chiếm khoảng 40% với sản
phẩm chủ yếu là hàng dệt may và giầy da.
Cơ cấu hàng hoá xuất khẩu cho thấy hàng hoá xuất khẩu của Việt Nam
khơng có gì nổi trội so với các quốc gia trong khu vực, cơ cấu mặt hàng của
Việt Nam giống với các nước khác trong ASEAN. Do đó, Việt Nam khó có
thể cạnh tranh với hàng hố các nước trong khu vực tại thị trường Asean cũng
như trên thị trường lớn như Hoa Kì, EU…để có thể gia tăng kim ngạch xuất
khẩu. Hơn nữa, nhiều mặt hàng trong nhóm hàng cơng nghiêp nhẹ tiểu thủ
cơng nghiệp phải nhập khẩu nguyên liệu, nhập khẩu dây chuyền sản xuất. Vì
thế chưa kể công chúng ta làm ra, rồi đem đi bán, ngoại tệ thu về thực sự sẽ
rất ít. Đây cũng là tình trạng chung của nhiều ngành nghề sản xuất trong
nước. Khơng chỉ vậy, có nhiều mặt hàng xuất khẩu khơng có khả năng gia
tăng sản lượng khi giá cả có lợi. Chẳng hạn như tỷ giá hối đối tăng thì nhiều
mặt hàng xuất khẩu khơng thể tăng sản lượng vì hầu hết các mặt hàng xuất
khẩu đã phát huy hết công suất sản xuất và không thể khai thác tiếp nhằm


21


đảm bảo tính bền vững dài hạn (như dầu thơ, than đá,...) hay một số nhóm
hàng phụ bị tác động quá nhiều của thời tiết (như nông sản, thủy sản,...).
Về cơ cấu hàng nhập khẩu: Qua số liệu thống kê, dễ dàng nhận thấy suốt
giai đoạn 1999 – 2010, tổng giá trị nhập khẩu ngày càng tăng. Trong đó nhập
khẩu thuộc nhóm hàng tư liệu sản xuất chiếm tỷ trọng rất lớn, trung bình
khoảng 92% tổng giá trị nhập khẩu, 8% cịn lại chủ yếu là hàng tiêu dùng.
Trong nhóm hàng tư liệu sản xuất thì nhóm hàng máy móc thiết bị chiếm
khoảng 29% tổng giá trị nhập khẩu; nhóm hàng nguyên nhiên, vật liệu chiếm
khoảng 63,5% tổng giá trị nhập khẩu. Có nhiều nguyên nhân dẫn đến nhập
khẩu hàng tư liệu sản xuất cao. Như đã đề cập trong phần trên, nhiều mặt
hàng sản xuất trong nước phải nhập khẩu máy móc thiết bị và nguyên vật liệu,
cùng với đó là q trình cơng nghiệp hố đang diễn ra mạnh mẽ nên nhu cầu
thay thế thiết bị lạc hậu bằng cách nhập khẩu công nghệ từ các nước phát triển
góp phần làm gia tăng nhu cầu nhập khẩu chung. Ngồi ra, lộ trình tự do hố
thương mại của Việt Nam nhất là kể từ năm 2007 - năm Việt Nam trở thành
thành viên WTO đã thu hút một nguồn vốn FDI khá lớn hàng năm và kèm theo
đó là nhu cầu nhập khẩu trang thiết bị, dây chuyền sản xuất phục vụ đầu tư.

