Tải bản đầy đủ (.pdf) (57 trang)

nghiên cứu sản xuất các chất kích thích tăng trưởng từ nguồn nước thải công nghiệp giấy

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (998.36 KB, 57 trang )


Bộ Công Thơng







Báo cáo
kết quả nghiên cứu đề tài

"Nghiên cứu sản xuất các chất kích thích
tăng trởng cây trồng từ nguồn nớc thải
công nghiệp giấy".


Chủ nhiệm đề tài : Th.S Nguyễn Hoài Vân










7709
12/02/2010




Hà Nội 2009



Bộ Công Thơng








Báo cáo
kết quả nghiên cứu đề tài

"Nghiên cứu sản xuất các chất kích thích
tăng trởng cây trồng từ nguồn nớc thải
công nghiệp giấy".



Chủ nhiệm đề tài : Th.S Nguyễn Hoài Vân Viện Hoá học CN Việt Nam
Những ngời tham gia :
Th.S Văn Thị Lan Viện Hoá học CN ViệtNam
Th.S Ngô Trung Học Viện Hoá học CN ViệtNam
CN Nguyễn Khánh Hằng Hội hoá học Việt Nam
CN Vũ Quế Hơng Hội hoá học Việt Nam






Hà Nội 2009

BÀI TÓM TẮT

Ngay từ thời cổ đại, con người đã phát hiện và biết cách sử dụng
phân bón. Người Trung Quốc, Hy Lạp và La Mã cổ đại biết dùng phân
hữu cơ và tro đốt để bón cho cây trồng. Từ thế kỷ thứ 17, các nhà khoa
học đã có những thí nghiệm nghiên cứu về dinh dưỡng cây trồng và từ đó
phân bón mới thực sự phát triển có hệ thống và ngành công nghiệp phân
bón ra đời và phát triển.
Trong thành phần phân bón, ngoài các ch
ất dinh dưỡng như N
(Nitơ), P (Phospho), K (Kali), cây trồng luôn cần một lượng nhỏ các
nguyên tố vi lượng (Fe, Zn, Cu, Mn, B, Mo,…) để duy trì các quá trình
sinh trưởng và sinh thực (tạo củ, quả). Hiện nay, trên thế giới có nhiều
sản phẩm phân bón chứa các muối kim loại vi lượng lignosulfonat được
sử dụng rộng rãi và hiệu quả, ví dụ: Antichlorol LS-Fe Fertilizer,
Microchelacyt LS-3 của Balan; Brotomax
TM
(Cu, Mn, Zn) của hãng
Agrometodos SA, Tây Ban Nha,…Tại Việt Nam, nhiều sản phẩm cũng
đã khẳng định được vai trò và tác dụng của nó trên đồng ruộng: Phabela
(Công ty Cổ phần Thuốc sát trùng Việt Nam), Mekofa (Xí nghiệp phân
bón Cửu long), Poly Feed (Công ty Haifa Chemicals Ltd),…
Các muối vi lượng lignosulfonat có thể được điều chế trực tiếp từ

lignin có trong dịch thải của quá trình sản xuất bột giấy theo phương
pháp sulfit hoặc từ lignosulfonat, thông qua phản ứng với các muối kim
loại tươ
ng ứng.Sản phẩm có nguồn gốc tự nhiên, dễ phân hủy sinh học,
không để lại dư lượng trong nông phẩm và môi trường nên thường được
khuyến cáo sử dụng, đặc biệt trong lĩnh vực sản xuất nông nghiệp sạch.
Sau một thời gian nghiên cứu, triển khai, đề tài đã hoàn thành được
các nội dung sau:
1. Dựa trên các tài liệu tổng quan, đã lựa chọn được phương pháp sử
dụng Canxi lignosulfonat (điều chế từ lignin) làm nguyên liệu tổng hợp các
muôi kim loại vi lượng lignosulfonat. Hỗn hợp các muối này dùng để điều
chế và gia công thành sản phẩm phân bón qua lá nhằm tăng năng suất cây
trồng.
2. Đã khảo sát và xác định được các điều kiện thích hợp để tổng hợp
các muối lignosulfonat như sau:
*Muố
i sắt:
- Thời gian phản ứng: 40 phút.
- Nhiệt độ thích hợp: 70
o
C.
- Tỷ lệ khối lượng Ca-lignosulfonat/FeSO
4
.7H
2
O : 4/1.1
*Muối kẽm:
- Thời gian phản ứng: 30 phút.
- Nhiệt độ thích hợp: 70
o

C.
- Tỷ lệ khối lượng Ca-lignosulfonat/ZnSO
4
.7H
2
O : 4/1.15
*Muối mangan:
- Thời gian phản ứng: 40 phút.
- Nhiệt độ thích hợp: 70
o
C.
- Tỷ lệ khối lượng Ca-lignosulfonat/MnSO
4
.H
2
O : 7/1.15
3. Đã khảo sát qui trình tổng hợp công thức phân bón lá với hàm
lượng các nguyên tố đa lượng (NPK) và các nguyên tố vi lượng cho trước.
4. Sản phẩm phân bón lá điều chế và gia công được khảo nghiệm hiệu
quả trên hai loại cây ngắn ngày là đậu xanh và dưa chuột. Kết quả thu
được cho thấy, phân bón chứa hỗn hợp các muối kim loại vi lượng
lignosulfonat cho hiệu quả cao tương đương hoặc hơn loại phân bón lá
PHABELA của Công ty Cổ ph
ần Thuốc sát trùng Việt Nam
1


MỤC LỤC
Trang
MỞ ĐẦU 4

Mục tiêu và nội dung nghiên cứu 6
Phần 1. TỔNG QUAN 7
1.1. Lignin và quá trình sản xuất bột giấy 7
1.1.1. Giới thiệu về lignin 7
1.1.1.1. Cấu trúc phân tử lignin 7
1.1.1.2. Tính chất vật lý của lignin 8
1.1.1.3. Tính chất hóa học của lignin 9
1.1.2. Các quá trình sản xuất bột giấy 9
1.1.3. Ứng dụng c
ủa lignin 10
1.2. Lignosulfonat và các muối từ nó 11
1.2.1. Giới thiệu chung 11
1.2.2. Cấu trúc phân tử của lignosulfonat 12
1.2.3. Các tính chất của lignosulfonat 12
1.2.4. Ứng dụng của lignosulfonat và các muối kim loại vi lượng
lignosulfonat 13
1.2.4.1. Vai trò của các nguyên tố vi lượng đối với cây trồng 16
1.2.4.2. Tình hình sử dụng phân vi lượng tại Việt Nam 19
1.2.4.3. Ứng dụng của muối kim loại vi lượng lignosulfonat trong sản xuất
phân bón qua lá 20
1.3. Phương pháp tổng h
ợp các kim loại vi lượng lignosulfonat 22
1.3.1. Tổng hợp trực tiếp từ lignin và dịch thải của quá trình sản xuất bột
giấy 23
1.3.2. Tổng hợp thông qua các hợp chất lignosulfonat 24
1.3.3. So sánh và lựa chọn phương pháp nghiên cứu 27
Phần 2. THỰC NGHIỆM 28
2.1. Nội dung và phương pháp nghiên cứu 28
2.1.1. Quá trình tách lignin từ dịch đen 28
2.1.2. Tổng hợp Ca- lignosulfonat 28

