Tải bản đầy đủ (.doc) (79 trang)

vận dụng một số phương pháp thống kê phân tích hiệu quả hoạt động của tổng công ty xây dựng công trình giao thông i

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.29 MB, 79 trang )

LỜI MỞ ĐẦU
I. Sự cần thiết của đề tài:
Để tiến hành bất kỳ hoạt động sản xuất kinh doanh nào, doanh nghiệp cũng
đều phải tập hợp các phương tiện vật chất cũng như con người và thực hiện sự kết
hợp giữa lao động với các yếu tố vật chất để tạo ra kết quả phù hợp với ý đồ của
doanh nghiệp. Mục tiêu bao trùm lâu dài của kinh doanh là tạo ra lợi nhuận, tối đa
hoá lợi nhuận trên cơ sở những nguồn lực sẵn có. Lợi nhuận không chỉ phản ánh
hiệu quả kinh doanh cuối cùng của doanh nghiệp mà nó còn phản ánh khả năng
tồn tại và phát triển của doanh nghiệp đó. Doanh nghiệp hoạt động hiệu quả là
doanh nghiệp đạt được những mục tiêu kinh doanh đề ra đồng thời bảo toàn và
phát triển vốn. Hơn nữa, hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh
nghiệp xây dựng sẽ góp phần không nhỏ vào sự tăng trưởng nền kinh tế và đời
sống xã hội. Việc xem xét và phân tích hiệu quả kinh doanh là rất quan trọng, nó
không chỉ cho biết việc sản xuất đạt được ở trình độ nào mà còn cho phép các nhà
quản trị tìm ra các nhân tố để đưa ra các giải pháp tối ưu, các phương pháp đúng
đắn nhằm tăng kết quả và giảm chi phí kinh doanh, mục đích nâng cao hiệu quả
trong hoạt động sản xuất kinh doanh.
Với lý do trên em chọn đề tài "Vận dụng một số phương pháp thống kê
phân tích hiệu quả hoạt động của Tổng công ty Xây dựng công trình giao
thông I" làm luận văn tốt nghiệp.
II. Nội dung luận văn gồm 3 chương:
Chương I : Lý luận chung về xây dựng và hiệu quả hoạt động sản xuất kinh
doanh của doanh nghiệp
Chương II: Hệ thống chỉ tiêu thống kê và một số phương pháp thống kê phân
tích hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp xây dựng
Chương III: Vận dụng một số phương pháp thống kê phân tích hiệu quả hoạt
động của Tổng công ty Xây dựng công trình giao thông 1.
III. Phương pháp nghiên cứu :
Luận văn sử dụng phương pháp đồ thị, chỉ số, dãy số thời gian để phân tích.
IV. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu :
Hiệu quả hoạt động là phạm trù rất rộng và phức tạp bao gồm cả rủi ro trong


kinh doanh, do vậy luận văn chỉ tập trung nghiên cứu một số chỉ tiêu hiệu quả cơ
bản trong hoạt động sản xuất kinh doanh.
Nguồn số liệu phục vụ cho việc tính toán và phân tích được thu thập tại Tổng
công ty Xây dựng công trình giao thông 1.
CHƯƠNG I
LÝ LUẬN CHUNG VỀ XÂY DỰNG VÀ HIỆU QUẢ HOẠT ĐỘNG
SẢN XUẤT KINH DOANH CỦA DOANH NGHIỆP
I. Hoạt động xây dựng và những đặc điểm cơ bản của xây dựng
1. Khái niệm hoạt động xây dựng:
Hoạt động xây dựng là quá trình lao động để tạo ra những sản phẩm xây
dựng cho nền kinh tế quốc dân bao gồm các công việc :
- Thăm dò, khảo sát, thiết kế
- Xây dựng mới, xây dựng lại công trình
- Cải tạo mở rộng, nâng cấp, hiện đại hoá công trình
- Sửa chữa lớn nhà cửa, vật kiến trúc
- Lắp đặt thiết bị, máy móc vào công trình
- Cho thuê phương tiện, máy móc thi công có người điều khiển đi kèm
2. Đặc điểm của sản phẩm xây dựng và sản xuất xây dựng :
Sản phẩm xây dựng mà sản phẩm chính của nó là sản phẩm xây lắp. Nó là
kết quả trực tiếp hữu ích do lao động trong lĩnh vực xây dựng sáng tạo ra.
* Sản phẩm xây dựng có đặc điểm sau:
- Sản phẩm xây dựng mang tính đơn chiếc: đây là đặc điểm tương đối khác
thường so với các ngành sản xuất vật chất khác. Xây dựng là những công trình xây
dựng nhà cửa, vật kiến trúc được làm theo đơn đặt hàng từ trước
- Sản phẩm xây dựng có tính cố định tại chỗ và phân bố tản mạn ở nhiều
nơi.
- Sản phẩm xây dựng thường có kích thước lớn, chi phí lớn, giá trị rất cao,
thời gian thi công lâu. Sản phẩm xây dựng là các công trình đã hoàn thành đòi hỏi
thời gian sử dụng lâu dài, độ bền cao.
- Sản phẩm xây dựng phụ thuộc chặt chẽ vào điều kiện khí hậu, địa hình của

địa phương và mang nhiều tính đa dạng, cá biệt cao về công dụng, cách cấu tạo và
phương pháp sản xuất.Điều kiện tự nhiên thuận lợi cho quá trình thi công thì công
trình sẽ được tiến hành theo đúng tiến độ, chất lượng công trình được đảm bảo.
- Sản phẩm xây dựng liên quan đến nhiều ngành cả về phương diện cung
ứng nguyên vật liệu và cả về phương diện sử dụng sản phẩm của xây dựng làm ra.
Sản phẩm xây dựng mang tính tổng hợp về kỹ thuật, văn hoá, nghệ thuật, quốc
phòng.
* Đặc điểm của sản xuất xây dựng:
- Sản xuất xây dựng thường được tiến hành theo đơn đặt hàng cho từng
trường hợp cụ thể vì vậy sản xuất xây dựng rất đa dạng, sản phẩm có tính cá biệt,
đơn chiếc (các ngành khác thường sản xuất hàng loạt). Đặc điểm này dẫn đến yêu
cầu cần xác định giá trước khi tiến hành xây dựng.
- Sản xuất xây dựng mang tính lưu động cao. Các công trình xây dựng
thường được tiến hành trên địa bàn khác nhau vì thế nó gây khó khăn cho nhà thầu
trong quá trình thi công cho các công trình về việc vận chuyển máy móc trang
thiết bị, nhân công phục vụ cho quá trình thi công.
- Sản xuất xây dựng được tiến ành ngoài trời, chịu ảnh hưởng của điều kiện
thời tiết, khí hậu, địa hình nơi thi công. Đặc điểm này liên quan đến tiến độ thực
hiện, vì vậy khi thi công cần lập tiến độ thi công hợp lý, tránh thi công trong điều
kiện thời tiết xấu.
- Thời gian thi công các công trình xây dựng dài, các công trình xây dựng
thường phức tạp.
- Sản xuất xây dựng liên quan đến nhiều ngành sản xuất khác như ngành
cung cấp vật liệu xây dựng, các ngành có nhu cầu sử dụng sản phẩm của ngành
xây dựng.
II. Bản chất và tiêu chuẩn đánh giá hiệu quả hoạt động sản xuất kinh
doanh
1. Bản chất hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp
Trong bất cứ hoạt động kinh doanh nào, con người cũng đều quan tâm đến
hiệu quả. Nó là cơ sở để đánh giá khả năng thực hiện các mục tiêu kinh doanh của

