Tải bản đầy đủ (.doc) (34 trang)

thực trạng và giải pháp chính sách tiền tệ ở việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (263.46 KB, 34 trang )

CH sè 11 - B1 - §H KTQD Chuyªn Photocopy - §¸nh m¸y - In LuËn v¨n, TiÓu luËn

: 6.280.688
A LỜI MỞ ĐẦU
1. Sự cần thiết của đề tài :
Hội nhập kinh tế quốc tế nói chung và hội nhập thị trường tài chính quốc tế nói
riêng là xu thế tất yếu và là một yêu cầu khách quan đối với bất kỳ quốc gia nào trong quá
trình phát triển hiện nay. Việt Nam cũng nằm trong xu thế đó, đang tích cực tham gia vào
các tổ chức kinh tế - tài chính quốc tế và khu vực. Thị trường tài chính mở rộng gần như
không biên giới, vừa tạo đièu kiện tăng cường hợp tác, vừa làm sâu sắc thêm quá trình
cạnh tranh. Việt Nam cũng nhận thức rất rõ rằng nếu thị trường tài chính yếu kém thì sẽ
không thể thu hút được các nguồn vốn trong nước cũng như ngoài nước để phục vụ sự
nghiệp công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước. Từ sau đại hội Đảng toàn quốc lần thứ
VI (1986), nước ta đã bắt đầu tiến hành tiến hành công cuộc đổi mới cơ bản và toàn diện
cơ chế kinh tế từ cơ chế kế hoạch hoá tập trung sang cơ chế thị trường. Một trong những
thành tựu quan trọng trong công cuộc đổi mới là chúng ta đã bước đầu đi vào cải cách hệ
thống tài chính tiền tệ, đặt nền móng cho sự phát triển của thị trường tài chính.
Đặc biệt trong giai đoạn hiên nay, trong xu hướng toàn cầu hoá kinh tế và nhất là
sự kiện Việt Nam đã chính thức gia nhập WTO, đòi hỏi mở cửa thị trường, đối xử bình
đẳng, ban hành luật lệ minh bạch, cạnh tranh công bằng Các tập đoàn tài chính, ngân
hàng lớn đều mong muốn được vào đầu tư tại Việt Nam. Do vậy, Việt Nam đang đứng
trước rất nhiều cơ hội và thách thức. Nên việc nghiên cứu xem xét những tác động và ảnh
hưởng của nó tới các chính sách kinh tế vĩ mô là rất quan trọng, đặc biệt là nghiên cứu tác
động của nó tới chính sách tiền tệ và chính sách thương mại. Trong phạm vi hạn hẹp của
một bài đề án người viết chỉ xin đề cập đến một khía cạnh nhỏ của vấn đề đó, đó là
nghiên cứu chính sách tiền tệ trong nền kinh tế mở.
2.Mục tiêu cần giải quyết:
Mục tiêu nghiên cứu của đề tài nhằm tìm hiểu về vị trí, vai trò, mục tiêu và công
cụ của chính sách tiền tệ Việt Nam trong nền kinh tế mở, từ đó đưa ra những kiến nghị và
đề xuất trong việc hoàn thiện chính sách tiền tệ nước ta trong thời gian tới. Từ mục tiêu
trên, đề án gồm những nội dung sau:


- Cơ sở lí luận về chính sách tiền tệ.
-Thực trạng chính sách tiền tệ ở Việt Nam
- Những vấn đề đặt ra trong điều hành chính sách tiền tệ nước ta trong thời gian tới.

1
CH sè 11 - B1 - §H KTQD Chuyªn Photocopy - §¸nh m¸y - In LuËn v¨n, TiÓu luËn

: 6.280.688
B. NỘI DUNG
Chương I. CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ CHÍNH SÁCH TIỀN TỆ
QUỐC GIA
I. Khái niệm, vị trí và nhiệm vụ của chính sách tiền tệ
1. Khái niệm chính sách tiền tệ
Chính sách tiền tệ là tập hợp tất cả các mục tiêu, công cụ, thủ tục của Nhà nước sử
dụng trong việc kiểm soát, chi phối, điều tiết quá trình cung ứng tiền tệ, đảm bảo giữ ổn định
giá trị đồng tiền quốc gia nhằm góp phần thực hiện các mục tiêu kinh tế xã hội của đất nước.
Chính sách tiền tệ được nhà nước uỷ quyền cho Ngân hàng trung ương (NHTƯ) thực hiện.
Chính sách tiền tệ của NHNN được thể chế hoá thông qua các văn bản pháp luật, NHNN là
cơ quan thực hiện chức năng quản lý nhà nước về lĩnh vực tiền tệ, hoạch định và thực thi
chính sách tiền tệ quốc gia.
2. Vị trí của chính sách tiền tệ
Tiền tệ có chức năng cơ bản là phương tiện trung gian của quá trình trao đổi, là kết
quả của sự phát triển hàng hoá và là “dầu nhờn” cho nền kinh tế vận hành có hiệu quả.
Tiền tệ là công cụ của quản lý kinh tế vĩ mô vì hoạt động của tiền tệ gián tiếp tác động
đến quá trình sản xuất kinh doanh,tạo ra của cải vật chất cho xã hội. Nó là nguồn lực quan
trọng của hoạt động kinh tế đồng thời là yếu tố hàng đầu khai thác và phát huy khả năng
tiềm ẩn của các nguồn lực khác trong nước và quốc tế.
Sự vận động của tiền tệ nếu ở tình trạng quá thiếu hụt hoặc quá tải đều đem lại
hậu quả bất ổn định cho nền kinh tế quốc dân. Do vậy, chính phủ tất cả các quốc gia đều
rất chú trọng xây dựng, hoàn thiện hệ thống chính sách tiền tệ của nước mình, coi đó là

các công cụ quản lý kinh tế vĩ mô quan trọng. Nói cách khác, tiền tệ và chính sách tiền tệ
là công cụ để nhà nước tác động tới sự hoạt động của nền kinh tế quốc dân.
NHTƯ sử dụng chính sách tiền tệ nhằm gây ra sự mở rộng hay thắt chặt lại trong
việc cung ứng tiền tệ, để ổn định giá trị đồng bản tệ, đưa sản lượng và việc làm của quốc
gia đến mức mong muốn.
3. Nhiệm vụ của chính sách tiền tệ
Trong giai đoạn đầu NHTƯ chỉ là Ngân hàng phát hành, nó được chính phủ giao
nhiệm vụ phát hành tiền tệ cho nền kinh tế mà khởi thuỷ nó là một số NHTM có uy tín,
chiếm vị trí quan trọng nhất trong hệ thống Ngân hàng.

2
CH sè 11 - B1 - §H KTQD Chuyªn Photocopy - §¸nh m¸y - In LuËn v¨n, TiÓu luËn

: 6.280.688
Sang giai đoạn thứ 2 Ngân hàng phát hành được cải biến thành NHTƯ, không chỉ
làm nhiệm vụ phát hành tiền mà nó còn phải thực hiện các nhiệm vụ do Nhà nước giao phó
như: xây dựng chiến lược phát triển kinh tế, điều hoà lưu thông tiền tệ, bảo quản các dự trữ
tiền tệ của Ngân hàng, cung cấp tín dụng cho các Ngân hàng và các tổ chức tài chính khác,
kiểm soát khối lượng tín dụng sao cho phù hợp với nhu cầu của nền kinh tế. Lúc này, hệ
thống Ngân hàng được chia thành hai cấp: NHTƯ chuyên thực hiện chính sách tiền tệ và là
Ngân hàng cấp I; Các NHTM chuyên kinh doanh tiền tệ và là các tổ chức tài chính có
nhiệm vụ chấp hành chính sách tiền tệ, chịu sự chỉ đạo quản lý của NHNN.
Qua các nhiệm vụ như vậy, chúng ta có thể thấy nhiệm vụ của NHTƯ trong việc
thực hiện chính sách tiền tệ điều tiết vĩ mô là rất quan trọng.
3.1 Điều tiết khối lượng tiền tệ trong lưu thông:
Trong nền kinh tế tiền tệ, mối quan hệ giữa khối lượng tiền tệ trong lưu thông với
khối lượng hàng hoá có một tác động rất lớn đến việc ổn định và phát triển kinh tế. Mác
cũng đề cập là: Phải bảo đảm mối quan hệ cân đối giữa khối lượng tiền cần thiết cho lưu
thông và khối lượng tiền thực tế trong lưu thông.
Như vậy điều tiết khối lượng tiền trong lưu thông cho phù hợp với yêu cầu ổn định

và phát triển kinh tế giữ một vị trí quan trọng bậc nhất trong các nhiệm vụ của NHTƯ.
Với tư cách là Ngân hàng của các Ngân hàng, NHTƯ giữ vai trò quyết định khối
lượng tiền trong lưu thông qua các nghiệp vụ: Cho các NHTM vay, quyết định tỷ lệ dự
trữ pháp định đối với các NHTM, thực hiện chiết khấu và tái chiết khấu cho các NHTM,
cho ngân sách Nhà nước vay…
Nói chung, NHTƯ có thể sử dụng nhiều biện pháp khác nhau để làm cho khối
lượng tiền tệ trong lưu thông lớn lên, hoặc giảm đi tuỳ theo mục tiêu của chính sách tiền
tệ đã đề ra.
3.2. Ổn định sức mua của đồng tiền nội địa:
Sức mua của đồng tiền mỗi nước chịu tác động từ nhiều phía, NHTƯ luôn phải tìm
biện pháp để ổn định sức mua của đồng tiền nội địa nhằm thực hiện chính sách kinh tế
trong nước và thực hiện chính sách kinh tế quốc tế có hiệu quả.
- Trước tiên là sức mua của đồng tiền chịu tác động của quy luật cung cầu hàng
hoá: Khi cung hàng hoá lớn hơn cầu hàng hoá thì giá cả hàng hoá bị suy giảm và ngược
lại khi cung hàng hoá thấp hơn cầu hàng hoá thì giá cả hàng hoá tăng lên.

3
CH sè 11 - B1 - §H KTQD Chuyªn Photocopy - §¸nh m¸y - In LuËn v¨n, TiÓu luËn

: 6.280.688
Cả hai hiện tượng tăng hoặc giảm giá cả hàng hoá điều gây ra sự bất lợi cho sản
xuất và cho người tiêu dùng.
Khi giá cả hàng hoá tăng lên, tức là quỹ tiêu dùng bằng tiền của xã hội lớn hơn quỹ
hàng hoá hiện vật. Trong trường hợp này NHTƯ tìm biện pháp để giảm quỹ tiêu dùng,
tăng quỹ đầu tư cho sản xuất.
Khi giá cả hàng hoá giảm, tức là quỹ tiêu dùng bằng tiền của xã hội đang nhỏ hơn
quỹ hàng hoá hiện vật. Trong trường hợp NHTƯ phải tìm biện pháp kích thích tiêu dùng
và kích thích sản xuất có hiệu quả.
- Sức mua đồng tiền nội địa còn chịu tác động của giá vàng và ngoại tệ đặc biệt là
ngoại tệ.

