Tải bản đầy đủ (.doc) (45 trang)

một số giải pháp nhằm hoàn thiện hoạt động quảng cáo đối với sản phẩm mới của ngân hàng habubank trên thị trường hà nội

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (245.07 KB, 45 trang )

LỜI NÓI ĐẦU
Nền kinh tế Việt Nam trên đà phát triển đã tạo nhiều cơ hội kinh doanh
cho các doanh nghiệp nói chung và ngành ngân hàng nói riêng. Ngân hàng được
nhìn nhận là nhà trung gian tài chính chủ lực, trở thành lực lượng tích cực thúc
đẩy nền kinh tế phát triển, và là một nhân tố không thể thiếu trong tiến trình mở
cửa và toàn cầu hoá. Habubank luôn coi việc tham gia và góp phần làm vững
chắc thị trường tài chính trong nước là một mục tiêu chiến lược của mình
Tuy nhiên cạnh tranh trong ngành ngân hàng trên thị trừơng ngày càng trở
nên gay gắt. Các cuộc ganh đua giành giật thị trừơng diễn ra giữa khối các ngân
hàng quốc doang với nhau, khối ngân hàng quốc doanh với cổ phần, giữa các
ngân hàng cổ phần với nhau, giữa các ngân hàng trong nước và các ngân hàng
nước ngoài…
Các ngân hàng cổ phần có nhiều điểm bất lợi hơn so với các ngân hàng
quốc doanh như vốn điều lệ thấp, chi phí vốn cao, uy tín, danh tiếng, kênh phân
phối, cơ sở vật chất kĩ thuật…. Nhưng ngược lại ngân hàng cổ phần cũng có
những điểm mạnh riêng như tính năng động, linh hoạt, độc lập
Đứng trước những khó khăn và thách thức của thị trường ngân hàng
Habubank luôn cố gắng tăng hiệu quả trong việc sử dụng vốn, tăng giá trị đầu tư
cho các cổ đông, kích thích khách hàng dùng sản phẩm dịch vụ của Habubank,
đặc biệt là sản phẩm mới
Đạt đựơc những thành tích trên một phần là do ngân hàng Habubank đã ý
thức được vai trò quan trọng của Marketing đặc biệt là quảng cáo đối với hoạt
động kinh doanh ngân hàng. Habubank đã tiến hành một số hoạt động cụ thể
như đăng báo, tặng quà…., nhưng những việc trên chưa được thực hiện một
cách có kế hoạch do vật hiệu quả chưa cao
Chính vì những lí do trên nên em đã chọn để tài “Một số giải pháp nhằm
hoàn thiện hoạt động quảng cáo đối với sản phẩm mới của ngân hàng
Habubank trên thị trường Hà Nội”
Để hoàn thành đề án này em đã nhận được sự chỉ bảo tận tình của thầy
Nguyễn Quang Dũng, em xin chân thành cảm ơn thầy
Do trình độ của người viết còn hạn chế nên bài viết không tránh khỏi


những sai sót, em rất mong sự góp ý của các thầy cô để bài viết của em được
hoàn thiện hơn
1
NỘI DUNG
A / QUẢNG CÁO TRONG HOẠT ĐỘNG KINH DOANH
I/ KHÁI NIỆM QUẢNG CÁO
Ngay từ khi mới sinh ra con người đã có những hành động nhằm ảnh
hưởng đến người khác hoặc tốt hoặc xấu ví dụ như đứa trẻ khóc đòi ăn, một cô
gái bị một chàng trai quyến rũ…tất cả những hành động đó của con người chính
là những hoạt động đầu tiên của quảng cáo , có thể nói quảng cáo có một lịch sử
lâu đời như lịch sử của con người vậy.
Đó là sự thông tin truyền cảm, đó là sự thuyết phục, gây ảnh hưởng và
hướng đến một số hành động. Tất cả những cái đó đã trở thành một phần cuộc
sống của con người gần như từ khi có loài người.
Quảng cáo mà chúng ta thấy và hiểu như ngày nay thì mới chỉ có khoảng
200 năm gần đây.Những dấu hiệu truyền tin đầu tiên đã tìm thấy ở Hy Lạp và
Rôma. Những cái loa và tín hiệu sử dụng để truyền tin, trước khi ngành in ra
đời.
Sau khi ngành in ra đời, quảng cáo thực sự có bước nhảy vọt, với các tín
hiệu được thay thế bằng chữ viết hay thông điệp.
Đến thế kỉ 17 tờ báo đầu tiên xuất hiện trên thế giới, quảng cáo trên báo
bắt đầu phát triển. Chẳng bao lâu sau thu nhập từ quảng cáo đã trở thành thu
nhập chính của các tờ báo. Bấy giờ bắt đầu xuất hiện những người môi giới về
không gian và sau đó phát triển thành các đại lí quảng cáo
Cách mạng công nghiệp đã dẫn đến việc sản xuất hàng loạt những hàng
hoá ở châu Âu và châu Mỹ làm cho thị trường ngày càng lớn thêm. Thị trường
địa phương được thay bằng thị trường quốc tế.
Điều này làm phát triển quan hệ giữa người sản xuất và người tiêu dùng
hàng hoá, tạo nhu cầu quảng cáo . Nhu cầu thông tin truyền cảm cũng ngày càng
2

tăng lên do việc cơ giới hoá nền sản xuất lớn và chính quảng cáo lại là “ cỗ xe”
đầu tàu của thông tin truyền cảm.
Các yếu tố khác như sự phát triển của báo, tạp chí, phát thanh, truyền
hình có ý nghĩa quan trọng không kém đối với phát triển của quảng cáo . Sự
phát triển của hệ thống đại lý quảng cáo trở thành quen thuộc và thành một
nghề. Các đại lý quảng cáo ra đời- nơi có các tài năng về viết, nghệ thuật, tâm lý
và chuyên gia Marketing cùng phối hợp cung cấp dịch vụ quảng cáo
Ngày nay quảng cáo không chỉ tăng về số lượng mà có sự tiến bộ đáng kể
trong những năm gần đây. Các phương tiện quảng cáo như đài phát thanh, tivi,
rạp chiếu phim, biển quảng cáo …đã góp phần quan trọng phát triển ngành công
nghiệp này.
Quảng cáo một hoạt động không thể thiếu được của một doanh nghiệp, là
công cụ quan trọng để khai thác thị trường. Quảng cáo sẽ góp phần để bán hàng
được nhanh hơn, nhiều hơn và do đó sẽ tăng hiệu quả của kinh doanh
Khi một hãng hay một thương nhân đã phát triển một sản phẩm nhằm
thoả mãn đòi hỏi của thị trường sau khi đã phân tích thị trường một cách kỹ
càng, anh ta cần thiết lập quan hệ với thị trường mục tiêu để bán sản phẩm đó.
Hơn thế nữa đây cần phải là quan hệ phổ thông, không chỉ với một người mà là
với nhiều người để cho sản phẩm của anh ta được nhiều người biết đến.
Con đường tốt nhất để đạt được một thị trường rộng lớn là thông qua
phương tiện thông tin đại chúng và quảng cáo là một trong những phương tiện
thông tin đại chúng như vậy
Hiệp hội Marketing Mỹ (AMA) đã đưa ra định nghĩa về quảng cáo như
sau:
Quảng cáo là bất cứ loại hình nào của sự hiện diện không trực tiếp của
hàng hoá, dịch vụ hay tư tưởng hành động mà người ta phải trả tiền để nhận biết
người quảng cáo
3
Quảng cáo có thể là bất cứ hình thức truyền đạt thông tin gián tiếp nào về
sản phẩm thông qua phương tiện truyền thông đại chúng do một nhà tài trợ chi