doanh nghiệp. Hơn nữa, nó còn có ảnh hưởng rất lớn đến sự tăng trưởng nền kinh
tế và đời sống xã hội.Với một lượng chi phí nhất định, con người luôn mong muốn
tạo ra được một kết quả lớn nhất, đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của con người
do vậy việc nâng cao hiệu quả kinh tế là rất quan trọng, nó đảm bảo cho sự tồn tại
và phát triển của các công ty xây dựng nói riêng và cho nền kinh tế nói chung.
Hiệu quả là một phạm trù hết sức phức tạp. Có rất nhiều quan điểm khác
nhau về hiệu quả. Xét theo phạm vi toàn xã hội ta có quan điểm hiệu quả kinh tế
xã hội, trong phạm vi doanh nghiệp đó là hiệu quả sản xuất kinh doanh, ở chuyên
đề có thể xem xét một số quan điểm hiệu quả sản xuất kinh doanh sau :
- Hiệu quả sản xuất kinh doanh là đại lượng so sánh giữa kết quả kinh tế đạt
được so với chi phí đã bỏ ra để đạt được kết quả đó. Nói cách khác, hiệu quả sản
xuất kinh doanh là đại lượng so sánh giữa kết quả đầu vào và chi phí đầu ra.
Việc so sánh giữa những đại lượng trên có thể thực hiện theo dạng hiệu mà
biểu hiện là các chỉ tiêu hiệu quả tuyệt đối hay dạng thương có biểu hiện là các chỉ
tiêu hiệu quả tương đối (trong dạng thương có dạng nghịch và dạng thuận). Quan
điểm này có ưu điểm là chỉ tiêu hiệu quả tuyệt đối cho phép đánh giá hiệu quả
hoạt động của doanh nghiệp theo cả chiều rộng và chiều sâu, từ đó có thể hình
thành nên các phương trình hiệu quả dạng tổng, tích là cơ sở cho việc xây dựng
mô hình phân tích. Còn dạng thương cho phép hình thành và phân tích hệ thống
chỉ tiêu hiệu quả một cách sâu sắc. Tuy vậy, vẫn còn tồn tại một số nhược điểm
như ở dạng hiệu trong một số trường hợp không thể thực hiện so sánh được (ví dụ
như chi phí và kết quả không cùng đơn vị đo lường), kém nhạy cảm, và dễ bị
nhầm lẫn giữa chỉ tiêu hiệu quả và chỉ tiêu kết quả.Ở dạng thương chỉ phản ánh
hiệu quả theo chiều sâu.
- Hiệu quả kinh tế của các hoạt động sản xuất kinh doanh là một phạm trù
kinh tế phản ánh trình độ sử dụng các nguồn lực( lao động, máy móc,thiết bị,
nguyên vật liệu và tiền vốn) nhằm đạt được mục tiêu mà doanh nghiệp đã xác
định.
- Hiệu quả sản xuất kinh doanh là mục tiêu đạt được của doanh nghiệp được
đặc trưng bằng một hệ thống chỉ tiêu định tính và định lượng về kết quả hoạt động

của doanh nghiệp.
- Hiệu quả sản xuất kinh doanh là sự tăng trưởng kinh tế, được phản ánh qua
nhịp độ tăng của các chỉ tiêu kinh tế. Cách hiểu này là phiến diện chỉ đứng trên
giác độ biến động theo thời gian.
Từ các khái niệm nêu trên, ta có thể đưa ra một khái niệm về hiệu quả kinh
tế trong hoạt động sản xuất kinh doanh như sau : hiệu quả sản xuất kinh doanh là
một phạm trù kinh tế phản ánh mặt lượng của các hoạt động kinh doanh, phản ánh
trình độ sử dụng các nguồn lực trong quá trình tái sản xuất nhằm đạt được mục
tiêu cuối cùng của mọi hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp - mục
tiêu tối đa hoá lợi nhuận.
2. Phân biệt khái niệm hiệu quả và kết quả
* Để hiểu rõ bản chất của phạm trù hiệu quả sản xuất kinh doanh, ta cần
phân biệt giữa khái niệm hiệu quả và kết quả.
Cần hiểu kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp là những
sản phẩm do doanh nghiệp tạo ra mang lợi ích tiêu dùng cho xã hội, được thể hiện
là sản phẩm vật chất hoặc sản phẩm phi vật chất. Kết quả là những gì mà doanh
nghiệp đạt được sau một quá trình sản xuất kinh doanh nhất định và đó cũng là
mục tiêu cần thiết của doanh nghiệp. Kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh của
doanh nghiệp có thể là những đại lượng cân đong đo đếm được như số sản phẩm
tiêu thụ mỗi loại, doanh thu, lợi nhuận, thị phần và cũng có thể là các đại lượng
chỉ phản ảnh mặt chất lượng, có tính chất định tính như uy tín của doanh nghiệp,
chất lượng sản phẩm Do vậy kết quả bao giờ cũng là mục tiêu của doanh nghiệp.
Từ khái niệm hiệu quả sản xuất kinh doanh nói trên, có thể biểu hiện bằng
công thức sau :
H = K/C
Ở đây hiệu quả sản xuất kinh doanh được biểu hiện bởi hai chỉ tiêu kết quả
và chi phí hay nói cách khác là đầu ra và các nguồn lực đầu vào. Hai chỉ tiêu này
có thể được xác định bằng đơn vị hiện vật và đơn vị giá trị, việc sử dụng đơn vị
giá trị luôn luôn đưa các đại lượng khác nhau về cùng một đơn vị đo lường - tiền
tệ. Do vậy thước đo hiệu quả là sự tiết kiệm chi phí và tiêu chuẩn của hiệu quả là