+ Khi giá vàng tăng lên, tức là sức mua của đồng tiền bị giảm sút và ngược lại, khi
giá vàng giảm sút thì sức mua của đồng tiền tăng lên. Khi giá vàng biến động cần có sự can
thiệp của NHTƯ nhằm bảo đảm sự ổn định của giá vàng, làm cơ sở ổn định tiền tệ. Giá
vàng ổn định, ít biến động còn là một yếu tố hạn chế cất giữ vàng trong nhân dân và nâng
cao khả năng thu hút tiền tiết kiệm trong công chúng.
+ Khi thực hiện nền kinh tế mở cửa, quan hệ giữa ngoại tệ và nội tệ có sự tác động
qua lại rất gắn bó. Điều đó thể hiện ở chỗ sự tăng giá hoặc giảm giá của đồng nội tệ so với
ngoại tệ. Khi đồng nội tệ giảm giá thường kích thích sản xuất hàng hoá để xuất khẩu ra
nước ngoài vì có lợi cho người xuất khẩu và hạn chế nhập khẩu. Ngược lại khi đồng nội
tệ tăng giá thì lại kích thích nhập khẩu và hạn chế xuất khẩu.
3.3. Điều tiết sản xuất và thiết lập cơ cấu kinh tế:
Để làm được vai trò này, NHTƯ sử dụng các biện pháp cần thiết để phân phối tài
nguyên quốc gia cho các ngành, các lĩnh vực của nền kinh tế, nhằm tạo ra một sự cân đối
giữa các ngành, các lĩnh vực của nền kinh tế tạo điều kiện cho nền kinh tế phát triển nhịp
nhàng và cân đối.
Bên cạnh đó NHTƯ còn là một cơ quan thực hiện các chiến lược phát triển kinh tế
xã hội do được Nhà nước giao nhiệm vụ cung ứng tín dụng cho nền kinh tế và tạo điều
kiện cụ thể cho các ngành kinh tế nhận được tín dụng hoặc hạn chế tín dụng của một số
ngành kinh tế nào đó nếu sự phát triển của nó phá vỡ sự cân đối của nền kinh tế.
Tuy NHTƯ không trực tiếp đầu tư kinh doanh, nhưng NHTƯ đóng một vai trò rất
quan trọng đó là quy định các chính sách tín dụng cụ thể cho các ngành kinh tế, các lĩnh
vực kinh tế, áp dụng các loại lãi suất phân biệt đối với từng ngành kinh tế dựa trên các

4
CH sè 11 - B1 - §H KTQD Chuyªn Photocopy - §¸nh m¸y - In LuËn v¨n, TiÓu luËn

: 6.280.688
chiến lược phát triển kinh tế cũng như kế hoạch dài hạn, trung hạn và ngắn hạn của Nhà
nước.
Vấn đề đặt ra cho NHTƯ là phải có chương trình phát triển kinh tế - xã hội, đó là

các dự án phát triển kinh tế xã hội tổng hợp bao gồm nhiều ngành nghề liên quan với
nhau, và qua dự án đó NHTƯ có chính sách tiền tệ - tín dụng cụ thể. Thực chất của việc
phân phối tín dụng cho các ngành kinh tế là phân phối tài nguyên cho các ngành kinh tế
sử dụng nó để tạo ra của cải vật chất cho xã hội và cung cấp dịch vụ cho xã hội. Vì vậy,
mà khi kế hoạch cung ứng tín dụng của Ngân hàng được thực hiện, thì nó sẽ tạo ra một cơ
cấu kinh tế tương ứng.
Hơn nữa cơ cấu kinh tế còn là sự biến đổi cho phù hợp của từng thời kỳ phát triền
của nền kinh tế, nghĩa là có sự di chuyển vốn từ ngành này sang ngành khác, có sự tăng
tốc độ phát triển của một ngành nào đó và phải hạn chế phát triển của một ngành khác.
Sự thay đổi tốc độ phát triển của các ngành kinh tế, sự di chuyển vốn từ ngành
kinh tế này sang ngành kinh tế khác chỉ có thể hoạt động qua cơ chế hoạt động của tín
dụng của ngành Ngân hàng là nhanh chóng và hiệu quả nhất.
3.4. Chỉ huy toàn bộ hệ thống Ngân hàng của quốc gia:
Muốn thực hiện được vai trò chỉ huy của NHTƯ đối với toàn bộ hệ thống Ngân
hàng của quốc gia thì đòi hỏi NHTƯ phải có quyền lực. Mà cụ thể phải kiểm soát được
mọi hoạt động về cung cấp tín dụng của các Ngân hàng kinh doanh, bằng cách sử dụng
các chính sách tiền tệ là thiết yếu.
Bằng các kỹ thuật riêng của mình NHTƯ phải thường xuyên nắm được khối lượng
tín dụng đã và sẽ được cung cấp cho nền kinh tế để có biện pháp thích ứng. Hơn nữa
NHTƯ còn phải nắm được khối lượng tín dụng đã, đang và sẽ cung cấp cho mỗi ngành
kinh tế để có thể có biện pháp điều tiết thích hợp, thiết lập cơ cấu của nền kinh tế theo
mục tiêu đã định trước.
Hoạt động kinh tế tiền tệ có mục đích sâu xa của nó là tập trung và phân phối vốn
cho nền kinh tế. Nhưng do điều kiện của nền kinh tế thị trường có vô số các chủ thể kinh
tế khác nhau, mà mỗi chủ thể điều có một chiến lược riêng, chiến thuật riêng để kinh
doanh, do đó, hoạt động của một chủ thể có thể dẫn đến sự vi phạm đến lợi ích chung của
toàn bộ nền kinh tế, chưa kể là nó còn có thể vì lợi ích riêng mà vi phạm các nguyên tắc
chung. Vì vậy không thể thiếu sự chỉ huy thống nhất để phân phối hành động, làm cho các
chủ thể đó phải tuân thủ pháp luật, đặt lợi ích chung của xã hội lên trên tất cả các lợi ích


5
CH sè 11 - B1 - §H KTQD Chuyªn Photocopy - §¸nh m¸y - In LuËn v¨n, TiÓu luËn

: 6.280.688
riêng lẽ. Lợi ích riêng lẽ nào phù hợp với lợi ích chung của xã hội thì lợi ích đó được phép
tồn tại và lợi ích riêng lẽ nào mâu thuẫn với lợi ích chung của xã hội thì cần phải loại trừ.
Trong hoạt động Ngân hàng cũng vậy, NHTƯ phải kiểm tra, kiểm soát hoạt động
của Ngân hàng kinh doanh để thống nhất lợi ích xã hội với lợi ích từng chủ thể kinh
doanh riêng biệt thực hiện mục tiêu kế hoạch phát triển kinh tế đã đề ra.
Tóm lại, khi NHTƯ thay đổi chính sách tiền tệ sẽ dẫn đến sự thay đổi dự trữ của
NHTM, sự thay đổi dự trữ của các NHTM sẽ làm thay đổi mức cung tiền tệ, sự thay đổi
mức cung tiền tệ sẽ dẫn đến sự biến động về lãi suất và khối lượng tín dụng tại thị trường
vốn, sự thay đổi về lãi suất và khối lượng tín dụng tạo ra tổng mức cầu của xã hội về đầu
tư và phát triển kinh tế.
Đến đây ta thấy chính sách tiền tệ của Nhà nước cũng có một tác động quan trọng
đến tổng mức cầu của xã hội. Vì vậy, trong quá trình thực hiện vai trò điều tiết vĩ mô của
NHTƯ không thể thiếu sự phối hợp chặt chẽ với sự hoạt động của hệ thống tài chính.
II. Mục tiêu của chính sách tiền tệ quốc gia
Có thể thu gọn lại, chính sách tiền tệ của Nhà nước có 3 mục tiêu chủ yếu đó là: Tạo
công ăn việc làm; tăng trưởng kinh tế và kiểm soát lạm phát, ổn định giá trị đồng bản tệ.
1. Công ăn việc làm cao
Việc làm cho người lao động là một vấn đề quan trọng đối với bất cứ quốc gia nào
trên thế giới. Trong thực tế, chưa có một quốc gia nào đã xây dựng được một xã hội lý
tưởng mà mọi người điều được lao động, lao động bằng khả năng của mình và được
hưởng các thành quả lao động đó. Vì vậy, mục tiêu hàng đầu của chính sách tiền tệ là
luôn luôn nhằm vào việc tạo công ăn việc làm cho mọi người. Chúng ta có thể thấy rằng,
khi nền kinh tế phát triển thì công ăn việc làm được tạo ra nhiều hơn, thất nghiệp giảm đi
và ngược lại, khi nền kinh tế trì trệ thì công ăn việc làm bị suy giảm, thất nghiệp tăng lên.
Có thể nói rằng trong cơ chế thị trường không thể chống thất nghiệp triệt để được,
mà chính sách tiền tệ chỉ có thể nhằm vào mục tiêu lý tưởng là gia tăng sản lượng, tạo

công ăn việc làm nhiều hơn và ổn định giá cả. Mục tiêu tạo công ăn việc làm trong chính
sách tiền tệ của NHTƯ được thực hiện thông qua tác động vào đầu tư mở rộng phát triển
nền kinh tế. Vì lao động là một trong những yếu tố tiềm năng của nền kinh tế, và khi đầu
tư tăng lên thì khả năng sử dụng tiềm năng này sẽ được tăng thêm.
Điều cần lưu ý là trong nền kinh tế thị trường thì lạm phát và thất nghiệp là hai khía
cạnh khó làm bạn, khi lạm phát tăng thì thất nghiệp giảm và ngược lại. Phái trọng tiền hiện

