Đề tài: Phân tích luận điểm của Hồ Chí Minh.
“Đảng ta là một Đảng cầm quyền… Phải giữ gìn Đảng ta thật trong sạch,
phải xứng đáng là người lãnh đạo, là người đầy tớ thật trung thành của nhân
dân.”
Liên hệ thực tiễn Việt Nam hiện nay.
Bài làm:
I. ĐẶT VẤN ĐỀ
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã để lại lời di huấn dặn dò về Đảng, và vấn đề
đạo đức cách mạng: "Đảng ta là một Đảng cầm quyền… Phải giữ gìn Đảng
ta thật trong sạch, phải xứng đáng là người đầy tớ thật trung thành của nhân
dân". Cả cuộc đời của mình, Người đã tự thực hiện một cách hoàn chỉnh,
trọn vẹn những tư tưởng và khát vọng đạo đức cách mạng; Người vừa là nhà
lý luận đạo đức cách mạng, vừa là một tấm gương đạo đức trong sáng gần
gũi và độc đáo nhất.
Về đạo đức cách mạng, Hồ Chí Minh nói: "Đạo đức đó không phải là
đạo đức thủ cựu. Nó là đạo đức mới. Đạo đức vĩ đại, nó không vì danh vọng
của cá nhân, mà vì lợi ích chung của Đảng, của dân tộc, của loài người". Và
theo cách diễn đạt bình dị của Người: Đạo đức như gốc của cây, ngọn nguồn
của sông suối, sức mạnh của con người, sức có mạnh mới gánh được nặng,
và đi được xa. Ngay trong những năm kháng chiến chống Mỹ cứu nước,
Đảng ta tiến hành sự nghiệp vĩ đại giải phóng và thống nhất đất nước, Người
đã khái quát và cảnh báo: "Một dân tộc, một Đảng và mỗi con người, ngày
hôm qua là vĩ đại, có sức hấp dẫn lớn, không nhất định hôm nay và ngày mai
vẫn được mọi người yêu mến và ca ngợi, nếu lòng dạ không còn trong sáng
nữa, nếu sa vào chủ nghĩa cá nhân". Người cũng thường xuyên nhấn mạnh:
"Đảng phải là đạo đức, là văn minh", cán bộ, đảng viên có đạo đức cách
mạng phải vừa hồng vừa chuyên, hội tụ đủ đức tài, đức là gốc; phải có sự
trung với nước, và hiếu với dân.
Tư tưởng và tấm gương đạo đức cách mạng trong sáng của Hồ Chí
Minh là tài sản tinh thần vô giá của Đảng và dân tộc ta. Nghiên cứu, học tập
và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh là niềm vinh dự, tự hào của
mỗi cán bộ, công chức đối với Bác kính yêu - một con người mà tư tưởng và
tầm vóc vĩ đại đã vượt qua mọi không gian và thời gian, trở thành một biểu
tượng đẹp đẽ của văn minh nhân loại: Anh hùng giải phóng dân tộc, danh
nhân văn hoá thế giới.
II.GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ
1.Phân tích luận điểm của Hồ Chí Minh
a)Tư tưởng Hồ Chí Minh về “Đảng cầm quyền”
1
Trong các tác phẩm của mình, Chủ tịch Hồ Chí Minh ít dùng khái niệm
"đảng cầm quyền". Nói "ít dùng" không phải là không dùng mà là dùng
đúng lúc, đúng chỗ, đúng ý nghĩa, tinh thần và nội dung cơ bản của
nó.Trong Báo cáo chính trị tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ II của
Đảng, 1951, khi nói về thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám 1945, Bác viết:
"Chẳng những giai cấp lao động và nhân dân Việt Nam ta có thể tự hào, mà
giai cấp lao động và những dân tộc bị áp bức nơi khác cũng có thể tự hào
rằng: lần này là lần đầu tiên trong lịch sử cách mạng của các dân tộc thuộc
địa và nửa thuộc địa, một Đảng mới 15 tuổi đã lãnh đạo cách mạng thành
công, đã nắm chính quyền toàn quốc"[1] Và trong Di chúc để lại, tác phẩm
cuối cùng của đời mình, khi nói về Đảng, một lần nữa Bác viết: "Đảng ta là
một Đảng cầm quyền. Mỗi đảng viên và cán bộ phải thật sự thấm nhuần đạo
đức cách mạng, thật sự cần kiệm liêm chính, chí công vô tư. Phải giữ gìn
Đảng ta thật trong sạch, phải xứng đáng là người lãnh đạo, là người đầy tớ
thật trung thành của nhân dân".
Đối với Đảng ta, vấn đề chính quyền đã được giải quyết thông qua con
đường cách mạng, phù hợp với những điều kiện lịch sử của nước mình.
Trước kia, khi nhân dân ta còn sống trong vòng nô lệ thì nhiệm vụ hàng đầu
của Đảng là lãnh đạo nhân dân làm cách mạng lật đổ ách thống trị của chủ
nghĩa thực dân phong kiến, giành chính quyền về tay nhân dân. Và sau khi
đã giành được chính quyền rồi thì trọng trách của Đảng là lãnh đạo gìn giữ
chính quyền, bảo vệ Tổ quốc, làm cho chính quyền ấy thực hiện tốt các
nhiệm vụ của cách mạng, trước hết và trên hết là vì lợi ích của Tổ quốc, của
nhân dân.
Theo tư tưởng của Bác Hồ và của Đảng ta từ trước đến nay, khái niệm Đảng
"nắm chính quyền" hay "cầm quyền" là đồng nghĩa với Đảng lãnh đạo chính
quyền.
Năm 1947, trong tác phẩm "Sửa đổi lối làm việc", Bác Hồ viết: "Đảng
không phải là một tổ chức để làm quan phát tài. Nó phải làm tròn nhiệm vụ
giải phóng dân tộc, làm cho Tổ quốc giàu mạnh, đồng bào sung sướng".
Năm 1960, trong bài nói tại lễ kỷ niệm 30 năm Ngày thành lập Đảng, Người
nhấn mạnh: "Đảng ta vĩ đại, vì ngoài lợi ích của giai cấp, của nhân dân, của
dân tộc, Đảng ta không có lợi ích gì khác".
Tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng Đảng, nói chung và về Đảng cầm quyền
nói riêng luôn được Đảng ta trung thành, vận dụng sáng tạo và phát triển.
