Tải bản đầy đủ (.docx) (29 trang)

Tiêu luận cao học lịch sử đảng quá trình thực hiện bổ sung, phát triển đường lối đổi mới của đảng từ năm 1986 đến nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (142.35 KB, 29 trang )

MỞ ĐẦU
Công cuộc đổi mới do Đảng ta khởi xướng và lãnh đạo từ Đại hội lần thứ VI
(1986) đã đáp ứng đòi hỏi cấp bách của đất nước. Đảng, Nhà nước và nhân dân ta
đã không ngừng nỗ lực, tích cực, chủ động tìm tịi, khám phá và sáng tạo. Cương
lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội được thông qua
tại Đại hội VII (1991) của Đảng là bước phát triển nhận thức rất quan trọng trong
tiến trình đổi mới đất nước.
Những thành tựu to lớn đã đạt được từ ngày thành lập nước đến nay chứng tỏ
sự trưởng thành về mọi mặt của Đảng, Nhà nước và toàn thể dân tộc Việt Nam.
Chúng ta vô cùng tự hào về Đảng ta, Đảng Cộng sản Việt Nam quang vinh do Chủ
tịch Hồ Chí Minh sáng lập, rèn luyện - đội tiên phong của giai cấp công nhân, đồng
thời là đội tiên phong của nhân dân lao động và của dân tộc Việt Nam, đã lãnh đạo
sự nghiệp cách mạng Việt Nam vượt qua mọi khó khăn, thử thách để giành được
những thắng lợi vĩ đại.
Công cuộc đổi mới do Đảng ta khởi xướng và lãnh đạo từ Đại hội VI (năm
1986). Thành tựu của 25 năm đổi mới là to lớn và có ý nghĩa lịch sử. Thực tiễn
phát triển đất nước và những bài học kinh nghiệm được tổng kết qua chặng đường
đó cho thấy, đường lối đổi mới của Đảng ta, trên nền tảng chủ nghĩa Mác – Lênin
và tư tưởng Hồ Chí Minh, là hồn tồn đúng đắn và sáng tạo, chứng tỏ con đường
đi lên chủ nghĩa xã hội của cách mạng nước ta là phù hợp với hồn cảnh thực tế của
Việt Nam.
Đổi mới khơng chỉ là một ý chí chính trị, một khẩu hiệu hành động mà còn
lan tỏa, ăn sâu bén rễ trong mọi tế bào của đời sống xã hội, trong nếp nghĩ, toan
tính làm ăn, xây dựng cơ nghiệp. Đổi mới đã làm sáng ngời thêm những phẩm chất
tinh hoa của dân tộc Việt Nam - kinh tế ngày càng tăng trưởng, xã hội ngày càng
trở nên năng động và có những biến đổi tốt đẹp hơn. Đổi mới đang tạo nên vóc
dáng đáng tự hào của nước Việt Nam mới. Thành tựu của công cuộc đổi mới đang
1


hiện hữu trong từng nếp nhà từ thành thị tới nông thôn, từ đồng bằng tới vùng cao,


vùng sâu, vùng xa.
Xuất phát từ những vấn đề nói trên, em đã chọn đề tài: “Quá trình thực hiện
bổ sung, phát triển đường lối đổi mới của Đảng từ năm 1986 đến nay”. Làm tiểu
luận hết môn học.

2


I. NỘI DUNG CỦA ĐƯỜNG LỐI ĐỔI MỚI
Vào cuối những năm 70 của thế kỷ XX do những điều kiện khắc nghiệt của
hoàn cảnh đất nước và cả do những khuyết điểm chủ quan trong lãnh đạo và quản
lý mà đất nước lâm vào khủng hoảng kinh tế - xã hội, đời sống nhân dân gặp nhiều
khó khăn. Trong bối cảnh đó Đảng, Nhà nước và nhân dân ta đã từng bước thử
nghiệm tìm tịi con đường đổi mới để đưa đất nước tiến lên.
Trên cơ sở đổi mới tư duy lý luận, nhận thức rõ hơn về chủ nghĩa xã hội và
thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, dựa vào những kết quả bước đầu của sự đổi
mới từng phần, lắng nghe, tổng kết sáng kiến, kinh nghiệm của nhân dân, của các
địa phương và cơ sở, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI Đảng Cộng sản Việt
Nam (12-1986) đã hoạch định đường lối đổi mới. Trong quá trình tổ chức thực hiện
đường lối đổi mới do Đại hội VI đề ra, nhiều Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương,
Bộ Chính trị và đặc biệt Đại hội VII (6-1991) với Cương lĩnh xây dựng đất nước
trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, Đại hội VIII (6-1996), Đại hội IX (42001), Đại hội X (4-2006) và Đại hội XI (1-2011) đã không ngừng bổ sung, phát
triển, hoàn thiện đường lối đổi mới, làm rõ hơn nhiều vấn đề lý luận và thực tiễn
của công cuộc đổi mới và xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam.
Có thể thấy rõ những nội dung đổi mới quan trọng và chủ yếu cả về nhận
thức, tư duy lý luận và về lãnh đạo, chỉ đạo thực tiễn của 25 năm qua được thể hiện
qua năm nội dung sau:
Trước hết, đó là đổi mới tư duy lý luận mà thực chất là nắm vững và vận
dụng đúng đắn quy luật khách quan, khắc phục căn bệnh nóng vội, chủ quan, duy ý
chí. Ngay từ Đại hội VI, Đảng ta đã nhận thức rằng, từ chủ nghĩa tư bản lên chủ

nghĩa xã hội phải trải qua một thời kỳ quá độ là một tất yếu khách quan và độ dài
của thời kỳ đó phụ thuộc vào điều kiện chính trị, kinh tế - xã hội của mỗi nước.
“Thời kỳ quá độ ở nước ta, do tiến thẳng lên chủ nghĩa xã hội từ một nền sản xuất
3