6
CH sè 11 - B1 - §H KTQD Chuyªn Photocopy - §¸nh m¸y - In LuËn v¨n, TiÓu luËn

: 6.280.688
đại thì chủ trương rằng cần chống lạm phát, còn thất nghiệp hoàn toàn là do sự tự nguyện.
Vì thế, họ chấp nhận thất nghiệp cao để ngăn ngừa lạm phát cao. Còn một số nhà kinh tế
khác thì chủ trương cần phải mua một tỷ lệ lạm phát thấp với một tỷ lệ thất nghiệp tương
ứng. Vì vậy, nó tạo điều kiện ổn định hơn và do vậy mà nó tránh được các cơn sốt kinh tế
do thất nghiệp và lạm phát.
2. Tăng trưởng kinh tế
Đây là mục tiêu mà NHTƯ cần phải hướng tới. Tuy sự tác động của tiền tệ đối với
sự tăng trưởng của nền kinh tế còn nhiều ý kiến khác nhau, nhưng có thể thấy được là
muốn cho nền kinh tế phát triển tốt, nhất thiết phải thực hiện quá trình tái sản xuất mở
rộng, tức là phải sử dụng một phần thu nhập quốc dân để đầu tư mới, ngoài việc đầu tư
giản đơn.
Mục tiêu quan trọng trong chính sách tiền tệ của NHTƯ là làm thế nào để tập trung
một bộ phận quan trọng của thu nhập quốc dân thặng dư chưa sử dụng phục vụ cho tái sản
xuất mở rộng nền kinh tế, để làm được điều đó thì thường NHTƯ sử dụng chính sách lãi
suất. Nâng lãi suất tiền gửi sẽ thu hút được nguồn vốn cho tín dụng dồi dào. Nhưng khi lãi
suất tiền gửi gia tăng thì lãi suất tiền vay cũng gia tăng và điều đó lại có tác động làm giảm
đầu tư. Hơn nữa khi lãi suất tiết kiệm gia tăng đã thu hút phần lớn quỹ chi tiêu của xã hội
và như vậy làm hạn chế thị trường tiêu thụ sản phẩm và do đó, nó làm hạn chế đầu tư.
Theo lý luận của các nhà kinh tế học thì khi mức cung tiền tệ tăng lên, trong ngắn

hạn lãi suất tín dụng sẽ giảm xuống, và do đó cầu đầu tư gia tăng và điều đó làm gia tăng
sản lượng và tăng trưởng kinh tế. Ngược lại, khi mức cung tiền giảm, trong ngắn hạn lãi
suất tín dụng tăng sẽ hạn chế cầu đầu tư làm cho mức sản lượng giảm, tăng trưởng kinh tế
chậm lại.
Mặc dù, ngày nay chúng ta thấy rằng sự tác động vào quá trình gia tăng sản lượng
do nhiều yếu tố phức tạp khác như tâm lý tiêu dùng, giá cả thế giới có ảnh hưởng nhất
định đến nền kinh tế của bất cứ nước nào, nhưng tiền tệ vẫn đóng vai trò chính yếu.
3. Kiểm soát lạm phát, ổn định giá trị đồng bản tệ
Mục tiêu quan trọng nhất của NHTƯ là kiểm soát và kiềm giữ lạm phát.
- Lúc thế giới sử dụng chế độ kim bản vị, thì lạm phát được kiểm tra qua việc
chính phủ quy định tỷ lệ tiền giấy mà một Ngân hàng có thể phát hành được so với số
vàng mà họ nhận được vào kho dự trữ. Khi tiền mất giá người ta cho phép đổi tiền giấy để

7
CH sè 11 - B1 - §H KTQD Chuyªn Photocopy - §¸nh m¸y - In LuËn v¨n, TiÓu luËn

: 6.280.688
lấy vàng và khi tiền giấy lên giá cho phép đổi vàng lấy tiền giấy, nhờ vậy mà sức mua của
tiền được ổn định.
- Ngày nay tiền giấy không được hưởng chế độ khả hoán. Quyền phát hành nằm
trong tay Nhà nước và vì vậy nó dễ dàng bị lạm dụng để phát hành cho các chi tiêu của
chính phủ hoặc phục vụ cho kinh doanh của ngành Ngân hàng mà nó có thể dẫn đến lạm
phát bất kỳ lúc nào. Vì vậy mà NHTƯ luôn luôn coi việc kiểm soát lạm phát là mục tiêu
của chính sách tiền tệ. Nếu chính sách tiền tệ nhằm mở rộng cung ứng tiền tệ, giá cả hàng
hóa dịch vụ sẽ tăng lên, tất yếu dẫn đến lạm phát. Ngược lại chính sách tiền tệ nhằm thắt
chặt cung ứng tiền tệ sẽ làm cho giá cả hàng hóa dịch vụ giảm xuống và như vậy tỷ lệ lạm
phát giảm xuống. Vì vậy NHTƯ phải sử dụng các biện pháp cụ thể để kiểm tra khối
lượng tiền trong lưu thông nhằm ngăn ngừa lạm phát xảy ra ở mức không mong đợi.
Kiểm soát lạm phát được biểu hiện trước hết ở chỗ ổn định giá trị đối nội của đồng
tiền, tức là sức mua của nó đối với hàng hóa và dịch vụ trên thị trường trong nước. Mặt

khác, nó còn được biểu hiện sự ổn định giá trị đối ngoại của đồng tiền, được đo bằng tỷ
giá hối đoái thả nổi. Trong nền kinh tế mở, cùng với sự phát triển của thương mại quốc tế,
tỷ giá đồng tiền trở thành mối quan tâm của các quốc gia. Bởi lẽ, một sự tăng lên trong
giá trị đồng bản tệ so với ngoại tệ sẽ hạn chế sự cạnh tranh trên thị trường quốc tế, hạn
chế xuất khẩu. Ngược lại, giá trị đồng bản tệ giảm xuống so với ngoại tệ sẽ khuyến khích
xuất khẩu, hạn chế nhập khẩu… Giá trị đối nội và đối ngoại của đồng tiền có mối quan hệ
mật thiết với nhau. Muốn ổn định tiền tệ và phát triển kinh tế - xã hội, Nhà nước phải có
biện pháp ổn định giá cả hàng hóa và dịch vụ trong nước và ổn định tỷ giá hối đoái.
Lạm phát vừa phải và nhẹ nhàng đôi khi là liều thuốc bổ quan trọng kích thích sản
xuất phát triển.
4. Quan hệ giữa các mục tiêu.
Trong quá trình thực hiện chính sách tiền tệ không thể tuyệt đối hoá một mục tiêu
nào, vì nhìn một cách tổng quát và lâu dài thì các chính sách tiền tệ có quan hệ chặt chẽ
với nhau, hỗ trợ và thúc đẩy lẫn nhau. Về dài hạn, các mục tiêu không xung đột với nhau
nhưng trong ngắn hạn các mục tiêu có sự xung đột, mâu thuẫn nhất định:
Thứ nhất, là mâu thuẫn giữa tăng trưởng kinh tế và lạm phát: khi tăng trưởng kinh
tế cao thì sẽ làm cho thu nhập tăng lên tất yếu dẫn đến giá cả tăng, tức là lạm phát tăng.
Muốn kiểm soát lạm phát thì phải hy sinh một phần tốc độ tăng trưởng kinh tế.

8
CH sè 11 - B1 - §H KTQD Chuyªn Photocopy - §¸nh m¸y - In LuËn v¨n, TiÓu luËn

: 6.280.688
Thứ hai, là mâu thuẫn giữa lạm phát và thất nghiệp: khi thực thi chính sách tiền tệ
nhằm giải quyết vấn đề thất nghiệp thì sẽ làm gia tăng lạm phát và ngược lại, nếu làm
giảm lạm phát thì sẽ tăng tỷ lệ thất nghiệp. Vì vậy, trong ngắn hạn NHTƯ cần phải lựa
chọn một mục tiêu để hướng tới và hy sinh mục tiêu còn lại.
Về mặt lý thuyết, để chính sách tiền tệ tác động được đến các biến số vĩ mô của
nền kinh tế, NHTƯ luôn phải xác định rõ ràng chiến lược tiếp cận của mình, trong đó vấn
đề cơ bản và tiên quyết là xác định tập hợp các mục tiêu cần đạt được bao gồm mục tiêu

cuối cùng, mục tiêu trung gian và mục tiêu hoạt động. Thông thường, mục tiêu cuối cùng
của chính sách tiền tệ được các NHTƯ thống nhất lựa chọn là ổn định giá trị tiền tệ, thúc
đẩy tăng trưởng kinh tế và công ăn việc (còn gọi là mục tiêu giá cả, sản lượng và công ăn
việc làm cao). Ngoài ra, tuỳ vào điều kiện cụ thể, NHTƯ còn lựa chọn thêm các mục tiêu
ổn định lãi suất, ổn định thị trường tài chính và ổn định thị trường ngoại hối. Tuy nhiên,
trong hoạt động điều hành chính sách tiền tệ của mình, không phải lúc nào NHTƯ cũng
đạt được tất cả các mục tiêu đặt ra; trong ngắn hạn, đôi khi NHTƯ phải tạm thời từ bỏ
mục tiêu giảm lạm phát để tập trung khắc phục tình trạng thất nghiệp cao đột ngột
III. Các công cụ của chính sách tiền tệ
1. Các loại chính sách tiền tệ:
Các chính sách tiền tệ của một quốc gia có thể tóm gọn lại thành 2 loại chính sách
định lượng như sau:
1.1. Chính sách mở rộng tiền tệ:
Chính sách mở rộng tiền tệ là chính sách nhằm cung cấp thêm số tiền cho nền kinh
tế nhằm khuyến khích đầu tư, mở rộng sản xuất, tạo công ăn việc làm.
1.2. Chính sách thu hẹp tiền tệ:
Chính sách thu hẹp tiền hay còn gọi là chính sách thắt chặt tiền tệ là chính nhằm làm
giảm khối lượng cung ứng tín dụng sẵn có cho đầu tư, nhằm hạn chế đầu tư, ngăn chặn sự
phát triển quá đà của nền kinh tế, ngăn chặn lạm phát có thể xảy ra trong tương lai.
Để thực hiện các chính sách tiền tệ trên, NHTƯ có thể sử dụng nhiều loại công cụ
khác nhau, tuỳ theo điều kiện thực tế cụ thể và nhận thức cụ thể của các nhà lãnh đạo
NHTƯ quốc gia đó về tính năng và tác dụng của nó đói với nền kinh tế.
2. Các công cụ của chính sách tiền tệ:
2.1. Các công cụ gián tiếp bao gồm:
2.2.1. Nghiệp vụ thị trường mở

