GIÁO TRÌNH
MÔI TRƯỜNG BẢO
QUẢN TÀI LIỆU
Mục lục
Nhiệt độ, độ ẩm tương đối, ánh sáng và chất lượng không khí: chỉ dẫn cơ
bản cho công tác bảo quản
Theo dõi nhiệt độ và độ ẩm tương đối
Thực hiện theo thiết kế: đưa hệ thống vào hoạt động
Bảo vệ tài liệu giấy tránh những hư hại do ánh sáng gây ra
Bảo quản sách và tài liệu viết trên chất liệu giấy trong quá trình trưng bày
Sherelin Ocđen - Trưởng ban bảo quản, Hiệp hội lịch sử
Minesota
Điều chỉnh nhiệt độ và độ ẩm tương đối rất quan trọng
trong công tác bảo quản thư viện và các nơi lưu trữ vì khi
nhiệt độ và độ ẩm không đảm bảo sẽ góp phần đáng kể
làm hỏng các tư liệu lưu trữ. Nhiệt độ cao cũng làm gia
tăng mức độ hư hỏng: hầu hết các phản ứng hoá học gây
hỏng tư liệu có tỷ lệ tăng gần gấp đôi mỗi khi nhiệt độ
tăng 18 độ F (khoảng 10 độ C). Độ ẩm tương đối cao tạo
ra độ ẩm cần thiết, xúc tiến các phản ứng hóa học có hại
đối với tư liệu, và khi kết hợp với nhiệt độ cao gây ra sự
phát triển của nấm cũng như các loại côn trùng. Độ ẩm
tương đối đặc biệt thấp, thường xuất hiện vào mùa đông
ở
những nơi sử dụng hệ thống điều hoà trung tâm, có thể
làm cho một số loại tư liệu lưu trữ trở nên khô và giòn.
Sự dao động về nhiệt độ và độ ẩm tương đối cũng gây tác
hại. Các tư liệu lưu trữ thường có tính hút ẩm, rất dễ hút
và nhả hơi nước. Sự thay đổi về nhiệt độ và độ ẩm tương
đối hàng ngày và theo mùa có thể làm các tư liệu lưu trữ
nở ra hoặc co lại. Những thay đổi nghiêm trọng gia tăng
mức độ hư hỏng, dẫn tới những thiệt hại thấy được như
quăn gi
ấy, bong mực, cong v
ênh bìa sách, và r
ạn bong
ảnh. Tuy nhiên, ở một số cơ sở thư viện, các tư liệu lưu tr
ữ
có thể được bảo vệ trư
ớc các dao động ở mức độ vừa phải.
Một số loại chất liệu đóng gói kèm theo hoặc sách báo
đóng gói sát nhau có thể gây ra các thay đổi nhỏ về nhiệt
độ và độ ẩm.
Lắp đặt đầy đủ và vận hành các thiết bị điều chỉnh khí
hậu để duy trì tiêu chuẩn bảo quản sẽ làm chậm tiến tr
ình
hư hỏng các tư liệu lưu trữ một cách đáng kể. Thiết bị
điều chỉnh khí hậu được xếp theo độ phức tạp: từ máy
điều hoà, máy tạo độ ẩm và / hoặc máy hút ẩm từng ph
òng
đơn giản đến hệ thống điều hoà trung tâm cho cả toà nhà
để có thể lọc, làm mát, sưởi, tạo ẩm và hút ẩm không khí.
Cần tìm kiếm sự trợ giúp của các kỹ sư có kinh nghiệm về
lĩnh vực điều chỉnh khí hậu để có thể chọn và lắp đặt thiết
bị. Cần có thêm các biện pháp để điều chỉnh nhiệt độ và
độ ẩm tương đối. Toàn bộ toà nhà cũng cần được bảo
dưỡng tốt, cần phải hàn gắn các vết rạn nứt ngay khi mới
xuất hiện. Cửa đi và cửa sổ bên ngoài phải bịt các khe gió
và phải đóng kín để tránh lưu thông với không khí ngoài
trời. Tại những vùng có mùa đông lạnh, phía trong cửa sổ
phải đư
ợc bít kín bằng các tấm dính hoặc bằng băng dính.