Nói Đảng cầm quyền hoàn toàn không có nghĩa là Đảng tự biến mình thành
chính quyền, một mình mình nắm giữ chính quyền và làm chức năng
củachính quyền. "Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ" là
cơ chế vận hành của chế độ ta. Theo cơ chế ấy, Đảng, Nhà nước và nhân dân
đều là những chủ thể của quyền lực, nhưng quyền lực của mỗi chủ thể ấy lại
2
không giống nhau. Quyền lực của Đảng là quyền lãnh đạo, bao gồm cả
quyền lãnh đạo chính quyền, nhưng bản thân Đảng lại không phải là chính
quyền Nhà nước, không làm thay cho Nhà nước. Quyền lực nhà nước bao
gồm các quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp, nhưng quyền lực ấy không
phải do Nhà nước tự có mà là do nhân dân giao phó cho những cơ quan
quyền lực do mình cử ra. Quyền lực của nhân dân là quyền của người làm
chủ đất nước và quyền làm chủ ấy được thực hiện thông qua các hình thức
dân chủ đại diện và dân chủ trực tiếp, kể cả dân chủ tự quản ở cơ sở. Mẫu số
chung của ba loại quyền lực nêu trên (lãnh đạo, quản lý và làm chủ), xét cho
cùng, là tư tưởng Bác Hồ từng nêu lên trong bài báo "Dân vận" viết năm
1949 cách đây đúng 61 năm "Nước ta là nước dân chủ. Bao nhiêu lợi ích đều
vì dân. Bao nhiêu quyền hạn đều của dân Chính quyền từ xã đến Chính
phủ Trung ương đều do dân cử ra Nói tóm lại, quyền hành và lực lượng
đều ở nơi dân".
Cơ chế "Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ" thực chất là
phương thức tổ chức nền dân chủ xã hội chủ nghĩa ở nước ta. Cương lĩnh
năm 1991 của Đảng và những điều bổ sung, phát triển các quan điểm về
Đảng và Đảng cầm quyền qua các kỳ Đại hội của Đảng và các khóa Trung
ương từ bấy đến nay đều xác định: Xã hội xã hội chủ nghĩa mà nhân dân ta
xây dựng là một xã hội do nhân dân làm chủ. Dân chủ xã hội chủ nghĩa là
bản chất của chế độ ta; phải xây dựng và từng bước hoàn thiện nền dân chủ
xã hội chủ nghĩa, bảo đảm tất cả quyền lực Nhà nước thuộc về nhân dân.
Nhà nước ta là Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do
nhân dân, vì nhân dân, thể hiện và thực hiện ý chí và quyền lực của nhân
dân. Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân có vai trò rất quan trọng
trong sự nghiệp đại đoàn kết toàn dân, đại diện và bảo vệ quyền và lợi ích
hợp pháp của nhân dân, có nhiệm vụ không chỉ động viên, giúp đỡ đoàn
viên, hội viên tham gia quản lý nhà nước, quản lý xã hội mà còn thực hiện
vai trò phản biện và giám sát. Đảng Cộng sản Việt Nam là Đảng lãnh đạo
Nhà nước và xã hội. Đảng lãnh đạo bằng cương lĩnh, chiến lược, các định
hướng về chính sách và chủ trương lớn; thống nhất lãnh đạo hệ thống chính
trị, đồng thời là bộ phận của hệ thống ấy. Đảng gắn bó mật thiết với nhân
dân, tôn trọng và phát huy quyền làm chủ của nhân dân, hoạt động trong
khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật. Đại hội X của Đảng, khi đề cập nhiệm
vụ đổi mới và chỉnh đốn Đảng, đã đặt lên hàng đầu nhiệm vụ "Nâng cao
năng lực lãnh đạo, cầm quyền, hoạch định đường lối, chủ trương, chính
sách; tổ chức thực hiện có hiệu quả đường lối". Đại hội cũng chủ trương, về
mặt lý luận, phải tiếp tục làm sáng tỏ những vấn đề về xây dựng Đảng và về
Đảng cầm quyền. Điều quan trọng hơn nữa là để xứng đáng là Đảng cầm
quyền, Đảng phải làm những gì và làm như thế nào? Cương lĩnh năm 1991
3
của Đảng, trong khi nêu lên những bài học lớn, đã khẳng định: "Sự lãnh đạo
đúng đắn của Đảng là nhân tố hàng đầu quyết định thắng lợi của cách mạng
Việt Nam". Đảng không có lợi ích nào khác ngoài việc phụng sự Tổ quốc,
phục vụ nhân dân. Mọi đường lối, chủ trương của Đảng phải xuất phát từ
thực tế, tôn trọng quy luật khách quan. Phải phòng và chống những nguy cơ
lớn: sai lầm về đường lối, bệnh quan liêu và sự thoái hóa, biến chất của cán
bộ, đảng viên.
b)Tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề giữ gìn Đảng ta thật trong sạch,
xứng đáng là người lãnh đạo, là người đầy tớ thật trung thành của nhân dân.
Đảng phải xứng đáng là người lãnh đạo, là người đầy tớ thật trung
thành của nhân dân không phải là một câu khẩu hiệu, mà là sự phản ánh mối
quan hệ gắn bó mật thiết trong một chỉnh thể thống nhất giữa Đảng Cộng
sản Việt Nam và nhân dân Việt Nam. Thứ nhất, “Đảng ta không phải trên
trời rơi xuống. Nó ở trong xã hội mà ra”[1], lý do ra đời, tồn tại và mục tiêu
của Đảng là vì độc lập tự do và hạnh phúc của nhân dân; thứ hai, nguồn sức
mạnh bất tận và vô địch của Đảng là từ nhân dân, trong nhân dân; thứ ba,
Đảng là của dân, vì dân, dân một lòng một dạ theo Đảng, Đảng quan tâm
chăm lo đến dân, dân sống chết chiến đấu dưới ngọn cờ của Đảng, đó là
nhân tố cơ bản, động lực to lớn quyết định những lợi vĩ đại của cách mạng
Việt Nam. Nội dung cơ bản của mệnh đề này thể hiện ở cả hai phương diện:
một là, Đảng và cán bộ, đảng viên của Đảng phải là người lãnh đạo của nhân
dân; hai là, Đảng và cán bộ, đảng viên của Đảng đồng thời phải là người đầy
tớ thật trung thành của nhân dân. Trong Di chúc, Chủ tịch Hồ Chí Minh
nhắc nhở Đảng ta: "Đảng cần phải có kế hoạch thật tốt để phát triển kinh tế
và văn hóa, nhằm không ngừng nâng cao đời sống của nhân dân"[2]. Nếu
giành được độc lập rồi mà dân vẫn cứ đói, rét thì vai trò lãnh đạo của Đảng
chưa thể nói là đã thực hiện tốt. Độc lập tự do, hạnh phúc, là thước đo trình
độ lãnh đạo của Đảng; là tiêu chí đánh giá sự quan tâm và năng lực lãnh đạo
của các tổ chức đảng, cũng như của cán bộ, đảng viên đối với quần chúng
nhân dân. Là người đầy tớ, Đảng và từng cán bộ, đảng viên phải phụng sự
Tổ quốc, phụng sự nhân dân vô điều kiện; cán bộ, đảng viên không được đòi
hỏi đất nước và nhân dân cho mình cái gì, mà phải tự vấn mình đã làm gì
cho Tổ quốc, cho nhân dân. "Suốt đời tôi hết lòng hết sức phục vụ Tổ quốc,
phục vụ cách mạng, phục vụ nhân dân"[3].