việc tối đa hoá kết quả hoặc tối thiểu hoá chi phí dựa trên nguồn lực có sẵn.Vấn đề
đặt ra ở đây là hiệu quả kinh tế nói chung và hiệu quả sản xuất kinh doanh là mục
tiêu hay là phương tiện của kinh doanh? Nhiều khi trong thực tế, các chỉ tiêu hiệu
quả được sử dụng như mục tiêu cần đạt và trong nhiều trường hợp, người ta lại sử
dụng chúng như công cụ để nhận biết "khả năng" tiến tới mục tiêu cần đạt là kết
quả.
* Hiệu quả là phạm trù được sử dụng rộng rãi trên nhiều lĩnh vực kinh tế, xã
hội, vì vậy cần phân biệt giữa hiệu quả kinh tế và hiệu quả xã hội để có thể nhận
thức một cách đầy đủ về bản chất, quan điểm đánh giá hiệu quả từ đó cho phép
doanh nghiệp phát hiện khả năng và tìm ra biện pháp đúng đắn để nâng cao hiệu
quả sản xuất kinh doanh.
Hiệu quả xã hội phản ánh trình độ sử dụng các nguồn lực nhằm đạt được các
mục tiêu xã hội nhất định hay phản ánh kết quả việc thực hiện các mục tiêu về mặt
xã hội như cải thiện đời sống người lao động cả về vật chất lẫn tinh thần, giải
quyết công ăn việc làm trong phạm vi toàn xã hội hoặc từng khu vực kinh tế, giảm
số người thất nghiệp, nâng cao trình độ văn hoá, đảm bảo vệ sinh môi
trường, Hiệu quả xã hội thường được quan tâm, nghiên cứu ở phạm vi quản lý vĩ
mô.
Hiệu quả kinh tế phản ánh chất lượng hoạt động kinh tế và được xác định
bởi tỉ số giữa kết quả đạt được với chi phí bỏ ra để đạt được kết quả đó. Hiệu quả
kinh tế được nghiên cứu trên 2 giác độ vi mô và vĩ mô. Xét ở phạm vi nghiên cứu
ta có hiệu quả kinh tế quốc dân, hiệu quả kinh tế ngành, hiệu quả kinh tế vùng
lãnh thổ và hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh. Muốn đạt được hiệu quả kinh
tế quốc dân cao thì vai trò điều tiết vĩ mô là cực kỳ quan trọng. Hiệu quả kinh tế
có đảm bảo thì mới có thể tạo ra hiệu quả xã hội.
3. Tiêu chuẩn đánh giá hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh của
doanh nghiệp
Khi bàn tới hiệu quả kinh doanh, nhiều nhà khoa học kinh tế đã đề cập đến
mức chuẩn hiệu quả. Từ định nghĩa về hiệu quả kinh tế, chúng ta có thể thiết lập
được mối quan hệ tỉ lệ giữa đầu ra và đầu vào và có thể sẽ cho một dãy các giá trị

khác nhau. Vấn đề được đặt ra là trong các giá trị đạt được thì các giá trị nào phản
ánh tính có hiệu quả và các giá trị nào sẽ nằm trong miền không đạt hiệu quả (phi
hiệu quả). Tiêu chuẩn theo nghĩa đen là tiêu thức (tính chất) đặc biệt để đánh giá
một tiêu thức khác phù hợp với những điều kiện nhất định. Ta có thể phân ra thành
các quan điểm để đánh giá hiệu quả kinh tế của hoạt động sản xuất kinh doanh.
*Quan điểm 1: Tăng kết quả sản xuất (tăng sản lượng, tăng giá trị tăng thêm
(VA), tăng tổng giá trị sản xuất (GO), tăng tổng sản phẩm trong nước (GDP) và
tăng lợi nhuận).
* Quan điểm 2: Tăng năng suất lao động gồm năng suất lao động sống (là
năng suất lao động tính theo GO), năng suất lao động xã hội (là năng suất lao động
tính theo VA,GDP) và năng suât lao động vật hoá (tiết kiệm chi phí trung gian thể
hiện ở tăng hoặc giảm tỷ trọng IC trong GO).
*Quan điểm 3: Mức hiệu quả tối đa ( H
max
) có thể đạt được trong những điều
kiện cụ thể.Theo quan điểm này, H thường < H
max
và như vậy H càng gần H
max
thì
hoạt động sản xuất càng có hiệu quả và ngược lại.
* Quan điểm 4: Tiêu chuẩn đánh giá hiệu quả kinh tế là do quy luật kinh tế
cơ bản quyết định (A.Xecfeev, M.Bo, ).Đạt được quan hệ tỉ lệ tối ưu giữa hiệu
quả kinh tế đạt được so với chi phí hoặc nguồn lực đã bỏ ra để đạt được hiệu quả
đó. Theo cách hiểu này, tiêu chuẩn HQKT có các biểu hiện cụ thể :
- Theo quan điểm xã hội là tăng GO và tăng GDP
- Theo quan điểm ngành là tăng VA và tăng GDP
- Theo quan điểm doanh nghiệp:
+ Có xét đến lợi ích của xã hội: tăng VA.
+ Không xét đến lợi ích của xã hội: tăng LN

Tiêu chuẩn để đánh giá hiệu quả kinh tế là thống nhất nhưng do hiệu quả
kinh tế được đánh giá theo các quan điểm khác nhau nên tiêu chuẩn cũng khác
nhau.
Xét trên phương diện lý thuyết, mặc dù các tác giả đều thừa nhận về bản chất
khái niệm hiệu quả kinh tế phản ánh trình độ sử dụng các yếu tố sản xuất song
công thức khái niệm hiệu quả cũng chưa phải là công thức mà các nhà kinh tế
thống nhất thừa nhận. Như vậy, không có tiêu chuẩn chung cho mọi công thức
hiệu quả kinh tế, tiêu chuẩn hiệu quả kinh tế còn phụ thuộc vào mỗi công thức xác
định hiệu quả kinh tế cụ thể. Chẳng hạn với các chỉ tiêu hiệu quả liên quan đến các
quyết định lựa chọn kinh tế sử dụng phương pháp cận biên người ta hay so sánh
các chỉ tiêu như doanh thu biên và chi phí biên với nhau và tiêu chuẩn hiệu quả là
doanh thu biên bằng với chi phí biên,
Trong các quan điểm trên thì quan điểm thứ 4 được quan tâm nhiều nhất.
Quan điểm này cho phép gắn hiệu quả kinh tế với lợi ích kinh tế, tức là động lực
của sự tăng trưởng và phát triển kinh tế vì vậy để tạo động lực cho sự phát triển
của nền kinh tế, cần kết hợp hài hoà và hợp lý giữa các loại lợi ích khác nhau ( lợi
ích cá nhân, lợi ích tập thể và lợi ích toàn xã hội).
4. Các nhân tố ảnh hưởng đến hiệu quả và một số chú ý khi phân tích hiệu
quả hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp
Hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp chịu ảnh hưởng của nhiều
nhân tố khác nhau như nhân tố chủ quan, nhân tố khách quan, nhân tố vô hình và
nhân tố hữu hình. Ta có thể đưa ra một vài nhân tố có tác động chủ yếu đến hiệu
quả sản xuất kinh doanh sau :
4.1. Môi trường kinh doanh
Môi trường kinh doanh có thể được nhìn nhận từ nhiều giác độ với những
mục đích nghiên cứu khác nhau bao gồm môi trường pháp lý, môi trường vi mô,
môi trường vĩ mô, môi trường văn hoá xã hội, môi trường tự nhiên Và bất cứ một
doanh nghiệp dù hoạt động trong lĩnh vực sản xuất kinh doanh nào cũng phải hoạt
động trong một môi trường kinh doanh nhất định phù hợp với điều kiện sản xuất
kinh doanh của mình. Môi trường kinh doanh của doanh nghiệp xây dựng gồm các