trả.
Nó có thể là một dấu hiệu, biểu tượng, phác hoạ hay một thông điệp
quảng cáo trong một tạp chí hay một tờ báo, một chương trình thương mại trên
đài, tivi, một phiếu quảng cáo gởi qua bưu điện hay một ap phích, panô quảng
cáo ở ngoài đường phố mà người quảng cáo tưởng tượng sẽ thoả mãn những đòi
hỏi của quảng cáo
Quảng cáo khác với tin tức và quảng bá ở chỗ những nhà tài trợ quảng
cáo phải chi trả để được đưa thông điệp lên phương tiện thông tin đại chúng.
Quảng cáo được sử dụng khi các nhà tài trợ muốn thông tin đến nhiều người
nhưng không thể thực hiện qua các phương tiện cá nhân vì kém hiệu quả và
không kinh tế
Có nhiều cách phân loại quảng cáo . Căn cứ vào bản chất việc bán hàng
cần phải thực hiện, người ta chia quảng cáo ra ba loại: quảng cáo quốc gia,
quảng cáo bán lẻ, quảng cáo kinh doanh
Quảng cáo quốc gia là quảng cáo được thực hiện bởi các nhà sản xuất
hàng hoá phổ thông bán trong phạm vi toàn quốc. Trong khi đó quảng cáo bán lẻ
lại do các nhà bán lẻ thực hiện. Những hàng hoá có nhãn hiệu chính toà có thể
bán trong cả nước thường được quảng cáo quốc gia. Một hãng sản xuất mới ra
đời muốn lần đầu tiên giới thiệu sản phẩm của họ trên thị trường khu vực cần
quảng cáo quốc gia
Quảng cáo bán lẻ được thực hiện ở các cửa hàng, quầy bán lẻ. Trong
quảng cáo quốc gia người sản xuất có thể quảng cáo cho một nhãn hàng trên và
nhãn này có thể được bán ở bất kỳ cửa hàng nào trên cả nước. Trong quảng cáo
bán lẻ điều nhấn mạnh là hãy mua sản phẩm có nhãn hiệu đó ở cửa hàng bán lẻ
này chẳng hạn.
4
Không phải tất cả các nhãn hàng được quảng cáo bán lẻ là được bán trên
cả nước. Trong quảng cáo bán lẻ người ta bị giới hạn trong một khu vực hẹp hơn
quảng cáo quốc gia
Quảng cáo quốc gia hướng vào mục tiêu lâu dài còn quảng cáo bán lẻ

định hướng vào phản ánh tức thì vì thế hay tập trung vào giá
Quảng cáo kinh doanh lại được chia thành: quảng cáo thương mại, quảng
cáo công nghiệp, quảng cáo chuyên nghiệp. Theo đối tượng quảng cáo người ta
có thể chia quảng cáo thành: quảng cáo sản phẩm, quảng cáo dịch vụ và quảng
cáo các tổ chức cơ quan
Quảng cáo sản phẩm : sản phẩm chính là trái tim của các chương trình
quảng cáo .Rõ ràng quảng cáo chẳng góp thêm một giá trị hữu hình nào vào cho
sản phẩm nhưng nó có thể giúp bạn được cả những sản phẩm xấu. Đương nhiên
về lâu dài, sự thành công phụ thuộc vào sự thoả mãn của người tiêu dùng, vì thế
sản phẩm là cái quan trọng nhất của quảng cáo .
Định vị sản phẩm là điều quan trọng vì ai cũng muốn quảng cáo cho hàng
hoá của mình. Điều quan trọng nhất là phải tạo ra được chỗ đứng cho sản phẩm
trong đầu khách hàng. Vì vậy phải nhấn mạnh vào ưu điểm của sản phẩm và sự
phân biệt với sản phẩm cạnh tranh
Trong quảng cáo sản phẩm mới: Sự phát triển của sản phẩm mới là một
hoạt động rất quan trọng của quá trình Marketing.
Sản phẩm có thể là sản phẩm sản xuất mới hoàn toàn, nhưng trong thuật
ngữ Marketing, sản phẩm mới cũng có thể được hiểu là một sản phẩm được cải
tiến và nó thay thế một sản phẩm tương tự.
Tư tưởng phân đoạn thị trường và đa dạng hoá sản phẩm là rất quan trọng
để đạt được những kết quả Marketing tốt hơn. Quảng cáo nếu được sử dụng
đúng đắn sẽ tạo thuận lợi cho những chiến lược được thực hiện đẹp đẽ. Quảng
cáo thuyết phục người tiêu thụ để họ mua một sản phẩm cụ thể, nhất định. Các
chiến thuật chỉ có thể được thực hiện với sự tham gia và thông qua quảng cáo .
5
Vì quảng cáo làm cho công chúng biết đến các thuộc tính của sản phẩm
những cái mà một chiến lược có thể phải thích ứng. Quảng cáo giới thiệu một
sản phẩm mới với khách hàng triển vọng, bắt họ phải chú ý đến những thay đổi,
cải tiến của sản phẩm cũ.
Nếu không có quảng cáo thì quá trình thông tin cho người tiêu thụ hoặc

không tồn tại hoặc diễn ra rất chậm. Quảng cáo thúc đẩy quá trình phát triển sản
phẩm mới nên rất cần thiết cho phát triển kinh tế và cho xã hội nói chung.
Nếu không có quảng cáo thì việc vận dụng các chiến thuật phân đoạn thị
trường, đối với sản phẩm , phát triển sản phẩm mới sẽ không có hiệu quả , có
khi không thực hiện được
Quảng cáo dịch vụ nên nhấn mạnh những cơ quan tổ chức cung cấp,
những ưu điểm nếu có của những dịch vụ ấy. Ngoài ra có thể nhấn mạnh những
ý như sự nhanh chóng, đúng giờ, tiết kiệm, an toàn. Ngân hàng cũng quảng cáo
dịch vụ của họ như các hệ thống rút tiền tự động, phục vụ tận tình chu đáo, được
chỉ huy bằng máy tình điện tử
II/ QUẢNG CÁO TRONG HOẠT ĐỘNG MARKETING
Quảng cáo là tiếp điểm thông tin truyền cảm giữa người bán và người
mua hay người tiêu dùng. Nó không những cung cấp những thông tin về sản
phẩm và dịch vụ mà còn tìm cách gây ảnh hưởng đến hành động của mọi người
bằng cách trưng bầy những hình ảnh gợi cảm hoặc kích thích.
Nói cách khác quảng cáo không kết thúc với dòng thông tin từ người bán
sang người mua, mà nó gây ảnh hưởng, thuyết phục người ta hành động hoặc tin
tưởng
Trong Marketing quảng cáo là một bộ phận quan trọng của cơ cấu. Người
chuyên viên Marketing quyết định cơ cấu đó sao cho phù hợp với chương trình
marketing. Sự lựa chọn đúng sẽ là tiền đề cho thành công và là nên tín nhiệm
của doanh nghiệp
6
Mỗi một doanh nghiệp đều có mục tiêu và kế hoạch cần đạt được. Trong
quá trình thực hiện mục tiêu marketing, tổ trức nào cũng phải sử dụng nhiều
công cụ.
Trong quản lí marketing người ta đã biết đến bốn biến số đó là bốn P nổi
tiếng Product (sản phẩm), Place (phân phối), Price (giá cả), Promotion (khuyếch
trương). Một cơ cấu hợp lí của bốn yếu tố này tạo nên chiến lược chung
marketing hay marketing mix ( hỗn hợp )để thực hiện những mục tiêu đặt ra