2.3.3 Tăng trưởng kinh tế
Nền kinh tế Việt Nam đang trong quá trình phát triển nhanh với mức
tăng trưởng trung bình hàng năm khoảng 7%. Cơng nghiệp hoá đặt ra yêu cầu
về trang bị cơ sở vật chất hiện đại nên việc nhập khẩu máy móc thiết bị từ bên
ngồi là khó tránh khỏi, chưa kể một số ngành nguyên liệu sản xuất phải nhập
khẩu vì nguồn trong nước không đủ đáp ứng như sản xuất thép, phân bón…
Bên cạnh đó, chính sách mở cửa hội nhập trong những năm gần đây đã tạo ra
nhiều cơ hội cho xuất khẩu trong nước nhưng cũng làm gia tăng nhập khẩu,


22


nhất là từ khi Việt Nam ký kết các hiệp định thương mại song phương, đa
phương với các nước Asean, tổ chức thương mại thế giới (WTO). Như vậy,
giữa tăng trưởng kinh tế và sự gia tăng nhập khẩu có mối quan hệ tương quan
với nhau. Năm 2007, với mức tăng trưởng kinh tế là 8.48% thì nhập khẩu gia
tăng 38% so với tổng kim ngạch xuất nhập khẩu. Năm 2008, tăng trưởng kinh
tế giảm xuống cịn 6.23% thì sự gia tăng nhập khẩu là 29.1% tổng kim ngạch
xuất nhập khẩu.
2.3.4 Ngun nhân khác
Ngồi những nhân tố trên thì việc hội nhập ngày càng sâu rộng vào nền
kinh tế thế giới cũng là một yếu tố tác động đến nhập siêu của Việt Nam. Gia
nhập WTO đồng nghĩa với việc Việt Nam phải cam kết chủ động cắt giảm các
dòng thuế. Từ ngày 11/1/2007, nước ta đã thực hiện các cam kết ràng buộc
toàn bộ Biểu thế nhập khẩu gồm 10.689 dịng thuế, mức giảm bình qn từ
17,4% xuống cịn 13,4% với lộ trình thực hiện từ 5 đến 7 năm và cơng bố cắt
giảm 1.812 dịng thuế nhập khẩu với mức thuế suất giảm bình qn là 14,5%.
Khơng chỉ cam kết cắt giảm thuế suất mà Việt Nam còn thực hiện cắt giảm
hàng rào phi thuế quan theo những cam kết song phương và khu vực. Về
nguyên tắc, giữa việc cắt giảm thuế và tăng tự do hoá kinh doanh với việc
nhập siêu có sự liên hệ trực tiếp. Thực tế cho thấy, việc cắt giảm thuế khiến
sức cạnh tranh của hàng nội và hàng ngoại càng có sự cạnh tranh gay gắt, sức
cạnh tranh về giá của hàng ngoại nhập tăng. Cùng với việc mở cửa rộng hơn
và tâm lý sùng ngoại sẵn có trong một bộ phận người tiêu dùng cấu thành trực
tiếp làm tăng lượng hàng nhập khẩu vào nước ta trong thời gian gần đây.
2.4 Một số hậu quả của tình trạng thâm hụt cán cân thương mại đối với
nền kinh tế Việt Nam.
Nhập siêu là chuyện khó tránh khỏi với các quốc gia đang trong q trình