yếu tố thị trường đầu vào, thị trường đầu ra, thị trường vốn, lao động Ngoài các
yếu tố đó, môi trường kinh doanh còn chứa đựng các mối quan hệ diễn ra bên
trong và bên ngoài doanh nghiệp ảnh hưởng đến hiệu quả kinh doanh của doanh
nghiệp như cơ chế chính sách của nhà nước, tình hình kinh tế thế giới, trao đổi
quốc tế, hệ thống chính trị, mối quan hệ song phương diễn ra giữa các quốc gia,
các hiệp định đa phương điều khiển mối quan hệ giữa các nhóm quốc gia, các tổ
chức quốc tế, Môi trường kinh doanh ổn định sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt
động sản xuất của doanh nghiệp phát triển.
Vì vậy, muốn hoạt động kinh doanh có hiệu quả, cần phân tích đầy đủ và
đúng đắn môi trường kinh doanh để tạo lập căn cứ trong việc xây dựng chiến lược
kinh doanh thậm chí nếu dự đoán trước được sự thay đổi của môi trường ta có thể
tận dụng được những thay đồi này, biến nó thành cơ hội cho việc sản xuất kinh
doanh của doanh nghiệp.
4.2.Tổ chức quản lý lao động
Trong thời đại hiện nay, nền kinh tế tri thức, tri thức của con người được
xem như một trong những nhân tố quan trọng trong quá trình sản xuất kinh doanh
của doanh nghiệp cũng như của toàn xã hội.Hiệu quả của mỗi quốc gia, ngành và
doanh nghiệp phụ thuộc rất lớn vào trình độ văn hoá, chuyên môn, tay nghề, kỹ
năng, năng lực của đội ngũ lao động. Lao động là một trong ba yếu tố của quá
trình sản xuất (lao động, tư liệu lao động và đối tượng lao động), đồng thời nó giữ
vai trò quan trọng nhất, đặc biệt trong hoạt động sản xuất xây lắp. Như ta đã biết,
sự thành bại trong hoạt động sản xuất kinh doanh phụ thuộc nhiều vào kinh
nghiệm và trình độ tổ chức của bộ máy quản lý. Muốn nâng cao hiệu quả hoạt
động của bộ máy quản lý doanh nghiệp, cần xây dựng tốt mối quan hệ giữa người
quản lý và người lao động, luôn tôn trọng và khuyến khích tính tự chủ sáng tạo
của lực lượng lao động tạo ra sức mạnh tổng hợp phát huy hiệu quả của các yếu tố
sản xuất đặc biệt là yếu tố con người.
Bộ máy quản lý tốt là bộ máy quản lý bao gồm đội ngũ cán bộ tinh thông,
nhiệt tình, có kinh nghiệm trong công việc. Bộ máy này có gọn nhẹ, linh hoạt sẽ
giúp doanh nghiệp khai thác tối đa lợi thế quy mô giảm chi phí, nâng cao hiệu quả

sử dụng các yếu tố đầu vào. Việc tổ chức phối hợp nhịp nhàng của các bộ phận
trong doanh nghiệp sẽ tạo ra sự liên kết nhằm phát huy sức mạnh chung, tăng khả
năng cạnh tranh trên thị trường và đây cũng là một trong các biện pháp tăng hiệu
quả kinh doanh của doanh nghiệp.
4.3. Thị trường yếu tố sản xuất và tiêu thụ
Hệ thống thị trường trong nền kinh tế hàng hoá hiện đại bao gồm 3 bộ phận
cấu thành: chủ thể thị trường, nhà kinh doanh và nhà tiêu dùng. Mạng lưới thị
trường là một thể thống nhất hữu cơ các loại thị trường liên quan qua lại với nhau
còn gọi là hệ thống thị trường, nó bao gồm không chỉ thị trường yếu tố sản xuất
(thị trường vốn, thị trường lao động, thị trường kỹ thuật, thị trường thông tin, thị
trường nhà đất và các tổ chức trung gian thị trường ) mà còn rất nhiều thị trường
có liên quan.Trong đó thị trường sản xuất và thị trường tiêu thụ là hai quá trình tồn
tại song song, không thể tách rời, tạo điều kiện cho nhau mở rộng và phát triển.
Quá trình hoạt động của hai thị trường trên có thể kết luận hoạt động của doanh
nghiệp có hiệu quả hay không.
Hoạt động trên thị trường luôn luôn nhạy bén, do vậy doanh nghiệp luôn
phải nắm bắt được các thông tin trên thị trường một cách chính xác kịp thời, tìm
hiểu về nhu cầu và thị hiếu của khách hàng trên thị trường và kết hợp với các yếu
tố đầu vào, điều kiện sản xuất của doanh nghiệp, doanh nghiệp có thể dự đoán
được lượng sản phẩm trong kế hoạch sản xuất và đưa ra những quyết định đúng
đắn và có hiệu quả để sản xuất sản phẩm.
4.4. Khoa học kỹ thuật công nghệ
Vốn và máy móc thiết bị là biểu hiện của kỹ thuật công nghệ trong doanh
nghiệp. Vốn trong sản xuất kinh doanh là biểu hiện bằng tiền của các tư liệu sản
xuất được sử dụng cho hoạt động sản xuất kinh doanh đồng thời vốn trong doanh
nghiệp là cơ sở hoạch định cho chiến lược đầu tư mua sắm và sửa chữa máy móc
thiết bị. Để khẳng định vị trí trên thương trường, để đạt hiệu quả kinh doanh, để
giảm thiểu chi phí, sản lượng cao đồng thời để thị trường chấp nhận sản phẩm, đòi
hỏi sản phẩm phải đạt được các tiêu chuẩn, đạt chất lượng sản phẩm, điều này phụ
thuộc không nhỏ vào máy móc công nghệ. Do vậy, nguồn vốn dồi dào, maý móc

thiết bị hiện đại và phù hợp thì khả năng sản xuất được mở rộng, sức lao động
được giải phóng, năng suất lao động tăng, chất lượng sản phẩm cao, giảm chi phí
trong sản xuất dẫn đến giá thành hạ, tăng lợi nhuận và hiệu quả sử dụng. Muốn
vậy, cần tiếp cận với khoa học kỹ thuật công nghệ tiên tiến, toàn diện đồng bộ vận
dụng vào hoạt động sản xuất kinh doanh, phải không ngừng cải tiến, đầu tư công
nghệ để giúp doanh nghiệp hoạt động hiệu quả hơn.
5. Một số chú ý khi phân tích hiệu quả hoạt dộng sản xuất kinh doanh
của doanh nghiệp
* Đảm bảo sự hài hoà giữa các lợi ích tập thể với lợi ích xã hội, lợi ích người
lao động
* Đảm bảo nguyên tắc về tính đơn giản và tính thực tế
* Đảm bảo sự thống nhất giữa nhiệm vụ chính trị và sản xuất kinh doanh
trong việc nâng cao hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh. Đây là nhu cầu và
điều kiện đảm bảo cho sự phát triển cân đối nền kinh tế quốc dân.
* Đảm bảo tính thực tiễn trong việc nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh
* Hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp phải được xem xét một cách toàn
diện cả về thời gian và không gian trong mối quan hệt với hiệu quả chung toàn bộ
nền kinh tế
Về mặt thời gian : Hiệu quả mà doanh nghiệp đạt được trong mỗi giai đoạn,
mỗi thời kỳ không dược làm ảnh hưởng giảm sút đến hiệu quả củ giai đoạn và kỳ
kinh doanh tiếp theo, đảm bảo sự phát triển bền vững.
Về mặt không gian: Hiệu quả sản xuất kinh doanh chỉ có thể coi là đạt được
1 cách toàn diện khi toàn bộ hoạt động của các bộ phận mang lại hiệu quả không
làm ảnh hưởng đến hiệu quả chung trong hiện tại và tương lai của doanh nghiệp,
từ đó hiệu quả mà các bộ phận mang lại mới thúc đẩy và nâng cao hiệu quả sản
xuất kinh doanh của toàn bộ doanh nghiệp.
Về mặt định lượng: Doanh nghiệp hoạt động có hiệu quả là doanh nghiệp
đảm bảo được sự tối đa hoá kết quả và tối thiểu hoá chi phí dựa trên nguồn lực đã
có sẵn. Đồng thời, doanh nghiệp cần phải sản xuất ra sản phẩm đảm bảo chất
lượng, khả năng tiêu thụ cao mà vẫn tiết kiệm được chi phí nguồn lực.