9
CH sè 11 - B1 - §H KTQD Chuyªn Photocopy - §¸nh m¸y - In LuËn v¨n, TiÓu luËn

: 6.280.688

Đây là biện pháp mà NHTƯ tuỳ theo mục tiêu của chính sách tiền tệ của mình, có
thể mua hoặc bán các giấy tờ có giá mà chủ yếu là tín phiếu kho bạc Nhà nước trên thị
trường mở để làm thay đổi lượng tiền cung ứng trong lưu thông.
- Muốn tăng tiền trong lưu thông thì NHTƯ mua một lượng chứng khoán nhất
định. Nếu là chứng khoán do các NHTM bán cho NHTƯ thì sẽ làm cho dự trữ của
NHTM thừa ra do NHTM nhận được tiền của NHTƯ về việc mua chứng khoán. Nếu
NHTƯ mua chứng khoán từ công chúng bán thì công chúng sẽ chuyển tiền nhận được từ
bán chứng khoán đó vào tài khoản tiền gửi của họ tại NHTM.
- Muốn giảm lượng tiền trong lưu thông thì NHTƯ ra một lượng chứng khoán nhất
định. Nếu các NHTM mua chứng khoán sẽ làm giảm bớt dự trữ của mình, còn nếu như
công chúng mua chứng khoán thì chuyển tiền từ tài khoản tiền gửi của mình ở NHTM
cho NHTƯ cho nên cũng làm giảm dự trữ của NHTM.
- Ưu điểm của biện pháp thị trường mở
+ NHTƯ hoàn toàn kiểm soát được thị trường mở.
+ NHTƯ có thể can thiệp được một số lượng tiền cung ứng lớn hay nhỏ.
+ NHTƯ thực hiện nhanh chóng, hiệu quả, dễ dàng, chi phí thấp.
+ NHTƯ có thể đảo ngược tình thế một cách dễ dàng, nghĩa là: nếu họ cảm thấy
mua vào nhiều quá làm số tiền cung ứng tăng quá nhiều thì họ có thể bán ra để làm giảm
số tiền cung ứng.
- Nhược điểm của biện pháp tham gia thị trường mở của NHTƯ là chỉ có thể áp
dụng trong điều kiện mà hầu hết tiền trong lưu thông điều nằm ở tài khoản tại Ngân hàng.
Như ở các nước phát triển hiện nay 60 - 80% tiền trong lưu thông là ở tại các tài khoản
Ngân hàng nên việc thực hiện các biện pháp này rất hữu hiệu.
2.2.2. Chính sách chiết khấu
Chính sách chiết khấu là công cụ của NHTƯ trong việc thực thi chính sách tiền tệ
bằng cách cho vay tái cấp vốn cho các NHTM. Khi NHTƯ cho các NHTM vay làm tăng
thêm tiền dự trữ của các Ngân hàng, từ đó làm tăng thêm lượng tiền cung ứng. NHTƯ
kiểm soát công cụ này bằng cách tác động đến lãi suất chiết khấu và hạn mức chiết khấu.
2.2.2.1. Lãi suất chiết khấu
Lãi suất chiết khấu là lãi suất các khoản vay mà NHTƯ cho NHTM vay. Đây là

các khoản vay ứng trước không có tài sản bảo đảm.

10
CH sè 11 - B1 - §H KTQD Chuyªn Photocopy - §¸nh m¸y - In LuËn v¨n, TiÓu luËn

: 6.280.688
Như vậy, NHTƯ sẽ thay đổi lãi suất chiết khấu để làm cho các NHTM quyết định
đi vay hoặc trả lại các món vay chiết khấu từ NHTƯ. Khi NHTƯ hạ lãi suất chiết khấu thì
sẽ mở rộng khoảng cách giữa lãi suất thị trường và lãi suất chiết khấu nên khuyến khích
các NHTM vay nhiều hơn ở NHTƯ làm lượng tiền cung ứng tăng lên. Ngược lại, khi
NHTƯ tăng lãi suất chiết khấu thì sẽ thu hẹp khoảng cách giữa lãi suất thị trường và lãi
suất chiết khấu nên hạn chế các NHTM đi vay ở NHTƯ làm lượng tiền cung ứng giảm.
Hạn chế đối với nghiệp vụ vay chiết khấu là NHTƯ không kiểm soát được hoàn
toàn khối lượng vay chiết khấu mà NHTM sẽ vay NHTƯ. Bởi vì, NHTƯ chỉ có thể thay
đổi lãi suất chiết khấu nhưng không thể bắt buộc các NHTM phải vay chiết khấu ở NHTƯ.
2.2.2.2. Hạn mức chiết khấu
Hạn mức chiết khấu là số dư nợ tối đa mà NHTƯ sẽ cho các NHTM vay. Bởi vì,
mục tiêu quan trọng nhất của NHTƯ khi cho các NHTM vay là: NHTƯ là người cho vay
cuối cùng. Do vậy, NHTƯ không muốn cho các NHTM tích cực đi vay để thu lợi nhuận
nhờ khoảng cách chênh lệch giữa lãi suất thị trường và lãi suất chiết khấu. Vì thế, NHTƯ
chỉ cho các NHTM vay trong một hạn mức nào đó, nếu đã sử dụng hết hạn mức cho vay
thì NHTƯ sẽ từ chối cho vay chiết khấu tiếp.
2.2.3. Quy định tỷ lệ dự trữ bắt buộc
Tỷ lệ dự trữ bắt buộc là số tiền mà NHTM bắt buộc phải dự trữ để phòng trừ
trường hợp khách hàng đến rút tiền thì Ngân hàng có khả năng thanh toán, tránh lâm vào
tình trạng mất khả năng thanh toán cho khách hàng dẫn đến hoảng loạn Ngân hàng.
Tỷ lệ dự trữ bắt buộc là tỷ lệ phần trăm trên tiền gửi của NHTM nhận được để
NHTM biết được số tiền mà họ có thể cho vay và số tiền mà họ có thể gửi vào tài khoản
dự trữ hoặc tiền mặt mà gửi lạ tại két theo quy định.
Tiền dự trữ

bắt buộc
phải có
=
Tỉ lệ dự
trữ bắt
buộc
x
Tiền gửi
nhận được
Với quy định như thế, trước hết NHTƯ có thể nắm được số lượng tín dụng mà
Ngân hàng đó đã cung cấp cho nền kinh tế. Hơn nữa, với quy định như trên thì hệ thống
NHTM có thể mở rộng tín dụng ra nhiều lần theo công thức:
Tiền gửi mới được tạo ra = Tiền dự trữ ban đầu x 1 / tỷ lệ dự trữ bắt buộc
Trong đó: 1 / tỷ lệ dự trữ bắt buộc là hệ số nhân tiền, với hai giả thiết:

11
CH sè 11 - B1 - §H KTQD Chuyªn Photocopy - §¸nh m¸y - In LuËn v¨n, TiÓu luËn

: 6.280.688
- Các NHTM cho vay hết số tiền có thể cho vay, tức là dự trữ vượt mức bằng không.
- Các khoản tiền gửi do các NHTM tạo ra đều được giữ lại trong hệ thống Ngân hàng.
Nếu với tỷ lệ dự trữ pháp định là 10% thì lượng tiền gửi sẽ tăng lên 10 lần và số tín
dụng có khả năng phát ra do hệ thống NHTM đó là 9 lần số tiền gửi nhận được đầu tiên.
Để khống chế hoặc mở rộng tín dụng cho nền kinh tế theo ý muốn, NHTƯ cần quy
định tăng hoặc giảm tỷ lệ dự trữ bắt buộc. Khi tỷ lệ dự trữ pháp định tăng lên thì khả năng
tín dụng giảm và ngược lại. Tuy nhiên, việc thay đổi tỷ lệ dự trữ bắt buộc có thể gây nên
lộn xộn không thể kiểm soát được của hệ thống NHTM như: NHTƯ muốn nhanh chóng
giảm lượng tiền cung ứng nên đã nâng tỷ lệ dự trữ bắt buộc từ 5% lên 10% làm cho các
NHTM nhận thấy rằng họ không có đủ dự trữ để đáp ứng yêu cầu của NHTƯ đề ra và
không có đủ dự trữ để đáp ứng các hoạt động hàng ngày của họ. Vì thế lúc này NHTM sẽ

tìm cách bán chứng khoán, thu hồi các món vay, vay từ các Ngân hàng khác… Nếu chỉ
một Ngân hàng làm như vậy thì không sao nhưng nhiều Ngân hàng đều làm như vậy thì
hệ thống Ngân hàng sẽ xảy ra tình trạng tranh giành tính thanh khoản, gây nên lộn xộn
trong hệ thống Ngân hàng và có thể gây ra hoảng loạn Ngân hàng.
Vì vậy, công cụ này không được khuyến khích sử dụng thường xuyên, nếu có sử
dụng thì thay đổi với tỷ lệ nhỏ.
2.2. Các công cụ trực tiếp:
Đây là loại công cụ được NHTƯ sử dụng trực tiếp để tác động vào khối lượng cung,
cầu tiền tệ của nền kinh tế mà không cần thông qua loại công cụ nào khác, nó bao gồm:
2.2.1. Ấn định lãi suất:
* NHTƯ ấn đinh trực tiếp mức lãi suất cho vay để các NHTM áp dụng với các đối
tượng cho vay. Nếu muốn tăng khối lượng cho vay thì NHTƯ giảm mức lãi suất cho vay
để kích thích các nhà đầu tư vay vốn, và nếu thấy cần hạn chế đầu tư thì NHTƯ ấn định
mức lãi suất cao.
- Ưu điểm của biện pháp này là NHTƯ có thể tác động trực tiếp vào các dự án kinh
tế nào có lợi nhuận cao nhất mới được vay vốn Ngân hàng và như vậy cũng có nghĩa là
loại bỏ các dự án kinh tế có lợi nhuận thấp mà theo chuyên gia Ngân hàng thì đầu tư vào
các dự án đó không có lợi.
Để có thể thực hiện được các biện pháp này có hiệu quả đòi hỏi Ngân hàng phải nắm
được trong tay các dự án đầu tư từ trước để ấn định được khối lượng tín dụng phù hợp.
- Nhược điểm của biện pháp này là:

12
CH sè 11 - B1 - §H KTQD Chuyªn Photocopy - §¸nh m¸y - In LuËn v¨n, TiÓu luËn

: 6.280.688
+ Nhược điểm thứ nhất của nó là nếu lãi suất Ngân hàng được ấn định không sát
đúng với nền kinh tế thì có thể xảy ra 2 hiện tượng sau:
Lãi suất Ngân hàng quá thấp sẽ làm cho cầu tiền tệ tăng nhanh hơn dự đoán và
Ngân hàng sẽ lúng túng khi đáp ứng.

Khi lãi suất Ngân hàng quá cao sẽ làm cho cầu tiền tệ giảm đi, đầu tư suy giảm mà
nếu Ngân hàng không điều chỉnh kịp sẽ làm bỏ lỡ cơ hội đầu tư.
+ Nhược điểm thứ hai là tính linh hoạt của thị trường tiền tệ sẽ bị suy giảm, các
NHTM sẽ gặp khó khăn khi vốn huy động nhiều nhưng không cho vay được.
* NHTƯ cũng có thể áp dụng lãi suất tiền gửi quy định cho các NHTM và các định
chế tài chính phải thực hiện. Biện pháp này cũng có ưu nhược điểm sau:
- Ưu điểm: là ngay lập tực hệ thống Ngân hàng trong một thời hạn ngắn có thể huy
động được một lượng tiền gửi lớn nếu lãi suất tiền gửi cao hơn lợi nhuận kinh doanh,
hoặc hạn chế việc gửi tiền bằng cách quy định lãi suất thấp, buộc người có tiền phải sử
dụng các hình thức sinh lợi khác như mua bất động sản, trái phiếu, cổ phiếu
- Nhược điểm: Các NHTM cũng không còn linh hoạt trong kinh doanh của mình
mà phải tuân theo các quy định của NHTƯ. Hơn nữa nếu lãi suất ấn định không phù hợp
với thực tế thì có thể xảy ra hậu quả là, hoặc người có tiền tìm cách chuyển tiền đến Ngân
hàng để hưởng lợi tức. Vì vậy, đầu tư sẽ suy giảm khi gửi tiền ổn định và ít rủi ro, hoặc
người có tiền sẽ không gửi tiền ở Ngân hàng nữa mà đầu tư vào động sản, dự trữ vàng
nếu vàng có khuynh hướng tăng giá
* Chúng ta có thể thấy rằng ấn định lãi suất cho cả 2 trường hợp như trên là rất khó
chính xác và khó có thể bám sát được diễn biến hàng ngày, hàng giờ của thị trường tiền
tệ. Để khắc phục tình trạng này, nếu NHTƯ muốn bảo vệ quyền lợi của các Ngân hàng,
NHTƯ ấn định mức lãi suất cao nhất của lãi suất tiền cho vay, còn sự biến động dưới mực
cao nhất đó do NHTM tự thích ứng với thị trường. Nếu nhằm bảo vệ quyền lợi cho khách
hàng của NHTM, thì NHTƯ thường quy định mức lãi suất tối thiểu cho tiền gửi và mức
tối đa cho tiền vay. NHTƯ muốn kiểm soát được lãi suất, bởi vì lãi suất có tác động mạnh
đến tiết kiệm và đầu tư, qua đó tác động vào tăng trưởng kinh tế và giá cả.
.Lãi suất là nhân tố trung tâm của nền kinh tế, nó biểu hiện sự tác động của cung -
cầu tiền tệ và quyết định khối lượng đầu tư của nền kinh tế, tức là quyết định đến sản
lượng, công ăn việc làm, giá cả và lạm phát.