nhỏ, bỏ qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa, đương nhiên phải lâu dài và rất
khó khăn”.
Trong hàng loạt các quy luật khách quan, Đảng Cộng sản Việt Nam đã nhận
thức rõ hơn quy luật về quan hệ sản xuất phải phù hợp với tính chất và trình độ của
lực lượng sản xuất, sửa chữa sai lầm trước đó là là đã đưa quan hệ sản xuất đi quá
nhanh, quá xa trong khi lực lượng sản xuất còn rất lạc hậu, tập trung phát triển
mạnh mẽ lực lượng sản xuất thông qua thực hiện cách mạng khoa học - cơng nghệ,
đẩy mạnh cơng nghiệp hố, hiện đại hóa, từ đó điều chỉnh quan hệ sản xuất cho phù
hợp. Các quy luật vận động trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, nhất là các
quy luật kinh tế đã từng bước nhận thức và vận dụng đúng đắn và có hiệu quả hơn.
Khi quyết định đường lối đổi mới ở Đại hội VI Đảng ta đã nghiêm túc chỉ ra rằng,
cuộc sống cho ta một bài học thấm thía là khơng thể nóng vội làm trái quy luật.
Thứ hai, từ nhận thức đúng đắn về thời kỳ quá độ, Đảng quyết định đổi mới
cơ cấu kinh tế, coi nền kinh tế có cơ cấu nhiều thành phần là một đặc trưng của thời
kỳ quá độ. Đại hội VI đã vận dụng đúng đắn quan điểm của Lênin về kinh tế nhiều
thành phần. Chính Lênin cũng cho rằng tên nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa là để
khẳng định hướng tiến lên chứ điều đó chưa có nghĩa là nền kinh tế của ta đã hoàn
toàn là kinh tế xã hội chủ nghĩa. Vì vậy, ở nước ta cần thiết phải có nhiều thành
phần kinh tế phát triển bình đẳng trước pháp luật, đó là u cầu khách quan. Đại
hội VI khẳng định nước ta có các thành phần: kinh tế xã hội chủ nghĩa bao gồm
khu vực quốc doanh và khu vực tập thể; kinh tế tiểu sản xuất hàng hóa; kinh tế tư
bản tư nhân; kinh tế tư bản nhà nước; kinh tế tự nhiên, tự túc tự cấp. Đại hội IX bổ
sung thêm một thành phần nữa là kinh tế 100% vốn nước ngoài.
Trong quá trình đổi mới, hơn 25 năm qua, Đảng và Nhà nước ta chủ trương

thực hiện nhất quán và lâu dài chính sách phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều
thành phần. Thực tiễn đổi mới cũng cho thấy nhiều thành phần kinh tế đương nhiên
là có nhiều hình thức sở hữu, trong đó kinh tế nhà nước giữ vai trị chủ đạo; kinh tế
nhà nước cùng với kinh tế tập thể ngày càng trở thành nền tảng vững chắc.
4


Cùng với đổi mới cơ cấu kinh tế, Đảng chủ trương đổi mới cơ chế quản lý
dứt khoát bỏ cơ chế quản lý tập trung quan liêu, hành chính, bao cấp chuyển sang
hạch toán, kinh doanh và từng bước đưa nền kinh tế vận động theo cơ chế thị
trường, có sự quản lý của Nhà nước, theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Đó chính là
nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Mục đích của nền kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa là phát triển lực lượng sản xuất, phát triển kinh
tế để xây dựng cơ sở vật chất - kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội, nâng cao đời sống
nhân dân. Phát triển lực lượng sản xuất hiện đại gắn liền với xây dựng quan hệ sản
xuất mới phù hợp trên cả ba mặt sở hữu, quản lý, phân phối.
Thứ ba, đổi mới nội dung, phương thức lãnh đạo của Đảng và vai trò, chức
năng quản lý điều hành của Nhà nước. Nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến
đấu của Đảng. Xây dựng và hoàn thiện Nhà nước theo hướng nhà nước pháp quyền
xã hội chủ nghĩa. Củng cố sức mạnh của hệ thống chính trị. Đại hội VI của Đảng
đặt ra yêu cầu xây dựng Đảng ngang tầm nhiệm vụ chính trị của một Đảng cầm
quyền, tăng cường sức chiến đấu, năng lực lãnh đạo và năng lực tổ chức thực tiễn,
đổi mới phong cách làm việc, đi sâu, đi sát thực tế, sát cơ sở, gắn bó với nhân dân.
Nâng cao trình độ trí tuệ, nắm bắt và vận dụng đúng đắn quy luật khách quan, hiểu
biết sâu sắc những vấn đề kinh tế, xã hội. Từ Hội nghị Trung ương 3 khoá VII (61992), đặc biệt từ Hội nghị Trung ương 6 (lần 2) khóa VIII (1-1999) Đảng đẩy
mạnh nhiệm vụ xây dựng chỉnh đốn Đảng, học tập và làm theo Di chúc của Chủ
tịch Hồ Chí Minh.
Đại hội VI của Đảng đã xác định rõ chức năng quản lý nhà nước về kinh tế xã hội của bộ máy Nhà nước, nghĩa là, Nhà nước thông qua hệ thống pháp luật và
chính sách để điều hành, quản lý nền kinh tế - xã hội ở tầm vĩ mô. Từ sau Đại hội
VII, đặc biệt là Hội nghị Trung ương 8 khoá VII (1-1995), Hội nghị Trung ương 3

khố VIII (6-1997) đẩy mạnh xây dựng và hồn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội
chủ nghĩa của dân, do dân, vì dân. Quan điểm cơ bản là: quyền lực Nhà nước là
thống nhất, song có sự phân cơng và phối hợp chặt chẽ giữa các cơ quan lập pháp,
5


hành pháp và tư pháp dưới sự lãnh đạo của Đảng. Từ Quốc hội khoá VIII (1987),
khoá IX (1992), khoá X (1997) và khoá XI (2002) hoạt động của Quốc hội ngày
càng đổi mới và thực hiện có hiệu quả các chức năng lập pháp, quyết định những
vấn đề quan trọng của đất nước và quyền giám sát tối cao. Từng bước đẩy mạnh
cơng cuộc cải cách nền hành chính nhà nước cả về chức năng, cơ chế vận hành,
quản lý, tổ chức bộ máy và đội ngũ công chức. Bộ máy và hoạt động tư pháp được
củng cố và tăng cường. Cùng với việc xây dựng, chỉnh đốn Đảng, nhiệm vụ xây
dựng hoàn thiện Nhà nước là những nội dung quan trọng về đổi mới hệ thống chính
trị và có ý nghĩa quyết định đến tồn bộ tiến trình của sự nghiệp đổi mới.
Thứ tư, thật sự phát huy quyền làm chủ của nhân dân, thực hiện “dân biết,
dân bàn, dân làm, dân kiểm tra”, tăng cường và đổi mới công tác vận động quần
chúng nhân dân và thực hiện nền dân chủ xã hội chủ nghĩa. Đại hội VI của Đảng đã
rút ra bài học là trong toàn bộ hoạt động, Đảng phải quán triệt tư tưởng “lấy dân
làm gốc”, xây dựng và phát huy quyền làm chủ của nhân dân lao động. Chính lợi
ích sáng kiến của nhân dân là nguồn gốc hình thành đường lối đổi mới... Một trong
những nguyên tắc chỉ đạo công cuộc đổi mới mà Hội nghị Trung ương lần thứ 6
(khoá VI) 3-1989 nêu ra là phải thực hiện tốt hơn dân chủ xã hội chủ nghĩa, nhưng
dân chủ luôn luôn gắn liền với tập trung, gắn liền với nghĩa vụ, trách nhiệm công
dân, với kỷ cương, kỷ luật pháp luật, dân chủ phải có lãnh đạo và lãnh đạo bằng
phương pháp dân chủ.
Nghị quyết Trung ương 8B (khoá VI) 3-1990 về đổi mới công tác quần
chúng của Đảng, tăng cường mối quan hệ giữa Đảng và nhân dân. Đảng nhấn mạnh
các quan điểm: Cách mạng là sự nghiệp của dân, do dân và vì dân; động lực thúc
đẩy phong trào quần chúng là đáp ứng lợi ích thiết thực của nhân dân và kết hợp