Về mặt định tính: trên giác độ nền kinh tế quốc dân, phải có sự thống nhât
giữa hiệu quả kinh tế quốc dân và hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp,
hiệu quả của từng doanh nghiệp sẽ đóng góp vào hiệu quả chung của toàn bộ nền
kinh tế quốc dân. Chính vì vậy, đạt được hiệu quả trong sản xuất kinh doanh của
doanh nghiệp là chưa đủ mà còn phải mang lại hiệu quả cho toàn xã hội.
6. Những vấn đề về nâng cao hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh
6.1.Sự cần thiết nâng cao hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh
Mọi nguồn tài nguyên trên trái đất cũng như đất đai, khoáng sản là một
phạm trù hữu hạn và ngày càng trở nên khan hiếm, cạn kiệt do sự khai thác và sử
dụng của con người, trong khi nhu cầu tiêu dùng của con người lại là một phạm
trù không có giới hạn, sự không giới hạn được thể hiện ở sự phát triển của các loại
cầu và ở từng loại cầu cũng vậy, càng nhiều, càng phong phú, càng có chất lượng
cao càng tốt. Do vậy, của cải đã khan hiếm lại càng khan hiếm hơn theo cả nghĩa
tuyệt đối và tương đối của nó. Điều này đòi hỏi và bắt buộc con người phải nghĩ
đến việc lựa chọn kinh tế nhưng chỉ chú ý phát triển theo chiều sâu mới chỉ là điều
kiện cần và chưa đủ bởi cùng với sự phát triển của khoa học kỹ thuật sản xuất, con
người ngày càng tìm ra được nhiều phương pháp khác nhau cùng với các nguồn
lực đầu vào sẽ chế tạo ra nhiều loại sản phẩm khác nhau, cho phép các doanh
nghiệp có khả năng lựa chọn kinh tế, lựa chọn sản xuất kinh doanh sản phẩm tối
ưu. Sự lựa chọn đúng đắn sẽ mang lại cho doanh nghiệp hiệu quả kinh doanh cao,
thu được nhiều lợi ích nhất và xuất hiện sự lựa chọn phát triển kinh tế theo chiều
sâu. Sự tăng trưởng kết quả kinh tế của sản xuất có được là nhờ vào việc cải tiến
các yếu tố sản xuất về mặt chất lượng, ứng dụng khoa học kỹ thuật và công nghệ
mới, hoàn thiện công tác quản trị và cơ cấu kinh tế, nâng cao chất lượng các
hoạt động kinh tế tức là nhờ vào sự nâng cao hiệu quả kinh doanh. Nâng cao hiệu
quả kinh doanh tức là đã nâng cao khả năng sử dụng các nguồn lực có hạn trong
sản xuất, đạt được sự lựa chọn tối ưu. Trong điều kiện khan hiếm các nguồn lực
sản xuất thi nâng cao hiệu quả kinh doanh là điều kiện không thể không đặt ra đối
với bất kỳ hoạt động sản xuất kinh doanh nào.
Sản xuất cái gì, sản xuất như thế nào và sản xuất cho ai là ba vấn đề kinh tế

cơ bản dựa trên quan hệ cung cầu, giá cả thị trường, cạnh tranh và hợp tác. Sự lựa
chọn kinh tế của các doanh nghệp trong các cơ chế kinh tế khác nhau là không
giống nhau. Các doanh nghiệp phải tự đưa ra quyết định kinh doanh của mình và
mục tiêu lợi nhuận trở thành mục tiêu quan trọng nhất mang tính chất sống còn
của doanh nghiệp.
Hoạt động kinh doanh trong cơ chế kinh tế thị trường, môi trường cạnh tranh
gay gắt, nâng cao hiệu quả kinh doanh của hoạt động sản xuất làm tăng thêm sức
cạnh tranh, cho phép dành lợi thế trong quan hệ kinh tế, là điều kiện tồn tại và phát
triển của các doanh nghiệp. Để có thể trụ lại trong cơ chế thị trường, các doanh
nghiệp luôn phải nâng cao chất lượng hàng hoá, giảm chi phí, nâng cao uy tín
nhằm tiến tới mục tiêu tối đa hoá lợi nhuận. Các doanh nghiệp phải có được lợi
nhuận và đạt được lợi nhuận càng cao càng tốt. Do vậy, đạt hiệu quả kinh doanh
và nâng cao hiệu quả kinh doanh luôn là vấn đề bao trùm và xuyên suốt trong quá
trình hoạt động sản xuất kinh doanh của mỗi doanh nghiệp, là vấn đề luôn được
quan tâm của doanh nghiệp để có thể tồn tại và phát triển và đây cũng là điều kiện
để cho nền kinh tế phát triển bền vững.
6.2. Ý nghĩa của việc nâng cao hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh
Nâng cao hiệu quả kinh tế nền sản xuất xã hội có ý nghĩa rất quan trọng, là cơ
sở vật chất để không ngừng nâng cao mức sống dân cư. Nâng cao hiệu quả sản
xuât kinh doanh càng có ý nghĩa đặc biệt trong một số điều kiện nhất định, khi khả
năng phát triển nền sản xuất theo chiều rộng (tăng nguồn lao động, tài nguyên
thiên nhiên, vốn ) bị hạn chế, khi chuyển sang nền kinh tế thị trường.
Phấn đấu đạt hiệu quả cao trong sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp sẽ:
Tận dụng và tiết kiệm được các nguồn lực hiện có.Thúc đẩy tiến bộ khoa học và
công nghệ, tạo cơ hội cho việc thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá sản xuất.
Sản xuất, kinh doanh phát triển với tốc độ cao. Nâng cao chất lượng, hạ giá thành,
tăng năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp.
CHƯƠNG II
HỆ THỐNG CHỈ TIÊU THỐNG KÊ VÀ MỘT SỐ PHƯƠNG PHÁP
THỐNG KẾ PHÂN TÍCH HIỆU QUẢ HOẠT ĐỘNG SẢN XUẤT KINH