[1] Hồ Chí Minh, Toàn tập, Nxb CTQG, H. 2000, tập 5, tr. 262.
[2] Hồ Chí Minh, Toàn tập, Nxb CTQG, H. 2000, tập 12, tr. 511.
[3] Hồ Chí Minh, Toàn tập, Nxb CTQG, H. 2000, tập 12, tr. 512.
4
Lời tâm sự ấy của Chủ tịch Hồ Chí Minh như nhắc nhở mọi cán bộ, đảng
viên phải thật sự là người đầy tớ trung thành của nhân dân, tận tâm, tận lực
phục vụ nhân dân; việc gì có lợi cho dân phải hết sức làm, việc gì có hại cho
dân phải hết sức tránh. Tư tưởng “ông chủ”, “bề trên”, “quan cách mạng”
trong một bộ phận cán bộ, đảng viên là đối lập về nguyên tắc với tư tưởng
cán bộ, đảng viên là người đầy tớ thật trung thành của nhân dân, cần phải
kiên quyết đấu tranh khắc phục, loại trừ.
Vai trò người lãnh đạo và vai trò người đầy tớ quan hệ chặt chẽ và thống
nhất với nhau trong bản chất cách mạng, mục tiêu lý tưởng, trong phương
thức lãnh đạo của Đảng, trong tính tiền phong, gương mẫu của cán bộ, đảng
viên. Cả hai vai trò đều được Chủ tịch Hồ Chí Minh đặc biệt quan tâm trong
suốt quá trình xây dựng Đảng, trong giáo dục và rèn luyện đảng viên, và
được Người nhấn mạnh, nhắc nhở trước khi Người đi xa. Thực hiện tốt vai
trò lãnh đạo cũng có nghĩa là Đảng đã thực hiện tốt vai trò đầy tớ; đồng thời,
thực hiện tốt vai trò đầy tớ cũng có nghĩa là vai trò lãnh đạo của Đảng và của
cán bộ, đảng viên đã được thực hiện tốt.
Trong điều kiện Đảng cầm quyền, đảng viên là người có chức, có quyền thì
mối quan hệ thống nhất trên rất dễ bị vi phạm, ảnh hưởng tiêu cực đến sự
lãnh đạo và uy tín của Đảng, vì vậy càng cần phải thực hiện tốt hai vai trò
này. Để có thể là người lãnh đạo và là người đầy tớ của nhân dân, Chủ tịch
Hồ Chí Minh giáo huấn: mỗi đảng viên và cán bộ phải thật sự thầm nhuần
đạo đức cách mạng, cần kiệm liêm chính, chí công vô tư. Không thầm nhuần
đạo đức cách mạng, cần kiệm liêm chính, chí công vô tư thì không thể xứng
đáng là người lãnh đạo, người đầy tớ thật trung thành của nhân dân. Ý nghĩa
sâu xa của lời dặn dò trên đối với Đảng và nhân dân ta của Chủ tịch Hồ Chí
Minh khi Người chuẩn bị ra đi chính là ở chỗ đó.Tuân theo di huấn của Chủ
tịch Hồ Chí Minh, trong quá trình lãnh đạo cách mạng Việt Nam, Đảng ta đã
tổ chức và lãnh đạo nhân dân ta làm nên những thắng lợi vĩ đại; không
ngừng nâng cao đời sống, chăm lo đến việc học hành, miếng cơm manh áo,
cuộc sống hạnh phúc của nhân dân. Các thế hệ cán bộ, đảng viên luôn nêu
cao tính tiền phong, gương mẫu, vào sống ra chết giành độc lập tự do cho Tổ
quốc và chăm lo hạnh phúc của nhân dân, sống cần kiệm, liêm chính, chí
công vô tư, được nhân dân tin tưởng và yêu mến.
Tuy nhiên, hiện nay trước sự tác động của điều kiện kinh tế - xã hội, nhất là
từ mặt trái của kinh tế thị trường và sự chống phá của các thế lực thù địch,
một bộ phận cán bộ, đảng viên đã bị suy thoái, không xứng đáng là người
lãnh đạo, người đầy tớ trung thành của nhân dân. Đại hội X của Đảng nhận
5
định: “Tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, bệnh cơ
hội, chủ nghĩa cá nhân và tệ quan liêu, tham nhũng, lãng phí trong một bộ
phận cán bộ, công chức diễn ra nghiêm trọng”[1]; “Nhiều tổ chức cơ sở
đảng thiếu sức chiến đấu và không đủ năng lực giải quyết những vấn đề
phức tạp nẩy sinh”[2]. Tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức,
lối sống trong một bộ phận cán bộ, đảng viên là một vấn đề nhức nhối, làm
ảnh hưởng nghiêm trọng đến sự vĩ đại và uy tín của Đảng, làm suy giảm
lòng tin của nhân dân đối với Đảng và đối với cán bộ, đảng viên.
Tệ tham nhũng và sự kém hiệu quả trong đấu tranh chống tệ nạn này là một
nguyên nhân quan trọng làm méo mó hình ảnh của người cán bộ, đảng viên,
làm suy giảm lòng tin của nhân dân vào sự lãnh đạo của Đảng, vào bản chất
tốt đẹp của chế độ mới. Đây là những thứ “giặc” hết sức nguy hiểm mà Chủ
tịch Hồ Chí Minh đã nhiều lần cảnh báo, nó làm mục ruỗng Đảng và hệ
thống chính trị nước ta, làm cho Đảng ngày càng xa dân hơn. Tình trạng
“chạy chức, chạy quyền” hiện nay còn diễn ra ở một số nơi ảnh hưởng xấu
đến công tác xây dựng Đảng, đến việc làm lành mạnh hoá đội ngũ cán bộ,
đảng viên. Những người “chạy chức, chạy quyền” mang nặng chủ nghĩa cá
nhân, chỉ vì lợi ích ích kỷ, không thể là người lãnh đạo chân chính, không
thể là người đầy tớ trung thành của nhân dân, phải kiên quyết loại ra khỏi tổ
chức đảng và hệ thống chính trị đất nước. Chừng nào tình trạng “chạy chức,
chạy quyền” còn diễn ra, thì chừng đó chưa thể nói chúng ta đã xây dựng
được đội ngũ cán bộ, đảng viên thực sự là người lãnh đạo, người đầy tớ thật
trung thành của nhân dân đúng nghĩa như Chủ tịch Hồ Chí Minh căn dặn.