13
CH sè 11 - B1 - §H KTQD Chuyªn Photocopy - §¸nh m¸y - In LuËn v¨n, TiÓu luËn


: 6.280.688
Sự nhạy cảm của lãi suất đối với đầu tư là rất lớn, vì vậy mà ít có Nhà nước nào
quy định trực tiếp lãi suất Ngân hàng.
2.2.2. Ấn định hạn mức tín dụng:
Đây là biện pháp mà NHTƯ ấn định một khối lượng tín dụng phải cung cấp cho nền
kinh tế trong một thời gian nhất định rồi sau đó tìm con đường để đưa nó vào nền kinh tế.
Hạn mức tín dụng được xác định trên cơ sở chỉ tiêu tăng trưởng kinh tế và chỉ tiêu
lạm phát dự kiến hàng năm, ngoài ra còn dựa vào một số tín hiệu thị trường khác như: tỷ
lệ thất nghiệp, tỷ giá, thâm hụt ngân sách nhà nước, tốc độ lưu thông tiền tệ Trên cơ sở
đó hạn mức tín dụng dược phân bổ cho các NHTM, cho từng thời kì phù hợp với mục tiêu
chính sách tiền tệ.
Để kiểm soát mức tăng trưởng quá nóng của tín dụng trong nền kinh tế, NHTƯ
quy định hạn mức tín dụng tối đa cho từng NHTM.Trong phần lớn các trường hợp, những
hạn mức riêng này được xác địn căn cứ vào tỷ trọng cho vay của nó trong quá khứ so với
tổng mức cho vay của hệ thống Ngân hàng. NHTM chỉ được cấp tối đa cho nền kinh tế
bằng hạn mức tín dụng được quy định.
Hiện nay một số nhà nghiên cứu của Việt Nam đang cho đây là biện pháp hay vì
nó là một kế hoạch chắc chắn khối lượng tiền tệ trong lưu thông. Nhưng đối với nền kinh
tế hàng hoá, thì xác định một khối lượng tín dụng một cách chắc chắn như vậy là một
điều khó thực hiện được. Mà có chăng, đó chỉ là dự đoán có thể xảy ra trong tương lai để
chuẩn bị các điều kiện cần thiết thực hiện nó, nhưng lại dựa trên yêu cầu là để cho quy
luật cung cầu được tự do hoạt động chứ không bắt ép nền kinh tế phải nhận một khối
lượng tín dụng đã định sãn.
Hơn nữa việc ấn định hạn mực tín dụng trực tiếp như vậy chỉ có thể thực hiện được
trong nền kinh tế chỉ có hệ thống Ngân hàng quốc doanh, có nghĩa là Ngân hàng phải thực
hiện các chỉ tiêu tín dụng theo hạn mực mà NHTƯ đã cấp. Nhưng trong nền kinh tế thị
trường việc vay vốn và cho vay vốn luôn luôn bị quy luật cung cầu chi phối cho nên biện
pháp này không còn tác dụng như trong nền kinh tế theo cơ chế kế hoạch hoá tập trung.
IV. Vai trò và nội dung của chính sách tiền tệ trong nền kinh tế mở

1. Thế nào là một nền kinh tế mở

14
CH sè 11 - B1 - §H KTQD Chuyªn Photocopy - §¸nh m¸y - In LuËn v¨n, TiÓu luËn

: 6.280.688
Nền kinh tế mở là nền kinh tế có trao đổi thương mại và chu chuyển vốn giữa nước
này với nước khác. Mức độ mở cửa của một nền kinh tế có thể biểu hiện bởi chỉ số tổng
giao dịch ngoại hối hoặc tỷ lệ giữa tổng kim ngạch xuất khẩu hàng hoá với GDP.
Nền kinh tế mở kết nối với thị trường thế giới theo hai cách: Thị trường hàng hoá
và thị trường tài chính thế giới biểu hiện cụ thể là xuất khẩu ròng (NX, phần chênh lệch
giữa giá trị xuất khẩu và giá trị nhập khẩu) và đầu tư nước ngoài ròng (NFI, phần chênh
lệch giữa lượng tài sản nước ngoài do dân cư trong nước mua và lượng tài sản trong nước
do người nước ngoài mua).
2. Ảnh hưởng của toàn cầu hoá đến cơ chế tác động của chính sách tiền tệ
Điều hành chính sách tiền tệ đó là quá trình kiểm soát cung tiền, tín dụng của
NHTƯ bằng tổng thể các biện pháp nhằm đạt được mục tiêu cuối cùng là ổn định hệ
thống tiền tệ, ổn định giá cả ở mức hợp lý, qua đó góp phần tăng trưởng kinh tế bề vững.
Chính vì vậy mà hội nhập kinh tế thế giới mang lại không ít những cơ hội và thách thức
cho điều hành, thực thi chính sách tiền tệ của NHTƯ. Cụ thể :
- Cơ hội
Đối với NHTƯ, hội nhập quốc tế tạo cơ hội để nâng cao hơn nữa năng lực và hiệu quả
điều hành tiền tệ: đổi mới cơ chế kiểm soát tiền tệ, lãi suất, tỷ giá dựa trên cơ sở thị trường.
Bên cạnh đó, hội nhập kinh tế quốc tế có thể thúc đẩy tăng trưởng kinh tế thông
qua các cam kết xây dựng và triển khai chính sách ổn định hơn của chính phủ, phối hợp
và điều hành chính sách kinh tế vĩ mô phù hợp hơn với thông lệ quốc tế. Hội nhập kinh tế
trong hoạt động Ngân hàng sẽ mở ra các cơ hội tăng cường phối hợp giữa NHTƯ trong
nước và ngoài nước, các tổ chức tài chính quốc tế về chính sách, chia sẻ thông tin và
phương pháp hành động trong ngăn chặn và xử lý rủi ro, qua đó sẽ có tác dụng góp phần
bảo đảm an toàn trong hệ thống Ngân hàng và hạn chế sự biến động của thị trường.

Hội nhập quốc tế sẽ buộc các Ngân hàng phải hoạt động theo nguyên tắc thị trường
và minh bạch hơn. Nâng cao tính cạnh tranh và kỷ luật thị trường trong hoạt động Ngân
hàng sẽ khuyến khích tạo ra những Ngân hàng có quy mô lớn về tài chính kinh doanh có
hiệu quả hơn, các Ngân hàng yếu kém sẽ bị đào thải hoặc phải vươn lên nếu muốn tồn tại.
Do vậy, khả năng cạnh tranh của các Ngân hàng sẽ được nâng cao. Đây là động lực chính
thúc đẩy cải cách của mỗi Ngân hàng và toàn bộ hệ thống Ngân hàng.
Hội nhập quốc tế thúc đẩy cải cách thể chế, hoàn thiện hệ thống pháp luật và năng
lực hoạt động của các cơ quan tài chính. NHTƯ cũng phải tính đến việc cải cách căn bản

15
CH sè 11 - B1 - §H KTQD Chuyªn Photocopy - §¸nh m¸y - In LuËn v¨n, TiÓu luËn

: 6.280.688
năng lực hoạt động, xây dựng và thực thi chính sách, hoàn thiện khuôn khổ pháp lý phù
hợp với thông lệ quốc tế. Hội nhập quốc tế đòi hỏi phải loại bỏ các biện pháp bảo hộ, bao
cấp vốn, tài chính đối với các NHTMNN.
- Thách thức trong điều hành tài chính tiền tệ
Kinh nghiệm quốc tế cho thấy về dài hạn, hội nhập quốc tế cũng đặt ra những
thách thức nhất định trong điều hành chính sách tiền tệ:
Những diễn biến trên thị trường hàng hoá và tài chính toàn cầu sẽ có ảnh hưởng
nhiều hơn tới quá trình hoạch định chính sách của NHTƯ, như mức chênh lệch giữa lãi
suất trong nước và lãi suất nước ngoài sẽ là một nhân tố quan trọng cần xem xét tới khi
điều hành các công cụ chính sách tiền tệ.
NHTƯ sẽ phải chú trọng nhiều hơn tới công tác nghiên cứu dự báo, xác định
những biến động trên thị trường quốc tế có khả năng ảnh hưởng hay lây lan tới thị trường
tài chính trong nước và đưa ra quyết định kịp thời về các phản hồi chính sách cần thiết để
giảm thiểu những tác động bất lợi đối với nền kinh tế nói chung và hệ thống tài chính
trong nước nói riêng.
Việc mở cửa thị trường tài chính nội địa sẽ làm tăng tủi ro thị trường do các tác
động từ bên ngoài, hạn chế khả năng tận dụng năng lực tỷ giá, lãi suất giữa thị trường

trong nước và quốc tế. Hệ thống Ngân hàng trong nước cũng phải đối mặt lớn hơn với rủi
ro khủng hoảng, các cú sốc kinh tế tài chính, khu vực, sự lây truyền của khủng hoảng.
3. Sự cần thiết phải thay đổi chính sách tiền tệ trong nền kinh tế mở ở Việt Nam.
Qua các phân tích trên, chúng ta thấy những thuận lợi và các thách thức của toàn
cầu hóa kinh tế đối với Việt Nam trong quá trình phát triển, toàn cầu hoá kinh tế ảnh
hưởng lớn đến tác động của các chính sách kinh tế vĩ mô, đặc biệt đối với chính sách
thương mại và chính sách tiền tệ. Hội nhập quốc tế thúc đẩy cải cách thể chế, hoàn thiện
hệ thống pháp luật và năng lực hoạt động của các cơ quan quản lý tài chính. Cơ quan
quản lý hoạt động Ngân hàng - NHNN và Bộ Tài chính cũng phải tính đến việc cải cách
căn bản năng lực hoạt động, xây dựng và thực thi chính sách, hoàn thiện khuôn khổ pháp
lý phù hợp với thông lệ quốc tế. Hội nhập quốc tế đòi hỏi phải loại bỏ các biện pháp bảo
hộ, bao cấp vốn, tài chính đối với các NHTMNN, điều này tạo ra cho lãnh đạo các
NHTMNN có thêm động lực để tự cải cách, tăng cường năng lực cạnh tranh bằng chính
mình, hạn chế trông chờ, ỷ lại vào Nhà nước. Tất cả các biện pháp cải cách vĩ mô và vi