DOANH CỦA DOANH NGHIỆP XÂY DỰNG
I. Hệ thống chỉ tiêu đo lường, đánh giá hiệu quả hoạt động sản xuất kinh
doanh của doanh nghiệp
1. Nguyên tắc xây dựng và hoàn thiện hệ thống chỉ tiêu thống kê hiệu quả
hoạt động sản xuất kinh doanh
1.1. Hệ thống chỉ tiêu thống kê:
a. Khái niệm
Hệ thống chỉ tiêu là tập hợp những chỉ tiêu có quan hệ với nhau, có thể phản
ánh các mặt, các tính chất cơ bản, các mối quan hệ cơ bản giữa các mặt của hiện
tượng và giữa hiện tượng nghiên cứu với các hiện tượng có liên quan.
b. Yêu cầu, nguyên tắc của hệ thống chỉ tiêu:
Hệ thống chỉ tiêu thống kê phải bao quát được mọi lĩnh vực quan trọng nhất
của hiện tượng kinh tế xã hội. Xét đến mối quan hệ xã hội với các hiện tượng kịnh
tế và ngược lại.
Hệ thống chỉ tiêu thống kê phải có khả năng nêu lên được mối liên hệ giữa
các bộ phận, các mặt của hiện tượng nghiên cứu với hiện tượng có liên quan.
Hệ thống chỉ tiêu thống kê phải có các chỉ tiêu mang tính chất chung, các chỉ
tiêu mang tính chât bộ phận và các chỉ tiêu nhân tố nhằm phản ánh tổng thể vấn đề
cần nghiên cứu.
Đảm bảo thống nhất về nội dung và phương pháp, phạm vi tính toán các chỉ
tiêu cùng loại, phù hợp với yêu cầu đánh giá tình hình thực hiện mục tiêu hiệu
quả, lợi nhuận của doanh nghiệp
1.2. Nguyên tắc xây dựng và hoàn thiện hệ thống chỉ tiêu thống kê hiệu quả hoạt
động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp
Khi tiến hành phân tích thống kê hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh
nghiệp nhất là trong nền kinh tế thị trường như hiện nay thì hệ thống chỉ tiêu về
thống kê có thêm nhiều sự thay đổi và bổ sung nhưng hệ thống chỉ tiêu được xây
dựng vẫn phải tuân thủ những nguyên tắc sau:
1.2.1. Đảm bảo tính hướng đích:
Nguyên tắc này đòi hỏi khi xây dựng hệ thống chỉ tiêu cần phải đáp ứng

đúng yêu cầu, đúng đối tượng cần cung cấp và những thông tin cần thiết đảm bảo
tác dụng thiết thực của hệ thống chỉ tiêu cần nghiên cứu. Mỗi phương pháp phân
tích thống kê có thể đáp ứng nhiều mục đích phân tích, nhiều đối tượng tuy nhiên
không có phương pháp thống kê đáp ứng cho mọi mục đích phân tích và mọi đối
tượng (phương pháp phân tích biến động khác với phương pháp phân tích mối liên
hệ, ) do vậy tuỳ theo đối tượng và mục đích phân tích mà sử dụng phương pháp
phân tích thích hợp nhằm nâng cao hiệu quả trong phân tích.
1.2.2. Đảm bào tính hệ thống
Nguyên tắc này đòi hỏi các chỉ tiêu trong hệ thống phải có mối liên hệ và bổ
sung cho nhau, phải được sắp xếp một cách phù hợp, thể hiện rõ các chỉ tiêu chủ
yếu và thứ yếu, các chỉ tiêu tổng hợp và từng mặt phản ánh hiệu quả sản xuất kinh
doanh và cần có sự lựa chọn phương pháp phân tích có mối liên hệ với nhau để
khắc phục những nhược điểm của mỗi phương pháp.
1.2.3. Đảm bảo tinh khả thi
Hệ thống chỉ tiêu nghiên cứu được hình thành phải là hệ thống cho phép giải
quyết tốt các mâu thuẫn giữa nhu cầu cung cấp thông tin và khả năng về mọi mặt
để thu thập và tính toán các chỉ tiêu nêu ra. Những phương pháp phân tích đòi hỏi
phải được lựa chọn phù hợp với khả năng của cán bộ phân tích, phù hợp với nguồn
số liệu, Hệ thống các phương pháp phải đảm bảo tính đơn giản, không nên quá
phức tạp.
1.2.4. Đảm bảo tính hiệu quả
Phương pháp phân tích được lựa chọn phải cung cấp những thông tin có giá
trị với chi phí ít nhất đồng thời hệ thống chỉ tiêu xây dựng phải có tính ổn định cao
và có tính linh hoạt, có thể thường xuyên hoàn thiện được hệ thống chỉ tiêu đảm
bảo sự phát triển trong yêu cầu quản lý phục vụ cho sản xuất kinh doanh của doanh
nghiệp.
2. Xây dựng hệ thống chỉ tiêu thống kê hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh
của doanh nghiệp xây dựng công trình giao thông
Đánh giá hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp xây dựng giao
thông là một đòi hỏi bức thiết đối với các cơ quan quản lý kinh tế cũng như đối với

các doanh nghiệp nhằm hướng doanh nhiệp quan tâm khai thác các tiềm năng để
nâng cao hiệu quả hoạt dộng sản xuất kinh doanh của mình. Để đánh giá tổng hợp
hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp xây dựng giao thông cần
xác định hệ thống chỉ tiêu thống kê cơ bản.
2.1. Nhóm chỉ tiêu kết quả và chi phí có liên quan đến việc xác định hiệu quả hoạt
động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp
2.1.1. Nhóm chỉ tiêu phản ánh kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh
nghiệp
* Các chỉ tiêu phản ánh kết quả sản xuất kinh doanh tính bằng đơn vị hiện vật
- Thành phẩm : là những công trình, hạng mục công trình đã hoàn thành xong việc
xây dựng, có giá trị sử dụng hoàn chỉnh, đã làm xong thủ tục nghiệm thu sử dụng
theo đúng chế độ quy định của nhà nước và sẵn sàng huy động sử dụng được ngay.
- Khối lượng thi công xong( thành phẩm quy ước của đơn vị nhận thầu): là những
khối lượng xây lắp đã hoàn thành đến giai đoạn quy ước trong thiết kế, dự toán và
theo nội dung hợp đồng đã ký kết giữa 2 bên thầu (A), nhận thầu (B) và đã được
bên A xác nhận thanh toán
- Khối lượng thi công dở dang: là khối lượng xây lắp đang thi công chưa hoàn
thành đến giai đoạn quy ước, chưa được bên A xác định thanh toán.
* Các chỉ tiêu phản ánh kết quả sản xuất kinh doanh tính bằng đơn vị giá trị
- Doanh thu (DT): Doanh thu là chỉ tiêu tổng hợp tính bằng tiền của toàn bộ giá trị
các mặt hàng, sản phẩm của doanh nghiệp đã tiêu thụ và thanh toán trong kỳ. Tổng
doanh thu là chỉ tiêu tuyệt đối thời kỳ, dùng để đánh giá quan hệ tài chính, xác
định lỗ (lãi), hiệu quả kinh doanh, đánh giá hiệu quả vốn và xác định số vốn đã thu
hồi và đánh giá việc thực hiện mục tiêu sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp
Trong doanh nghiệp xây dựng, doanh thu là tiền chủ đầu tư trả cho công ty
sau khi thi công xong công trình đấu thầu
Chỉ tiêu doanh thu được xác định theo công thức