Yêu cầu của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa trong
tình hình mới đòi hỏi chúng ta phải thực hiện tốt hơn nữa nhiệm vụ then chốt
là xây dựng Đảng thực sự xứng đáng là người lãnh đạo, người đầy tớ thật
trung thành của nhân dân. Đó là vấn đề có ý nghĩa sống còn đối với Đảng và
sự nghiệp cách mạng của nhân dân ta. “Trong những năm tới, phải dành
nhiều công sức tạo được chuyển biến rõ rệt về xây dựng Đảng, phát huy
truyền thống cách mạng xây dựng Đảng thực sự trong sạch, vững mạnh cả
về chính trị, tư tưởng và tổ chức, đoàn kết nhất trí cao, gắn bó mật thiết với
nhân dân, có phương thức lãnh đạo khoa học, có đội ngũ cán bộ, đảng viên
đủ phẩm chất và năng lực”[3].
[1] Hồ Chí Minh, Toàn tập, Nxb CTQG, H. 2000, tập 12, tr. 510.
[2] Hồ Chí Minh, Toàn tập, Nxb CTQG, H. 2000, tập 5, tr. 262.
[3] Hồ Chí Minh, Toàn tập, Nxb CTQG, H. 2000, tập 12, tr. 511.
6
Vấn đề quan trọng hàng đầu hiện nay là phải kiên quyết khắc phục sự
suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống trong một bộ phận cán bộ,
đảng viên; thấm nhuần hơn nữa lời căn dặn: phải xứng đáng là người lãnh
đạo, người đầy tớ thật trung thành của nhân dân của Chủ tịch Hồ Chí Minh.
Trong điều kiện hiện nay, những vấn đề: nâng cao lập trường cách
mạng, bản chất giai cấp công nhân của Đảng; ra sức học tập đạo đức, tác
phong của Hồ Chí Minh; đẩy mạnh đấu tranh chống tham nhũng; nêu cao
trách nhiệm người đứng đầu và cấp uỷ các cấp trong đấu tranh khắc phục
sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống trong một bộ phận cán
bộ, đảng viên; nêu cao tính đảng, tính tiền phong gương mẫu trong quá trình
tự tu dưỡng, rèn luyện đạo đức, lối sống của cán bộ, đảng viên… là những
vấn đề rất cơ bản mà mỗi cán bộ, đảng viên cũng như từng tổ chức đảng
phải thực hiện tốt. Trong Di chúc, Chủ tịch Hồ Chí Minh một lần nữa nhấn
mạnh vai trò to lớn của nhân dân và tình cảm, niềm tin của nhân dân đối với
Đảng, mà Đảng cần phải biết bồi dưỡng, giữ gìn và phát huy: "…nhân dân ta
rất anh hùng, dũng cảm, hăng hái, cần cù. Từ ngày có Đảng, nhân dân ta
luôn luôn đi theo Đảng, rất trung thành với Đảng"[1]. Uy tín của Đảng ra
sao, lòng tin của nhân dân đối với Đảng đến đâu, mối quan hệ Đảng - dân
được bền chặt như thế nào, vai trò là người lãnh đạo và là người đầy tớ thật
trung thành của nhân dân ra sao phụ thuộc quyết định vào sự trong sạch,
vững mạnh của Đảng, vào phẩm chất và năng lực của mỗi cán bộ, đảng viên.
Có dân là có tất cả, mất dân là mất tất cả. Đó là một tư tưởng cơ bản
của Chủ tịch Hồ Chí Minh và đó cũng là một bài học được rút ra từ chính
thực tiễn cách mạng của dân tộc ta dưới sự lãnh đạo của Đảng. Vấn đề quan
trọng là Đảng phải có chính sách hợp lòng dân, được hiện thực hoá trong đời
sống hàng ngày của mọi người dân. Đảng ta đã nhiều lần nhấn mạnh phải
thường xuyên quan tâm đến nhân dân, thực hiện các chủ trương, chính sách
hợp lòng dân, chăm lo bảo vệ lợi ích chính đáng của dân. Lòng tin của dân
đối với Đảng và Nhà nước trước hết và trực tiếp biểu hiện ở lòng tin đối với
tổ chức đảng và chính quyền địa phương, cơ sở, đối với cán bộ, đảng viên.
Các chính sách của địa phương, cơ sở phải sát dân, thực sự vì dân; phải hết
sức làm những việc gì có lợi cho dân, phải hết sức tránh những việc gì có hại
cho dân.
[1] Hồ Chí Minh, Toàn tập, Nxb CTQG, H. 2000, tập 12, tr. 511.
7
Đảng thật trong sạch, vững mạnh, ngang tầm với nhiệm vụ; mỗi cán bộ,
đảng viên phải thật sự thấm nhuần đạo đức cách mạng, cần kiệm, liêm
chính, chí công vô tư. Trách nhiệm của thế hệ hôm nay là phải làm cho
mệnh đề: Đảng là người lãnh đạo, là người đầy tớ thật trung thành của nhân
dân được hiện thực hoá hơn nữa và thấm sâu hơn nữa trong thực tiễn, mà
mỗi người dân đều cảm nhận được một cách rõ ràng và cụ thể trong đời sống
hiện thực.
Theo Hồ Chí Minh, muốn thực hiện thành công sự nghiệp cách mạng xã hội
chủ nghĩa - cuộc cách mạng sâu sắc nhất, triệt để nhất, toàn diện nhất, chúng
ta phải đem hết tinh thần và lực lượng ra phấn đấu; phải tu dưỡng, rèn luyện
đạo đức cách mạng.
Hồ Chí Minh luôn luôn quan tâm đến vấn đề đạo đức và giáo dục đạo đức
cách mạng cho cán bộ, đảng viên. Một trong những bài giảng đầu tiên cho
lớp thanh niên trí thức yêu nước đầu tiên của Việt Nam từ những năm 1920
là bài giảng về "tư cách của một người cách mạng". Đến khi viết Di chúc,
Người vẫn dành một phần trang trọng để bàn về vấn đề đạo đức, yêu cầu
mỗi đảng viên và cán bộ phải thật sự thấm nhuần đạo đức cách mạng, Đảng
phải quan tâm chăm lo giáo dục đạo đức cách mạng cho đoàn viên và thanh
niên, đào tạo họ thành những người thừa kế xây dựng chủ nghĩa xã hội vừa
"hồng" vừa "chuyên".