16
CH sè 11 - B1 - §H KTQD Chuyªn Photocopy - §¸nh m¸y - In LuËn v¨n, TiÓu luËn

: 6.280.688
mô nhằm tạo lập môi trường hoạt động Ngân hàng an toàn, hiệu quả, hệ thống tiền tệ
Ngân hàng có khả năng thích ứng cao đối với môi trường toàn cầu.
Luồng vốn tự do luân chuyển, sự tiếp xúc với thị trường vốn quốc tế trong toàn cầu
hoá kinh tế mang lại cho quốc gia cả lợi ích và rủi ro. Toàn cầu hoá tài chính mang lại lợi
ích lớn cho các nước lớn có thu nhập trung bình trong những năm gần đây, nhưng nó cũng
gắn liền với khủng hoảng tài chính với các phí tổn to lớn. Tuy nhiên, thực tế cho thấy rằng
trong dài hạn tính rủi ro này sẽ được giảm xuống do việc đa dạng hoá danh mục tài sản, và
sự phát triển lành mạnh hơn ở khu vực tài chính. Các nước cần có các thể chế chính sách tốt
hơn để có thể tránh né rủi ro và thu được lợi ích từ sự hội nhập tài chính. Nếu không có một
hệ thống tài chính trong nước vững mạnh thì sự hội nhập vào thị trường vốn quốc tế có thể
dẫn tới thảm hoạ như đã từng xảy ra với Thái Lan, Indonêxia và Hàn Quốc vào năm 1997.

Điều này đòi hỏi NHTƯ phải đẩy mạnh việc đổi mới ,nâng cao hiệu quả điều hành chính
sách tiền tệ, xác định rõ các mục tiêu điều hành chính sách tiền tệ và cơ chế truyền tải tác
động của chính sách tiền tệ đến mục tiêu chính sách tiền tệ.
Việt Nam vừa mới gia nhập WTO, thị trường tài chính - tiền tệ chắc chắn sẽ có
nhiều thay đổi lớn. Do vậy, để tránh tình trạng lúng túng, bị động, ngay từ bây giờ, chúng
ta phải tiến hành nghiên cứu đưa ra các dự báo để có cơ sở tổ chức hoạt động và quản lý
thị trường này có hiệu quả. Do vậy, đối với các Ngân hàng trong nước, việc chiếm lĩnh và
duy trì thị phần, thoả mãn nhu cầu của khách hàng sẽ trở nên khó khăn hơn nếu không có
những đổi mới và thích ứng cần thiết. Xác lập một khuôn khổ chính sách tiền tệ hoàn
chỉnh, lành mạnh với các nhóm mục tiêu hoạt động, mục tiêu trung gian, mục tiêu cuối
cùng của chính sách tiền tệ và một cơ chế chuyển tải tác động chính sách tiền tệ hiệu quả,
hoạt động ổn định trên nền tảng dữ liệu kinh tế vĩ mô đầy đủ, có cùng chất lượng là nhiệm
vụ quan trọng hiện nay nhằm nâng cao hiệu lực điều hành chính sách tiền tệ, từng bước
đưa NHNNVN trở thành một NHTƯ hiện đại trong khu vực và thế giới.

17
CH sè 11 - B1 - §H KTQD Chuyªn Photocopy - §¸nh m¸y - In LuËn v¨n, TiÓu luËn

: 6.280.688
Chương II: THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP CHÍNH SÁCH TIỀN
TỆ Ở VIỆT NAM
I. Thực trạng chính sách tiền tệ ở Việt Nam
1. Nước ta tiến hành mở cửa với điểm xuất phát thấp
Năm nội dung cơ bản của đối mới kinh tế của Việt Nam: Chuyển từ nền kinh tế kế
hoạch hoá tập trung sang nền kinh tế thị trường định hướng XHCN; Từng bước hình
thành thể chế kinh tế thị trường định hướng XHCN; Chuyển một nền kinh tế khép
kín, nhập khẩu là chủ yếu sang nền kinh tế mở, chủ động hội nhập, hướng mạnh về xuất
khẩu đồng thời thay thế nhập khẩu những sản phẩm mà Việt Nam có lợi thế và có hiệu
quả; Tăng trưởng kinh tế đi đôi với tiến bộ và công bằng xã hội vì mục tiêu phát triển con
người; Từng bước đổi mới hệ thống chính trị.

UNDP coi Việt Nam là một trong những ví dụ thành công nhất về chuyển đổi kinh
tế trong lịch sử đượng đại, đổi mới làm thay đổi gần như tất cả mọi mặt của cuộc sống
kinh tế. Đã có nhiều thay đổi quan trọng trong sản xuất, tiêu dùng, tiết kiệm, đầu tư, chính
sách tiền tệ và ngoại thương. Chính sách đổi mới mở ra nhiều phương thức tổ chức và
quản lý kinh tế mới mẻ, góp phần cải thiện đời sống con người Việt Nam. Tuy nhiên, khi
nói về con đường tương lai của Việt Nam và làm thế nào để duy trì đà thành công của
mình thì vẫn còn rất nhiều thách thức, bởi vì điểm xuất phát của Việt Nam thấp, trình độ
tổ chức quản lý còn nhiều hạn chế so với các nước trong khu vực và trên thế giới; Các nền
kinh tế trong khu vực cải cách nhanh hơn như Xin-ga-po, Ma-lai-xi-a, Hồng Kông…
Chính vì vậy muốn cạnh tranh thành công trong tương lai, Việt Nam không chỉ chạy mà
phải chạy nhanh hơn các đối thủ, tức là phải mở cửa, cải thiện môi trường đầu tư và kinh
doanh hơn nữa…
Có thể nhận thấy các Ngân hàng Việt Nam đang phải đứng trước cuộc đua không
cân sức đối với các Ngân hàng nước ngoài trong một tương lai gần.
Ðặc điểm quan trọng của NHTMVN là quy mô tài sản tự có rất nhỏ. Các
NHTMNN dù được giao vai trò chủ đạo, chiếm tới 73-75% thị phần nguồn vốn và tín
dụng nhưng tổng nguồn vốn điều lệ của các Ngân hàng hiện nay cũng chưa vượt quá 800
triệu USD, chưa bằng vốn của một Ngân hàng cỡ vừa trên thế giới. Các NHTM cổ phần
còn "bi đát" hơn với số tài sản manh mún, yếu ớt, bình quân chưa đến 10 triệu USD/Ngân
hàng. Theo thông lệ quốc tế, tỷ lệ an toàn của một Ngân hàng phải đạt 8% (tài sản tự

18
CH sè 11 - B1 - §H KTQD Chuyªn Photocopy - §¸nh m¸y - In LuËn v¨n, TiÓu luËn

: 6.280.688
có/tổng tài sản có của Ngân hàng). Nhưng với thực trạng trên, tỷ lệ an toàn của các Ngân
hàng mới chỉ đạt mức dưới 5%.
Đánh giá mức độ hội nhập quốc tế của thị trường tiền tệ Việt Nam:
Xét trên những thoả thuận và nguyên tắc đạt được trong khuôn khổ của GATS,
hiện trạng về mở cửa thị trường tiền tệ của Việt Nam đã đáp ứng được yêu cầu hội nhập

quốc tế ở một số mặt. Đó là, thị trờng tiền tệ của Việt Nam đã có sự tham gia rộng rãi của
các chi nhánh Ngân hàng nước ngoài, Ngân hàng liên doanh. Tính đến năm 2002, đã có 6
NHTMNN (kể cả Ngân hàng phục vụ người nghèo và Ngân hàng Phát triển nhà đồng
bằng Sông Cửu Long), 47 NHTM cổ phần, 8 công ty cho thuê tài chính và 959 quỹ tín
dụng nhân dân với mạng lới rộng khắp trong cả nước. Ngoài ra, Việt Nam đã có 31 chi
nhánh của 26 Ngân hàng nước ngoài và 4 Ngân hàng liên doanh. Nhiều chi nhánh của
các Ngân hàng nổi tiếng như ANZ - Australia New Zeland Bank (úc), Citi Bank (Hoa
Kỳ), Standard Charter Bank (Anh), ABN-Amro (Hà lan) đã có mặt tại Việt Nam. Với
mức độ tham gia như vậy, thị trường tiền tệ của Việt Nam có vẻ là thông thoáng không
kém gì các quốc gia khác trong khu vực, nơi đã có cơ sở hạ tầng kinh tế phát triển hơn
nước ta nhiều lần. Sự có mặt của các Ngân hàng nước ngoài đã góp phần làm phong phú
thêm và sôi động hơn thị trường tiền tệ, tạo nên môi trường cạnh tranh mới, phá dần thế
độc quyền trên thị trường tiền tệ ở Việt Nam; thông qua đó quốc tế hoá hoạt động của hệ
thống Ngân hàng Việt Nam.
Như vậy có thể nói, hiện nay, hội nhập kinh tế quốc tế mang lại nhiều cơ hội và
thuận lợi, nhưng cũng sẽ nảy sinh không ít thách thức cho điều hành chính sách tiền tệ và
quản lý hoạt động Ngân hàng. Vì vậy, đòi hỏi NHNN phải nỗ lực cải cách với những
bước đi và giải pháp thích hợp.
2. Tình hình sử dụng các công cụ để điều hành chính sách tiền tệ ở Việt Nam
trong thời gian qua, thành tựu và hạn chế
2.1 Lãi suất:
Lãi suất là một yếu tố rất nhạy cảm đối với nền kinh tế của các nước. ở Việt Nam
NHTƯ đã rất linh hoạt trong việc sử dụng công cụ lãi suất nhắm tác động tích cực đến
nền kinh tế trong quá trình chuyển đổi, có thể thấy rõ tính linh hoạt của chính sách lãi suất
qua các thời điểm:
- Trước ngày 1/6/2002 NHNNVN thực hiện cơ chế điều hành lãi suất cơ bản Đồng
Việt Nam, mức lãi suất cơ bản đựơc công bố trong các tháng đầu năm 2002 là