Điều đó có nghĩa là cần sản xuất đúng sản phẩm, phân phối nó trên một
kênh tiêu thụ hợp với đơn vị mình và thị trường, nên chào bán với một chiến
lược khuyếch trương, xúc tiến hợp lí.
Trong khuyếch trương, xúc tiến, doanh nghiệp cung cấp một sự thông tin
truyền cảm trực tiếp với khách hàng, trong đó quảng cáo là một công cụ quan
trọng nhất. Cũng giống như các yếu tố khác của marketing, quảng cáo tác động
đến việc bán hàng. Cùng với nhãn hiệu hàng hoá, giá cả, các kênh phân phối và
bán hàng trực tiếp, quảng cáo góp phần thực hiện mục tiêu marketing.
Bản chất quảng cáo và chiến lược có thể khác nhau, khi mà chiến lược
phân phối thông qua quảng cáo theo chiều sâu quảng cáo chọn lọc hay quảng
cáo cấp. Đối với việc bán hàng, quảng cáo cần phải là một công cụ khác của
marketing liên quan đến thông tin truyền cảm.
Nói ngắn gọn, quảng cáo là một công cụ marketing ảnh hưởng tới việc
bán hàng của một loại hàng. Quảng cáo đúng cũng quan trọng như đúng sản
phẩm, đúng giá, đúng kênh phân phối và đích thân bán hàng
7
Sơ đồ mối quan hệ giữa hoạt động marketing và hoạt động quảng cáo
Hoạt động marketing Hoạt động quảng cáo
III/ CÁC PHƯƠNG TIỆM QUẢNG CÁO
Để truyền một thông điệp quảng cáo đến khách hàng cần phải có một số
phương tiện gọi là phương tiện quảng cáo . Đó là những “cỗ xe” kéo những
thông điệp quảng cáo.
Một phương tiện quảng cáo là một phương tiện để đăng tải thông điệp
bán hàng của nhà quảng cáo cho các khách hàng tiềm năng. Thực tế, đó là
phương tiện mà nhà quảng cáo sử dụng để truyền các thông điệp của họ tới một
8
- Chiến lược quảng cáo
- Chiến lược xúc tiến bán( khuyến mại)
- Chiến lược tuyên truyền( quan hệ công
chúng- PR)

- Chiến lược bán hàng cá nhân
- Chiến lược Marketing thực tiếp
Phân tích tình huống
Chiến lược xúc tiến hỗn hợp
Phân tích chiến lược Marketing
Phân tích tình huống
Chiến lược Marketing
Mục tiêu Marketing
- Mục tiêu sản phẩm
- Mục tiêu giá cả
- Mục tiêu phân phối
- Mục tiêu xúc tiến hỗn hợp


- Chiến lược sản phẩm
- Chiến lược giá cả
- Chiến lược phân phối
- Chiến lược xúc tiến hỗn hợp
Chương trình hành động
- Các hoạt động sản phẩm
- Các hoạt động giá cả
- Các hoạt động phân phối
- Các hoạt động xúc tiến
Mục tiêu quảng cáo
- Mục tiêu bán hàng
- Mục tiêu truyền thông
Chiến lược quảng cáo
- Chiến lược sáng tạo
- Kế hoạt truyền thông
nhóm khách hàng tiềm năng và bằng cách đó, làm cho khoảng cách giữa người

sản xuất và người tiêu thụ rút ngắn lại
Theo quan điểm này, phương tiện thông tin là các sản phẩm của các tổ
chức hay các đơn vị dịch vụ dưới dạng các chương trình vô tuyến truyền hình,
radio, tạp chí hay báo…
Mỗi phương tiện đều có đặc thù riêng của nó và chi phí cũng khác nhau.
Chọn phương tiện nào là chức năng của việc kế hoạch hoá phương tiện. Đấy
cũng là khâu quyết định phân bổ kinh phí cho các phương tiện khác nhau lo cho
các thông điệp được xuất hiện trên các phương tiện hợp lí và vào thời gian hợp lí
để nâng cao hiệu quả
1. Quảng cáo thông qua các ấn phẩm: tờ rơi, tờ gấp, báo, tạp chí, bưu
phẩm trực tiếp
Quảng cáo trên các ấn phẩm là phương pháp có từ lâu đời nhất và phổ
biến nhất. Các nhà quảng cáo đã chi cho quảng cáo trên ấn phẩm nhiều hơn bất
cứ một phương tiện nào khác. Quảng cáo trên ấn phẩm là sử dụng báo hay tạp
chí để chuyển thông tin quảng cáo tới độc giả
Mỗi ấn hẩm có độc giả riêng của nó. Ấn tượng do ấn phẩm tạo nên tác
động lớn đến độc giả. Ấn tượng càng tốt thì thông tin quảng cáo càng dễ được
người đọc chấp nhận. Tuy nhiên, tác động của quảng cáo trên các ấn phẩm là
khác nhau theo độc giả, theo thông tin quảng cáo và theo loại ấn phẩm
1.1/ Quảng cáo qua tờ rơi, tờ gấp
Quảng cáo qua tờ rơi, tờ gấp là một trong những phương tiện quảng cáo
được nhiều nhà kinh doanh tin dùng hiện nay, vì nó có thể thông tin đến từng
khách hàng một cách đầy đủ và chính xác về sản phẩm cũng như hoạt động của
doanh nghiệp . Hơn nữa thông điệp quảng cáo qua tờ rơi, tờ gấp có thời gian
sống lâu
Tờ rơi, tờ gấp thường được thiết kế theo kiểu gấp 2 họăc gấp 3 và thường
có chiều dài gấp đôi chiều rộng. Trên tờ rơi, tờ gấp ngôn ngữ có thể sử dụng
nhiều nhất ba thứ tiếng hoặc hai ngôn ngữ
9
Các thông tin trên tờ rơi, tờ gấp được thiết kế đơn giản, ngắn gọn sao cho