Hồ Chí Minh xem xét đạo đức trên cả hai phương diện lý luận và thực tiễn.
Về mặt lý luận, Người để lại cho chúng ta một hệ thống quan điểm sâu sắc
và toàn diện về đạo đức. Về thực tiễn, Người luôn coi thực hành đạo đức là
một mặt không thể thiếu của cán bộ, đảng viên. Cũng như V.I. Lênin, Hồ
Chí Minh đào tạo các chiến sĩ cách mạng không chỉ bằng chiến lược, sách
lược mà còn bằng chính tấm gương đạo đức trong sáng của mình.
Khi đánh giá vai trò của đạo đức cách mạng, Hồ Chí Minh coi đạo đức
là nền tảng của người cách mạng, cũng giống như gốc của cây, ngọn
nguồn của sông suối. Người viết: "Cũng như sông thì có nguồn mới có nước,
không có nguồn thì sông cạn. Cây phải có gốc, không có gốc thì cây héo.
Người cách mạng phải có đạo đức, không có đạo đức thì dù tài giỏi mấy
cũng không lãnh đạo được nhân dân. Vì muốn giải phóng cho dân tộc, giải
phóng cho loài người là một công việc to tát, mà tự mình không có đạo đức,
không có căn bản, tự mình đã hủ hóa, xấu xa thì còn làm nổi việc gì"1.
Người so sánh: "Làm cách mạng để cải tạo xã hội cũ thành xã hội mới là
một sự nghiệp rất vẻ vang, nhưng nó cũng là một nhiệm vụ rất nặng nề, một
cuộc đấu tranh rất phức tạp, lâu dài, gian khổ. Sức có mạnh mới gánh được
8
nặng và đi được xa. Người cách mạng phải có đạo đức cách mạng làm nền
tảng, mới hoàn thành được nhiệm vụ cách mạng vẻ vang"
Đạo đức là gốc, là nền tảng vì liên quan tới Đảng cầm quyền. Hồ Chí Minh
trăn trở với nguy cơ của Đảng cầm quyền, đó là sự sai lầm về đường lối và
suy thoái về đạo đức cách mạng của cán bộ, đảng viên. Đảng cầm quyền,
lãnh đạo toàn xã hội, lãnh đạo Nhà nước, nếu cán bộ, đảng viên của Đảng
không tu dưỡng về đạo đức cách mạng thì mặt trái của quyền lực có thể làm
tha hóa con người. Vì vậy, Hồ Chí Minh yêu cầu Đảng phải là đạo đức, là
văn minh. Người thường nhắc lại ý của Lênin: Đảng Cộng sản phải tiêu biểu
cho trí tuệ, danh dự, lương tâm của dân tộc và thời đại. Người nói, cán bộ,
đảng viên muốn cho dân tin, dân yêu, dân phục thì không phải viết lên trán
chữ cộng sản là được quần chúng yêu mến. Quần chúng chỉ quý mến những
người có tư cách đạo đức.
Vai trò của đạo đức cách mạng còn thể hiện ở chỗ đó là thước đo lòng cao
thượng của con người. Theo quan điểm của Hồ Chí Minh, mỗi người có
công việc, tài năng, vị trí khác nhau, người làm việc to, người làm việc nhỏ,
nhưng ai giữ được đạo đức cách mạng đều là người cao thượng.
Là một hình thái ý thức xã hội, đạo đức không phải một chiều phụ thuộc vào
tồn tại xã hội, vào những điều kiện vật chất kinh tế. Nó có khả năng tác động
tích cực trở lại, cải biến tồn tại xã hội. Giá trị đạo đức tinh thần một khi được
con người tiếp nhận sẽ biến thành một sức mạnh vật chất.
Có đạo đức cách mạng thì khi gặp khó khăn gian khổ, thất bại cũng không
lùi bước, chán nản ; khi gặp thuận lợi và thành công cũng vẫn giữ tinh thần
khiêm tốn, "lo trước thiên hạ, vui sau thiên hạ", không kèn cựa về mặt
hưởng thụ, không công thần, không quan liêu, không kiêu ngạo, v.v
Đạo đức là cái gốc của người cách mạng, nhưng phải nhận thức đức và tài
có mối quan hệ mật thiết với nhau. Có đức phải có tài, nếu không sẽ không
mang lại lợi ích gì mà còn có hại cho dân. Mặt khác, phải thấy trong đức có
tài. Tài càng lớn thì đức phải càng cao, vì đức - tài là nhằm phục vụ nhân
dân và đưa cách mạng đến thắng lợi.
2.Liên hệ thực tiễn ở Việt Nam
Ở Việt Nam, từ sau Cách mạng Tháng Tám năm 1945 đến nay Đảng Cộng
sản Việt Nam là đảng cầm quyền. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nhiều lần khẳng
định: "Đảng ta là đảng cầm quyền". Điều đó không phải tự nhiên mà có; đây
là thành quả của bao nhiêu năm đấu tranh cách mạng của toàn đảng, toàn
9
dân Việt Nam. Được thành lập năm 1930, phải 15 năm sau, trải qua biết bao
hy sinh, thử thách, hàng loạt cán bộ, đảng viên, nhân dân, trong đó có rất
nhiều lãnh tụ xuất sắc của Đảng hy sinh, Đảng Cộng sản Việt Nam mới
giành được chính quyền. Rồi tiếp sau đó, ròng rã suốt 30 năm kháng chiến
gian khổ và anh dũng, Việt Nam mới giải phóng được toàn bộ đất nước và
Đảng Cộng sản Việt Nam trở thành đảng cầm quyền trong cả nước thống
nhất, đưa đất nước đi lên chủ nghĩa xã hội. Những thành quả mà nhân dân
đạt được dưới sự lãnh đạo của Đảng khiến cho nhân dân thấy rõ rằng, ở Việt
Nam chỉ có Đảng Cộng sản Việt Nam mới có khả năng lãnh đạo nhân dân
xây dựng cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc; lợi ích của nhân dân gắn liền
với sự nghiệp của Đảng; mục đích lý tưởng của Đảng cũng là ước mơ,
nguyện vọng của nhân dân. Ngày nay, với tư cách là đảng cầm quyền, Đảng
Cộng sản Việt Nam nhận rõ trách nhiệm của mình trước đất nước và dân tộc
để vạch ra đường lối xây dựng phát triển đất nước, trên cơ sở đó phát huy
sức mạnh tổng hợp của toàn hệ thống chính trị, của cả xã hội, tổ chức thực
hiện thắng lợi đường lối đó; đồng thời xác định đúng nội dung và phương
thức hoạt động của Đảng, phát huy mặt thuận lợi, hạn chế mặt khó khăn,
ngăn ngừa và khắc phục những nguy cơ của một đảng cầm quyền.