19
CH sè 11 - B1 - §H KTQD Chuyªn Photocopy - §¸nh m¸y - In LuËn v¨n, TiÓu luËn


: 6.280.688
0,6%/Tháng. NHNN cũng đã rất mạnh dạn thực hiện chính sách tự do hoá lãi suất đối với
ngoại tệ từ tháng 6/2001. Chính sách lãi suất như vậy là phù hợp với thực tiễn của Việt
Nam trong quá trình chuyển sang nền kinh tế thị trường và bám sát với diễn biến của thị
trường tiền tệ quốc tế.
- Từ ngày 1/6/2002 NHNN quyết định chuyển sang cơ chế lãi suất thoả thuận Đồng
Việt Nam của các tổ chức tín dụng (TCTD) đối với khách hàng. Đây là một sự “cởi trói”
cho các TCTD trong hoạt động kinh doanh, tạo điều kiện cho các TCTD chủ động trong
hoạt động huy động vốn và cho vay đối với khách hàng. Cơ chế mới đã tạo ra sự sôi động
trong hoạt động kinh doanh và cạnh tranh của các TCTD. Nếu như với cơ chế lãi suất cơ
bản, trong các tháng đầu năm của năm 2002 lãi suất huy động vốn dừng lại ở mức
0,6%/tháng, lãi suất cho vay bình quân là 0,7%/Tháng, thì từ khi áp dụng cơ chế lại suất
thoả thuận từ tháng 6/2002 và nhất là trong các tháng 8 và 9/2002 lãi suất huy động vốn cao
nhất của các NHTM lên tới 0,7%, thậm chí 0,72%/Tháng - Mức lãi suất cao nhất trong
vòng gần 2 năm qua.
Không dừng lại ở đó, các tháng đầu năm 2003 do nhu cầu vay vốn trên thị trường
vẫn cao, các NHTM, các TCTD tiếp tục lao vào cuộc cạnh tranh huy động vốn qua các biện
pháp nâng lãi suất huy động; Thực hiện các hình thức khuyến mãi rầm rộ và hấp dẫn. Đã
xuất hiện diễn biến bất thường trên thị trường tiền tệ Việt Nam là lãi suất nội tệ tăng lên quá
cao, trong khi đó lãi suất ngoại tệ giảm xuống quá thấp. Thị trường tiền tệ VND nóng lên,
tuy vậy vẫn không tác động tích cực đến vấn đề tiết kiệm và đầu tư. Thực tế trên cho thấy
các NHTM và các TCTD đã vào cuộc rất nhanh với cơ chế mới, theo sát diễn biến của thị
trường, năng động trong kinh doanh để huy động vốn và đáp ứng nhu cầu của khách hàng,
nhưng với lãi suất quá nóng sẽ tiềm ẩn những rủi ro cho các TCTD và khách hàng. Đối với
các TCTD chi phí cao, lợi nhuận giảm thậm chí thua lỗ, đối với các doanh nghiệp chi phí
vốn cao, đẩy giá thành lên cao sẽ giảm khả năng cạnh tranh trên thị trường.
Để tăng cường vai trò chủ động của NHTW trong điều hành chính sách tiền tệ việc
tăng khả năng kiểm soát mặt bằng lãi suất là yếu tố quan trọng nhất ở Việt Nam trong thời
gian qua NHTW cũng đã cố gắng sử dụng công cụ lãi suất để điều hành chính sách tiền tệ

phù hợp với nền kinh tế đang trong quá trình chuyển đổi. Cho đến cuối năm 2002,
NHNNVN đã thiết kế đủ hệ thống lãi suất chủ đạo bao gồm: Cặp lãi suất tái suất vốn, lãi
sất cơ bản và hệ thống lãi suất của phương tiện thường xuyên gắn liền với hoạt động cho

20
CH sè 11 - B1 - §H KTQD Chuyªn Photocopy - §¸nh m¸y - In LuËn v¨n, TiÓu luËn

: 6.280.688
vay qua đêm ( Quyết định 1085/2002/QĐ-NHNN) và lãi suất cho số dư tiền gửi thường
xuyên của các TCTD tại NHNN ( Quyết định 1284/2002/QĐ-NHNN).
Trong thực tế, mặc dù NHNN công bố lãi suất cơ bản nhưng nó ít tác động đến lãi
suất thị trường bởi vì nhu cầu vay vốn là rất lớn khách hàng chấp nhận vay vốn với lãi
suất cao, các TCTD đua nhau tăng lãi suất huy động vốn để cho vay, các tổ chức tài chính
phi Ngân hàng cũng tham gia cạnh tranh tích cực trên thị trường vốn, lãi suất trái phiếu
kho bạc được đẩy lên cao, lãi suất trái phiếu địa phương tăng vọt… điều đó làm cho thị
trường tiền tệ nóng lên NHNNVN khó kiểm soát được lãi suất thị trường.
- Lãi suất tái cấp vốn và lãi suất tái chiết khấu: đây là cửa sổ chiết khấu rất quan
trọng để tăng hoặc giảm khả năng cho vay của các NHTM làm tăng hoặc giảm lượng tiền
cung ứng cho nền kinh tế. Trong thời gian vừa qua lãi suất tái cấp vốn và lãi suất tái chiết
khấu đã được NHNN áp dụng phù hợp với diễn biến trên thị trường tiền tệ, do tình hình
lãi suất trên thị trường tiền tệ quá nóng từ tháng 8/2003, NHNN đã quyết định giảm đáng
kể lãi suất tái cấp vốn từ 6,0%/năm xuống 5,0%/năm; Lãi suất tái chiết khấu từ 5,0%/năm
xuống 4,2%/năm ( quyết định 833/2003/QĐ-NHNN).
- Bám sát diễn biến thị trường tiền tệ, trong năm 2005 NHNN đã điều chỉnh tăng
một số loại lãi suất chủ đạo. Cụ thể lãi suất tái cấp vốn là 6,5%/năm, lãi suất chiết khấu là
4,5%/năm, lãi suất cơ bản của đồng Việt Nam là 8,25%/năm ; Lãi suất tiền gửi không kì
hạn tăng lên 0,5%/năm, tiền gửi có kì hạn đến 6 tháng là 1,2%/năm và lãi suất tiền gửi có
kì hạn trên 6 tháng là 5,1%/năm.
- Với phương châm điều hành chính sách tiền tệ thận trọng, linh hoạt, đồng thời
nhằm hạn chế sức ép tăng lãi suất, đặc biệt là lãi suất của đồng đôla Mỹ trên thị trường

quốc tế, từ đầu năm 2006 đến nay, NHNNVN tiếp tục giữ nguyên các mức lãi suất chủ đạo.
Nhờ vậy, tính đến cuối tháng 6/2006, mặt bằng lãi suất huy động và cho vay bằng VND của
các tổ chức tín dụng chỉ tăng nhẹ so với đầu năm (khoảng 0,12-0,24%/năm), trong đó lãi
suất cho vay tăng thấp hơn lãi suất huy động vốn. Lãi suất VND tiếp tục được duy trì ở
mức hợp lý, đảm bảo chênh lệch dương so với lạm phát khoảng 2%/năm; đồng thời, đảm
bảo cho người gửi tiền bằng VND được hưởng mức lãi suất cao hơn so với gửi tiền bằng
USD khoảng 4%/năm.
Một thực tế đáng quan tâm nữa là lãi suất huy động vốn của NHTM này tương
đương hoặc cao hơn lãi suất cho vay của NHTM khác. Bởi vậy nếu các NHTM cứ tăng lãi
suất trung và dài hạn lên, thì vốn từ Ngân hàng có lãi suất thấp hơn sẽ chạy sang Ngân hàng

21
CH sè 11 - B1 - §H KTQD Chuyªn Photocopy - §¸nh m¸y - In LuËn v¨n, TiÓu luËn

: 6.280.688
có lãi suất cao hơn và nếu phát hành trái phiếu Chính phủ và trái phiếu Đô thị với lãi suất
cao, thì chủ yếu hút vốn từ các NHTM đầu tư vào đó, ảnh hưởng đến việc cho vay vốn
trung và dài hạn của Ngân hàng cho khách hàng và các dự án. Thực trạng này cho thấy thị
trường liên Ngân hàng chưa phát triển, chưa có tác dụng điều hoà lãi suất trong nền kinh tế.
Từ đó đòi hỏi NHNN phải có các giải pháp để điều hành chính sách tiền tệ phù hợp.
2.2. Công cụ nghiệp vụ thị trường mở
Ngày 12/7/2000, NHNNVN chính thức đưa công cụ nghiệp vụ thị trường mở vào
hoạt động, đây là một sự chuyển biến quan trọng trong điều hành chính sách tiền tệ của
NHNN, từ sử dụng công cụ trực tiếp sang sử dụng các công cụ gián tiếp theo tín hiệu của
thị trường, phù hợp với thông lệ Quốc tế.
Từ tháng 5/2002 nghiệp vụ thị trường mở được đưa vào giao dịch hàng tuần, quy
mô và doanh số ngày càng tăng, lãi suất ngày càng linh hoạt. Trong các hình thức giao
dịch của nghiệp vụ thị trường mở thì việc NHNN mua các giấy tờ có giá là chủ
yếu( NHNN bơm tiền ra); chiếm tỷ lệ khoảng từ 71% lên trên 90%. Như vậy, đây chính là
một “kênh” quan trọng của NHNN nhằm mục tiêu điều tiết vốn khả dụng của các tổ chức

tín dụng và điều chỉnh lượng tiền cung ứng qua các kênh khác.
Trong năm 2003, số lượng thành viên tham gia nghiệp vụ thị trường mở chủ yếu là
bốn NHTM quốc doanh, còn các NHTM cổ phần, chi nhánh Ngân hàng nước ngoài tham
gia rất hạn chế do không có giấy tờ có giá ngắn hạn (từ tháng 8/2003 được sử dụng giấy
tờ có giá dài hạn).
Về thành viên tham gia thị trường mở năm 2004, có thêm sự tham gia của các
thành viên mới như NHTM cổ phần Kỹ Thương, NHTM cổ phần Á châu, Ngân hàng liên
doanh VID-public, chi nhánh Ngân hàng nước ngoài Citibank đã chứng tỏ các tổ chức tín
dụng có sự quan tâm hơn đối với nghiệp vụ thị trường mở song vẫn còn hạn chế.
Trong năm 2004 nghiệp vụ thị trường mở đã được tăng cường sử dụng như một
công cụ chủ yếu trong điều tiết tiền tệ theo mục tiêu chính sách tiền tệ của NHNN thông
qua việc bơm/hút vốn khả dụng của tổ chức tín dụng với thời hạn ngắn từ 7-60 ngày.
Doanh số giao dịch bình quân một phiên năm 2004 khoảng 504 tỷ đồng, bằng 223%
doanh số giao dịch bình quân một phiên năm 2003. Đồng thời, việc điều hành nghiệp vụ
thị trựờng mở đã có sự phối hợp nhất định với công cụ lãi suất nhằm điều tiết gián tiếp và
đảm bảo sự ổn định lãi suất thị trường. Vào dịp Tết cổ truyền, NHNN đã cung ứng
khoảng 11 nghìn tỷ VNĐ đáp ứng nhu cầu thiếu hụt vốn tạm thời của các NHTM nhằm

22
CH sè 11 - B1 - §H KTQD Chuyªn Photocopy - §¸nh m¸y - In LuËn v¨n, TiÓu luËn

: 6.280.688
giảm áp lực tăng lãi suất và triệt tiêu tác động của các kênh khác đến cung cầu vốn trên
thị trường tiền tệ.
Từ 15/12/2004, việc NHNN áp dụng công nghệ trang Web trong đặt thầu và đấu
thầu đã tạo thuận lợi cho các thành viên tham gia thị trường (giảm chi phí đầu tư ban đầu
do không phải cài đặt phần mềm). Như vậy, năm 2004 cùng với việc duy trì ổn định các
mức lãi suất do NHNN công bố như lãi suất tái cấp vốn, lãi suất chiết khấu, NHNN đã
sẵn sàng hỗ trợ thanh khoản với chi phí thấp qua các kênh nhất là nghiệp vụ thị trường
mở, đã góp phần duy trì ổn định lãi suất thị trường và thúc đẩy tăng trưởng kinh tế.