người đọc dễ nhớ và dễ hiểu, màu sắc hài hoà, bắt mắt để gây ấn tượng cho
người đọc.
Những khách hàng được phát tờ rơi, tờ gấp thường là những khách hàng
đã được lựa chọn, có thể theo khu vực địa lý, có thể theo lứa tuổi, cũng có thể
theo nghề nghiệp…
Quảng cáo qua tờ rơi, tờ gấp có chi phí thấp và hiệu quả quảng cáo cao,
nhưng đôi khi cũng gây lãng phí khi khách hàng được lựa chọn không đọc
những thông tin trên tờ rơi, tờ gấp
1.2/ Quảng cáo trực tiếp qua các bưu phẩm
Đây là hình thức ấn phẩm của quảng cáo .Bưu phẩm không phải là
phương tiện đại chúng mà được gởi thực tiếp tới khách hàng. Mặc dù không có
mối giao tiếp giữa người quảng cáo và khác hàng , hình thức này vẫn được coi là
quảng cáo trực tiếp qua bưu phẩm. Các ấn phẩm gửi trực tiếp tạo cho khách
hàng tiếp xúc trực tiếp với quảng cáo
Ấn phẩm gởi trực tiếp là sự hoà hợp của quảng cáo trực tiếp và quảng cáo
gián tiếp. Quảng cáo trực tiếp có giới hạn khách hàng và dùng cho những khách
hàng đã lựa chọn kỹ để gửi bưu phẩm. Chúng thoả mãn nhu cầu cá nhân và
mang tính cá nhân.
Các ấn phẩm gửi trực tiếp bao gồm: thư từ, thông báo, hồ sơ tài liệu, sách
giới thiệu, tập san và quảng cáo in rời
Bưu phẩm đựơc lựa chọn từ các sách hướng dẫn, các báo cáo của doanh
nghiệp, các kinh nghiệm, các khách hàng. Chúng phải được gửi đều đặn và có
lựa chọn
Quảng cáo qua bưu phẩm có ưu điểm: thông tin quảng cáo được tiếp nhận
có tính chất cá nhân, và được đọc vào lúc khách hàng nghỉ ngơi. Hơn nữa dễ
đánh giá số lượng khách hàng và tác dụng của quảng cáo . Nó dễ tạo hình ảnh
độc đáo để gây sự chú ý và ấn tượng với khách hàng
10
Tuy nhên, quảng cáo qua bưu phẩm gửi trực tiếp cũng có một số nhược
điểm như số khách hàng hạn chế, đòi hỏi chi phí cao, bưu phẩm dễ bị lạc hậu cần

phải điều chỉnh nhiều lần, dễ gây lãng phí do khách hàng bỏ qua không lưu ý
1.3/ Quảng cáo qua báo chí
Báo chí có rất nhiều thể loại: báo hàng ngày, hàng tuần, báo chủ nhật, các
chuyên san… Báo cũng có thể được phân theo tiêu thức địa lý: báo quốc gia,
báo khu vực, báo địa phương… ở nhiều nước còn có các báo của cộng đồng
mang tính chất địa phương và cung cấp những thông tin cho các thành viên của
cộng đồng và những vấn đề liên quan đến họ và đến cộng đồng
Báo được phân loại theo số lượng báo lưu thông trong một vùng địa lý tức
là phân loại theo số lần và số lượng phát hành trên vùng địa lý. Ngoài ra nó còn
được phân loại dựa theo kích cỡ. Có hai loại, đó là báo cỡ tiêu chuẩn ( khổ 48 x
52 cm gồm 7 cột, mỗi cột 5 cm) và báo cỡ nhỏ ( khổ 20 x 28 cm )
Ưu điểm của quảng cáo trên báo là đảm bảo đưa những thông tin quảng
cáo tới khu vực thị trường đã chọn theo vị trí địa lý. Điều đó là do các báo đều
đăng quảng cáo mang tính chất địa phương là chủ yếu. Thực tế, quảng cáo địa
phương thừơng chỉ được thực hiện trên báo. Do vậy, quảng cáo có tác dụng nhất
khi được đăng trên các bài địa phương hoặc báo cộng đồng.
Hơn nữa, quảng cáo trên báo dễ chuẩn bị và tương đối ít tốn kém khi sử
dụng có lựa chọn. Thông thường các nhà quảng cáo chuẩn bị nội dung quảng
cáo và lồng vào báo dưới dạng bài quảng cáo khổ nhỏ
Quảng cáo trên báo còn có ưu điểm nữa là tính năng động về thời gian.
Một bài quảng cáo được chuẩn bị trước có thể dựa vào báo lúc sau chót hoặc có
thể sửa đổi tin tức quảng cáo cho phù hợp kịp thời với tình hình thị trường
Hạn chế lớn nhất của quảng cáo trên báo chí là thời gian sống của quảng
cáo quá ngắn và có tình chất địa phương rõ nét của nó. Thông thường, các bài
báo được đọc ngay khi nhận được và sau đó bị bỏ đi. Tất nhiên, độc giả có thể
xin lại phần bị bỏ sót nhưng không mấy khi xem lại bài quảng cáo . Hơn nữa ,
11
chất lượng hình ảnh quảng cáo trên báo kém hơn nhiều so với quảng cáo trên
các phương tiện khác
Khi quảng cáo trên báo chí , một vấn đề quan trọng có ảnh hưởng đến tác

dụng của quảng cáo đối với độc giả là vị trí và cách sắp xếp bài quảng cáo .
Nhiều khi quảng cáo bị bỏ qua nếu được đăng ở vị trí không tiện đọc.
Tác dụng của quảng cáo sẽ tăng khi được đặt ở vị trí chiến lược. ở các vị
trí khác nhau, mức chi phí đăng quảng cáo cũng khác nhau. Vị trí “ưu đãi”
thường chịu chi phí cao nhất.
Vị trí của bài quảng cáo trên báo được đánh giá theo mức độ ảnh hưởng
đến sự chú ý của độc giả đối với bài quảng cáo
1.4/ Quảng cáo trên tạp chí
Tạp chí được xuất bản định kì hàng tuần hoặc hàng tháng. Tạp chí khác
với báo chí về nhiều mặt. Nếu như báo có độc giả là tất cả các tầng lớp ở một
vùng nhất định thì tạp chí có độc giả là một số tầng lớp có quan tâm ở tất cả các
vùng quảng cáo trên tạp chí có thời gian sống dài hơn so với báo chí.
Hơn nữa báo chí chủ yếu là phương tiện có tính chất địa phương thì tạp
chí là phương tiện quốc gia. Độc giả của báo ở một vùng nhất định là tất cả thì
độc giả của tạp chí chỉ là một số nhất định. Tạp chí cho người đọc biết thông tin
và giúp họ giải trí.
Có thể phân loại tạp chí theo nhiều tiêu thức khác nhau: phân loại theo
độc giả ( tạp chí thương mại, tạp chí thể thao…); theo thời gian phát hành( tạp
chí hàng tuần, hàng tháng…); theo chủ đề ( các tạp chí chuyên ngành: tạp chí
giáo dục, nội trợ…); theo kích cỡ ( cỡ tiêu chuẩn, cỡ nhỏ, cỡ lớn…)
Ưu điểm của quảng cáo trên tạp chí là gây cho người chú ý nhiều. Do các
tạp chí không chỉ được đọc một lần mà nhiều lần cho tới khi có số mới. Mặt
khác, quảng cáo trên tạp chí có chất lượng in và màu sắc tốt hơn so với báo. Ưu
điểm nổi bật của quảng cáo trên tạp chí là tính lựa chọn cao so với hầu hết các
phương tiện khác
12
Nhược điểm chủ yếu của quảng cáo trên tạp chí là hạn chế về thời gian:
chuẩn bị quảng cáo trên tạp chí đòi hỏi nhiều thời gian hơn so với trên báo, việc
điều chỉnh quảng cáo cũng khó khăn hơn và tốn kém hơn.
Hơn nữa, tạp chí chỉ phù hợp với các nhà sản xuất lớn và các nhà quảng