cơng nghiệp hố như Việt Nam. Thực tế, thâm hụt thương mại không hẳn là

23


xấu, nó phụ thuộc vào việc xuất nhập hay nhập khẩu ảnh hưởng như thế nào
đến phát triển và tăng trưởng kinh tế. Tuy nhiên thâm hụt kéo dài lại là một
điều đáng lo ngại. Nó ảnh hưởng đến sự ổn định vĩ mô của nền kinh tế. Sau
đây chúng ta sẽ xem xét là một số tác động của thâm hụt thương mại đến nền
kinh tế Việt Nam.
2.4.1 Thâm hụt cán cân thương mại ảnh hưởng đến dự trữ ngoại hối và
tỷ giá.
Nhập siêu gây bất ổn tới cán cân thanh tốn tổng thể, từ đó tạo áp lực tới
cung cầu ngoại tệ và tỷ giá. Nhập siêu là nguyên nhân chính dẫn tới thâm hụt
cán cân vãng lai trong những năm gần đây. Tỷ lệ thâm hụt cán cân vãng
lai/GDP năm 2007 là – 9,87%, năm 2008 là – 11,93%, năm 2009 là – 6,67%
và năm 2010 khoảng – 10% trong khi đó tỷ lệ nhập siêu/GDP ln ở mức cao
từ 14 – 20%. Cán cân vốn và tài chính liên tục thặng dư là nguồn tài trợ chủ
yếu thâm hụt vãng lai. Mặc dù vậy, dưới áp lực nhập siêu cao cán cân thanh
toán tổng thể vẫn bị thâm hụt, cùng với yếu tố tâm lý găm giữ ngoại tệ đã dẫn
tới mất cân đối cung - cầu ngoại tệ theo hướng dư cầu và gây áp lực tăng tỷ
giá. Tiền đồng đã mất giá mạnh, giảm 8,8% năm 2008 và 5 – 6% năm 2009.
Ngoài ra, nhập siêu còn làm suy giảm dự trữ ngoại hối Nhà nước do Ngân
hàng Nhà nước phải bán ngoại tệ trên thị trường ngoại hối nhằm ổn định tỷ
giá. Trong các năm 2009, 2010 do cán cân thanh toán thâm hụt lớn, Ngân
hàng Nhà nước đã phải bán ngoại tệ cho các tổ chức tín dụng làm cho lượng
dữ trữ ngoại hối suy giảm đáng kể. Năm 2010, dữ trữ ngoại hối của nước ta là
khoảng 10 tỷ UDS. Theo các chuyên gia kinh tế dữ trữ ngoại tệ như vậy là vơ
cùng nguy hiểm vì chỉ cịn tương đương khoảng 5 – 6 tuần nhập khẩu, trong
khi đó mức tối thiểu phải là 12 tuần theo Quỹ tiền tệ Quốc tế IMF.

2.4.2 Thâm hụt cán cân thương mại và lạm phát.
Sau cuộc khủng hoảng tài chính châu Á năm 1997, Việt Nam hai năm
liền rơi vào tình trạng giảm phát là năm 2000 và 2001. Lạm phát dần quay trở

24


lại từ năm 2004 do các chính sách kích cầu mạnh mẽ cùng sự leo thang của
giá nhiều mặt hàng trên thế giới. Năm 2007, lạm phát tăng đến hai con số đã
gây nên hoang mang cho người dân và cả các nhà lãnh đạo đất nước. Lạm
phát thực sự bùng nổ và gây nên những bất ổn vĩ mô vào năm 2008 với mức
19,89%. Đến năm 2009 lạm phát giảm xuống còn 6,52%, nhưng lại tăng cao
vào năm 2010 và 11,75% và năm 2011 sau 8 tháng đầu đã tăng 15,68%. Lạm
phát xảy ra và đặc biệt tăng cao sau khi Việt Nam gia nhập WTO được giải
thích thứ nhất do sự gia tăng các khoản nợ tín dụng cùng các khoản đầu tư của
chính phủ và dịng vốn đầu tư nước ngoài khổng lồ trực tiếp vào Việt Nam tạo ra
sự dư thừa tiền mặt trên thị trường và thứ hai là lạm phát do chi phí đẩy. Lạm
phát do chi phí đẩy là nguyên nhân dễ nhận thấy đối với lạm phát của Việt Nam
trong thời gian qua. Với một nền kinh tế khá mở, kim ngạch nhập khẩu lên đến
90% GDP (2008), sự biến động của giá cả thế giới tác động ngay đến giá cả
trong nước. Năm 2007 và nửa đầu năm 2008, giá cả của hầu hết các mặt hàng
trên thế giới biến động mạnh, đặc biệt là giá dầu thô, lương thực, thực phẩm và
các nguyên liệu trong sản xuất công nghiệp. Trong khi đó, kim ngạch nhập khẩu
nguyên vật liệu để sản xuất hàng hoá lại chiếm một tỷ lệ cao trong tổng kim
ngạch nhập khẩu của Việt Nam. Do đó, giá cả hàng hố trong nước cũng có xu
hướng tăng lên góp phần làm cho lạm phát bùng phát. Như vậy nhập siêu là một
biểu hiện bên ngoài gây ra lạm phát.

25



×