Trong thực tế, với sự cố gắng của NHNN mặc dù nghiệp vụ thị trường mở đã hoạt
động ổn định, và NHNN đã có những thành công bước đầu trong việc đưa một công cụ
mới vào điều hành chính sách tiền tệ, nhằn tác động tới vốn khả dụng của các TCTD,
nhưng với thực trạng quy mô thị trường nhỏ, nhiều phiên giao dịch của thị trường không
có thành viên nào đăng ký giao dịch, thị trường mở hầu như chỉ là sân riêng của các
NHTMQD lớn còn các NHTM cổ phần vốn ít, NH liên doanh, chi nhánh NH nước ngoài
ít vốn nội tệ hầu như đứng ngoài, điều này cho thấy việc vận hành nghiệp vụ thị trường
mở chưa thông suốt, lãi suất trên thị trường mở ít có tác động đến lãi suất trên thị trường.
Do đó cần phải có giải pháp điều chỉnh hoạt động thị trường mở, phát triển thị trường này
để trong thời gian tới nó sẽ thực sự trở thành công cụ điều hành chính sách tiền tệ.
2.3- Dự trữ bắt buộc
NHTW sử dụng công cụ dự trữ bắt buộc để tác động đến lượng tiền cung ứng ra
qua việc tác động đến cơ chế tạo tiền gửi của các NHTM và tác động đến lãi suất cho vay
của các TCTD. Trong năm 2002, tỷ lệ dự trữ bắt buộc đối với tiền gửi nội tệ là 2% đối với
NHNN&PTNTVN, 3% đối với các TCTD đô thị khác. Tỷ lệ dự trữ bắt buộc đối với tiền
gửi ngoại tệ là 8%, thực hiện từ tháng 4/2002 và giảm tiếp xuống 5% thực hiện từ tháng
12/2002. Tuy nhiên động thái này đã ít ảnh hưởng đến lãi suất thị trường.
Để thực hiện mục tiêu ổn định tiền tệ góp phần tăng trưởng kinh tế, từ tháng
7/2004, NHNN đã điều chỉnh tăng tỷ lệ dự trữ bắt buộc đối với các loại tiền gửi dưới 24
tháng bằng VND và ngoại tệ (Quyết định số 796/QĐ-NHNN ngày 25/6/2004). Cụ thể, đối
với tiền gửi VND không kỳ hạn và có kỳ hạn đến dưới 12 tháng tăng từ 2% lên 5%, riêng
NHNN&PTNTVN tăng từ 1,5% lên 4%, NHTMCP nông thôn và Quỹ tín dụng nhân dân
Trung ương tăng từ 1% lên 2%. Đối với tiền gửi bằng VND kỳ hạn từ 12 tháng đến dưới

23
CH sè 11 - B1 - §H KTQD Chuyªn Photocopy - §¸nh m¸y - In LuËn v¨n, TiÓu luËn

: 6.280.688
24 tháng tăng từ 1% lên 2%. Đối với tiền gửi ngoại tệ không kỳ hạn và có kỳ hạn dưới 12
tháng tăng từ 4% lên 8%, loại từ 12 tháng đến dưới 24 tháng tăng từ 1% lên 2%.

Đồng thời, để khuyến khích các TCTD sử dụng vốn có hiệu quả, tránh tăng lãi suất
dẫn đến dư thừa vốn VND, NHNN đã thay đổi phương thức trả lãi đối với tiền gửi dự trữ
bắt buộc bằng VND (Quyết định số 923/QĐ-NHNN ngày 20/7/2004). Theo đó, đối với
dự trữ bắt buộc bằng VND, NHNN chỉ trả lãi cho tiền gửi dự trữ bắt buộc (1,2%/năm) mà
không trả lãi cho phần tiền gửi dự trữ bắt buộc vượt.
1. 4. Công cụ tỷ giá
Xung quanh vấn đề tỷ giá ở VN hiện nay, các nhà nghiên cứu kinh tế cho rằng: Giá
trị đồng VN đã bị đánh giá quá cao so với ngoại tệ, như vậy, trước hết nó sẽ làm giảm sức
cạnh tranh của hàng hóa VN trên thị trường quốc tế, ảnh hưởng xấu đến hoạt động xuất
nhập khẩu, sau đó làm NHNN khó điều hành chính sách tiền tệ.
Hiện nay trên thế giới còn tồn tại nhiều chế độ tỷ giá hối đoái khác nhau, nhưng
trong điều kiện hội nhập và quốc tế hóa ngày nay, xu hướng tiến tới tự do hóa tỷ giá hối
đoái đang được Chính phủ các quốc gia theo đuổi. Xét trên bình diện quản lý vĩ mô thì
NHNNVN đang thực hiện chế độ tỷ giá linh hoạt, có sự kiểm soát của Nhà nước, đây có
thể nói là một sự lựa chọn đúng đắn của Nhà nước trong điều kiện quá trình hội nhập của
VN với thế giới còn nhiều cách biệt. Nếu lựa chọn tỷ giá thả nổi tự do thì điều kiện phát
triển kinh tế - xã hội hiện nay của của chúng ta chưa cho phép, còn nếu lựa chọn chính
sách điều hành tỷ giá theo kiểu ‘‘an toàn’’ thì không thể tránh khỏi những áp đặt mang
tính hành chính vào quản lý tỷ giá – điều mà chúng ta đang cố gắng thay đổi để thích ứng
dần với việc điều hành nền kinh tế theo các quy luật phát triển. Điều kiện nêu trên đặt ra
những yêu cầu đối với Nhà nước trong việc lựa chọn và điều hành tỷ giá phải hết sức linh
hoạt, thích ứng dần với hội nhập và tạo động lực phát triển kinh tế.
Từ 1/7/2002 NHNN quyết định nới lỏng biên độ quy định tỷ giá của các TCTD
trong giao dịch mua bán ngoại tệ đối với khách hàng, quyết định này đã giảm dần những
quy định mang tính chất hành chính can thiệp vào quyền tự chủ kinh doanh của các
TCTD. Ngày 13/9/2003 Thống đốc NHNN đã ra quyết định 958/2002/QĐ-NHNN về
quản lý ngoại hối đối với việc mua bán chứng khoán của các tổ chức, cá nhân nước ngoài
tại trung tâm giao dịch chứng khoán. Từ tháng 10/2002 NHNN đã có qui định mới về
trạng thái ngoại tệ đối với các NHTM… Cùng với việc ban hành các chính sách nói trên,
NHNN vẫn duy trì và vận hành có hiệu quả hoạt động của thị trường ngoại tệ, liên Ngân


24
CH sè 11 - B1 - §H KTQD Chuyªn Photocopy - §¸nh m¸y - In LuËn v¨n, TiÓu luËn

: 6.280.688
hàng, thực hiện nghiệp vụ Swap trong giao dịch hoán đổi ngoại tệ lấy đồng Việt Nam
giữa NHTM và NHNN.
Trong năm 2004, NHNN đã điều hành tỷ giá linh hoạt sát với cung cầu trên thị
trường, phát huy lợi thế cho hoạt động xuất khẩu mà vẫn không để hoạt động nhập khẩu
gặp khó khăn. Đồng thời, NHNN đã can thiệp trên thị trường ngoại hối vào những thời
điểm thích hợp, góp phần ổn định tỷ giá và tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động thanh
toán quốc tế. Bên cạnh đó, NHNN cũng không ngừng hoàn thiện các công cụ phòng ngừa
rủi ro tỷ giá như chỉnh sửa các quy định về tỷ giá kỳ hạn theo hướng ngày càng tự do hoá
để chu chuyển ngoại tệ đạt đến trạng thái cân bằng, tạo điều kiện thông thoáng về giao
dịch hoán đổi.
Cũng trong 6 tháng đầu năm 2006, do cán cân vãng lai thặng dư và thu hút vốn từ
nước ngoài tăng mạnh nên nguồn cung ngoại tệ của nền kinh tế khá dồi dào. Nhờ vậy, dự
trữ ngoại hối nhà nước tăng lớn so với mức tăng cùng kỳ trong nhiều năm gần đây. Đây là
điều kiện thuận lợi cho phép tỷ giá VND/USD tiếp tục được NHNN điều hành ổn định.
Tỷ giá VND/USD của các NHTM vẫn bám sát tỷ giá bình quân liên Ngân hàng. Điểm
đáng lưu ý trên thị trường tiền tệ trong 6 tháng đầu năm là sự gia tăng đột biến của tỷ giá
VND/USD trên thị trường tự do trong những ngày đầu tháng 5/2006 do tác động của việc
tăng giá dầu thô, giá vàng trên thị trường quốc tế và những tin đồn thất thiệt về việc thay
đổi chính sách tỷ giá, ngoại hối của Nhà nước. Đã có những thời điểm giá vàng trong
nước lên tới 1.500.000 đồng/chỉ và tỷ giá lên tới 17.200 đồng/USD. Tuy nhiên, bằng việc
tích cực tuyên truyền định hướng dư luận và sử dụng đồng bộ các biện pháp can thiệp
("nới rộng" việc nhập khẩu vàng nhằm tăng lượng cung bình ổn giá vàng trong nước, đáp
ứng kịp thời nhu cầu ngoại tệ của các doanh nghiệp nhập khẩu ), "cơn sốt" giá vàng và
tỷ giá VND/USD đã nhanh chóng "hạ nhiệt". Đến thời điểm hiện nay, giá vàng trong
nước đã theo sát giá vàng thế giới và tỷ giá VND/USD diễn biến ổn định ở mức khoảng

16.000 đồng/USD.
Về cơ bản, cơ chế điều hành tỷ giá đã đảm bảo được sự duy trì ổn định. Việc duy
trì ổn định tỷ giá đã tác động mạnh đến tâm lý của người dân và nhà đầu tư, hạn chế
chuyển dịch từ VND sang ngoại tệ. Bên cạnh đó, NHNN đã thực hiện tốt vai trò người
mua bán cuối cùng trên thị trường ngoại tệ liên ngân hàng, đáp ứng kịp thời và đầy đủ các
nhu cầu về ngoại tệ của nền kinh tế.

25

×