Tại các khu vực lưu tr
ữ có thể bịt các cửa sổ bằng các tấm
ván lát tư
ờng hoặc bằng băng dính.
Các nhà chuyên môn thường bất đồng về nhiệt độ và độ
ẩm tương đối tối ưu cho các tư liệu lưu trữ. Thông thư
ờng
họ cho rằng nhiệt độ ổn định không cao hơn 70 độ F, còn
độ ẩm tương đối ổn định dao động trong khoảng tối thiểu
là 30% và tối đa là 50%. Qua nghiên cứu cho thấy độ ẩm
tương đối dao động ở mức thấp thì tốt hơn vì khi đó tiến
trình xuống cấp của tư liệu diễn ra ở tốc độ chậm h
ơn. Nói
chung, nhiệt độ càng thấp càng tốt. Nhi
ệt độ trong các khu
vực chỉ dành riêng cho lưu trữ nên thấp hơn nhiều so với
nhiệt độ ở các khu vực vừa dùng để lưu trữ vừa dùng để
tra cứu.
Đôi khi nên lưu trữ các tư liệu ít sử dụng ở nhiệt độ lạnh
có sử dụng thiết bị điều chỉnh độ ẩm. Tuy nhiên khi lấy
các tư liệu ra khỏi khu vực lưu trữ ở nhiệt độ lạnh thì sự
thay đổi nhiệt độ nhanh có thể làm cho các tư liệu đó bị
ngưng tụ hơi nước . Trong trường hợp như vậy cần phải
có sự thay đổi nhiệt độ dần dần để dễ thích nghi.Duy trì
các điều kiện ổn định rất quan trọng. Thư viện hay các cơ
sở lưu trữ cần chọn lựa nhiệt độ và độ ẩm tương đối trong
khoảng tối ưu, duy trì trong suốt 24 tiếng một ngày trong
suốt 365 ngày trong năm. Không bao giờ được tắt hệ
thống điều chỉnh khí hậu cũng như không đặt chế độ thấp
hơn v
ề đ
êm, vào cu
ối tuần hoặc v
ào b
ất cứ thời gian n
ào
mà thư viện và các nơi lưu trữ đóng cửa. Chi phí phát
sinh do vận hành liên tục hệ thống này sẽ ít hơn nhiều so
với chi phí khắc phục bảo quản trong tương lai để phục
chế các hư hỏng do điều kiện khí hậu không đảm bảo.
Mặc dù nhiều thư viện và các nơi lưu trữ thấy thực hiện
việc này rất tốn kém và ngoài khả năng, nhưng qua thực
tiễn và qua kiểm nghiệm cho thấy thời hạn sử dụng của
các tư liệu tăng đáng kể nhờ duy trì ổn định nhiệt độ và đ
ộ
ẩm tương đối. Tại những nơi không đủ điều kiện kinh tế
hoặc thiếu hệ thống máy móc để có thể duy trì các điều
kiện tối ưu quanh năm thì có thể chọn tiêu chuẩn ít
nghiêm ngặt hơn trong mùa hè và mùa đông sao cho nhiệt
độ và độ ẩm tương đối sẽ thay đổi dần dần trong khoảng
cho phép giữa hai mùa. Tiêu chuẩn về nhiệt độ và độ ẩm
tương đối theo mùa càng gần mức tối ưu càng tốt. Đáng
chú ý là các tư liệu không bằng chất liệu giấy có thể đòi
hỏi nhiệt độ và độ ẩm tương đối khác với các tư liệu bằng
chất liệu giấy. Ngoài ra, việc duy trì nhiệt độ và độ ẩm
tương đối ở mức tối ưu có thể gây hư hại đến kết cấu của
toà nhà dùng để lưu trữ tư liệu, vì vậy không tránh khỏi
những lựa chọn mang tính thoả hiệp giữa các quyết định
trên.