=
=

n
i
ii
qpDT
1
Trong đó: p
i
là giá đơn vị từng loại sản phẩm theo giá thực tế
q
i
là lượng sản phẩm từng loại tiêu thụ trong kỳ
- Doanh thu thuần: là tổng doanh thu bán hàng sau khi đã trừ đi các khoản giảm
trừ. Các khoản giảm trừ bao gồm thuế VAT, giảm giá hàng bán, hàng bán bị trả
lại,
Doanh thu thuần = Tổng doanh thu - các khoản giảm trừ
Doanh thu thuần là chỉ tiêu để tính lãi, lỗ hoạt động sản xuất kinh doanh của
doanh nghiệp trong kỳ báo cáo
- Tổng giá trị sản xuất (GO): là toàn bộ giá trị sản phẩm do lao động trong doanh
nghiệp tạo ra bao gồm sản phẩm vật chất và sản phẩm dịch vụ nói chung (dịch vụ
sản xuất và dịch vụ phi sản xuất) tromg một thời kỳ nhất định thường là một năm.
Tổng giá trị sản xuất là chỉ tiêu số lượng, tuyệt đối, thời kỳ và được tính theo
lãnh thổ kinh tế (đơn vị thường trú).Kết quả sản xuất ở thời kỳ nào thì tính vào GO
của thời kỳ đó.
Ta có thể xác định được GO theo các công thức sau:
+ Để phản ánh toàn bộ giá trị của sản phẩm được sản xuất ra:
GO = C + V + m = C
1
+ C
2
+ V + m

Trong đó : C
1
: khấu hao tài sản cố định
C
2
: Chi phí trung gian
V: Thù lao người lao động
m: Thặng dư sản xuất (số dư kinh doanh thô)
+ Để phản ánh toàn bộ kết quả sản xuất:
GO = giá trị thành phẩm + giá trị nửa thành phẩm + giá trị chênh lệch của sản
phẩm sản xuất hay xây dựng dở dang
+ Trong xây dựng, GO không bao gồm:
Chi phí đền bù
Giá trị máy móc thiết bị lắp đặt cho công trình
Những chi phí xây dựng hỏng mà phải phá đi làm lại
- Giá trị tăng thêm (VA): Là chỉ tiêu kinh tế tổng hợp phản ánh bộ phận còn lại
của tổng giá trị sản xuất sau khi trừ đi chi phí trung gian dùng cho sản xuất, đó là
giá trị mới do lao động tạo ra.
VA là chỉ tiêu số lượng, tuyệt đối, thời kỳ, phản ánh một bộ phận giá trị sản phẩm
và được tính theo lãnh thổ kinh tế.
VA được tính theo 2 phương pháp:
+ Theo phương pháp sản xuất:
Giá trị tăng thêm = Tổng giá trị sản xuất - Chi phí trung gian
VA = GO - IC
Chi phí trung gian là toàn bộ chi phí sản xuất sản phẩm vật chất và dịch vụ
dùng để sản xuất ra sản phẩm của 1 xí nghiệp, của 1 ngành hoặc toàn bộ nền
KTQD trong một thời kỳ nhất định thường là 1 năm.
+ Theo phương pháp phân phối:
VA =
Thu của người

lao động
+
Thuế sản xuất
+
khấu hao
+ +
thặng dư
tài sản cố định sản xuất
- Lợi nhuận ( M): là chỉ tiêu phản ánh kết quả cuối cùng của hoạt động sản xuất
kinh doanh của doanh nghiệp sau khi đã trừ đi phần chi phí sản xuất hay giá thành
sản phẩm trong cùng một thời kỳ.
Lợi nhuận = Tổng doanh thu - Tổng chi phí
Chỉ tiêu này phản ánh giá trị thặng dự được tạo ra, nó quyết định sự tồn tại
và phát triển của một doanh nghiệp. Đây là chỉ tiêu quan trọng hàng đầu trong sản
xuất kinh doanh.
2.1.2. Nhóm chỉ tiêu chi phí sản xuất kinh doanh của doanh nghiêp
* Nhóm chỉ tiêu chi phí thường xuyên
Chi phí thường xuyên là toàn bộ chi phí về lao động sống và lao động vật
hoá dùng để sản xuất ra sản phẩm đã chuyển dịch vào giá trị của sản phẩm được
sản xuất ra và được tính vao chi phí sản xuất.
Chi phí thường xuyên là chỉ tiêu số lượng, tuyệt đối, thời kỳ. Chi phí thường
xuyên gồm 2 bộ phận:
- Chi phí về lao động sống (V):
Biểu hiện bằng lượng lao động hao phí để sản xuất ra một đơn vị sản phẩm
(t) hay biểu hiện bằng lượng lao động hao phí để sản xuất ra sản phẩm (T) ( ngày
công, giờ công, ngày người, )
Biểu hiện bằng tiền lương, tiền công
- Chi phí về lao động vật hoá (quá khứ): Tiết kiệm lao động vật hoá làm giảm chi
phí thường xuyên và do vậy làm tăng chỉ tiêu hiệu quả tính được.
Biểu hiện bằng hiệu quả sử dụng vật tư, hiệu quả chi phí trung gian.

* Nhóm chỉ tiêu chi phí nguồn lực
Nguồn lực là lực lượng sản xuất được sử dụng cho sản xuất.
Nguồn lực là chỉ tiêu tuyệt đối, số lượng, thời điểm
Nguồn lực gồm 3 bộ phận:
- Lượng lao động (L), đơn vị là người, ta có thể sử dụng số lao động và số lao động
bình quân
)(L
2
DK CK
LL
L
+
=
Hoặc
1
2

2
12
1

++++
=
+
n
L
LL
L
L
n

n
Hoặc
i
ii
n
nL
L


=
Trong đó:
L
Đk
là số lao động có tại thời điểm đầu kỳ nghiên cứu
L
CK
là số lao động có tại thời điểm cuối kỳ nghiên cứu
L
i
là số lao động có ở ngày thứ i trong kỳ nghiên cứu
n
i
( i =
n,1
) là số ngày có số lao động L
i
- Tài sản (K) có 3 bộ phận : Tài sản cố định, tài sản lưu động, tài sản quý hiếm,
đơn vị tính là hiện vật hay giá trị (tiền)
+ Tài sản cố định là tư liệu lao động có giá trị lớn, thời gian sử dụng qua nhiều kỳ
sản xuất kinh doanh.Tài sản cố định là chỉ tiêu thời điểm nên để đánh giá được

hiệu quả sử dụng tài sản cố định, ta cần tính giá trị tài sản cố định bình quân:
2
kúcuèiëcãTSC§trÞ¸GikúdÇuëcãTSC§trÞ¸Gi
)(kútrongBQTSC§trÞ¸Gi
+