hài hịa các lợi ích, thống nhất quyền lợi với nghĩa vụ cơng dân; các hình thức tập
hợp nhân dân phải đa dạng; công tác vận động quần chúng là trách nhiệm của
Đảng, Nhà nước và các đoàn thể. Đảng cũng chủ trương đổi mới tổ chức và hoạt
động của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các đoàn thể nhân dân. Mặt trận và các tổ
6


chức thành viên là cơ sở chính trị của chính quyền nhân dân. Cùng với Đảng, Nhà
nước, tổ chức Mặt trận và đoàn thể nhân dân như Tổng liên đoàn lao động, Hội
nơng dân, Đồn thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh, Hội liên hiệp Phụ nữ, Hội Cựu
chiến binh hợp thành hệ thống chính trị. Cơng tác vận động quần chúng là trách
nhiệm của cả hệ thống chính trị ở tất cả các cấp.
Đảng chú trọng xây dựng Mặt trận dân tộc thống nhất, tăng cường sức mạnh
của khối đại đồn kết tồn dân trong cơng cuộc đổi mới. Đoàn kết các giai cấp, các
thành phần kinh tế, đoàn kết các dân tộc, các tôn giáo, mọi tầng lớp, cá nhân yêu
nước, đoàn kết người Việt Nam ở trong nước và người Việt Nam ở nước ngoài
nhằm phát huy nội lực của dân tộc Việt Nam.
Thứ năm, đổi mới chính sách đối ngoại, thực hiện đa phương hóa, đa dạng
hoá, Việt Nam muốn là bạn và là đối tác tin cậy của các nước trên thế giới trên cơ
sở giữ vững độc lập chủ quyền, bình đẳng và cùng có lợi. Xây dựng chiến lược bảo
vệ Tổ quốc phù hợp với tình hình mới. Tại Đại hội VI (12-1986), Đảng ta đã nêu rõ
chủ trương: khuyến khích nước ngồi đầu tư vào nước ta dưới nhiều hình thức, nhất
là đối với các ngành và cơ sở đòi hỏi kỹ thuật cao. Đi đôi với công bố luật đầu tư,
cần có các chính sách và biện pháp tạo điều kiện thuận lợi cho người nước ngoài và
Việt kiều vào nước ta để hợp tác kinh doanh. Luật đầu tư nước ngoài là luật sớm
nhất của thời kỳ đổi mới, được Quốc hội khố VIII thơng qua ngày 29-12-1987 và
có hiệu lực từ 1-1-1988. Đại hội VII của Đảng tuyên bố chính sách đối ngoại rộng
mở, Việt Nam muốn là bạn với tất cả các nước trong cộng đồng thế giới, phấn đấu
vì hịa bình độc lập và phát triển. Đại hội VIII của Đảng nhấn mạnh sự hợp tác
nhiều mặt, song phương và đa phương với các nước và các tổ chức quốc tế. Tích

cực đóng góp cho hoạt động ở các diễn đàn quốc tế, tham gia giải quyết các vấn đề
toàn cầu. Mở rộng quan hệ đối ngoại nhân dân, quan hệ với các tổ chức phi chính
phủ. Đại hội IX của Đảng tiếp tục chủ trương mở rộng quan hệ đối ngoại chủ động
và tích cực hội nhập kinh tế quốc tế và khu vực, Việt Nam sẵn sàng là bạn, là đối
tác tin cậy của các nước trong cộng đồng quốc tế. Đảng ta luôn luôn xác định,
7


nhiệm vụ của công tác đối ngoại là giữ vững mơi trường hịa bình, tạo các điều kiện
quốc tế thuận lợi cho công cuộc đổi mới, đẩy mạnh phát triển kinh tế - xã hội, cơng
nghiệp hố, hiện đại hóa đất nước, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, đồng thời góp
phần tích cực vào cuộc đấu tranh chung của nhân dân thế giới vì hịa bình, độc lập
dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội.
Với những nội dung rất căn bản và chủ yếu trong đường lối đổi mới cùng với
bản lĩnh chính trị vững vàng và trách nhiệm trước đất nước, giai cấp và dân tộc,
Đảng Cộng sản Việt Nam đã đưa đất nước vượt qua những khó khăn, thách thức,
kể cả tác động tiêu cực do sự sụp đổ của chế độ xã hội chủ nghĩa ở các nước Đông
Âu và Liên Xô đưa lại, không ngừng đẩy mạnh sự nghiệp đổi mới theo con đường
của chủ nghĩa xã hội và qua 25 năm đã đạt được những thành tựu to lớn và có ý
nghĩa lịch sử, làm thay đổi rõ rệt bộ mặt của đất nước, cải thiện đáng kể đời sống
của nhân dân, như các văn kiện trình Đại hội X của Đảng đã khẳng định.
Có thể thấy rõ thành tựu của 25 năm đổi mới cả về thực tiễn và nhận thức lý
luận để vững tin vào con đường đã lựa chọn và sự phát triển của đất nước.
Về thực tiễn, nước ta đã ra khỏi khủng hoảng kinh tế - xã hội từ 1996, kinh tế tiếp
tục tăng trưởng khá nhanh (GDP bình quân 1986-1990 là 3,9%, 1991-1995 là
8,2%, 1996-2000 là 7%, 2001-2005 là 7,5%, 2006-2010 là 7% và năm 2011 là
5,5%), nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa bước đầu được xây
dựng, cơng nghiệp hố, hiện đại hóa được đẩy mạnh, cơ sở vật chất kỹ thuật của
chủ nghĩa xã hội tăng lên đáng kể.
Hệ thống chính trị và khối đại đoàn kết dân tộc mà nền tảng là liên minh

cơng nhân - nơng dân - trí thức do Đảng lãnh đạo ngày càng được tăng cường và
củng cố. Nền quốc phịng tồn dân và an ninh nhân dân được giữ vững. Chính trị xã hội ổn định. Quan hệ đối ngoại được mở rộng. Vì thế nước ta trên thế giới được
nâng cao. Sức mạnh tổng hợp từ nguồn nội lực của đất nước tăng lên nhiều. Nhân
dân tin tưởng ở đường lối đổi mới và sự lãnh đạo, quản lý của Đảng và Nhà nước,
tin tưởng ở tương lai phát triển của đất nước.
8