cáo lớn do tính chất “quốc gia” của nó và khả năng lưu thông hàng hoá của sản
phẩm được quảng cáo
Phí quảng cáo trên tạp chí được tính theo số trang, số dòng, khổ chữ in.
Phí này tính cả hoa hồng cho đại lý quảng cáo .Quảng cáo in màu phải chịu phí
cao hơn quảng cáo đen trắng. Phí quảng cáo trên tạp chí thông thừơng khác với
quảng cáo trên các ấn phẩm thương mại . Quảng cáo trên các ấn phẩm thương
mại thường được biên soạn theo chủ đề
Về khía cạnh quảng cáo , các ấn phẩm thương mại dựa trên sức mua của
khách hàng. Quảng cáo trên các ấn phẩm thương mại có mục tiêu tìm kiếm các
khách hàng tiềm năng mà người bán không dễ gì tìm thấy, đôi khi còn có mục
tiêu tạo hình tượng cuả công ty trong giới tài chính nhất là trong trường hợp
công ty cần đi vay vốn
Việc quảng cáo trên báo và tạp chí phải tuân thủ theo những nguyên tắc
pháp lí chung như bảo đảm quảng cáo đúng số liệu, quảng cáo những hàng chất
lượng, bảo vệ quyền lợi cho người tiêu dùng
2. Quảng cáo trên đài phát thanh và đài truyền hình
Đối với quảng cáo qua đài phát thanh và đài truyền hình, người ta bán
thời gian của chương trình cho người quảng cáo . Theo đà phát triển của nền
kinh tế trong hệ thống tivi và radio ngày càng có vị trí quan trọng đối với nhà
quảng cáo.
Tivi có thể thay thế cho radio, tuy vậy quảng cáo qua radio vẫn có chỗ
đứng riêng và vẫn tồn tại , nhưng thực tế là chi phí dành cho quảng cáo trên
radio đang bị giảm dần nhường chỗ cho quảng cáo trên tivi
Trong thời gian gần đây, hệ thống tivi đã phát triển và mở rộng mạnh mẽ.
Đối với nhiều nhà quảng cáo , đây là phương tiện rất lý tưởng. Tivi là một
13
phương tiện có khả năng thâm nhập được tất cả các thị trường khác nhau. Chúng
có thể gây sự chú ý đối với tất cả mọi người không kể giới tính, tuổi tác, trình độ
văn hoá, mức thu thập và các nền văn hoá
Quảng cáo qua tivi có tác dụng rất lớn, do tivi kết hợp một cách hoàn

chỉnh hình ảnh, âm thanh và hành động cùng với các mùa sắc phong phú.Khác
với phương tiện khác, tivi đưa thông tin quảng cáo tới từng gia đình như một
đơn vị thông tin riêng.
Chính vì những lý do trên, phương tiện này đạt được số lượng khán giả
rất lớn và do đó ít tốn kém.
Lựa chọn phương tiện quảng cáo phụ thuộc vào tính chất của sản phẩm và
dịch vụ cần quảng cáo , vào khách hàng trọng điểm, vào thời gian và khả năng
tài chính, vào sự so sánh tương quan giữa các phương tiện trong đó yếu tố chi
phí giữ vai trò quan trọng
Phí quảng cáo qua radio thay đổi theo loại thông tin quảng cáo và có thể
theo từng trạm phát.
Ưu điểm của quảng cáo qua radio là có nhiều thính giả, có thể nhắc đi
nhắc lại nhiều lần, tạo khả năng lựa chọn trạm phát ở nơi có khách hàng trọng
điểm, thông tin quảng cáo được chuyển tới từng người nghe.
Tuy nhiên quảng cáo qua radio cũng có nhiều nhựơc điểm như: tính lâu
bền của thông tin thấp, thông tin quảng cáo dễ bị người nghe bỏ qua và không
phù hợp với tất cả các sản phẩm và dịch vụ , việc thử nghiệm tính hữu ích của
quảng cáo qua radio tương đối khó.
3. Quảng cáo qua mạng Internet
Cũng như các loại hình quảng cáo khác, quảng cáo trên mạng nhằm cung
cấp thông tin đẩy nhanh tiến độ giao dịch giữa người mua và người bán. Nhưng
quảng cáo trên Web khác hẳn với quảng cáo trên các phương tiện thông tin đại
chúng khác, nó giúp cho người tiêu dùng có thể tương tác với quảng cáo .Khách
hàng có thể nhấn vào quảng cáo để lấy thông tin hoặc mua sản phẩm cùng mẫu
mã trên quảng cáo đó
14
Trên Web, mọi thứ đều có thể đưa vào quảng cáo , từ bố trí sản phẩm
( logo hoặc tên sản phẩm trong văn bản hoặc trên màn hình) tới thiết kế
Wallpaper ( các ảnh nền phía sau nội dung quảng cáo ) làm cho logo bất cứ nhãn
hiệu sản phẩm nào cũng trở nên nổi bật

Quảng cáo trên Web đã tạo cơ hội cho các nhà quảng cáo nhằm chính xác
vào khách hàng của mình, và giúp họ tiến hành quảng cáo theo đúng với sở
thích và thị hiếu của người tiêu dùng. Các phươg tiện thông tin đại chúng khác
cũng có khả năng chọn, nhưng chỉ có mạng Web mới có khă năng tuyệt vời
Ban đầu quảng cáo trên Internet được định nghĩa là sự tổng hợp của tất cả
các ngành. Ngày nay người ta định nghĩa quảng cáo trên Internet là kết hợp
quảng cáo truyền thông và tiếp thị trực tiếp
Nhóm quảng cáo của hãng AOL đã hoàn thiện hơn nữa khái niện về
quảng cáo trên mạng. Steve Keenan, phó giám đốc điều hành tiếp thị của hãng
AOL nói rằng:
“ Chúng tôi không cho rằng quảng cáo trên Internet chỉ là việc tạo nhãn
hiệu hay để tiếp thị trực tiếp. Trên Internet bạn có thể tiến hành quảng cáo giống
như trên tivi, đài, báo chí, có thể truyền tải lượng thông tin đến mọi người giống
như trên báo chí và tiếp thị trực tiếp, hay tiến hành giao dịch giống như đi mua
sắm ở các quầy hàng hoặc gọi điện thoại số 800”.
Theo AOL thì quảng cáo trên Internet là sự kết hợp vừa cung cấp nhãn
hiệu, cung cấp thông tin và trao đổi buôn bán ở cùng một nơi
Quảng cáo trên mạng có nhiều ưu điểm, đó là:
Nhà quảng cáo trên mạng có rất nhiều khả năng lựa chọn i. Họ có thể
chọn các công ty, các quốc gia hoặc khu vực địa lý cũng như họ có thể sử dụng
cơ sở dữ liệu để làm cơ sở cho tiếp thị trực tiếp. Họ cũng có thể dựa vào sở thích
cá nhân và hành vi của người tiêu dùng để chọn vào đối tượng thích hợp
Các nhà tiếp thị trên mạng có thể theo dõi hành vi của người sử dụng đối
với nhãn hiệu của họ và tìm hiểu sở thích cũng như mối quan tâm của những
khách hàng triển vọng
15
Các nhà quảng cáo cũng có thể xác định được hiệu quả của quảng cáo
thông qua số lần quảng cáo được nhấn, số ngời mua sản phẩm ,và số lần tiến
hành quảng cáo …nhưng điều này rất khó thực hiện đối với kiểu quảng cáo
truyền thông như tivi, báo chí, và bảng thông báo…