+ Tài sản lưu động khác tài sản cố định ở tính chất tái sản xuất và mức độ chuyển
dịch giá trị của chúng vào sản phẩm.
2
kúcuèiëcãTSL§trÞ¸GikúdÇuëcãTSL§trÞ¸Gi
)V(kútrongBQTSL§trÞ¸Gi
+
=
Hoặc:
Gi trÞ TSL§ BQ trong kú
V
V V
V
n
n
n
¸

=
+ + + +


1
2 1
2 2

1
Trong đó: V
1
,V
2
,V
3
, ,V
n
là giá trị tài sản lưu động tại các thời điểm thống kê
trong kỳ nghiên cứu.
- Vốn (V) bao gồm vốn cố định, vốn lưu động, vốn đầu tư, đơn vị tính là giá trị
(tiền)
3. Xác định hệ thống chỉ tiêu thống kê phân tích hiệu quả hoạt động của doanh
nghiệp xây dựng giao thông.
Hiệu quả sản xuất kinh doanh là quan hệ so sánh giữa đầu vào và đầu ra, tuỳ
thuộc vào việc chọn gốc chỉ tiêu so sánh. Nếu có m chỉ tiêu phản ánh kết quả kinh
tế Q và n chỉ tiêu phản ánh chi phí kinh tế C thì sẽ có 2.m.n chỉ tiêu phản ánh hiệu
quả sản xuất kinh doanh trong đó ít nhất m.n chỉ tiêu có ý nghĩa
Để phản ánh hiệu quả sản xuất kinh doanh, ta xác lập 2 dạng chỉ tiêu:
* Dạng so sánh tương đối :
- Chỉ tiêu dạng thuận:
C
K
H
=

Chỉ tiêu này cho biết cứ mỗi đơn vị chi phí thu được bình quân bao nhiêu đơn
vị kết quả. Trị số này càng lớn càng tốt
- Chỉ tiêu dạng nghịch:

K
C
H
=

Chỉ tiêu này cho biết để tạo ra được một đơn vị kết quả cần chi bình quân bao
nhiêu đơn vị chi phí. Trị số này càng nhỏ càng tốt.
* Dạng so sánh tuyệt đối: HQKT = KQ đầu ra - CP đầu vào
0

3.1. Nhóm chỉ tiêu đánh giá hiệu quả sử dụng lao động
Bảng 1: Nhóm chỉ tiêu đánh giá hiệu quả sử dụng lao động dạng thuận
Kết quả
Chi phí
Doanh thu (DT) Tổng giá trị sản
xuất (GO)
Giá trị tăng thêm
(VA)
Lợi nhuận (M)
Số lao động bình
quân
)(L
Năng suất lao
động =
L
DT
Năng suất lao động
=
L
GO

Năng suất lao
động =
L
VA
Mức doanh lợi theo
lao động =
L
M
Ngày người làm
việc (NN)
Năng suất lao
động =
NN
DT
Năng suất lao động
=
NN
GO
Năng suất lao
động =
NN
VA
Mức doanh lợi
theo NN =
NN
M
Ngày giờ làm việc
(NG)
Năng suất lao
động =

NG
DT
Năng suất lao động
=
NG
GO
Năng suất lao
động =
NG
VA
Mức doanh lợi
theo NG =
NG
M
Quỹ lương ( F) Năng suất chi phí
tiền lương =
F
DT
Năng suất chi phí
tiền lương =
F
GO
Năng suất chi phí
tiền lương =
F
VA
Mức doanh lợi theo
quỹ lương =
F
M

3.2. Nhóm chỉ tiêu đánh giá hiệu quả sử dụng tài sản cố định
Các doanh nghiệp xây dựng giao thông bỏ vốn đầu tư vào tài sản cố định rất lớn.
Trong cơ chế sản xuất kinh doanh hiện nay, điều đó vừa là tiềm năng (nếu khai
thác tốt), vừa là trở ngại (nếu khai thác không tốt).
Bảng 2: Nhóm chỉ tiêu hiệu quả sử dụng tài sản cố định dạng thuận
Kết quả
Chi phí
Doanh thu (DT) Tổng giá trị sản xuất
(GO)
Giá trị tăng thêm
(VA)
Lợi nhuận (M)
TSCĐ bình quân
)(K
Năng suất TSCĐ
=
K
DT
Năng suất
TSCĐ =
K
GO
Năng suất
TSCĐ =
K
VA
Mức doanh
lợi theo TSCĐ =
K
M

Mức khấu hao (C
1
) Năng suất mức
khấu hao =
1
C
DT
Năng suất mức
khấu hao =
1
C
GO
Năng suất mức
khấu hao =
1
C
VA
mức doanh lợi theo
C
1
=
1
C
M
Ngoài ra ta có các chỉ tiêu hiệu quả nghịch là tỉ số giữa chỉ tiêu chi phí và chỉ tiêu
kết quả. Chỉ tiêu kết quả có thể là GO, VA, lợi nhuận thuần.Chỉ tiêu này càng nhỏ
càng tốt. Nó phản ánh hiệu quả sử dụng tài sản cố định và phân tích ảnh hưởng của
nâng cao hiệu quả sử dụng tài sản cố định đến nâng cao kết quả hoạt động sản xuất
kinh doanh nói chung.
3.3. Nhóm chỉ tiêu hiệu quả sử dụng vốn lưu động

Bảng 3: Nhóm chỉ tiêu hiệu quả sử dụng vốn lưu động dạng thuận
Kết quả
Chi phí
Doanh thu (DT) Tổng giá trị sản
xuất ( GO)
Giá trị tăng thêm
(VA)
Lợi nhuận (M)
Vốn lưu động
)(
LD
V
Số vòng quay vốn
lưu động =
LD
V
DT
Năng suất vốn lưu
động =
LD
V
GO
Năng suất vốn lưu
động =
LD
V
VA
Mức doanh lợi
vốn lưu động
=

LD
V
M
* Độ dài bình quân một vòng quay =
Nhóm chỉ tiêu hiệu quả sử dụng vốn lưu động dạng nghịch
* Suất tiêu hao vốn lưu động =
LD
V
KQ
Kết quả ở đây có thể là GO, VA, lợi nhuận sau thuế,
* Hệ số đảm nhiệm vốn lưu động =
3.4. Nhóm chỉ tiêu đánh giá hiệu quả sử dụng tổng vốn
* Năng suất tổng vốn =
Chỉ tiêu kết quả có thể được tính bằng sản phẩm hiện vật, sản phẩm quy chuẩn và
tính bằng tiền tệ là GO,VA,NVA,DT,DT'.Ý nghĩa là cứ 1 triệu động tổng vốn đầu
tư vào kinh doanh trong kỳ thì tạo ra được mấy đơn vị kết quả (sản phẩm hay triệu
đồng).

×