C
ần đo v
à ghi l
ại nhiệt độ v
à đ
ộ ẩm t
ương đ
ối một c
ách có
hệ thống. Điều này rất quan trọng vì các số liệu đó 1) nêu
lên điều kiện môi trường mà các tư liệu lưu trữ tư liệu; 2)
làm cơ sở để yêu cầu lắp đặt hệ thống điều chỉnh môi
trường; và 3) chỉ ra liệu thiết bị điều chỉnh khí hậu đang
sử dụng có hoạt động hiệu quả và tạo ra một môi trường
đủ tiêu chuẩn hay không. Nên nhớ rằng một yếu tố thay
đổi có thể làm các yếu tố khác thay đổi theo. Nếu đưa ra
các biện pháp không coi trọng đến tổng thể môi trường th
ì
có thể sẽ làm tình hình xấu đi chứ không cải thiện
gì thêm.
Cần phải biết ( thông qua các số liệu đo được) thực trạng
điều kiện môi trường như thế nào và phải xin ý kiến của
các kỹ sư có kinh nghiệm trong lĩnh vực điều chỉnh khí
hậu trước khi đưa ra các thay đổi lớn. Không nên quá
nhấn mạnh đến tầm quan trọng của việc tiếp tục giám sát
sau khi có các thay đổi.
Ánh sáng.
Ánh sáng cũng góp phần làm hỏng các tư liệu lưu trữ.
Anh sáng có thể làm suy yếu và làm giòn các sợi giấy v
à có
thể làm giấy ngả màu vàng hoặc sẫm lại. Ánh sáng cũng
gây ra lớp trung gian, làm bạc màu hoặc đổi màu giấy,
làm cho giấy không đọc được và / hoặc thay đổi lớp ngoài
của tài liệu, giấy ảnh, các tác phẩm nghệ thuật. Bất cứ sự
ti
ếp xúc n
ào v
ới ánh sáng, cho d
ù ch
ỉ trong thời gian ngắn,
đều gây hại, và tác hại đó bị tích lại và không thể thay đổi
được.
Ánh sáng bình thường được đo bằng độ lux (độ lumen
trên một đơn vị mét vuông) hoặc bằng độ phút nến. Một
phút nến tương đương với 11 lux. Trước đây, người ta
định ra độ sáng cho các loại vật liệu nhậy sáng, trong đó
có giấy, là 55 lux (5 phút nến), và cho các vật liệu kém
nhậy sáng với mức tối đa là 165 lux (15 phút nến). Gần
đây, các tiêu chuẩn trên đang gây ra tranh cãi v
ới lí do mỹ
học và mức độ bạc màu khác nhau đối với các lớp trung
gian khác nhau.
Mặc dù tất cả các bước sóng ánh sáng đều có hại, nhưng
tia cực tím (UV) là có hại nhất đối với các tư liệu lưu trữ
vì cường độ năng lượng cao của nó. Tiêu chuẩn cho phép
của tia cực tím là 75cmW/l. Ánh sáng mặt trời và ánh
sáng vonpham - halogien hoặc đèn thạch anh, đèn sạc sử
dụng kim loại halide hoặc thuỷ ngân với cường độ cao, và
đèn huỳnh quang là một số nguồn sáng gây hại nhất vì
chúng sản ra một lượng lớn tia cực tím.
Vì toàn bộ tổn hại là sự kết hợp giữa thời lượng và cường
độ của việc tiếp xúc với ánh sáng, nên cần điều chỉnh ánh
sáng ở mức thấp nhất ( phù hợp với người sử dụng) và
trong th
ời gian n
g
ắn nhất cho phép. Tốt nhất l
à ch
ỉ n
ên đ
ể
tư liệu tiếp xúc với ánh sáng khi có người sử dụng. Khi
không có người sử dụng, nên cất giữ tư liệu ở những
thùng kín hoặc trong các phòng không có cửa sổ và chỉ
thắp sáng khi có người cần truy cập. Chỉ nên thắp sáng
bằng các bóng đèn ánh sáng nóng. Khi sử dụng tư liệu,
nên thắp sáng bằng bóng đèn có ánh sáng nóng. C
ần chú ý
rằng bóng đèn ánh sáng nóng sản sinh ra nhiệt lượng và
phải để xa khỏi tư liệu. Nên sử dụng đèn ở mức ánh sáng
yếu, và sử dụng càng ít càng tốt.