Như Chủ tịch Hồ Chí Minh nói, Đảng chẳng những phải lo những việc
lớn như biến đổi nền kinh tế và văn hóa, mà còn lo đến cả những việc nhỏ
như "tương cà, mắm muối" là những thứ cần thiết cho đời sống thường ngày
của nhân dân. Khi đã trở thành đảng cầm quyền, Đảng càng có điều kiện đại
biểu cho lợi ích của giai cấp mình là giai cấp công nhân đồng thời đại biểu
cho lợi ích của toàn thể nhân dân lao động, trở thành đội tiên phong chính trị
của cả dân tộc. Điều quan trọng quyết định là đảng phải luôn luôn giữ được
bản chất cách mạng và khoa học của mình, không biến chất và có phương
thức lãnh đạo đúng.
Từ thực tiễn đổi mới của Việt Nam trong gần 20 năm qua, có thể rút ra
một kết luận quan trọng là: Trong quá trình tiến hành công cuộc đổi mới,
phải luôn luôn kiên định vai trò lãnh đạo, vị thế cầm quyền của Đảng; đồng
thời, làm tốt công tác xây dựng Đảng, thường xuyên đổi mới, chỉnh đốn
Đảng. Đây là vấn đề có tính nguyên tắc, là nhân tố bảo đảm cho công cuộc
đổi mới thành công, đất nước phát triển theo đúng định hướng xã hội chủ
nghĩa. Đại hội VI của Đảng (12-1986) khẳng định: "Phải xây dựng Đảng
ngang tầm với nhiệm vụ chính trị của một đảng cầm quyền lãnh đạo nhân
dân tiến hành cách mạng xã hội chủ nghĩa". Ngay sau Đại hội VI, với
phương hướng "đổi mới tư duy, đổi mới tổ chức, đổi mới cán bộ, đổi mới
phong cách lãnh đạo và công tác", các cấp ủy và tổ chức đảng đã triển khai
thực hiện sâu rộng nhiệm vụ xây dựng Đảng. Tính ra, từ năm 1987 đến nay,
Ban Chấp hành Trung ương và Bộ Chính trị các khóa đã ban hành 15 nghị
10
quyết chuyên đề quan trọng về xây dựng Đảng, và đã chỉ đạo khá tập trung
công tác này. Thực hiện Nghị quyết Đại hội VII, từ năm 1992 đến năm 1996
tiến hành tổng kết công tác xây dựng Đảng giai đoạn 1975-1995 trên các
lĩnh vực chính trị, tư tưởng, tổ chức, cán bộ và phương thức lãnh đạo của
Đảng, phục vụ thiết thực cho việc chỉ đạo công tác xây dựng Đảng. Mới đây,
Hội nghị Trung ương 9 (khóa IX) trên cơ sở kiểm điểm nửa nhiệm kỳ thực
hiện Nghị quyết Đại hội IX và căn cứ vào yêu cầu thực tiễn đã quyết định
trong những năm tới phải chỉ đạo tập trung và quyết liệt hơn nữa công tác
xây dựng Đảng nhằm tạo cho được sự chuyển biến sâu sắc hơn trên lĩnh vực
này, từng bước đẩy lùi, khắc phục tệ quan liêu, tham nhũng, lãng phí, nâng
cao sức chiến đấu của các tổ chức cơ sở đảng, kiện toàn đội ngũ cán bộ, đẩy
mạnh công tác nghiên cứu lý luận, tổng kết thực tiễn, đổi mới phương thức
lãnh đạo của Đảng.
Trong nhiều nghị quyết, Đảng Cộng sản Việt Nam đã khẳng định xây
dựng Đảng là nhiệm vụ then chốt, nhiệm vụ sống còn của toàn bộ sự nghiệp
cách mạng; thường xuyên đổi mới, chỉnh đốn là quy luật tồn tại và phát triển
của Đảng. Trong công tác xây dựng Đảng, phải luôn luôn kiên định và phát
triển sáng tạo những quan điểm cơ bản của chủ nghĩa Mác-Lê-nin và tư
tưởng Hồ Chí Minh; chống các khuynh hướng bảo thủ, cơ hội, cực đoan.
Đổi mới nhưng không phủ nhận thành tựu của quá khứ, không dao động trên
những vấn đề nguyên tắc, không lẫn lộn những vấn đề chiến lược với sách
lược. Mặt khác, kiên định những vấn đề có tính nguyên tắc nhưng luôn luôn
đổi mới sáng tạo, phù hợp với thực tế Việt Nam.
Một trong những nhiệm vụ quan trọng hàng đầu của công tác xây dựng
Đảng trong thời kỳ đổi mới là phải phát huy truyền thống tốt đẹp, giữ vững
bản chất cách mạng và khoa học của Đảng. Đây là vấn đề mà Đảng đặc biệt
quan tâm. Nói truyền thống tốt đẹp, bản chất cách mạng và khoa học là nói
truyền thống yêu nước, đấu tranh kiên cường bất khuất của dân tộc, ý chí
kiên định, trí tuệ tiên phong, đạo đức vị tha và ý thức tổ chức chặt chẽ của
giai cấp công nhân. Giữ vững và tăng cường bản chất giai cấp công nhân có
nghĩa là Đảng phải kiên định quan điểm, lập trường của giai cấp công nhân,
tuyệt đối trung thành với lợi ích của giai cấp công nhân, nhân dân lao động
và của cả dân tộc; phấn đấu vì mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội.
Đảng luôn luôn xác định phải lấy chủ nghĩa Mác-Lê-nin và tư tưởng Hồ
Chí Minh làm nền tảng tư tưởng và kim chỉ nam cho hành động. Đảng gắn
bó mật thiết với nhân dân và dân tộc, lãnh đạo xây dựng và làm nòng cốt
trong khối đại đoàn kết toàn dân; chống tư tưởng phường hội, cục bộ, bản vị,
phân tán.Đảng kết hợp chủ nghĩa yêu nước chân chính, kế thừa và phát huy
truyền thống tốt đẹp của dân tộc với việc tiếp thu tinh hoa văn hóa của nhân
loại. Đảng phấn đấu hy sinh không chỉ vì lợi ích của giai cấp công nhân mà
11
còn vì lợi ích của nhân dân và của cả dân tộc. Đảng chẳng những thường
xuyên giữ vững và nâng cao bản chất giai cấp công nhân mà còn chú ý học
tập, tiếp thu, phát triển tinh hoa và truyền thống dân tộc, giữ gìn và phát huy
bản sắc Việt Nam. Chính truyền thống dân tộc đã nhân lên sức mạnh của
Đảng.