2.1.3. Tổng hợ
p các muối kim loại vi lượng lignosulfonat 29
2.1.4. Điều chế phân bón lá chứa hỗn hợp nhiều kim loại vi lượng 29
2.1.4.1. Lựa chọn công thức 29
2.1.4.2. Điều chế phân bón lá 30
2.1.5. Khảo nghiệm sơ bộ hiệu quả của phân bón lá trên cây trồng 30
2


2.2. Vật liệu và thiết bị nghiên cứu 31
2.2.1. Nguyên liệu và hóa chất 31
2.2.2. Thiết bị và dụng cụ 31
2.3. Phương pháp phân tích sản phẩm 32
Phần 3. KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN 33
3.1. Tổng hợp muối kim loại vi lượng lignosulfonat 33
3.1.1. Điều chế muối sắt lignosulfonat 33
3.1.2. Điều chế muối kẽm lignosulfonat 37
3.1.3. Điều ch
ế muối mangan lignosulfonat 40
3.1.4. Kết luận về phương pháp tổng hợp muối kim loại vi lượng
lignosulfonat 43
3.1.5. Quy trình quy mô phòng thí nghiệm 43
3.1.6. Sơ đồ quy trình điều chế muối kim loại vi lượng lignosulfonat 44
3.1.7. Phân tích định tính và định lượng 45
3.2. Điều chế phân bón lá chứa hỗn hợp nhiều kim loại vi lượng 45
3.2.1. Điều chế hỗn hợp muối vi lượng lignosulfonat 45
3.2.2. Điề
u chế phân bón lá 45
3.3. Khảo nghiệm sơ bộ hiệu quả của phân bón lá trên cây trồng 46
3.3.1. Ảnh hưởng của phân bón lá LS1 đến sinh trưởng và phát triển của

cây đậu xanh 47
3.3.2. Ảnh hưởng của phân bón LS1 đến sinh trưởng và phát triển của cây
dưa chuột 48
3.3.3. Kết luận 49
Phần 4. KẾT LUẬN 50
TÀI LIỆU THAM KHẢO 51
PH
Ụ LỤC 53







3




DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
Từ viết tắt Nghĩa của từ
DTPA Diethylene triamine pentaacetate
EDTA Ethylene diamine tetraacetate
HEDTA Hydroxyethylene diamine triacetate
IAA Indole acetic acid
LC
50

Nồng độ gây chết trung bình (Lethal concentration,

mg/l hoặc ppm)
LD
50
Liều gây chết trung bình (Lethal dose, mg/kg)
LS Lignosulfonat
CaLS Canxi lignosulfonat
NAA Naphthalene acetic acid
BVTV Bảo vệ thực vật

4


MỞ ĐẦU
Ngay từ thời cổ đại, con người đã phát hiện và biết cách sử dụng
phân bón. Người Trung Quốc, Hy Lạp và La Mã cổ đại biết dùng phân
hữu cơ và tro đốt để bón cho cây trồng. Từ thế kỷ thứ 17, các nhà khoa
học đã có những thí nghiệm nghiên cứu về dinh dưỡng cây trồng và từ đó
phân bón mới thực sự phát triển có hệ thống và ngành công nghiệp phân
bón ra đời và phát triển.
Trong thành phần phân bón, ngoài các chất dinh dưỡng nh
ư N
(Nitơ), P (Phospho), K (Kali), cây trồng luôn cần một lượng nhỏ các
nguyên tố vi lượng (Fe, Zn, Cu, Mn, B, Mo,…) để duy trì các quá trình
sinh trưởng và sinh thực (tạo củ, quả). Vai trò quan trọng của các nguyên
tố vi lượng đối với cây trồng mới chỉ được phát hiện vào đầu thế kỷ 20.
Các nguyên tố này thường không có đủ trong thành phần của đất. Vì vậy,
ngày nay người ta thường phải bổ sung cho cây những nguyên tố này dưới
dạng phân bón vi lượng, kết hợ
p với các thành phần dinh dưỡng khác.
Các nguyên tố vi lượng sử dụng thường ở dạng muối vô cơ hoặc

hữu cơ tan trong nước. Tuy nhiên, dạng muối vô cơ khó hấp thụ qua lá của
cây, khi xuống đất sẽ dần dần làm thay đổi thành phần cấu tạo đất. Vì vậy,
ngày nay người ta thường sử dụng các muối vi lượng dạng hữu cơ tan
trong nước: các chelat của những kim loại đa hóa trị
như các dẫn xuất
ethylene diamine tetraacetate (EDTA), hydroxyethylene diamine triacetate
(HEDTA), diethylene triamine pentaacetate (DTPA),…Thời gian gần đây,
các muối vi lượng của citrat và lignosulfonat được lựa chọn vì dễ phân
hủy sinh học, không để lại dư lượng nên rất thân thiện với môi trường.
Thành phần các nguyên tố vi lượng trong phân bón phụ thuộc vào
từng loại cây, giai đoạn sinh trưởng và tùy từng loại đất trồng. Tùy thuộc
vào mục đích sử dụng, ta có thể điều chỉnh thành ph
ần và hàm lượng các
nguyên tố vi lượng này cho phù hợp và kinh tế.
5


Hiện nay, trên thế giới có nhiều sản phẩm phân bón chứa các muối
kim loại vi lượng lignosulfonat được sử dụng rộng rãi và hiệu quả, ví dụ:
Antichlorol LS-Fe Fertilizer, Microchelacyt LS-3 của Balan; Brotomax
TM