Về lý luận, nhận thức về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã
hội ở Việt Nam ngày càng rõ hơn, “hệ thống quan điểm lý luận về công cuộc đổi
mới, về xã hội xã hội chủ nghĩa và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam
đã bước đầu hình thành trên những nét cơ bản”1.
Nhận thức rõ hơn về mục tiêu, mô hình của xã hội xã hội chủ nghĩa ở Việt
Nam, rõ hơn về chặng đường, bước đi khi đã hoàn thành những nhiệm vụ đề ra cho
chặng đường đầu trên của thời kỳ quá độ, cho phép chuyển sang chặng đường đẩy
mạnh cơng nghiệp hố, hiện đại hóa đất nước, rõ hơn về những công cụ, giải pháp
để thực hiện mục tiêu phát triển đất nước, xây dựng chủ nghĩa xã hội, rõ hơn về
những mối quan hệ đặt ra cần được giải quyết một cách đúng đắn trên con đường
đổi mới vì mục tiêu chủ nghĩa xã hội, mà trước hết làm cho dân giàu, nước mạnh,
xã hội công bằng, dân chủ, văn minh
Thực tế 25 năm đổi mới đã có cơ sở để rút ra một số bài học lớn có ý nghĩa
lý luận và thực tiễn. Đó là các bài học: trong quá trình đổi mới phải kiên định mục
tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội trên nền tảng chủ nghĩa Mác-Lênin và tư
tưởng Hồ Chí Minh; đổi mới tồn diện, đồng bộ, có kế thừa, có bước đi, hình thức
và cách làm phù hợp; đổi mới phải vì lợi ích của nhân dân, dựa vào nhân dân, phát
huy vai trò chủ động, sáng tạo của nhân dân, xuất phát từ thực tiễn, nhạy bén với
cái mới; phát huy cao độ nội lực, đồng thời ra sức khai thác ngoại lực, kết hợp sức
mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại trong điều kiện mới; đổi mới và hoàn thiện
phương thức lãnh đạo, bảo đảm nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của
Đảng, khơng ngừng đổi mới hệ thống chính trị, xây dựng và từng bước hoàn thiện

nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, bảo đảm quyền lực thuộc về nhân dân.

1

Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X, NXB CTQG, HN – 2006, trang 11.

9


Chương 2. Q TRÌNH BỔ SUNG, PHÁT TRIỂN VÀ HỒN THIỆN
ĐƯỜNG LỐI ĐỔI MỚI.
1. Ðường lối đổi mới ngày càng được bổ sung, phát triển và hoàn thiện
Ðại hội VI (1986) của Ðảng đã nhấn mạnh: Ðổi mới là vấn đề có ý nghĩa
sống cịn. Ðại hội đề ra đường lối đổi mới toàn diện đất nước. Từ đây, thuật ngữ
“đổi mới” được sử dụng rộng rãi trong các văn kiện của Ðảng, trong sách báo cũng
như ngôn ngữ hằng ngày của nhân dân ta.
Mục tiêu lý luận và thực tiễn đó cũng khẳng định rằng, chúng ta “đổi mới”
nhưng không “đổi màu” và “đổi hướng”. Ðổi mới để giữ vững mục tiêu độc lập
dân tộc và chủ nghĩa xã hội, để làm cho chủ nghĩa xã hội được nhận thức ngày càng
đúng đắn hơn và được xây dựng ngày càng có hiệu quả cao hơn. Ðổi mới khơng
phải là xa rời chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, mà là làm cho lý luận
đó được nhận thức đúng đắn hơn, vận dụng, phát triển sáng tạo hơn, mang lại hiệu
quả thiết thực hơn.
Ðổi mới cũng không phải là phủ định sạch trơn những nhận thức và cách làm
trước đây cùng những thành tựu đã được tạo ra, mà là khẳng định những gì đã nhận
thức đúng, làm đúng, giữ lại những giá trị tích cực của quá khứ; chấn chỉnh lại
những gì nhận thức chưa thật đúng, làm chưa đúng; đồng thời loại bỏ những gì hiểu
sai, làm sai, những hậu quả do những sai sót đó tạo ra.
Trước khi hình thành đường lối đổi mới tồn diện tại Ðại hội VI, đất nước đã
trải qua 10 năm trăn trở tìm tịi, thử nghiệm, nhất là ba bước đột phá về đổi mới tư

duy kinh tế. Hội nghị Trung ương lần thứ 6 khóa IV (tháng 8- 1979) với chủ trương
và quyết tâm làm cho sản xuất “bung ra” là bước đột phá đầu tiên. Hội nghị Trung
ương lần thứ 8 khóa V (tháng 6-1985) đánh dấu bước đột phá thứ hai bằng chủ
trương dứt khốt xóa bỏ cơ chế tập trung quan liêu, bao cấp, thực hiện cơ chế một
giá; xóa bỏ chế độ cung cấp hiện vật theo giá thấp; chuyển mọi hoạt động sản xuất