Nên che cửa sổ bằng rèm, các tấm bạt phủ hoặc các tấm
ván sập để hoàn toàn chặn ánh sáng mặt trời. Thực hiện
việc này cũng giúp điều chỉnh nhiệt độ bằng cách giảm
thiểu năng lượng thất thoát và ngăn chặn sự sản nhiệt do
ánh sáng mặt trời vào ban ngày. Các toà nhà mái kính để
ánh sáng mặt trời chiếu thẳng vào tư liệu cần phải có biện
pháp che phủ tránh ánh sáng mặt trời hoặc sơn mái bằng
titan đioxít ho
ặc bằng cách tráng kẽm trắng, nhờ đó có thể
phản xạ ánh sáng mặt trời và h
ấp thụ tia cực tím. Các tấm
lọc làm bằng chất dẻo đặc biệt cũng giúp hạn chế tia cực
tím. Có thể sử dụng các tấm phim chất dẻo hoặc các tấm
kính chất dẻo lọc tia cực tím che cửa sổ để giảm lượng tia
cực tím chiếu qua. Tuy nhiên, các tấm lọc này không đảm
bảo ngăn chặn hoàn toàn tác hại do ánh sáng gây ra. Nên
dùng các lo
ại r
èm, mành, v
ải che v
à c
ửa sập có thể chặn
hoàn toàn ánh sáng. Nên bọc các bóng đèn huỳnh quang
bằng các túi lọc tia cực tím ở những nơi phải chiếu sáng t
ư
liệu. Để thay thế có thể sử dụng loại bóng đèn huỳnh
quang đặc biệt có lượng tia cực tím thấp. Nên sử dụng các
công tắc đèn hẹn giờ ở các khu lưu trữ để hạn chế thời
lượng tư liệu phải tiếp xúc với ánh sáng.
Nên tránh trưng bày tư liệu thường xuyên vì tư liệu chỉ
cần tiếp xúc ít với ánh sáng cũng có hại, nên trưng bày
thường xuyên là hỏng hoàn toàn. Nếu bắt buộc phải tr
ưng
bày tư liệu, thì nên trưng bày trong thời gian ngắn nhất v
à
dưới ánh sáng yếu nhất, nên sử dụng ánh sáng nóng.
Không bao giờ được trưng bày tư liệu ở những nơi có ánh
sáng mặt trời chiếu thẳng, ngay cả khi chỉ trong thời gian
ngắn và khi đã che cửa sổ bằng các tấm lọc tia cực tím.
Chất lượng không khí
Các chất ô nhiễm cũng góp phần đáng kể làm hỏng các tư
liệu lưu trữ. Hai dạng ô nhiễm chính là dạng khí và dạng
bụi. Các loại khí gây ô nhiễm chủ yếu là khí đi-ô-xít sul-
phua, khí ô-xít ni-tơ, khí pê-rô-xít, và khí ô-zôn, các chất
khí này xúc tiến các phản ứng hoá học có hại dẫn đến việc
hình thành a-xít trong các tư liệu lưu trữ. Đây là một vấn
đề nghiêm trọng đối với các chất liệu giấy và da, những
ch
ấ
t li
ệu n
ày đ
ặc biệt dễ bị hỏng khi nhiễm a
-
xít. Gi
ấy sẽ
bị mất màu và giòn, còn da sẽ nhũn và bị tơi ra thành bột.
Các chất ô nhiễm dạng bụi chủ yếu bao gồm bồ hóng,
muội than, các chất bụi mài mòn, bụi đất và các loạI vật
liệu bị biến dạng.
Kiểm soát chất lượng không khí rất khó khăn và ph
ức tạp
và còn phụ thuộc vào rất nhiều các yếu tố liên quan.
Người ta đưa ra nhiều tiêu chuẩn khác nhau về chất lư
ợng
không khí. Tuy nhiên, cho đến giờ thì biện pháp hữu hiệu
nhất vẫn là hạn chế các chất ô nhiễm ở mức thấp nhất.
Có thể khử các chất khí ô nhiễm bằng các thiết bị hoá lọc,
các tháp đốt khí hoặc dùng cả hai biện pháp trên. Các
chất ô nhiễm dạng bụi có thể qua lọc máy. Không nên sử
dụng các thiết bị kết tủa tĩnh điện vì chúng s
ản sinh ra khí
ô-zôn. Các thiết bị rất khác nhau về kích cỡ và độ phức
tạp: từ máy lọc riêng lẻ gắn vào lỗ thông hơi,
ống khói đến
hệ thống các máy lọc không khí cho cả toà nhà.