(Cu, Mn, Zn) của hãng Agrometodos SA, Tây Ban Nha,…Tại Việt Nam,
nhiều sản phẩm cũng đã khẳng định được vai trò và tác dụng của nó trên
đồng ruộng: Phabela (Công ty Cổ phần Thuốc sát trùng Việt Nam),
Mekofa (Xí nghiệp phân bón Cửu long), Poly Feed (Công ty Haifa
Chemicals Ltd),…
Các muối vi lượng lignosulfonat có thể được điều chế trực tiếp từ
lignin có trong dịch thải của quá trình sản xuất bột giấy theo phương pháp
sulfit hoặc từ lignosulfonat, thông qua phản ứng với các muối kim loại

t
ương ứng.Sản phẩm có nguồn gốc tự nhiên, dễ phân hủy sinh học, không
để lại dư lượng trong nông phẩm và môi trường nên thường được khuyến
cáo sử dụng, đặc biệt trong lĩnh vực sản xuất nông nghiệp sạch.
Hàng năm, trong quá trình hoạt động, các nhà máy giấy của nước ta
thải ra dịch đen chứa một lượng lớn chất hữu cơ, trong đó lignin chiếm
một lượng đáng k
ể. Tận dụng nguồn nguyên liệu này để tạo ra các sản
phẩm phục vụ nền kinh tế quốc dân, đồng thời giải quyết được vấn đề môi
trường cho ngành công nghiệp giấy là một hướng nghiên cứu mang ý
nghĩa khoa học và thực tiễn.
Xuất phát từ mục đích trên,®Ò tµi sẽ nghiên cứu tổng hợp một số
kim loại vi lượng lignosulfonat từ lignin, sử dụng làm phân bón qua lá cho
cây trồ
ng tại Việt Nam.





6



MỤC TIÊU VÀ NỘI DUNG NGHIÊN CỨU

1. Mục tiêu của đề tài:
Từ dịch đen thải của nhà máy sản xuất bột giấy, tạo ra một số muối vi
lượng lignosulfonat để sử dụng làm phân bón qua lá nhằm kích thích tăng
trưởng cây trồng nông nghiệp.

2. Nội dung nghiên cứu:
- Khảo sát qui trình tổng hợp một số muối vi lượng (Zn, Fe, Mn ) của
axit lignosunfonic.
-
Chế thử một số công thức phân bón qua lá.
Thử nghiệm sơ bộ sản phẩm trên một số đối tượng cây trồng. rau quả
ngắn ngày










7



Phần 1. TỔNG QUAN
1.1. LIGNIN VÀ QUÁ TRÌNH SẢN XUẤT BỘT GIẤY
1.1.1. Giới thiệu về lignin
Lignin là một hợp chất hóa học được tách ra từ gỗ và là một trong
những thành phần của tế bào thực vật bao bọc xung quanh các sợi xenlulô.
Lignin là polyme hữu cơ phổ biến nhất sau xenlulô, chiếm 30% các mẫu
cacbon hữu cơ chưa hóa thạch và tạo thành từ 1/4 đến 1/3 khối lượng gỗ khô.
Thành phần hóa học, cấu trúc và hàm lượng của lignin thay đổi tùy
theo từ

ng loài cây gỗ và theo tuổi của chúng cũng như điều kiện địa lý. Hàm
lượng lignin trong gỗ mềm là 27 – 33%, trong gỗ cứng là 18 – 25% và trong
cây thân cỏ là 17 – 24%.
1.1.1.1. Cấu trúc phân tử lignin [10]
Phân tử
lignin là một polyme có cấu trúc không đồng nhất, hình thành
trong cây nhờ quá trình polyme hóa các hợp phần p-coumaryl (I), coniferyl
(II) và sinapyl (III), dưới tác dụng của enzym. Coniferyl và sinapyl ancol là
những những vị trí khởi đầu cho sự hình thành các cấu trúc guaiacyl và
syringyl của lignin.

Hình 1. Các hợp phần cấu tạo nên phân tử lignin
Nghiên cứu cấu trúc phân tử của lignin, người ta thấy chúng chứa
nhiều nhóm cấu trúc
xuất hiện lặp đi lặp lại một cách ngẫu nhiên trong đó chủ
yếu là các dẫn xuất của phenylpropan.
Các nhóm chức trong phân tử lignin có ảnh hưởng lớn nhất đến tính
chất của chúng là nhóm hydroxy liên kết trực tiếp với nhân thơm, nhóm
8


hydroxy liên kết với mạch cacbon và nhóm cacbonyl. Số lượng của các nhóm
chức thay đổi tùy theo loài thực vật và cấp của tế bào thực vật.
1.1.1.2. Tính chất vật lí của lignin [1]
Trong công nghiệp sản xuất bột giấy, quá trình biến đổi hóa học của
lignin thường gặp nhất là delignin hóa. Delignin hóa là quá trình thủy phân và
hòa tan lignin từ nguyên liệu gỗ dưới tác dụng của kiềm hoặc các hợp chất
sulfit, tạo ra các sản phẩm có đặ
c trưng phenol.
Trong gỗ, các cấu tử chính của thành tế bào không nằm riêng rẽ mà tồn

tại dưới dạng một tổ hợp chất phức tạp bao gồm lignin, hemixenlulô và
xenlulô, với các liên kết hóa học và liên kết hyđro giữa các hợp phần, tạo
thành dạng như một dung dịch rắn.
Ở điều kiện bình thường, lignin không tan trong các dung môi thông
thường. Để phân chia lignin thành các phần nhỏ hơn, hòa tan được vào dung
dịch, cần phải dùng các hóa ch
ất có tác dụng mạnh. Ngay cả trong các trường
hợp đó ta cũng không thể tách hoàn toàn lignin khỏi nguyên liệu thực vật.
Những tính chất đặc trưng của lignin thể hiện rất rõ qua nghiên cứu
dung dịch. Nhiều nhà khoa học đã xác định độ nhớt đặc trưng [η] của dung
dịch lignin, thông số phân nhánh và mức độ đa phân tán của chúng. Các công
trình này đã cung cấp nhiều thông tin hữu ích về cấu tạo và cấu trúc của
lignin tự nhiên.
Tuy nhiên, đây cũng chỉ là những nhận xét tương đối, vì dưới tác dụng
cơ lý, một số liên kết bị đứt và cũng có thể xảy ra hiện tượng kết hợp lại, khác
với liên kết vốn có ban đầu.
Độ nhớt đặc trưng của lignin thấp, chỉ bằng 1/40 so với độ nhớt của
xenlulô. Trên cơ sở độ nhớt đặc trưng thấp của các m
ẫu lignin trong dioxan,
lignosulfonat và lignin kiềm trong nhiều dung môi khác nhau, Goring (1971)
cho rằng trong dung dịch, các phân tử lignin tồn tại dưới dạng các hạt gel
hình cầu, kết cấu chặt.
Một tính chất quan trọng nữa của dung dịch lignin là sự liên hợp giữa
các phân tử trong dung dịch. Một số nhà nghiên cứu cho rằng, lignin tự nhiên
9