Quảng cáo trên Internet còn có ưu điểm nổi bật khác với quảng cáo trên
báo chí là tính linh hoạt và khả năng phân phối. Một quảng cáo trên mạng được
truyền tải 24/24 giờ một ngày, cả tuần, cả năm. Hơn nữa chiến dịch quảng cáo
có thể được bắt đầu cập nhật hoặc huỷ bỏ bất cứ lúc nào. Nhà quảng cáo có thể
theo dõi tiến độ quảng cáo ngày ngày, xem xét hiệu quả ở tuần đầu tiên và có thể
thay đổi quảng cáo ở tuần 2 lúc không cần
Ngoài ra quảng cáo trên mạng còn có tính tương tác. Mục tiêu của nhà
quảng cáo là gắn khách hàng triển vọng với nhãn hiệu sản phẩm của họ. Điều
này có thể thực hiện hiệu quả trên mạng, vì khách hàng có thể tương tác với sản
phẩm ,kiểm tra sản phẩm và nếu thoả mãn thì có thể mua. Không có loại hình
thông tin đại chúng nào lại có thể dẫn khách hàng từ lúc tìm hiểu thông tin đến
khi mua sản phẩm mà không gặp trở ngại nào như mạng Internet
4. Quảng cáo qua các hoạt động tài trợ
Các doang nghiệp quảng cáo sản phẩm và hoạt động của mình thông qua
các hoạt động tài trợ như tài trợ cho giải bóng đá, tài trợ kinh phí cho việc sản
xuất phim, tài trợ cho quỹ vì người nghèo….Thông qua các hoạt động tài trợ này
mà khách hàng biết đến doanh nghiệp và tạo niềm tin, sự yêu mến của khách
hàng , qua đó thu hút khách hàng đến với doanh nghiệp mình
Đây là một hoạt động quảng cáo có chi phí cao nhưng đạt hiệu quả, những
cũng dễ gây lãng phí. Để tránh lãng phí trong hoạt động này thì doanh nghiệp
phải có kế hoạch và cần có sự lựa chọn cân nhắc kỹ lưỡng trước khi thực hiện
sao cho phù hợp với lĩnh vực kinh doanh của mình
16
IV/ QUẢNG CÁO TRONG LỮNH VỰC KINH DOANH NGÂN HÀNG
1. Đặc thù ngành ngân hàng
Ngân hàng là loại hình kinh doanh đặc biệt nó là một trung gian tài chính.
Nó có ảnh hưởng rất lớn đến toàn bộ nền kinh tế và ảnh hưởng của nó mang tính
chất dây chuyền, lây lan và sâu rộng
Để hiểu được chức năng đặc biệt của ngân hàng trong nền kinh tế, chúng
ta hãy hình dung một thế giới giản đơn trong đó không tồn tại hoạt động của hệ

thống ngân hàng .
Trong một thế giới như vậy, những khoản tiết kiệm của dân chúng chỉ có
thể được sử dụng hoặc là dưới dạng tiền mặt ; hoặc là dưới dạng đầu tư chứng
khoán vào các công ty
Trong một thế giới không có ngân hàng thì qui mô các luồng vốn từ
những người tiết kiệm chuyển đến các công ty là rất thấp, những nguyên nhân
chính là do: chi phí để giám sát hoạt động của công ty rất tốn kém; chi phí
chuyển nhượng ( thanh khoản) các chứng khoán công ty rất cao; và rủi ro biến
động giá cả chứng khoán trên thị trường
Trong một thế giới mà hệ thống ngân hàng không tồn tại, thì những
nguyên nhân nêu trên khiến cho dân chúng giảm động lực tiết kiệm, tăng tiêu
dùng và hoặc là tiết kiệm ở dạng tiền mặt.
Tuy nhiên, chúng ta đang sống trong một thế giới mà ở đó hệ thống ngân
hàng phát triển mạnh mẽ và được coi như bộ xương sống của nền kinh tế. Hệ
thống ngân hàng cung cấp một kênh dẫn vốn gián tiếp từ những người có nhu
cầu đầu tư đến các công ty.
Ngân hàng thực hiện những chức năng cơ bản đó là: chức năng luân
chuyển tài sản; chức năng cung cấp các dịch vụ thanh toán, môi giới và tư
vấn….
Về các dịch vụ thanh toán, môi giới và tư vấn: Ngân hàng hoạt động như
là đại lí của khách hàng. Ví dụ như hoạt động nghiên cứu và đầu tư cho khách
hàng, hướng dẫn khách hàng mua bán chứng khoán…. Thông qua chức năng tư
17
vấn và cung cấp dịch vụ thanh toán làm cho chi phí đầu tư của khách hàng giảm
xuống và người đầu tư có thể nắm bắt được tình hình tài chính và hoạt động
kinh doanh của công ty một cách chính xác và toàn diện hơn. Do đó thông qua
chức năng cung cấp dịch vụ tư vấn và đầu tư, hệ thống ngân hàng đã khuyến
khích được tỷ lệ tiết kiệm trong dân chúng tăng lên
Về chức năng luân chuyển tài sản: Trong chức năng luân chuyển tài sản,
ngân hàng tiến hành đồng thời hai hoạt động.

Thứ nhất, ngân hàng huy động vốn bằng cách phát hành các chứng chỉ
tiền gửi. Các chứng chỉ tiền gửi do ngân hàng phát hành thường hấp dẫn người
đầu tư hơn nhiều so với các chứng khoán do các công ty phát hành trực tiếp cho
dân chúng, bởi vì, đối với hầu hết những người đầu tư thì việc mua các chứng
chỉ tiền gửi của ngân hàng sẽ giảm được đáng kể các chi phí như chi phí thanh
khoản và rủi ro giá cả, chi phí giám sát.
Thứ hai, ngân hàng tiến hành đầu tư bằng cách cấp tín dụng và mua các
cổ phiếu và trái phiếu do các công ty phát hành( gọi chung là đầu tư chứng
khoán), những chứng khoán này là những chứng khoán sơ cấp. Như vậy, những
chứng chỉ tiền gửi do ngân hàng phát hành là chứng khoán thứ cấp, bởi vì chúng
chỉ được phát hành khi các công ty phát hành các chứng khoán sơ cấp để đầu tư
vào tài sản thực.
Một câu hỏi căn bản được đặt ra đối với ngân hàng là làm thế nào để kinh
doanh ngân hàng có lãi khi mà ngân hàng mua các chứng khoán sơ cấp của các
công ty rồi sau đó đem bán lại cho dân chúng dưới dạng chứng khoán thứ cấp?.
Đây là câu hỏi đặc thù về hoạt động kinh doanh của các ngân hàng và có
ý nghĩa to lớn đối với nền kinh tế nói chung. Ngân hàng làm được điều đó mà
vẫn có lãi là vì chính ngân hàng đã xử lí tốt hơn và giảm được đáng kể ba loại
chi phí, đó là chi phí giám sát, chi phí thanh khoản và rủi ro giá cả mà từng nhà
đầu tư riêng rẽ không thể đạt được. Mà cụ thể là giảm được các chi phí về điều
tra khách hàng, chi phí đại lí và chi phí về luân chuyển tài sản
18
Chi phí về điều tra khách hàng: đối với những người riêng lẻ đầu tư trực
tiếp vào cổ phiếu và trái phiếu công ty phải chịu chi phí cao để điều tra về tình
hình tài chính và hoạt động của công ty này.
Sau khi đã đầu tư, những người đầu tư phải thường xuyên giám sát được
hoạt động của công ty một cách kịp thời và toàn diện, nếu không làm được điều
này thì họ có thể phải gánh chịu hậu quả do công ty có những hoạt động sai lệch
hoặc đi ngược với lợi ích của người đầu tư.
Nghĩa là rủi ro đối với người đầu tư trong trường hợp công ty sử dụng vốn