10


- kinh doanh sang cơ chế hạch toán kinh doanh xã hội chủ nghĩa; chuyển hoạt động
ngân hàng sang nguyên tắc kinh doanh.
Ðiểm quan trọng là Hội nghị này đã thừa nhận sản xuất hàng hóa và những
quy luật của sản xuất hàng hóa. Hội nghị Bộ Chính trị (tháng 8-1986) đã đưa ra kết
luận đối với một số vấn đề thuộc về quan điểm kinh tế:
Thứ nhất, Trong bố trí cơ cấu kinh tế, cơ cấu đầu tư, phải lấy nông nghiệp
làm mặt trận hàng đầu; ra sức phát triển cơng nghiệp nhẹ; cơng nghiệp nặng được
phát triển có chọn lọc;
Thứ hai, Trong cải tạo xã hội chủ nghĩa, xác định cơ cấu kinh tế nhiều thành
phần là một đặc trưng của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta;
Thứ ba, Trong cơ chế quản lý kinh tế lấy kế hoạch làm trọng tâm, nhưng
đồng thời phải sử dụng đúng quan hệ hàng hóa - tiền tệ, dứt khốt xóa bỏ cơ chế
tập trung quan liêu bao cấp; chính sách phải vận dụng quy luật giá trị, tiến tới thực
hiện cơ chế một giá. Ðây là bước đột phá thứ ba, có ý nghĩa lớn trong đổi mới tư
duy lý luận về chủ nghĩa xã hội. Ba bước đột phá này đã tạo tiền đề cho bước phát
triển nhảy vọt ở Ðại hội VI.
Ðại hội VI của Ðảng đánh dấu một bước ngoặt rất cơ bản và có ý nghĩa
quyết định trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta, với việc đề ra
đường lối đổi mới toàn diện đất nước - từ đổi mới tư duy đến đổi mới tổ chức, cán
bộ và phương thức lãnh đạo và phong cách của Ðảng, từ đổi mới kinh tế đến đổi
mới hệ thống chính trị và các lĩnh vực khác của đời sống xã hội. Ðại hội khẳng

định: đối với nước ta, đổi mới là yêu cầu bức thiết của sự nghiệp cách mạng, là vấn
đề có ý nghĩa sống cịn. Ðại hội VI đã đem lại luồng sinh khí mới trong xã hội, làm
xoay chuyển tình hình, đưa đất nước tiến lên.
Ðại hội rút ra bốn bài học kinh nghiệm lớn trong toàn bộ hoạt động của
mình: Ðảng phải quán triệt tư tưởng lấy dân làm gốc, xây dựng và phát huy quyền
làm chủ của nhân dân; Ðảng phải luôn luôn xuất phát từ thực tế, tôn trọng và hành
động theo quy luật khách quan; phải biết kết hợp sức mạnh của dân tộc với sức
11


mạnh của thời đại trong điều kiện mới; phải xây dựng Ðảng ngang tầm nhiệm vụ
chính trị của một đảng cầm quyền lãnh đạo nhân dân tiến hành cách mạng xã hội
chủ nghĩa. Ðại hội khẳng định nước ta đang ở chặng đường đầu tiên của thời kỳ
quá độ lên chủ nghĩa xã hội, cần tiếp tục xây dựng những tiền đề cần thiết cho việc
đẩy mạnh cơng nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa, tiến hành đổi mới chính sách kinh tế
gắn với đổi mới chính sách xã hội; coi sự tác động qua lại giữa hai loại chính sách
này là nhân tố cơ bản bảo đảm quyền làm chủ của nhân dân.
Ðây là lần đầu tiên trong quan niệm về chủ nghĩa xã hội, chính sách xã hội
và mối tương quan của nó với chính sách kinh tế được đặt đúng tầm. Ðại hội còn
nhấn mạnh phải làm trong sạch và nâng cao sức chiến đấu của các tổ chức đảng,
hiệu quả quản lý của bộ máy nhà nước, đẩy lùi và xóa bỏ các hiện tượng tiêu cực,
làm lành mạnh hóa các quan hệ xã hội; đổi mới mối quan hệ giữa Ðảng lãnh đạo,
nhân dân làm chủ, Nhà nước quản lý; thực hiện “dân biết, dân bàn, dân làm, dân
kiểm tra”.
Sau Ðại hội VI được hai năm, từ cuối năm 1988, công cuộc cải tổ, cải cách ở
Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa ở Ðông Âu ngày càng chao đảo. Cùng với
các khuyết tật ở chính bản thân mơ hình chủ nghĩa xã hội Xô-Viết chậm được khắc
phục, việc thực hiện tự do, dân chủ vơ ngun tắc, đa ngun về chính trị, đa đảng
đối lập, phủ nhận sạch trơn quá khứ cách mạng; chĩa mũi nhọn phê phán vào Ðảng
Cộng sản, vào chủ nghĩa Mác-Lênin, gieo rắc những tư tưởng hoài nghi, bi quan,

dao động về chủ nghĩa xã hội. Trong bối cảnh đó, tại Hội nghị Trung ương 6 khóa
VI (tháng 3-1989), cùng với việc tiếp tục bổ sung, phát triển đường lối đổi mới,
Ðảng ta đã nêu ra sáu nguyên tắc đổi mới, trong đó nhấn mạnh: đổi mới khơng phải
là thay đổi mục tiêu xã hội chủ nghĩa mà là nhận thức đúng hơn và có phương pháp
phù hợp hơn để xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội; phải giữ vững định hướng
xã hội chủ nghĩa, giữ vững sự lãnh đạo của Ðảng; kiên định chủ nghĩa Mác-Lênin,
kiên định nguyên tắc tập trung dân chủ, không chấp nhận đa nguyên chính trị, đa

12


đảng đối lập... Việc khẳng định các nguyên tắc đó đã góp phần ngăn chặn có hiệu
quả những tư tưởng hoang mang, dao động; giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa.
Ðại hội VII của Ðảng (tháng 6-1991) thông qua Cương lĩnh xây dựng đất
nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, trong đó, cùng với xác định rõ nội
dung và tính chất của thời đại, đã làm nổi bật hai nội dung rất cơ bản:
Một là, quan niệm tổng quát nhất về xã hội xã hội chủ nghĩa mà chúng ta cần
xây dựng;
Hai là, những phương hướng cơ bản để xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta
trong thời kỳ mới. Cương lĩnh khẳng định vị trí tư tưởng Hồ Chí Minh trong tồn
bộ q trình phát triển của cách mạng Việt Nam: “Ðảng lấy chủ nghĩa Mác-Lênin
và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động, lấy
tập trung dân chủ làm nguyên tắc tổ chức cơ bản”.
Cương lĩnh xác định Ðảng lãnh đạo xã hội bằng Cương lĩnh, chiến lược, các
định hướng về chính sách và chủ trương công tác lớn; bằng công tác tuyên truyền,
thuyết phục, vận động, tổ chức kiểm tra và bằng hành động gương mẫu của đảng
viên. Ðảng giới thiệu những đảng viên ưu tú, có đủ năng lực và phẩm chất vào hoạt
động trong các cơ quan lãnh đạo chính quyền và các đồn thể. Ðảng khơng làm
thay cơng việc của các tổ chức khác trong hệ thống chính trị. Ðảng lãnh đạo hệ
thống chính trị, đồng thời là một bộ phận của hệ thống ấy. Ðảng liên hệ mật thiết