vốn có khối lượng phân tử không lớn, nhưng khi hòa tan vào dung dịch các
phân tử có xu hướng liên hợp lại với nhau tạo thành các tổ hợp phức có khối
lượng phân tử lớn hơn. Sarkanen cho rằng đây là quá trình thuận nghịch và

phụ thuộc vào bản chất của dung môi.
Hiện tượng liên hợp phân tử này là hiện tượng hóa lý thường xảy ra với
hệ chất thơm, kể cả chất thơm có khối lượ
ng phân tử thấp. Như vậy, lignin là
chất dễ tham gia vào quá trình liên hợp, do đó để đo giá trị khối lượng phân
tử chính xác hơn ta cần tìm được dung môi hòa tan thích hợp.
Các thông số về khối lượng phân tử và độ đa phân tán của lignin
thường khác nhau, phụ thuộc vào nguồn gốc mẫu lignin cũng như phương
pháp thực nghiệm.
1.1.1.3. Tính chất hóa học của lignin
Lignin là hợp chất raxemic với khối lượng phân tử
lớn, có đặc tính
thơm và kỵ nước. Cấu tạo phân tử lignin rất phức tạp với nhiều kiểu liên kết
polyme. Hơn nữa, các đơn vị mắt xích phenylpropan có nhiều loại nhóm chức
cũng như nhiều đặc trưng về cấu tạo. Do đó, lignin có thể tham gia hàng loạt
phản ứng hóa học như phản ứng thế, phản ứng cộng, phản ứng oxi hóa, phản
ứng ng
ưng tụ, trùng hợp…
Lignin không bị phân hủy bởi axit nhưng lại bị oxi hóa nhanh chóng.
Lignin không tan trong nước, các dung môi hữu cơ thông thường và cả trong
axit H
2
SO
4
đặc nhưng lại tan tốt trong kiềm nóng hoặc bisulfit. Lignin bị
phân hủy dưới tác dụng của các tác nhân hóa học và sinh học. Lignin còn có
thể bị chuyển hóa dưới tác dụng của nấm, vi khuẩn và các enzym. [17]
1.1.2. Các quá trình sản xuất bột giấy [10]
Trong công nghiệp sản xuất bột giấy hiện nay, người ta sử dụng 3
phương pháp chính là phương pháp xút, phương pháp sulfat và phương pháp

sulfit.
Phương pháp xút được sử dụng sớm nhất, và hiện nay các nhà máy
gi
ấy ở Việt Nam vẫn chủ yếu sử dụng phương pháp này để nấu bột giấy.
Trong quá trình nấu, dưới tác dụng của kiềm mạnh các liên kết ete trong phân
10


tử lignin bị bẻ gãy làm xuất hiện các nhóm phenolat do đó tăng khả năng hòa
tan của lignin và có thể tách khỏi xenlulô. Nước thải của phương pháp này
gọi là dịch đen có pH rất cao (12.5-13.0) vì chứa nhiều kiềm dư, ngoài ra còn
một lượng nhỏ các muối vô cơ khác như Na
2
SO
3
, Na
2
SO
4
…Lignin là thành
phần chủ yếu trong nhóm các chất hữu cơ có trong dịch đen và chiếm khoảng
60-80%, trong đó 70-80% lignin ở dạng keo hòa tan và có thể kết tủa khi axit
hóa, phần còn lại là lignin hòa tan, hạt của nó có kích thước nhỏ và không bị
kết tủa khi thay đổi pH của dịch đen.
Phương pháp sulfat là một cải tiến của phương pháp nấu bột giấy bằng
xút, bằng cách thêm Na
2
S vào dịch nấu giúp xúc tiến quá trình phân hủy
lignin, nhờ vậy rút ngắn thời gian phản ứng và tăng hiệu suất cũng như chất
lượng xenlulô. Lignin thu được từ dịch thải của phương pháp này cũng có

khối lượng phân tử nhỏ hơn so với lignin thu được khi nấu xút.
Trong phương pháp nấu bột giấy bằng sulfit, trong môi trường axit và
nhiệt độ cao, lignin tạo thành các ion cacboni dễ dàng tham gia phản ứng
sulfo hóa tạo ra sản phẩm lignosulfonat tan vào dung d
ịch. Nhờ vậy, có thể
tách trực tiếp lignosulfonat từ dịch thải của phương pháp này mà không phải
sulfo hóa lignin.
1.1.3. Ứng dụng của lignin [10]
Hiện nay, hầu hết lignin thu hồi từ dịch đen của các nhà máy sản xuất
bột giấy được sử dụng như một nguồn sinh khối phục vụ cho quá trình sản
xuất nhiên liệu sinh học. Tuy nhiên, nó ngày càng có ứng dụng rộng rãi trong
các lĩnh vực khác. Nhờ
vai trò là chất kết dính tự nhiên giữa các sợi xenlulô
trong thành tế bào thực vật, lignin có rất nhiều ứng dụng có giá trị thương
mại, như là chất ngăn bụi trên đường giao thông, chất kết dính trong sản xuất
thức ăn gia súc hay các ngành công nghiệp khác, chất phân tán và ổn định
trong công nghiệp sản xuất cao su, bê tông, phụ gia đồ gốm, tuyển
quặng…Lignin cũng có nhiều ứng dụng trong sản xuất polyme như là nguyên
11


liệu sản xuất sợi cacbon, sợi polyeste, urethan, nhựa phenolformaldehyt và
ureformaldehyt.
Lignin còn có thể được sử dụng trong công nghệ tổng hợp hữu cơ như:
tổng hợp dimetyl sulfua, axit humic, vanilin
1.2. LIGNOSULFONAT VÀ CÁC MUỐI TỪ NÓ
1.2.1. Giới thiệu chung
Lignosulfonat hay còn gọi là lignin sulfo hóa là một anion mạch dài tan
được trong nước. Chúng có thể thu được như là sản phẩm phụ của quá trình
sản xuất bột giấy theo phương pháp sulfit.