Các thiết bị cũng rất khác nhau về tính hiệu quả. Cần lưu
ý rằng chọn các thiết bị phải phù hợp với nhu cầu của các
cơ sở thư viện và phù hợp với mức độ ô nhiễm trong khu
vực. Cần tuân theo lịch trình bảo dưỡng đều đặn, và nên
tham khảo ý kiến của các kỹ sư môi trường có kinh
nghi
ệm.
Ngoài ra còn có nhiều biện pháp kiểm soát chất lượng
không khí. Một biện pháp là tạo ra không khí sạch đối l
ưu
ở những khu vực lưu trữ, không khí đối lưu càng sạch
càng t
ốt. Cần chú ý đảm bảo không đặt các quạt thông gió
ở gần các nguồn gây ô nhiễm như gần các bãi đỗ xe tải.
Một biện pháp khác là đóng các cửa sổ thông ra bên
ngoài. Biện pháp nữa là lưu trữ các tư liệu trong bao bì
đảm bảo chất lượng lưu trữ, nhờ đó ngăn chặn ảnh hư
ởng
ô nhiễm đến các tư liệu. Các loại bao bì mới hiện nay sử
dụng các lớp gom phân tử như than hoạt tính hoặc zê-ô-
lít
để chặn các chất ô nhiễm đã chứng tỏ là biện pháp đặc
biệt hữu hiệu. Biện pháp cuối cùng là phải loại bỏ càng
nhiều càng tốt các nguồn gây ô nhiễm. Có lẽ sẽ khó kiểm
soát những nguồn gây ô nhiễm chính như động cơ ôtô và
máy móc công nghiệp. Tuy nhiên, có thể hạn chế các
nguồn ô nhiễm khác như khói thuốc lá, máy phôtô, một số
loại vật liệu xây dựng, sơn, vật liệu trám, đồ lưu trữ hoặc
đồ trưng bàybằng gỗ, các thiết bị làm sạch, đồ gỗ và thảm.
Nhiệt độ, độ ẩm tương đối, ánh sáng và chất lượng không
khí, tất cả đều ảnh hưởng đến tuổi thọ của các tư liệu lưu
trữ. Nếu tuân thủ các hướng dẫn nêu trên, chúng ta có th
ể
kéo dài tuổi thọ của các tư liệu đó.
Beth Limdblom Patlcus
- Chuyên gia tư vấn về Bảo tồn,
Walpole, MA
Phần giới thiệu
Sách báo, tranh ảnh hoặc các đồ vật làm bằng giấy đều
dễ bị hư hỏng bởi môi trường. Hơi nóng, hơi ẩm, ánh
sáng và bụi bẩn tạo ra những phản ứng hoá học mang
tính huỷ hoại. Tình trạng ấm và ẩm làm thúc đẩy các
quá trình sinh học như nấm mốc và côn trùng sinh sôi
nảy nở. Mặc dù một số chất liệu được sử dụng để làm
sách báo, tài liệu và vật phẩm trên giấy có độ bền tương
đối, song những chất liệu khác (như bột giấy nghiền và
các loại mực làm từ a-xít) sẽ hư hỏng nhanh chóng dưới
những điều kiện môi trường không thuận. Các viện bảo
tàng, thư viện và khu bảo tồn lịch sử đều phải hứng chịu
những hiện tượng tương tự như bất kỳ một toà nhà nào
khác, song những nơi này lại có trọng trách duy trì, bảo
tồn những đồ vật lưu giữ cho các thế hệ trong tương lai.