với nhân dân, chịu sự giám sát của nhân dân, hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp
và pháp luật. Phải xây dựng Ðảng vững mạnh về chính trị, tư tưởng và tổ chức;
thường xuyên tự đổi mới, tự chỉnh đốn, ra sức nâng cao trình độ trí tuệ, năng lực
lãnh đạo, chăm lo xây dựng đội ngũ cán bộ, đảng viên có năng lực, phẩm chất trong
sạch, đủ sức gánh vác công việc của Ðảng.
Ðại hội còn khẳng định phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần,
vận động theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước, theo định hướng xã
hội chủ nghĩa; trong đó, kinh tế quốc doanh là chủ đạo, kinh tế quốc doanh cùng
kinh tế tập thể dần dần trở thành nền tảng của nền kinh tế quốc dân. Ðại hội chủ
13


trương hợp tác bình đẳng và cùng có lợi với tất cả các nước, khơng phân biệt chế
độ chính trị - xã hội khác nhau, trên cơ sở các nguyên tắc cùng tồn tại hịa bình. Ðại
hội đã trịnh trọng tuyên bố: “Việt Nam muốn là bạn với tất cả các nước trong cộng
đồng thế giới, phấn đấu vì hịa bình, độc lập và phát triển”.
Hội nghị đại biểu tồn quốc giữa nhiệm kỳ khóa VII (tháng 1-1994) tiếp tục
phát triển và cụ thể hóa tư tưởng của Ðại hội VII, xác định mục tiêu tổng quát của
quá trình đổi mới nói riêng, của q trình xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta nói
chung, là phấn đấu vì dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, văn minh. Hội nghị
cũng chỉ ra những nguy cơ mà đất nước phải vượt qua. Ðó là: tụt hậu ngày càng xa
hơn về kinh tế so với nhiều nước trong khu vực và trên thế giới; chệch hướng xã
hội chủ nghĩa; tệ tham nhũng và quan liêu; “diễn biến hịa bình” của các thế lực
thù địch. Hội nghị đưa ra quan điểm về chủ nghĩa xã hội đất nước trong thời kỳ
mới; khẳng định xây dựng Nhà nước pháp quyền Việt Nam của nhân dân, do nhân
dân, vì nhân dân, xác định phát triển kinh tế là nhiệm vụ trung tâm, xây dựng Ðảng
là nhiệm vụ then chốt.
Ðại hội VIII của Ðảng (tháng 6-1996) khẳng định nước ta đã ra khỏi khủng
hoảng kinh tế - xã hội, tiếp tục làm rõ hơn quan niệm về chặng đường đầu tiên và
chặng đường tiếp theo trong thời kỳ quá độ; chỉ rõ mục tiêu đẩy mạnh công nghiệp

hóa, hiện đại hóa đất nước là phấn đấu đưa nước ta cơ bản trở thành một nước công
nghiệp vào năm 2020. Ðại hội cũng làm rõ hơn định hướng xã hội chủ nghĩa trong
việc xây dựng nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần; tiếp tục khẳng định xây dựng
Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân,
mang bản chất giai cấp cơng nhân, có tính nhân dân và tính dân tộc sâu sắc; tiếp tục
khẳng định phát triển giáo dục và đào tạo và khoa học và công nghệ là quốc sách
hàng đầu, là khâu đột phá trong quá trình thực hiện cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa.
Ðại hội IX của Ðảng (tháng 4-2001) là đại hội mở đầu thế kỷ 21 của Việt
Nam. Ðại hội đã rút ra bốn bài học qua 15 năm đổi mới (1986-2000), định ra chiến
lược phát triển đất nước trong hai thập niên đầu của thế kỷ 21 với phương hướng
14


tổng quát là: Phát huy sức mạnh toàn dân tộc, tiếp tục đổi mới, đẩy mạnh cơng
nghiệp hóa, hiện đại hóa, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
Ðại hội xác định mục tiêu chung của cách mạng nước ta trong giai đoạn hiện nay là
“độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội, dân giàu, nước mạnh, xã hội công
bằng, dân chủ, văn minh” (điểm mới là có thêm mục tiêu “dân chủ”).
Ðại hội đã đánh giá sâu sắc hơn,  đầy đủ  hơn, tồn diện hơn về vị trí, vai trị
và nội dung tư tưởng Hồ Chí Minh. Ðại hội nhấn mạnh  tính khó khăn, phức tạp
của q trình cách mạng xã hội chủ nghĩa ở nước ta, cho nên tất yếu phải trải qua
một thời kỳ quá độ lâu dài, với nhiều chặng đường, nhiều hình thức tổ chức kinh tế,
xã hội có tính chất q độ; khẳng định phát triển nền kinh tế thị trường định hướng
xã hội chủ nghĩa là mơ hình kinh tế tổng qt của cả thời kỳ quá độ. Ðại hội một
lần nữa làm rõ vai trị động lực to lớn của đại đồn kết tồn dân, của vấn đề dân
chủ, của việc quan tâm tới lợi ích chính đáng của con người; chỉ ra nội dung chủ
yếu của đấu tranh giai cấp ở nước ta hiện nay: đấu tranh bảo vệ độc lập dân tộc,
chống nghèo nàn, lạc hậu, khắc phục tình trạng nước nghèo, chậm phát triển; thực
hiện thắng lợi sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa theo định hướng xã hội chủ
nghĩa, làm cho nước ta trở thành một nước xã hội chủ nghĩa phồn vinh. Ðại hội

nâng thành đường lối đối ngoại lên mức cao hơn, toàn diện hơn: “Thực hiện nhất
quán đường lối đối ngoại độc lập tự chủ, rộng mở, đa phương hóa, đa dạng hóa
các quan hệ quốc tế. Việt Nam sẵn sàng là bạn, là đối tác tin cậy của các nước
trong cộng đồng quốc tế, phấn đấu vì hịa bình, độc lập và phát triển”.
Ðường lối này đã được cụ thể hóa trong Nghị quyết Hội nghị Trung ương 8
khóa IX với cách nhìn nhận mới và thống nhất về các vấn đề đối tác và đối tượng,
định hướng cho chính sách đối ngoại của Ðảng và Nhà nước trong giai đoạn mới.
Ðại hội X của Ðảng (4-2006) tổng kết 20 năm đổi mới, đã nhận định: nhận
thức về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ngày càng sáng tỏ
hơn; hệ thống quan điểm lý luận về công cuộc đổi mới, về xã hội xã hội chủ nghĩa
và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam đã hình thành những nét cơ bản.
15