Hầu hết quá trình phân hủy cấu trúc trong phương pháp sulfit đều có s

bẻ gãy liên kết ete nối các tiểu phân, tạo nên phân tử lignin trong môi trường
axit. Các cacbocation sinh ra khi bẻ gãy các liên kết ete sẽ phản ứng với ion
bisulfit (HSO
3
-
) để tạo ra các sulfonat. [18]
R-O-R’ + H
+
R
+
+ R’OH
R
+
+ HSO
3
-
R-SO
3
H


Hình2. Cơ chế phản ứng sulfo hóa lignin tạo lignosulfonat
Thông thường, ion bisulfit HSO
3
-
gắn vào vị trí C
α
(nguyên tử C liên

kết trực tiếp với nhân thơm) của gốc propyl. Quá trình sulfo hóa thường diễn
ra ở phần mạch hở chứ không diễn ra trong nhân thơm. Tuy nhiên, cơ chế
trên không phải là đặc trưng mà mục đích là đưa ra những khái niệm chung
nhất cho cấu trúc của lignosulfonat vì lignin và các dẫn xuất của nó là một
hỗn hợp vô cùng phức tạp.

Lignin Cacbocation Lignosulfonat
12


1.2.2. Cấu trúc phân tử của lignosulfonat [10]
Cũng như phân tử lignin, cấu trúc phân tử của lignosulfonat cũng rất
phức tạp, thậm chí cả dạng chưa bị biến đổi. Mặc dù chưa thể xác định được
công thức chính xác của lignosulfonat nhưng các nhà khoa học vẫn chứng
minh được rằng nó được tạo nên bởi các đơn phân phenylpropan, tương tự
như cấu trúc phân tử lignin.

Với SO
3
M là nhóm sulfonat.
Hình 3. Cấu trúc phân tử lignosulfonat
Khối lượng phân tử của lignosulfonat dao động trong khoảng lớn, từ
1000 đến 140000 đơn vị cacbon, tùy thuộc vào lignin của loại gỗ cứng hay gỗ
mềm và tùy thuộc vào phương pháp phân lập lignin. Chính nhờ khả năng
phân loại độ dài mạch phân tử mà tính tan và tính chất hoạt động bề mặt của
lignosulfonat có thể thay đổi vô cùng đa dạng tùy theo mục đích sử dụng.
1.2.3. Các tính chất của lignosulfonat
Lignosulfonat t
ồn tại phổ biến dưới dạng muối amoni hoặc muối của
các kim loại như natri, kali, canxi…Lignosulfonat dạng bột và dạng lỏng đều

có màu nâu đến nâu nhạt. Nó có tính hoạt động bề mặt mạnh do bản chất là
13


một polyme tự nhiên có gắn thêm các nhóm sulfonic thân nước và thường
được sử dụng làm tác nhân phân tán và hấp phụ bề mặt. [6]
Ngoài tính hoạt động bề mặt, lignosulfonat còn có tính kết dính, có thể
làm kết tụ các hạt rắn không đủ khả năng tự kết dính. Khi bị thấm ướt,
lignosulfonat tăng độ dính và tính kết tụ nhờ khả năng giữ và hấp thụ nước.
[14]
Một trong những tính chất chính của lignosulfonat là khả năng làm
phân tán các h
ạt rắn trong môi trường nước. Do cấu trúc phân tử đặc thù của
lignosulfonat, các điện tích âm được truyền tới các hạt rắn mà tại đó chúng
đẩy lẫn nhau. Từ đó làm ổn định chất kết tủa, giảm độ nhớt và tăng tính hoạt
động bề mặt. [22]
Để ổn định nhũ tương dạng dầu trong nước, cơ chế diễn ra cũng đơn
giản như xả
y ra khi phân tán chất rắn. Một số lignosulfonat làm giảm sức
căng bề mặt của dung dịch nước và hoạt động như một tác nhân hay chất phụ
trợ cho quá trình thấm ướt khi kết hợp với các tác nhân thấm ướt tổng hợp
khác.
Phân tử lignosulfonat còn có hiệu ứng càng cua (chelat), giúp dễ dàng
tạo phức với các ion kim loại đa hóa trị. Tính chất này làm cho lignosulfonat
có khả năng vận chuyển các ion kim loại tới các mô thực vật nh
ằm cung cấp
vi lượng cần thiết cho cây. [14]
Độ độc của dung dịch lignosulfonat rất nhỏ, với LC
50
trong khoảng

5200-6400 ppm, và LD
50
> 40 g/kg chuột thí nghiệm, nên được xếp vào loại
chất không độc với động vật máu nóng. Ngoài ra, do có nguồn gốc tự nhiên,
các hợp chất lignosulfonat rất dễ phân hủy sinh học và không để lại dư lượng
trong nông sản, thực phẩm và môi trường. Chính vì vậy, các hợp chất
lignosulfonat được coi là các chất thân thiện với môi trường. [15]
1.2.4. Ứng dụng của lignosulfonat và các muối kim loại vi lượng của
lignosulfonat
Lignosulfonat được biết đến là một chấ
t đa tác dụng với khả năng ứng
dụng rộng rãi trong rất nhiều lĩnh vực như làm phụ gia trong bê tông, thuốc
14


nhuộm, dung dịch khoan đến sản xuất muội than hay xử lý nước thải hay
trong gia công thuốc bảo vệ thực vật, cũng như làm phân bón cho cây trồng.
Theo một số nghiên cứu, lignosulfonat có khả năng làm tăng hiệu lực
phòng trừ sâu bệnh của các thuốc BVTV khi hỗn hợp với chúng (hoạt tính
synergist), đồng thời giảm sự ngộ độc của cây (phytotoxicity). Ngoài ra, bản
thân các lignosulfonat còn có tính chất hoạt động bề mặt nên sẽ cả
i thiện tính
bám dính của sản phẩm.
Một số nhà khoa học trên thế giới đã nhận ra tác dụng của
lignosulfonat trong kiểm soát cỏ dại bằng cách xử lý lớp trên cùng của đất
trồng với lignosulfonat trước khi gieo hạt hoặc sau khi mầm phát triển, nhằm
tăng sức chống chịu cơ học của đất,nhờ đó ức chế được sự phát triển của
mầm cỏ d
ại. Ngoài ra, việc xử lý đất với lignosulfonat cũng làm giảm sự bốc
hơi của nước trong đất, điều này có ý nghĩa rất lớn đối với đất cát là loại đất ít