Dù chúng ta không thể triệt tiêu mọi quá trình phân huỷ
các tư liệu văn hoá thông qua tiếp cận với các bộ sưu t
ập,
song chúng ta có thể làm chậm lại đáng kể quá trình gây
hư hỏng thông qua việc tạo ra môi trường ôn hoà. Việc
ki
ểm soát một số nhân tố, nh
ư ánh sáng, khá d
ễ d
àng và
không tốn kém. Trái lại, kiểm soát không khí (nhiệt độ
và độ ẩm tương đối) lại là một nhiệm vụ khó khăn hơn
nhiều. Theo dõi nhiệt độ và độ ẩm tương đối có ý nghĩa
then chốt để kiểm soát môi trường hiệu quả. Việc theo
dõi này có thể nhằm một vài mục đích: cung cấp các
thông số cho thấy việc kiểm soát môi trường hiện tại là
chưa đủ; lập hồ sơ về các điều kiện môi trường hiện nay
để chuẩn bị cho những đổi mới về trang thiết bị; đánh
giá hiệu quả của những đổi mới về trang thiết bị đã được
tiến hành; và/hoặc bảo vệ chống lại những thái cực môi
trường có thể xảy ra.
Tại sao việc kiểm soát môi trường lại quan trọng?
Việc kiểm soát môi trường rất quan trọng vì nhiệt độ và
độ ẩm tương đối không thích hợp có thể hạn chế nghiêm
trọng tuổi thọ của các đồ vật lưu trữ làm từ giấy. Nhiều
người cho rằng nhiệt độ có ảnh hướng lớn nhất lên các
đồ lưu trữ (như sức ảnh hưởng của nó đến con người),
trong trên thực tế, độ ẩm tương đối ít nhất cũng góp
phần quan trọng không kém vào quá trình gây hư hỏng
giấy. Hầu hết mọi người đều nhận thức được rằng nhiệt
độ và độ ẩm tương đối cao sẽ khích thích sự phát triển
của nấm mốc và sự sinh sôi của côn trùng, song trong
thực tế, ảnh hưởng của môi trường lưu trữ lên các đồ l
ưu
gi
ữ c
òn ph
ức tạp h
ơn nhi
ều.
Cũng cần nhận thấy rằng nhiệt độ và độ ẩm tương đ
ối có
mối quan hệ tương tác – một thay đổi trong yếu tố n
ày có
thể đưa tới một thay đổi trong yếu tố kia. Không khí ấm
giữ nhiều độ ẩm hơn không khí mát, nên nếu lượng hơi
ẩm trong không gian không đổi, thì độ ẩm tương đối (thể
hiện “dưới dạng phần trăm lượng nước trong không khí
tương ứng với một lượng không khí nhất định” ) sẽ giảm
khi nhiệt độ tăng, và s
ẽ tăng khi nhiệt độ giảm (mối quan
hệ giữa nhiệt độ và độ ẩm tương đối này có thể tính đư
ợc
bằng biểu đồ đo độ ẩm). Ví dụ, nếu một không gian đang
ở 60 độ F và độ ẩm tương đối 70%, thì độ ẩm tương đối
sẽ giảm xuống còn khoảng 40% nếu nhiệt độ tăng lên 75
độ F. Mặt khác, nếu nhiệt độ giảm, độ ẩm tương đối sẽ
tăng, và khi nó đạt đến 100%, lúc đó không khí sẽ sũng
nước và hơi ẩm sẽ đọng thành nước (đây gọi là điểm
ngưng tụ). Ví dụ, nếu một không gian ở nhiệt độ 70 độ F
và độ ẩm tương đối là 50% và nhi
ệt độ đột ngột hạ xuống
dưới 50 độ F, quá trình ngưng tụ sẽ xảy ra trên các đồ
vật lưu trữ.
Quá trình hư hỏng của giấy (cùng với nhiều hình thức
phân huỷ khác của các chất liệu hữu cơ như da, vải và
băng từ) là một minh chứng về sự phá huỷ hoá học, và
phản ứng hoá học chi phối quá trình này chủ yếu bị ảnh
hư
ởng bởi môi tr
ư
ờng. Nhiệt độ l
àm gia tăng t
ốc độ của
các phản ứng hoá học gây ra sự phá huỷ của a-xít. Một
phương pháp đơn giản quen thuộc ước tính rằng các
phản ứng hoá học sẽ tăng gấp đôi nếu nhiệt độ tăng lên
15 độ F (tương đương 10 độ C). Trong trường hợp đặc
biệt có chất xenluloza, các thử nghiệm nhân tạo kéo dài
cho thấy nhiệt độ tăng lên 9 độ F sẽ làm cho tốc độ phá
huỷ tăng gần gấp đôi, thậm chí trong điều kiện không có
ánh sáng, bụi bẩn, hay các nhân tố khác. Độ ẩm tương
đối mang hơi ẩm cũng góp phần làm tăng những phản
ứng này - độ ẩm càng cao, thì quá trình phá huỷ càng
diễn ra nhanh.