Đảng Cộng sản Việt Nam trong quá trình đổi mới đất nước đã đề ra được
và từng bước bổ sung, phát triển, hoàn thiện dần đường lối đổi mới, hình
thành ngày càng rõ hơn con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Tiếp
theo những đổi mới bộ phận, đổi mới từng bước, đến Đại hội VI (năm 1986)
Đảng đã đề ra đường lối đổi mới toàn diện, Đại hội VII đã thông qua Cương
lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội, và các
Đại hội tiếp sau đó của Đảng tiếp tục bổ sung, phát triển, đến nay đã hình
thành một hệ thống các quan điểm chỉ đạo sự nghiệp đổi mới ở Việt Nam.
Đảng luôn luôn có ý thức đổi mới sáng tạo, dám từ bỏ những cái cũ không
còn thích hợp, cả trên lĩnh vực kinh tế cũng như trên lĩnh vực văn hóa, xã
hội; cả đối nội và đối ngoại; giải quyết tốt mối quan hệ giữa giai cấp và dân
tộc, quốc gia và quốc tế, mở rộng khối đại đoàn kết dân tộc, đoàn kết quốc
tế, tập trung sức cho công cuộc xây dựng và bảo vệ đất nước. Nói cách khác,
Đảng Cộng sản Việt Nam kiên trì nắm vững nguyên tắc và phương pháp
biện chứng duy vật; không phiến diện, cực đoan, hoặc giản đơn từ cực này
nhảy sang cực kia.
Trước mỗi bước ngoặt và trước những diễn biến phức tạp của tình hình
thế giới và trong nước, Đảng đã kịp thời chỉ đạo, làm tốt công tác tư tưởng
chính trị, uốn nắn những nhận thức lệch lạc, phê phán những quan điểm và
khuynh hướng không đúng, tạo sự nhất trí cao và sự vững vàng về tư tưởng
trong Đảng và sự đồng thuận trong nhân dân.
Trong những năm đổi mới, Đảng Cộng sản Việt Nam thường xuyên coi
trọng việc xây dựng, củng cố Đảng về tổ chức, bảo đảm nội bộ luôn luôn
đoàn kết thống nhất, có sức chiến đấu cao. Xây dựng, củng cố Đảng về tổ
chức bao gồm nhiều việc, trong đó phải đặc biệt quan tâm thực hiện tốt
nguyên tắc tập trung dân chủ và chấn chỉnh hệ thống tổ chức của Đảng.
Thực hiện tốt nguyên tắc tập trung dân chủ là vấn đề trọng yếu bảo đảm cho
Đảng thật sự chặt chẽ về tổ chức, đoàn kết thống nhất và có sức chiến đấu
cao.
Những năm gần đây, Đảng đã nhấn mạnh việc thực hiện nghiêm túc chế
độ tự phê bình và phê bình, chăm lo củng cố sự đoàn kết thống nhất trong
Đảng trên cơ sở đường lối chính trị, nguyên tắc tổ chức và tình thương yêu
đồng chí. Tập trung giải quyết tình trạng mất đoàn kết ở một số nơi. Kiên
quyết đấu tranh chống chủ nghĩa cá nhân, tư tưởng kèn cựa, địa vị, tranh
12
giành ngôi thứ, lợi lộc, cũng như đầu óc cục bộ, bản vị là nguyên nhân quan
trọng gây ra tình trạng mất đoàn kết.
Trong việc xây dựng, kiện toàn hệ thống tổ chức bộ máy của Đảng và hệ
thống chính trị, Đảng luôn quán triệt tinh thần tích cực, khoa học, đồng bộ,
bám sát yêu cầu nhiệm vụ chính trị. Trong hệ thống tổ chức của Đảng, tổ
chức cơ sở đảng có vị trí rất quan trọng. Đảng Cộng sản Việt Nam chú trọng
việc chấn chỉnh và cải tiến sinh hoạt đảng, bố trí đúng cán bộ cốt cán -
những người thật sự có năng lực, giữ gìn phẩm chất đạo đức, được nhân dân
tín nhiệm; đồng thời làm tốt công tác đảng viên, kể cả việc phát triển đảng
viên mới đúng tiêu chuẩn, thật sự có chất lượng.
Trong nhiều nghị quyết của Ban Chấp hành Trung ương, của Bộ Chính
trị, đặc biệt là Nghị quyết Trung ương 3 (khóa VIII) về Chiến lược cán bộ
trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, Đảng Cộng sản Việt
Nam đã chỉ ra những phương hướng, nhiệm vụ công tác cán bộ trong điều
kiện mới, nhấn mạnh phải đổi mới tư duy trong công tác cán bộ, làm tốt hơn
nữa công tác quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng, bố trí, sử dụng cán bộ. Đồng
thời đổi mới phương pháp tiến hành công tác cán bộ theo hướng thật sự dân
chủ, tập thể, kết hợp với tập trung thống nhất theo một quy trình chặt chẽ.
Đảng Cộng sản Việt Nam đã đề ra các chính sách đoàn kết, tập hợp rộng rãi
các loại cán bộ ở các thành phần kinh tế, đào tạo, vun trồng và trọng dụng
nhân tài của đất nước, kể cả những người Việt Nam định cư ở nước ngoài.
Có chính sách thu hút nhân tài, tránh lãng phí chất xám. Chú trọng đào tạo,
bồi dưỡng cán bộ toàn diện cả về phẩm chất, trình độ, năng lực; cả cán bộ
lãnh đạo, cán bộ quản lý, các chuyên gia, các nhà doanh nghiệp, trước hết là
cán bộ chủ chốt ở các cấp. Xử lý nghiêm minh những cán bộ vi phạm kỷ
luật, pháp luật; thay thế kịp thời những người yếu kém, không hoàn thành
nhiệm vụ. Phát huy tốt đội ngũ cán bộ hiện có; bồi dưỡng, đào tạo cán bộ
theo yêu cầu mới; tạo nguồn cán bộ cho lâu dài. Hơn bảy mươi năm lãnh
đạo nhân dân tiến hành cách mạng, Đảng Cộng sản Việt Nam luôn luôn gắn
bó chặt chẽ với nhân dân, được nhân dân cưu mang, che chở, giúp đỡ hết
lòng. Và chính nhờ thế mà Đảng có đủ khả năng và sức mạnh lãnh đạo cách
mạng vượt qua mọi khó khăn, chiến thắng mọi kẻ thù, dù đó là kẻ thù hung
bạo nhất. Liên hệ mật thiết với nhân dân là một truyền thống tốt đẹp của
Đảng, là bài học lớn của cách mạng Việt Nam.