giữ nước. [19, 20]
• Các muối kim loại kiềm hoặc kiềm thổ (Na, Ca) lignosulfonat
thường được sử dụng như những chất hoạt động bề mặt đa tác dụng (chất nhũ
hóa, chất phân tán, ch
ất thấm ướt…), làm phụ gia trong ngành sản xuất bê
tông xây dựng, thuốc nhuộm, dung dịch khoan và đặc biệt trong gia công
thuốc BVTV dạng bột nói chung, đặc biệt các dạng mới, thân thiện với môi
trường.
• Do có tính chất như hợp chất cao phân tử tan trong nước và khả
năng liên kết, lưu giữ các tạp chất, đặc biệt các kim loại nặng, các
lignosulfonat được sử dụng rất hiệu quả để xử
lý nước thải công nghiệp, thậm
chí cả nguồn nước chứa nhiều kim loại nặng.
• Các lignosulfonat của muối kim loại vi lượng (Zn, Cu, Fe, Mn,
Bo…) và lignosulfonat amoni thường được sử dụng làm phân hữu cơ phun
qua lá do tính chất dễ dàng tạo các chelat với kim loại đa hóa trị, tan trong
nước. Dưới đây là một số sản phẩm phân vi lượng lignosulfonat có trên thị
trường thế giới và Việt Nam:
15


- Hỗn hợp phân vi lượng chứa sắt, kẽm, mangan lignosulfonat của hãng
Southern Agricultural Insecticides:
STT Chỉ tiêu chất lượng
1 Màu sắc: Chất lỏng màu nâu sẫm, nhớt
2 Mùi: Có mùi nhẹ, giống lignin
3 pH: 4.5
4 Áp suất hơi: 760 mmHg
5 Nhiệt độ sôi: 100
o

C
6 Khả năng hòa tan trong nước: Tan hoàn toàn
7 Khối lượng riêng: 1221.96 g/l
- Một số sản phẩm khác:
Bảng 1. Một số sản phẩm phân vi lượng trên thị trường thế giới và Việt
Nam
Thành phần
TT
Tên sản
phẩm
Đa lượng Vi lượng
Đối tượng
sử dụng
Đơn vị
sản xuất
1
Libspray
211
N: 12%;
P
2
O
5
tan:
5,5%; K
2
O
tan: 4,8%
Ca: 0.4%
Fe: 322 mg/kg;

Mn: 163mg/kg;
Cu: 163 mg/kg;
Bo: 84 mg/kg;
Zn: 58 mg/kg;
Ni: 56 mg/kg
Lúa, đậu
Allied
Colloid
Group,
Anh
2 Supermes
N: 20%;
P
2
O
5
tan: 3%;
K
2
O tan: 3%;
Ca: 0,14%
Cu: 0,1%;
Zn: 0,02%;
Mn: 0,01%
Lúa, đậu,
rau, cây ăn
quả…
Công ty
Panen,
Indonesia

3 Brotomax
TM
N: 8.00%
Cu (CuLS):
1.75%;
Mn (MnLS):
0.75%;
Zn (ZnLS):
0.5%;
Cl: ≤ 0.1%
Cây ăn
quả, lúa,
rau, hoa
màu…
Hãng
Agrometo
dos SA,
Tây Ban
Nha
16


4 Bortrac N: 6,5% w/v
B: 15% w/v
(65 g/l)
Cây ăn
quả (vải):
Chống
rụng hoa,
quả non

Yara
Phosyn
Ltd,
Anh
5
Đầu Trâu
SH-NH
N: 6%;
P
2
O
5
: 3%;
K
2
O: 3%
Ca, S,
Zn, Fe, Cu,
Mn, Mg, B,
Mo….
Cây nho
Công ty
Phân bón
Bình Điền
6 Yogen Xoài
N: 15,8%;
P
2
O
5

: 31,7%;
K
2
O: 16,8%
Mn: 1000 ppm;
Mg,B: 500ppm;
Fe: 100 ppm;
Cu,Zn: 50 ppm;
Mo: 10 ppm
Xoài
Công ty
Phân bón
Miền Nam
Trong khuôn khổ quan tâm của đề tài, chúng tôi chủ yếu giới thiệu các
ứng dụng khoa học và thực tiễn của các muối vi lượng lignosulfonat trong sản
xuất phân bón qua lá.
1.2.4.1. Vai trò của các nguyên tố vi lượng đối với cây trồng
Các chất vi dinh dưỡng rất cần thiết để cây phát triển. Chúng là tác
nhân hoạt hoá trong các hệ thống enzym. Tuy nhiên ranh giới giữa sự thiếu
hụt phân vi lượng và mức gây độc của nó rất xít xao. Những rủi ro từ việc sử

dụng phân vi lượng đang trở thành một vấn đề cần được quan tâm. Vì vậy sự
hiểu biết về các loại phân vi lượng là rất cần thiết.
Bên cạnh các loại phân bón đa lượng như N, P, K, các nguyên tố vi
lượng như: đồng (Cu), kẽm (Zn), Bo (B), mangan (Mn), molipden (Mo), sắt
(Fe)… tuy được dùng với khối lượng rất nhỏ nhưng lại rất cần thiết để cho
cây tồn tại và phát triển.
• Vai trò củ
a kẽm (Zn): Kẽm được coi như là một trong các nguyên
tố vi lượng đầu tiên cần thiết cho cây trồng được cây hấp thụ ở dạng ion Zn

2+
.
Kẽm hỗ trợ cho sự tổng hợp các chất sinh trưởng và các hệ thống men và cần
thiết cho sự tăng cường một số phản ứng trao đổi chất trong cây. Nó cần thiết
17