Những mẫu nghiên cứu nhằm lượng hoá tác động của
nhiệt độ và độ ẩm tương đối lên quá trình phá huỷ hoá
học, đã được đưa ra ứng dụng trong mấy năm qua. Viện
Lưu ảnh (IPI) tại Viện Công nghệ Rochester đã ứng
dụng “Chỉ số bảo tồn”, xây dựng trên công trình của
Donald Sebera, trước từng làm việc cho Thư viện Quốc
hội. Công cụ này đưa ra một ý tưởng chung về khoảng
thời gian các đồ lưu trữ bằng giấy bị hư hại rõ nét tại
một nhiệt độ và độ ẩm tương đối cụ thể. Mẫu nghiên cứu
này cho thấy các chất liệu hữu cơ có tuổi thọ ngắn được
cất giữ ở nhiệt độ 72 độ F và độ ẩm tương đối 50% sẽ có
tuổi thọ xấp xỉ khoảng 33 năm, nhưng nếu nhiệt độ được
h
ạ thấp xuống 62 độ F v
à đ
ộ ẩm t
ương đ
ối c
òn 40%,
những chất liệu này sẽ có tuổi đời là 88 năm. Mẫu này
cũng chỉ rõ nếu các chất liệu chịu những nhiệt độ và độ
ẩm cao (như nhiệt độ 82 độ F và độ ẩm tương đối 75%),
thì quá trình hư hỏng sẽ rõ nét chỉ trong vòng 9 năm
hoặc thậm chí ngắn hơn .
Một khía cạnh thú vị khác của nghiên cứu này là nó
chứng minh rằng thông qua nhiều sự kết hợp khác nhau
giữa nhiệt độ và độ ẩm tương đối, ta có thể đạt được
cùng một tuổi thọ như đã dự kiến. Ví dụ, các điều kiện
nhiệt độ 57 độ F và độ ẩm tương đối 50% hay 82 độ F và
35% sẽ cùng thu về một kết quả là tuổi thọ dự tính gần
100 năm . Điều này sẽ cho phép các cơ quan bảo tồn, bảo
tàng có thể linh ậnt lựa chọn cách thức kiểm soát môi
trường, mặc dù độ ẩm và nhiệt độ quá cao vẫn luôn là
những điều kiện phải tránh do có nguy cơ phát tri
ển nấm
mốc và côn trùng.
Ánh hưởng của những dao động về nhiệt độ và độ ẩm
tương đối lên đồ vật lưu trữ là một mối quan ngại lớn
khác đối với việc kiểm soát môi trường. Những dao động
về nhiệt độ rất nghiệm trọng – nghiên cứu được tiến
hành tại Thư viện Quốc hội cho thấy nếu giấy đã từng
trải qua những dao động về nhiệt độ, thì quá trình phá
huỷ hoá học của giấy đó diễn ra nhanh hơn so với giấy
đư
ợc cất tại n
ơi có nhi
ệt độ không đổi
. Hơn n
ữa, giấy
–
giống như nhiều chất liệu khác – chứa chất hogroscope,
có nghĩa là nó có khả năng hấp thụ và toả hơi ẩm. Điều
này có nghĩa là khi nhiệt độ tăng lên và độ ẩm tương đối
giảm xuống, hơi ẩm sẽ được thải từ một đồ vật có chứa
hogroscope ra ngoài không khí, vì đồ vật này cố gắng
duy trì trạng thái cân bằng. Khi nhiệt độ hạ xuống và độ
ẩm tương đối lại tăng lên, hơi ẩm lại quay trở lại đồ vật.
Quá trình này có thể gây ra một sức ép tự nhiên vì sự
thay đổi tỷ lệ độ ẩm khiến cho chất liệu nở ra và co lại.