Ngày nay, Đảng Cộng sản Việt Nam có thêm điều kiện thuận lợi để mở
rộng và tăng cường mối liên hệ với nhân dân. Đảng liên tục có những chủ
trương và biện pháp tăng cường công tác quần chúng của Đảng, tích cực làm
những gì có thể làm được để củng cố, tăng cường mối liên hệ máu thịt giữa
Đảng và nhân dân. Các Nghị quyết Trung ương 5, Nghị quyết Trung ương 8
(khóa VI), Nghị quyết Trung ương 7 (khóa IX) và nhiều nghị quyết chuyên
13
đề của Bộ Chính trị về công tác vận động quần chúng, xây dựng Mặt trận Tổ
quốc Việt Nam và các đoàn thể chính trị - xã hội đã đề cập sâu sắc, toàn diện
vấn đề này. Đặc biệt, Nghị quyết Đại hội IX của Đảng đã khẳng định xây
dựng và tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân tộc để phát huy sức mạnh
tổng hợp, thực hiện sự nghiệp đổi mới, công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất
nước, coi đây là động lực chủ yếu để xây dựng và phát triển đất nước.
Xây dựng một đảng cách mạng chân chính là công việc không đơn
giản, trái lại, cực kỳ phức tạp khó khăn, đặc biệt là trong điều kiện Đảng
cầm quyền, phát triển kinh tế thị trường, mở cửa hiện nay. Đảng chẳng
những phải đối phó với những âm mưu của các thế lực thù địch mà còn phải
tự vượt qua những hạn chế của chính mình. Tuy nhiên, với những gì đã làm
được trong hơn 70 năm qua, với những triển vọng tốt đẹp trong thời kỳ mới,
được nhân dân tin cậy và ủng hộ, chúng ta có thể tin tưởng rằng Đảng Cộng
sản Việt Nam sẽ từng bước vươn lên hoàn thiện bản thân mình, đáp ứng
được yêu cầu của sự nghiệp cách mạng và sự mong đợi của nhân dân, xứng
đáng là Đảng Cộng sản Việt Nam - Đảng cầm quyền.
III. KẾT THÚC VẤN ĐỀ
Hồ Chí Minh đi vào cõi vĩnh hằng, trở về với thế giới Người Hiền đã
hơn l/3 thế kỷ nay. Sự nghiệp đổi mới theo định hướng xã hội chủ nghĩa do
Đảng ta khởi xướng và lãnh đạo đã gần 20 năm, tính từ Đại hội VI (l2 /l986)
đến nay. Khoảng thời gian đó đã đủ để sinh thành một thế hệ. Người đã đi xa
nhưng ai cũng cảm thấy như Người vẫn ở bên cạnh chúng ta, cổ vũ khuyến
khích những việc làm tốt, nhắc nhở giúp đỡ chúng ta những yếu kém, hạn
chế, sửa chữa những khuyết điểm sai lầm để tiến bộ trưởng thành.
Trong thời kỳ phát triển mới hiện nay của cách mạng Việt Nam, Đảng ta đã
xác định: Phát triển kinh tế là trọng tâm, xây dựng Đảng là then chốt, xây
dựng nền văn hoá Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, làm cho văn
hoá trở thành nền tảng tinh thần của xã hội. Bất cứ một lĩnh vực nào của đời
sống xã hội, bất cứ một hoạt động nào của tổ chức và cá nhân một người,
đạo đức cũng thể hiện vai trò quan trọng của nó.
Thiếu vắng hoặc yếu kém về đạo đức, con người không có nhân tính đầy đủ,
không phát triển được nhân tính để thành người và làm người.
Suy thoái đạo đức, xã hội không thể phát triển bền vững trên tất cả các lĩnh
vực từ kinh tế đến chính trị, văn hoá và xã hội. Trong hệ thống các động lực
phát triển xã hội, đạo đức là một động lực tinh thần không thể thiếu. Chúng
ta đang đấu tranh quyết liệt chống quan liêu tham nhũng như một trọng
bệnh, như một quốc nạn để đảm bảo môi trường xã hội - nhân văn lành
mạnh cho sự phát triển kinh tế, ổn định chính trị và đồng thuận xã hội.
14
Tình hình đó đòi hỏi phải chú trọng xây dựng đạo đức xã hội và giáo dục tu
dưỡng đạo đức cá nhân. Vào lúc này, thực hành đạo đức cách mạng, chống
chủ nghĩa cá nhân, noi theo tấm gương sáng đạo đức Hồ Chí Minh trở nên
vô cùng cấp thiết, bức xúc. Đó còn là vấn đề cơ bản, lâu dài dối với sự phát
triển, hiện đại hoá xã hội ở nước ta.Trước hết đó là thực hành đạo đức cách
mạng trong Đảng, từ cán bộ đảng viên đến các tổ chức đảng.
Đó còn là giáo dục và thực hành đạo đức cách mạng trong đội ngũ công
chức của Nhà nước. Càng đi vào xây dựng Nhà nước pháp quyền càng phải
chú trọng tới đạo đức công chức, đạo đức công dân. Đó là đảm bảo cho đạo
đức xã hội và tăng cường tính nhân văn của pháp quyền dân chủ. Giáo dục
đạo đức cách mạng cho thế hệ trẻ, cho thanh thiếu niên, học sinh, sinh viên
cũng như giới trí thức, văn nghệ sĩ cũng là một đối tượng xã hội cần đặc biệt
quan tâm. Đi vào kinh tế thị trường, xây dựng đạo đức của tầng lớp doanh
nhân, của người sản xuất kinh doanh cùng với pháp luật sẽ đảm bảo cho văn
hoá kinh doanh định hình và phát triển. Việc thực hành đạo đức cách mạng
theo gương sáng đạo đức Hồ Chí Minh như vậy sẽ bao quát toàn diện các
đối tượng xã hội, từ trong Đảng, trong Nhà nước tới các cộng đồng dân cư.
Nói đi đôi với làm theo tư tưởng Hồ Chí Minh, thống nhất nhận thức với
hành động hướng tới cơ sở, tới dân chúng là mục đích và thước đo tính trung
thực đạo đức mà chúng ta cần đạt tới vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã
hội công bằng, dân chủ, văn minh.
15