cho việc sản xuất ra chất diệp lục và các hydratcacbon. Kẽm có trong điểm
sinh trưởng của lá và rễ, làm tăng hoạt động của men trong mầm hạt và duy
trì nồng độ các chất sinh trưởng ở dạng hoạt động. Trong tế bào thực vật, kẽm
ảnh hưởng đến độ nhớt của các nguyên sinh chất, xúc tác quá trình oxi hóa,
tăng quá trình trao đổi hydrat cacbon và tổng hợp axit amin. Kẽm làm tăng
sức chịu rét cho ngô.
Kẽm cũng không đượ
c vận chuyển sử dụng lại trong cây nên biểu hiện
thiếu thường xảy ra ở những lá non và bộ phận khác của cây. Thiếu kẽm cũng
như đồng dẫn đến sự phá vỡ quá trình sinh lý của cây, đặc biệt là quá trình
trao đổi lân và đạm. Sự thiếu kẽm ở cây bắp gọi là bệnh "đọt trắng" vì lá non
chuyển sang trắng hoặc vàng sáng. Các cây phản ứng với sự thiếu kẽm rất
khác nhau. Mẫn cảm nhất là cây họ cam chanh, ngô, hublon, đậu cô ve. Trong
khi các cây ngũ cốc hoặc cà rốt, cải dầu, măng tây lại ít mẫn cảm với tình
trạng thiếu kẽm. Khoai tây, cà chua, củ cải đường, hành, cỏ ba lá có phản ứng
trung bình.
• Vai trò của đồng (Cu): Đồng tham gia vào một số men
polyphenoloxidase quyết định quá trình quang hợp và các quá trình đồng hóa
ở thực vật, do đó rất cần thiết cho sự hình thành diệp lục, cacbonhydrat và
làm xúc tác cho một số
phản ứng khác trong cây, nhưng thường không tham
gia vào thành phần của chúng. Đồng cũng tham gia cấu tạo thành tế bào, vì
vậy nó giúp cây chống chọi với sâu bệnh. Nhiều loại cây rau biểu hiện thiếu

đồng với lá thiếu sức trương, rủ xuống và có màu xanh, chuyển sang quầng
màu da trời tối trước khi trở nên bạc lá, biến cong và cây không ra hoa được.
• Vai trò của sắt (Fe): Sắt là thành phần cấu tạo nên nhiều men xúc
tác cho quá trình tổng hợp di
ệp lục như men Katalase, Peroxidase, Cytochrom
B, C và Cytochromoxidase (men cần cho quá trình trao đổi chất và hô hấp).
Thiếu sắt gây ra hiện tượng màu xanh lá cây nhợt nhạt (bạc lá). Vì sắt không
được vận chuyển giữa các bộ phận trong cây nên biểu hiện thiếu trước tiên
xuất hiện ở các lá non gần đỉnh sinh trưởng của cây. Thiếu sắt nặng có thể
18


chuyển toàn bộ cây thành màu vàng tới trắng lợt. Sự thiếu sắt có thể xảy ra do
sự thiếu cân bằng với các kim loại khác như molipden, đồng hay mangan.
Một số yếu tố khác cũng có thể gây thiếu sắt như quá thừa lân trong đất; do
pH cao kết hợp với giàu canxi, đất lạnh và hàm lượng cacbonat cao; thiếu sắt
do di truyền của cây; thiếu do hàm lượng chất hữu cơ trong đất thấp.
Phần lớn các loạ
i đất đủ sắt, nhưng ở những vùng đất có pH cao, thiếu
sắt di động cây kém phát triển.
• Vai trò của Bo (B): Hiện tượng thiếu Bo là rất phổ biến trên thế
giới. Rất nhiều loại cây ăn quả, cây rau, và các hoa màu khác có biểu hiện
thiếu Bo. Các loại đậu lấy hạt có yêu cầu cao về Bo. Bo cần thiết cho sự nẩy
mầm của hạt phấn, sự tăng trưởng của
ống phấn, cần thiết cho sự hình thành
của thành tế bào và hạt giống. Bo cũng hình thành nên các phức chất
đường/borat có liên quan tới sự vận chuyển đường và đóng vai trò quan trọng
trong việc hình thành protein. Thiếu Bo, việc phân chia tế bào của cây bị kìm
hãm dẫn đến việc phá hỏng và làm tế bào chết, do đó làm cây sinh trưởng còi
cọc, và trước hết làm đình trệ đỉnh sinh trưởng và các lá non (ngọn cây chết

nhanh, lá cây nhỏ lại), việc tạo hoa kém, dễ ch
ết…
• Vai trò của mangan (Mn): Mangan là thành phần của các hệ thống
men (enzym) trong cây. Nó hoạt hóa một số phản ứng trao đổi chất quan
trọng trong cây và có vai trò trực tiếp trong quang hợp, bằng cách hỗ trợ sự
tổng hợp diệp lục. Mangan tăng cường sự chín và nẩy mầm của hạt khi nó
làm tăng sự hữu dụng của lân và canxi. Cũng như sắt, mangan không được tái
sử dụng trong cây nên hiện tượng thiếu s
ẽ bắt đầu từ những lá non, với màu
vàng giữa những gân lá, và đôi khi xuất hiện nhiều đốm nâu đen. Hiện tượng
thiếu mangan thường xảy ra ở những chân đất giàu hữu cơ, hay trên những
đất trung tính hoặc hơi kiềm và có hàm lượng mangan thấp.
• Vai trò của molipden (Mo): Molipden cần cho sự tổng hợp và hoạt
động của men khử nitrat như Nitratreductase, Hydrogenase,
Aldehydroxynase. Các loại men này khử nitrat thành amoni trong cây.
19


Molipden có vai trò sống còn trong việc tổng hợp đạm cộng sinh bởi vi khuẩn
Rhizobia trong nốt sần cây họ đậu. Molipden cũng cần thiết cho việc chuyển
hóa lân từ dạng vô cơ sang hữu cơ trong cây. Hiện tượng thiếu molipden có
biểu hiện chung như vàng lá và đình trệ sinh trưởng. Việc thiếu molipden
không chỉ ảnh hưởng đến việc loại thải nitrat và cả nitrit trong cây mà còn
làm giảm sự quang hợp, giảm việc tạo ra axit ascorbic, gi
ảm hàm lượng
đường, mặt khác lại tăng quá trình hô hấp. Sự thiếu hụt molipden có thể gây
ra triệu chứng thiếu đạm trong các cây họ đậu, vì vi sinh vật đất phải có
molipden để cố định nitơ từ không khí.
1.2.4.2. Tình hình sử dụng phân vi lượng tại Việt Nam [2]
Các kết quả nghiên cứu cho thấy phân vi lượng ngày càng có vai trò

quan trọng đối với cây trồng, đặc biệt trên các loại đất nghèo và có độ rửa trôi
mạnh. Khi n
ăng suất cây trồng càng cao thì vai trò của phân bón vi lượng
càng trở nên quan trọng bởi vì để đạt năng suất cao, khả năng cung cấp của
đất không đáp ứng được nhu cầu của cây trồng.
Ở nước ta hầu hết các loại đất đều thiếu các nguyên tố vi lượng, vì vậy,
việc bổ sung các nguyên tố này sẽ tạo cho cây sinh trưởng và phát triển tốt
hơn, từ đó năng suất, chất lượng nông ph
ẩm sẽ được cải thiện.
Thí nghiệm sử dụng phân bón hỗn hợp giữa các nguyên tố đa lượng (N,
P, K) và vi lượng trên đất phù sa cổ và đất bạc màu cho thấy tác dụng tích cực
của thành phần các nguyên tố vi lượng đến năng suất cây lạc, đậu tương xuân
hè. Cụ thể, năng suất và sản lượng đều tăng hơn so với đối chứng khi sử dụng
phân bón chỉ có N, P, K theo bảng 1.1 d
ưới đây:
Bảng 2. Kết quả khảo nghiệm hiệu quả của phân vi lượng trên đất phù sa
cổ và bạc màu
Loại đất khảo nghiệm
Loại cây
Đất phù sa cổ Đất bạc màu
Lạc - Năng suất tăng 14.4% - Năng suất tăng 6.8%
20