Điều này gây tổn hại nghiêm trọng đến những chất liệu
tổng hợp như nội thất và các tác phẩm nghệ thuật, và
khiến cho sách báo và giấy tờ bị quăn và biến dạng (mặc
dù trong một số trường hợp, sách báo và giấy tờ được
bảo vệ tránh những dao động vừa phải của độ ẩm tương
đối, vì những thay đổi về độ ẩm có thể gia tăng do điều
kiện lưu trữ khép kín hay do sách báo bị đóng chặt với
nhau .
Cuối cùng, các nhà quản lý lưu trữ phải nhận thức được
rằng mặc dù không có nguy cơ cụ thể nào gắn với môi
trường lưu trữ ở nhiệt độ thấp (trên thực tế, việc lưu trữ
trong điều kiện như vậy làm giảm đáng kể quá trình hư
hỏng), song độ ẩm tương đ
ổi thấp lại gây tổn hại đến một
số chất liệu. Lâu nay, người ta luôn lo ngại rằng giấy sẽ
r
ất dễ h
ư h
ỏng nếu l
ưu gi
ữ tại các độ
ẩm t
ương đ
ối thấp.
Nghiên cứu cho thấy rằng giấy có thể được lưu giữa an
toàn ở độ ẩm tương đ
ối khoảng 20%, hoặc 30% nếu phải
tăng độ ẩm lên; nên không nhất thiết phải lưu trữ ở
những độ ẩm từ 40-50% mới bảo đảm mục tiêu an toàn.
Đối với các chất liệu giấy da và phim ảnh, nên duy trì độ
ẩm tương đối thấp để tạo môi trường hoá học ổn định;
song những chất liệu này không được lưu giữ ở độ ẩm
dưới 30%. Đặc biệt, trong trường hợp giấy da, cần hết
sức lưu ý tránh thay đổi môi trường nhanh chóng vì điều
này có thể gây hư hỏng đối với đồ vật .
Việc kiểm soát môi trường rất tốn kém- vậy kết quả thu
được ở đây là gì?
Mặc dù giới lưu trữ, bảo tồn không thể thống nhất về
những tiêu chuẩn cụ thể đối với việc kiểm soát môi
trường khi lưu giữ những đồ vật làm từ giấy, song các
nhà quản lý vẫn đạt được sự nhất trí về một số kết luận
chung rút ra từ nghiên cứu, đó là:
- Nhiệt độ trên 70 độ F và độ ẩm tương đối trên 55-60%
sẽ kích thích nấm mốc và côn trùng phát triển.
- Quá trình hư hỏng sẽ gia tăng tại những thái cực môi
trường: độ ẩm cao làm gia tăng quá trình hình thành a-
xít; độ ẩm tương đối dưới 30% có thể gây hại cho giấy,
gi
ấy da, chất kết dính, nhũ t
ương phim
ảnh v
à các ch
ất
liệu khác.
- Trong khoảng giới hạn này thì nhiệt độ và độ ẩm tương
đối càng thấp càng tốt, với điều kiện chúng không giao
động .
Bước đầu tiên nhằm hạn chế sự hư hỏng thông qua việc
quản lý môi trường tốt mà cơ quan lưu tr
ữ cần chú trọng
là duy trì điều kiện môi trường ổn định trong suốt cả
năm, nhiệt độ không cao quá 70 độ F và độ ẩm tương đối
từ 30-50%. Đây là những giá trị được đưa ra trong cuốn
Nguyên tắc chỉ đạo về môi trường đối với việc lưu giữ
giấy tờ, một báo cáo kỹ thuật của Tổ chức Tiêu chuẩn
Thông tin Quốc gia. Báo cáo chỉ rõ rằng cần lựa chọn
một tiêu chí giá trị trong khoảng 30-50% đối với độ ẩm
tương đối, điều này phụ thuộc vào yếu tố nào hệ thống
kiểm soát môi trường của cơ quan đó có thể duy trì ổn
định lâu dài. Báo cáo lưu ý rằng nhiệt độ không nên thay
đổi vượt quá mức ±2 độ F và độ ẩm tương đối không nên
lên xuống quá mức ±3% trong vòng 24 tiếng đồng hồ.
Nếu kiểm soát được những dao động, sự tổn hại đối với
đồ lưu trữ sẽ chậm hơn đáng kể so với hàng loạt những
điều kiện lưu trữ hiện nay tại nhiều khu vực khác nhau
của Mỹ và Ca-na-đa.