Ðại hội đã có sự bổ sung và phát triển một số nội dung của Cương lĩnh về đặc trưng
của xã hội xã hội chủ nghĩa mà nhân dân ta xây dựng và những phương hướng để
đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Ðại hội đề ra chủ trương tiếp tục mở rộng quan
hệ đối ngoại, chủ động và tích cực hội nhập kinh tế quốc tế: Việt Nam là bạn, đối
tác tin cậy của các nước trong cộng đồng quốc tế, tham gia tích cực vào tiến trình
hợp tác quốc tế và khu vực.
Đại hội XI của Đảng (1-2011) tổng kết 25 năm đổi mới, khẳng định: toàn
Đảng, toàn dân ta tiếp tục nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng,
phát huy sức mạnh tồn dân tộc, đẩy mạnh tồn diện cơng cuộc đổi mới, tạo nền
tảng để đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện
đại; đến giữa thế kỷ XXI nước ta trở thành một nước công nghiệp hiện đại, theo
định hướng xã hội chủ nghĩa. Đại hội thực hiện nhất quán đường lối đối ngoại, chủ
động và tích cực hội nhập kinh tế quốc tế: Việt Nam là bạn, đối tác tin cậy và thành
viên có trách nhiệm trong cộng đồng quốc tế, góp phần vào sự nghiệp hịa bình,
độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội trên thế giới.
2. Ðường lối đổi mới ngày càng được hiện thực hóa trong cuộc sống.

Một là, tiềm lực kinh tế được nâng cao, đất nước đã ra khỏi tình trạng kém
phát triển.
Từ năm 1986 đến 2000 đã đạt được nhịp độ tăng trưởng cao, tốc độ tăng
trưởng GDP bình quân của 10 năm (1990-2000) đạt 7,5%; năm 2000 so với năm
1990, GDP tăng hơn hai lần. Thực hiện chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 10
năm (2001-2010), mặc dù các năm 2008-2009, do tác động của khủng hoảng tài
chính, suy giảm kinh tế toàn cầu, tốc độ tăng trưởng chỉ đạt 5,96%, nhưng bình
quân 10 năm tăng trưởng 7,2%/năm.
Tổng sản phẩm trong nước (GDP) năm 2010 theo giá so sánh gấp hai lần so
với năm 2000, theo giá thực tế đạt khoảng 106 tỷ USD, gấp 3,4 lần và GDP bình
quân đầu người đạt 1.200 USD, nước ta đã ra khỏi nhóm nước đang phát triển có
thu nhập thấp.
16


Hai là, thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa được hình
thành và ngày càng hồn thiện.
Ðường lối đổi mới của Ðảng được thể chế hóa thành pháp luật, tạo hành lang
pháp lý cho việc hình thành và phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội
chủ nghĩa. Chỉ tính từ đầu năm 2001 đến tháng 7-2009, Quốc hội đã ban hành 133
luật, 337 nghị quyết, 46 pháp lệnh, 1.141 nghị định và hàng chục nghìn các văn bản
quy phạm pháp luật khác. Chính phủ cũng đã chỉ đạo việc rà sốt, hồn thiện hệ
thống các văn bản pháp luật theo từng ngành, lĩnh vực, tạo cơ sở pháp lý cho việc
vận hành nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, nâng cao khả năng
thu hút các nguồn lực phát triển cho sự nghiệp cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa.
Thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa về cơ bản được hình
thành và ngày càng hồn thiện. Quan hệ sản xuất được điều chỉnh phù hợp hơn, tạo
điều kiện cho lực lượng sản xuất phát triển. Nền kinh tế đa sở hữu, nhiều thành
phần đan xen có bước phát triển mạnh. Tình trạng phân biệt đối xử giữa các doanh
nghiệp thuộc các thành phần kinh tế từng bước được khắc phục.

Kinh tế nhà nước được tăng cường, phát huy vai trò chủ đạo, doanh nghiệp
nhà nước tiếp tục đổi mới, cơ cấu lại mà trọng tâm là cổ phần hóa, tự chủ trong
kinh doanh và hình thành một số tập đồn kinh tế lớn, đã góp phần quan trọng để
Nhà nước điều tiết nền kinh tế và bảo đảm ổn định kinh tế vĩ mô. Kinh tế tập thể
với nhiều hình thức hợp tác đa dạng có bước phát triển, nhất là tổ hợp tác. Kinh tế
có vốn đầu tư nước ngồi phát triển nhanh, góp phần nâng cao trình độ cơng nghệ,
trình độ quản lý và năng lực cạnh tranh của nền kinh tế. Kinh tế tư nhân phát triển
nhanh, hoạt động có hiệu quả trên nhiều lĩnh vực.
Các loại thị trường cơ bản đã hình thành và từng bước phát triển thống nhất
trong cả nước, gắn kết ngày càng tốt hơn với thị trường thế giới, thị trường hàng
hóa, dịch vụ đã có bước phát triển vượt bậc. Thị trường bất động sản bước đầu hình
thành, khắc phục một phần các giao dịch tự phát, nhất là sau khi có Luật Ðất đai
(sửa đổi), Luật Kinh doanh bất động sản, Luật Nhà ở...
17


Môi trường kinh doanh và môi trường đầu tư được cải thiện. Từng bước xóa
bỏ phân biệt đối xử để huy động có hiệu quả các nguồn lực từ các thành phần kinh
tế trong nước và thu hút vốn đầu tư từ nước ngoài, quyền tự do kinh doanh của
doanh nghiệp và của người dân được bảo đảm tốt hơn. Ðã cơ bản thực hiện quản lý
giá theo cơ chế thị trường, giá của hầu hết các hàng hóa và dịch vụ do quan hệ cung
cầu, quyết định.
Vai trò quản lý kinh tế của Nhà nước được tăng cường, hiệu lực, hiệu quả
được nâng lên. Quan hệ giữa Nhà nước và thị trường được xử lý phù hợp hơn.
Ba là, văn hóa, xã hội đạt được nhiều thành tựu quan trọng, đời sống vật chất
và tinh thần của nhân dân được nâng lên, có một số mặt đạt trình độ của các nước
phát triển trung bình.
Việt Nam đã hồn thành phần lớn mục tiêu thiên niên kỷ cam kết trước cộng
đồng quốc tế. Hầu hết các mục tiêu do Liên hợp quốc đặt ra cho năm 2015, Việt
Nam đã đạt và vượt vào năm 2008.