- Lượng dầu tăng 4.3% - Lượng dầu tăng 3.2%
Đậu tương xuân Năng suất tăng 5.8% Năng suất tăng 5.5%
Đậu tương hè Năng suất tăng 8.0% Năng suất tăng 7.8%
Ngoài ra, khi dùng phân NPK chứa vi lượng, hàm lượng protein trong
đậu tương xuân tăng 4.9% so với đối chứng trên đất phù sa cổ và 4.8% trên
đất bạc màu.

Với cây cà phê (một trong những cây quan trọng nhất), việc nghiên cứu
tìm những loại phân bón mới có hiệu quả cao đã được tiến hành. Kết quả cho
thấy so với mẫu đối chứng (chỉ bón NPK), các mẫu có sử dụng phân bón
chứa các nguyên tố trung và vi lượng cho hàm lượng cafein tăng từ 37-45.5%
và hàm lượng các nguyên tố vi lượ
ng trong hạt cà phê tăng lên rõ rệt: Zn tăng
50-80%, Mo tăng 10-20% Tỷ lệ cấp hạt trên sàng 5-7 cm tăng 5-7%, còn tỷ
lệ hạt trên sàn > 7 cm tăng 4.1-6.9%, tỷ lệ quả lép thấp hơn 2-3% so với đối
chứng. Bên cạnh đó, các chỉ tiêu về tốc độ cao của cây, chiều dài cành và số
cặp cành đều nhiều hơn. [3]
1.2.4.3. Ứng dụng của muối kim loại vi lượng lignosulfonat trong
sản xuất
phân bón qua lá
Như trên đã nói, lignosulfonat là hợp chất có khả năng tạo các chelat
hữu cơ với các nguyên tố vi lượng, tan trong nước và có thể thẩm thấu qua tế
bào mô cây, từ đó cung cấp cho cây những nguyên tố vi lượng này. Hơn nữa,
lignosulfonat là sản phẩm của quá trình sulfo hóa lignin, một hợp chất có
nguồn gốc thực vật, vì vậy cây cối có khả năng dung nạp và đồng hóa mà
không gây độc. Ngoài ra, lignosulfonat dễ bị phân hủ
y sinh học, không để lại
dư lượng nông phẩm và môi trường. [4]
Lignosulfonat từ lâu đã được sử dụng như một sản phẩm phân bón có
giá trị thương mại cao vì nó không gây hiệu ứng nhà kính và rất hiệu quả trên
nhiều loại cây trồng. Theo một số nghiên cứu trước đây trên thế giới,
lignosulfonat còn tác động tương tự như một loại hocmon sinh trưởng thực
21


vật. Cơ chế của quá trình này có thể giả thích như sau: Trong khi các
lignosulfonat kích thích quá trình nảy mầm bằng cách tác động đến sự tổng

hợp auxin NAA (naphthalene acetic acid) thì cũng đồng thời gia tăng tạm thời
sự xuất hiện của auxin nội sinh IAA (indole acetic acid) trong mầm cây. [7]
Các muối vi lượng lignosulfonat có độ bền khá cao trong dung dịch
kiềm, ví dụ như FeLS ổn định ngay cả khi thêm NaOH đến pH=12 hay hơn
nữa mà không tạo hydroxyt kết tủa. Tuy nhiên, quá trình tạo chelat của
lignosulfonat không thuận nghịch, trừ khi một tác nhân tạo chelat khác như
EDTA tấn công thì sẽ đẩy Fe, Zn, Cu, Mn ra khỏi muối lignosulfonat, ảnh
hưởng này có thể chứng minh bằng phương pháp so màu. Lựa chọn tỷ lệ giữa
các nguyên tố vi lượng cần tùy thuộc từng loại đất và cây trồng. [4]
Việc sử dụng các chelat là dẫn xuất polyamin-cacboxylic, ví dụ EDTA,
để làm phân vi lượng rất phổ biến và mang lại hiệu quả cao, nhưng giá thành
lại rất cao. Trong khi đ
ó, phức của lignosulfonat và kim loại lại rẻ hơn rất
nhiều (2-4 euro/1kg) so với chelat EDTA (6-12 euro/1kg), nên nó được sử
dụng rộng rãi mặc dù hiệu quả có thể thấp hơn. Năm 2007, trên thị trường
phân bón của Tây Ban Nha, số lượng sản phẩm phân bón chứa chelat là 553,
trong đó sản phẩm chứa lignosulfonat và gluconat là 299 (tăng 150% so với
năm 1990). Lignosulfonat là tác nhân ngày càng được ưa chuộng trong sản
xuất phân vi lượng. [12]
Hiện nay, phân vi lượng chứa kẽm lignosulfonat là loạ
i được sử dụng
nhiều nhất trên thị trường Tây Ban Nha. [9]
Nghiên cứu tác dụng của sắt dưới dạng phân bón qua đất và qua lá,
người ta nhận thấy, với cây được bổ sung sắt qua đất thì sau 4 tuần lá cây vẫn
vàng, sau 12 tuần toàn bộ lá cây đã chuyển sang màu xanh. Còn khi phun sắt
lignosulfonat qua lá với nồng độ 1lit/400lit/ha thì lá có dấu hiệu hồi xanh
nhanh hơn.
Như đã biết, đồng là một chất có hoạt tính trừ nấm, tuy nhiên, nếu sử

dụng các muối đồng vô cơ như đồng sulfat hay đồng oxyt, để đạt được hiệu

quả trừ nấm cao thì lượng muối sử dụng rất lớn, tính bằng kg trên hecta, gây

×