huy động vào các mục đích khác tiềm ẩn rủi ro cao so với mục đích đã được
cam kết trong hợp đồng phát hành chứng khoán.
Để giải quyết vấn đề này đối với những người đầu tư riêng lẻ, đó là việc
tập hợp các khoản tiết kiệm đơn lẻ vào ngân hàng ( hoặc công ty đầu tư chứng
khoán), để ngân hàng này dùng số vốn huy động được đầu tư trực tiếp cho các
công ty.
Vấn đề tập hợp vốn đầu tư như vậy, giải quyết được một số vấn đề đó
là :Một ngân hàng lớn có đủ điều kiện và có trách nhiệm hơn nhiều so với các
nhà đầu tư riêng lẻ khi thực hịên việc điều tra và giám sát hoạt động kinh doanh
của công ty.
Hơn nữa thông qua ngân hàng thì chi phí bình quân trong việc thu thập xử
lý thông tin và giám sát hoạt động của công ty giảm đáng kể. Qua đó, cho thấy
tính hiệu quả trong việc thu thập và xử lí thông tin đối với ngân hàng phản ánh
lợi thế so sánh của ngân hàng so với những nhà đầu tư riêng lẻ là thế nào.
Trên cơ sở giám sát có hiệu quả và giảm được chi phí, ngân hàng càng tạo
được lòng tin để phát hành thêm các chứng chỉ tiền gửi mới để tăng vốn, vốn
tăng dẫn đến đầu tư vào các công ty tăng, càng tạo cho ngân hàng giám sát tốt
hơn hoạt động của các công ty và càng giảm được chi phí.
Một ví dụ điểm hình về tăng cường giám sát của ngân hàng đối với công
ty có thể minh hoạ thông qua hoạt động tín dụng của ngân hàng . Tín dụng ngân
hàng thông thường có kì hạn ngắn hơn so với đầu tư chứng khoán, vì vậy thông
19
qua hoạt động tín dụng của mình ngân hàng có thể tăng cường giám sát và kiểm
tra hoạt động của công ty sau mỗi lần quyết định cấp tín dụng, thông qua việc
lặp đi lặp lại nhiều lần xét duyệt tín dụng trong một năm, ngân hàng đã trở thành
người nắm bắt được đầy đủ chính xác các thông tin về tình hình tài chính cũng
như điều kiện kinh doanh của công ty.
Điều này có thể thay thế được các điều khoản ràng buộc cứng nhắc trong
các hợp đồng phát hành chứng khoán của các công ty. Thông qua quan hệ với
ngân hàng mà các thông tin trung thực về tình hình tài chính của công ty được

công khai.
Trong trường hợp các thông tin này là thông tin tốt thì công ty có thể phát
hành được chứng khoán ra công chúng với chi phí thấp hơn, và các thông tin sai
lệch về công ty cũng được các nhà đầu tư điều chỉnh. Điều này khuyến khích
được các luồng vốn luân chuyển đúng địa chỉ, làm tăng hiệu quả của toàn bộ nền
kinh tế nói chung
Về thanh khoản và rủi ro giá cả: bên cạnh giảm được chi phí điều tra, thu
thập và xử lý thông tin, ngân hàng còn cung cấp các dịch vụ tiền gửi có tính
thanh khoản cao hơn hẳn so với các cổ phiếu và trái phiếu công ty.
Ngân hàng làm được điều này là do ngân hàng đã dựa trên khả năng đa
dạng hoá danh mục đầu tư của chính ngân hàng . Thông qua hoạt động đa dạng
hoá danh mục đầu tư thì mức độ rủi ro được giảm xuống
Ngoài những dịch vụ đặc thù cơ bản của ngân hàng như thanh toán, thanh
khoản và giảm rủi ro giá cả đã giúp giảm được chi phí giám sát, tăng tính thanh
khoản của tiền gửi và giảm được rủi ro giá cả, thì ngân hàng còn cung cấp thêm
hai dịch vụ đặc thù khác giúp làm giảm chi phí giao dịch và chuyển hoá linh
hoạt kỳ hạn của tài sản đó là:
Giảm chi phí giao dịch: trong khi ngân hàng cung cấp dịch vụ thu thập và
xử lý thông tin hiệu quả, thì ngân hàng cũng cung cấp một tiềm năng to lớn
trong việc giảm chi phí giao dịch.
20
Cũng như trên các thị trường khác, người mua lẻ bao giờ cũng phải chịu
một chi phí giao dịch lớn hơn so với những nhà mua buôn, vì vậy ngân hàng
trên cơ sở nguồn vốn lớn sẽ đầu tư những khoản lớn, do đó chi phí giao dịch
được giảm xuống .
Ngoài ra, do giao dịch với khối lượng lớn nên chênh lệch giữa giá mua và
giá bán thông thường nhỏ hơn đối với những giao dịch có khối lượng nhỏ, điều
này làm tăng được hiệu quả kinh tế chung của xã hội
Chuyển hoá linh hoạt kỳ hạn của tài sản: thông qua việc đa dạng hoá tài
sản, không những giảm được rủi ro, mà ngân hàng còn có thể xử lý được sự

không cân xứng các kỳ hạn của tài sản nợ và tài sản có hiệu quả hơn nhiều so
với các nhà đầu tư riêng lẻ. Ngân hàng đã xử lý tốt việc không cân xứng kỳ hạn
của tài sản đối với toàn bộ nền kinh tế
Trên thực tế, những nhà hoạch định chính sách và những nhà định chế còn
đưa ra một số lĩnh vực thuộc về tính đặc trưng của ngân hàng, đó là: ngân hàng
là đối tượng và đồng thời là các trung gian chuyển tải chính sách tiền tệ, phân bổ
tín dụng, dịch vụ thanh toán
Nói đến đặc thù ngân hàng thì không thể không nói đến rủi ro trong ngân
hàng . Những rủi ro đôí với hoạt động ngân hàng đó là những rủi ro về lãi xuất,
rủi ro ngoại hối, rủi ro tín dụng, rủi ro thanh khoản, rủi ro hoạt động ngoại bảng,
rủi ro công nghệ và hoạt động, rủi ro quốc gia và rủi ro khác
2. Đặc thù của quảng cáo trong ngân hàng
Vì ngân hàng là ngành kinh doanh đặc biệt nên quảng cáo trong ngân
hàng cũng có những đặc thù riêng. Do sản phẩm và dịch vụ của các ngân hàng
có đặc trưng chung nên chúng dễ bị các ngân hàng khác bắt trước, làm theo. Các
hoạt động quảng cáo vì thế cũng dễ bị trùng lặp nhau.
Hơn nữa sản phẩm của ngân hàng là sản phẩm mang tính vô hình, không
lưu giữ được, luôn thay đổi và không đồng nhất, nên hoạt động quảng cáo trong
ngân hàng chủ yếu là dưới hình thức thông tin trực tiếp hoặc là các thông điệp
quảng cáo .
21
Quảng cáo trong ngân hàng chưa được đánh giá cao, chủ yếu các ngân
hàng sử dụng hình thức xúc tiến bán hàng trực tiếp là chính. Tuy nhiên , trong
những năm gần đây quảng cáo ngày càng được chú trọng trong hoạt động của
ngân hàng
Hiệu quả của quảng cáo trong ngân hàng phụ thuộc lớn đến việc chọn thời
gian quảng cáo và phương tiện quảng cáo .Thời gian quảng cáo đúng lúc,
phương tiện phù hợp sẽ tạo ra được hiệu quả cao.Nói cách khác, thời gian quảng
cáo và phương tiện quảng cáo là những yếu tố quyết định thành công trong
quảng cáo .