Cơng tác xóa đói, giảm nghèo được đẩy mạnh và đạt kết quả đầy ấn tượng.
Tỷ lệ hộ nghèo cả nước tính theo chuẩn hiện hành năm 2008 là 20%, năm 2010 còn
9,5%. Ðến năm 2010, tỷ lệ lao động qua đào tạo đạt 40%. Giải quyết việc làm đạt
kết quả tốt. Bình quân trong 10 năm qua, mỗi năm tạo được 1,57 triệu chỗ làm việc
mới, tỷ lệ thất nghiệp ở đô thị giảm từ 6,42%/năm 2000, xuống còn 4,6% năm
2010. Phúc lợi xã hội và an sinh xã hội được quan tâm hơn. Công tác chăm sóc,
bảo vệ sức khỏe nhân dân được chú trọng và đạt nhiều kết quả tích cực. Bảo hiểm y
tế được mở rộng từ 13,4% dân số của năm 2000 lên 60% năm 2010. Tỷ lệ trẻ em
dưới 5 tuổi suy dinh dưỡng giảm từ 33,8% năm 2000, xuống cịn 18% năm 2010.
Tuổi thọ bình qn đầu người từ 63 tuổi năm 1990 lên 67 tuổi năm 2000 và 72 tuổi
năm 2010. Chỉ số phát triển con người (HDI) không ngừng tăng lên, từ 0,498 năm
1991, lên 0,688 năm 2000 và 0,733 năm 2008. Xã hội ổn định, đồng thuận và cởi
mở hơn. Nhân dân tích cực hưởng ứng chủ trương của Ðảng, Nhà nước.

18


Văn hóa tiếp tục được phát triển đúng hướng và đa dạng, góp phần giữ vững
ổn định chính trị, trật tự an toàn xã hội và phát triển kinh tế - xã hội. Giao lưu văn
hóa trong nước và quốc tế được chú trọng, mở rộng, góp phần nâng cao dân trí và
đời sống tinh thần của nhân dân.
Xã hội hóa hoạt động văn hóa được đẩy mạnh và đạt những kết quả tích cực.
Thị trường sản phẩm văn hóa từng bước phát triển; đã có một số sản phẩm văn hóa
có giá trị.
Ðại đồn kết tồn dân tộc được tăng cường. Phong trào “Toàn dân đoàn kết
xây dựng đời sống văn hóa” được triển khai rộng rãi. Tự do tín ngưỡng, tơn giáo
được tơn trọng. Bình đẳng giới có nhiều tiến bộ.
Giáo dục và đào tạo là quốc sách hàng đầu, được tồn xã hội quan tâm và có
bước phát triển đáp ứng ngày càng tốt hơn nhu cầu học tập và việc làm của xã hội,
góp phần nâng cao dân trí, đào tạo nguồn nhân lực cho đất nước.

Khoa học xã hội và nhân văn, khoa học tự nhiên, khoa học công nghệ ngày
càng phục vụ tốt hơn yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội và sự phát triển của đất
nước. Khoa học xã hội và nhân văn có những đóng góp quan trọng trong việc
khẳng định, vận dụng, bổ sung và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác-Lênin, tư
tưởng Hồ Chí Minh, vào việc làm sáng tỏ hơn mơ hình và con đường đi lên chủ
nghĩa xã hội ở nước ta, vào việc hình thành hệ thống lý luận về công cuộc đổi mới.
Môi trường sống được quan tâm và có mặt cải thiện. Việc xử lý ơ nhiễm,
khắc phục suy thối và sự cố môi trường được coi trọng. Việc trồng và bảo vệ rừng
được đẩy mạnh. Từ năm 1990 đến nay, diện tích rừng liên tục tăng, trong đó rừng
trồng tăng nhanh, sau 25 năm trồng rừng đã tăng bốn lần. Công tác phòng tránh và
khắc phục hậu quả thiên tai đạt nhiều kết quả, giảm được thiệt hại. Chương trình
quốc gia về ứng phó với biến đổi khí hậu được chủ động triển khai thực hiện.
Bốn là, quốc phòng, an ninh được tăng cường; quan hệ đối ngoại được mở
rộng, vị thế nước ta trên trường quốc tế được nâng cao, tạo môi trường thuận lợi để
phát triển đất nước.
19


Thành tựu cơ bản, bao trùm là giữ vững độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn
vẹn lãnh thổ, sự lãnh đạo của Ðảng, chế độ xã hội chủ nghĩa, an ninh quốc gia, ổn
định chính trị - xã hội và trật tự, an toàn xã hội.
Tiềm lực của nền quốc phịng tồn dân và nền an ninh nhân dân tiếp tục
được tăng cường; thế trận quốc phịng tồn dân gắn với thế trận an ninh nhân dân
từng bước được điều chỉnh phù hợp với quá trình mở cửa, hội nhập quốc tế; tạo sức
mạnh tổng hợp góp phần giữ vững mơi trường hịa bình, ổn định để bảo vệ và xây
dựng đất nước.
Trong 25 năm qua, chúng ta đã kiên trì thực hiện nhất quán đường lối đối
ngoại độc lập, tự chủ, hịa bình, hợp tác và phát triển, chính sách đối ngoại rộng
mở, đa phương hóa, đa dạng hóa quan hệ quốc tế với phương châm: Việt Nam là
bạn, đối tác tin cậy của các nước trong cộng đồng quốc tế. Ðến nay, Việt Nam đã

gia nhập Tổ chức Thương mại thế giới, có quan hệ ngoại giao với hầu hết các nước,
có quan hệ về kinh tế, thương mại và đầu tư với hơn 160 nước và 70 vùng lãnh thổ;
tham gia ngày càng tích cực trên các diễn đàn khu vực và thế giới, góp phần vào
cuộc đấu tranh chung của cộng đồng thế giới vì hịa bình, hợp tác và phát triển. Vị
thế của Việt Nam trên trường quốc tế ngày được nâng cao. Trong hoạt động đối
ngoại, chúng ta đã tạo dựng được khuôn khổ quan hệ hữu nghị, ổn định lâu dài với
các nước láng giềng, các nước trong khu vực. Trong quan hệ đa phương, Việt Nam
ngày càng đóng vai trị tích cực và có trách nhiệm đối với các vấn đề quốc tế, khu
vực, đóng góp nhiều sáng kiến tại các tổ chức, diễn đàn quốc tế đa phương, như
Liên hợp quốc, ASEAN, ASEM, APEC... Việc gia nhập WTO là bước hội nhập
đầy đủ và thực chất hơn vào kinh tế thế giới, là một dấu mốc mới rất quan trọng, từ
hội nhập ở cấp độ khu vực (ASEAN năm 1995), liên khu vực (ASEM năm 1996,
APEC năm 1998) đến cấp toàn cầu (từ 2006).
Năm là, nền dân chủ xã hội chủ nghĩa khơng ngừng được xây dựng và hồn
thiện.

20



×