Quảng cáo trong ngân hàng thường sử dụng phương tiện báo, tạp chí, đài
phát thanh , đài truyền hình, tờ rơi, tờ gấp, quảng cáo qua mạng, quảng cáo qua
các hoạt động tài trợ.
Quảng cáo trên đài phát thanh và đài truyền hình thông thường dưới dạng
tin về các sự kiện hoặc các phóng sự ngắn được phát ở chương trình thời sự, các
chương trình kinh tế.
Còn quảng cáo trên báo, tạp chí thông thường dưới dạng phỏng vấn, bài
viết trực tiếp về hoạt động và chất lượng dịch vụ của ngân hàng hoặc bài viết
khuyếch trương thương hiệu hoặc mở chuyên mục dưới một tờ báo chuyên
ngành lớn như báo Kinh tế Sài Gòn, Thời báo kinh tế Việt nam, diễn đàm doanh
nghiệp…
Phương tiện quảng cáo ngân hàng hữu hiệu nhất có lẽ là tờ rơi, tờ gấp và
quảng cáo qua mạng. Qua các phương tiện này khách hàng có thể biết thông tin
đầy đủ và chính xác nhất về các hoạt động cũng như các sản phẩm và dịch vụ
của ngân hàng
Hiện nay hình thức quảng cáo qua các hoạt động tài trợ cũng được các
ngân hàng ưa dùng, nhưng chủ yếu là các ngân hàng lớn, vì hình thức này rất
tốn kém và phải có sự lựa chọn và cân nhắc kỹ sao cho phù hợp với lĩnh vực
hoạt động kinh doanh ngân hàng
22
B/ THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG QUẢNG CÁO ĐỐI VỚI SẢN PHẨM MỚI
CỦA HABUBANK
I/ ĐÔI NÉT VỀ NGÂN HÀNG HABUBANK
1. Lịch sử ra đời và phát triển
Ngày 2/1/2004, ngân hàng TMCP nhà Hà nội, tên giao dịch là Habubank
tổ chức lễ kỷ niệm 15 năm ngày thành lập (2/1/1989 – 2/1/2004)
Khi mới thành lập, Habubank chỉ có 16 cán bộ với số vốn ban đầu 5 tỷ
VNĐ, hoạt động theo hướng chuyên doanh.
Trải qua 15 năm xây dựng và trưởng thành từ một ngân hàng chuyên
doanh nhà ở sang ngân hàng đa năng với những thành tựu nổi bật, đến nay ngân

hàng đã có đội ngũ CBCNV đông đảo ( 216 người ), trong đó 70% có trình độ
đại học và trên đại học. Vốn điều lệ tăng 24 lần ( từ 5 tỷ lên 120 tỷ đồng ), tổng
tài sản tăng 357 lần ( từ 7 tỷ VNĐ lên 2500 tỷ VNĐ ).
Habubank bước đầu đã phát triển được một mạng lưới gồm nhiều chi
nhánh tại các địa bàn kinh tế trọng điểm của cả nước: Hà Nội, Bắc Ninh, Quảng
Ninh, và TP Hồ Chí Minh. Đồng thời, Habubank cũng phát triển quan hệ với
hàng nghìn đại lí trong và ngoài nước (83 nước ).
Dựa trên cơ sở đầu tư phát triển và ứng dụng các công nghệ ngân hàng
hiện đại, lĩnh vực hoạt động của Habubank cũng ngày càng được mở rộng, sản
phẩm và dịch vụ của ngân hàng ngày càng phong phú và đa dạng để đáp ứng
nhu cầu của dân cư
2. Ý nghĩa tên gọi và biểu trưng logo của Habubank
Từ khi chuẩn bị thành lập ngân hàng TMCP Nhà Hà nội năm 1986, ban
trù bị đã thống nhất lấy tên Habubank làm tên giao dịch quốc tế. Tuy bề bộn với
nhiều công việc nhưng ban trù bị cũng không quên tìm một biểu tượng ( logo)
cho Ngân hàng nhà. Ý tưởng đó được nêu ra tại hội nghị những người mua cổ
phần đầu tiên của ngân hàng vào tháng 12/1989 và dự kiến sẽ thuê người thiết
kế
23
Trong hội nghị đó có một cổ đông lớn là “Công ty xây dựng 11” thuộc bộ
xây dựng do anh Nguyễn Văn Vịnh , phó tổng giám đốc đại diện và anh đã nhận
thiết kế biểu tượng cho ngân hàng
Ít ngày sau anh gửi đến logo đơn giản và sống động với các nội dung:
Tên giao dịch quốc tế là Habubank được sử dụng như những viên gạch nền
móng vững chắc; tên viết tắt là HBB in đậm là một điểm nhấn, gợi cảm giác uy
nghi một ngôi nhà, thể hiện sự vững vàng, hãnh diện của mô hình kinh tế mới,
niềm mơ ước của TP Hà Nội và ngành ngân hàng thời kì bắt đầu đổi mới.
Anh tâm đắc với hìng thức “cổ phần” và khẳng định đó là cốt lõi của sự
chuyển mình sang cơ chế thị trường, vì vậy anh đã cất lên mái nhà Habubank
những lớp lợp ( vạch), thể hiện cho sự đa dạng của các thành phần kinh tế

Đường viền bao quanh ngôi nhà là biểu tượng cho tính thống nhất, đoàn
kết chung sức, chung lòng của tập thể lãnh đạo, công nhân viên trong đại gia
đình Habubank: đường gấp khúc vuông góc, sắc cạnh là tính kỷ luật , nghiêm
minh trong môi trường kinh doanh tiền tệ, đường uốn cong mềm mại, uyển
chuyển thể hiện cho tính linh hoạt trong các hoạt động kinh doanh của ngân
hàng
24
3. Sơ đồ cơ cấu tổ chức Habubank
25
HĐQT
Ban điều hành
Ban kiểm soát
Uỷ ban quản lý
tài sản
Uỷ ban chính
sách tín dụng
Rủi ro thị trường
và thanh toán
Rủi ro tín dụng
Dịch vụ NH Doanh
nghiệp phát triền
kinh doanh
Tổng giám đốc
điều hành
Rủi ro hoạt
động
Phó tổng giám
đốc
Nguồn vốn
Hỗ trợ quản lý và kiểm tra kiểm soát nội bộ

Kiểm tra và xét
duyệt tín dụng
Phó tổng giám
đốc
Cung ứng
dịch vụ ( giao
dịch)
Marketing và dịch
vụ NH Tiêu dùng
Phó tổng giám
đốc

×