Tải bản đầy đủ (.pdf) (167 trang)

nghiên cứu ứng dụng kỹ thuật gây động dục đồng loạt, nâng cao hiệu quả thụ tinh nhân tạo nhằm tăng năng suất đàn bò tại tỉnh điện biên

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (12.7 MB, 167 trang )

VIỆN CÔNG NGHỆ SINH HỌC







BÁO CÁO TỔNG KẾT ĐỀ TÀI

NGHIÊN CỨU ỨNG DỤNG KỸ THUẬT GÂY ĐỘNG DỤC ĐỒNG
LOẠT, NÂNG CAO HIỆU QUẢ THỤ TINH NHÂN TẠO NHẰM
TĂNG NĂNG SUẤT ĐÀN BÒ TẠI TỈNH ĐIỆN BIÊN



CNĐT : LÊ VĂN TY










8149

HÀ NỘI – 2010





MỤC LỤC
PHẦN I. ĐẶT VẤN ĐỀ 3
MỤC
TIÊU CỦA ĐỀ TÀI 7
PHẦN II. TỔNG QUAN TÀI LIỆU 8
1. TẠI
SAO NÊN PHÁT TRIỂN CHĂN NUÔI BÒ Ở ĐIÊN BIÊN 9
2. TÍNH
PHÙ HỢP CỦA ĐỀ TÀI VỚI CHÍNH SÁCH PHÁT TRIỂN KINH TẾ
XÃ HỘI CỦA TỈNH ĐIỆN BIÊN 10
3. TẠI
SAO PHẢI ÁP DỤNG GÂY ĐỘNG DỤC ĐỒNG LOẠT VÀ THỤ
TINH NHÂN TẠO ĐỂ CẢI TẠO ĐÀN BÒ ĐIỆN BIÊN 13
4. CƠ
SỞ LÝ THUYẾT CỦA VIỆC GÂY ĐỘNG ĐỘNG LOẠT CHO BÒ ĐỂ
THỤ TINH NHÂN TẠO 14
5. CƠ
SỞ THỰC NGHIỆM CỦA VIỆC GÂY ĐỘNG DỤC VÀ RỤNG
TRỨNG ĐỒNG LOẠT ĐỒNG LOẠT VÀ THỤ TINH NHÂN TẠO Ở BÒ30
6. HIỆU
QUẢ KINH TẾ CỦA GÂY ĐỘNG DỤC ĐỒNG LOẠT VÀ THỤ
TINH NHÂN TẠO 35
7. HIỆN
TRẠNG NGHIÊN CỨU VÀ TRIỂN KHAI CÁC KỸ THUẬT GÂY
ĐỘNG DỤC CHO BÒ TẠI VIỆT NAM 35
8. ĐỀ
TÀI LÀM GÌ VÀ CÓ KHẢ NĂNG ĐÓNG GÓP ĐƯỢC GÌ 37

PHẦN III. CÁC NỘI DUNG NGHIÊN CỨU 39
NỘI
DUNG I. ĐIỀU TRA HIỆN TRẠNG SINH SẢN ĐÀN BÒ ĐIỆN BIÊN40
1. Đặt vấn đề 40
2. Vật liệu và phương pháp nghiên cứu 40
3. Kết quả 41
4. Thảo luận 46
5. Tiểu kết 48
6. Kiến nghị đối với nội dung này 48
NỘI
DUNG II. ĐÀO TẠO VÀ TẬP HUẤN KỸ THUẬT SINH SẢN 49
LỚP ĐÀO TẠO 49
1. Đăt vấn đề 49
2. Phương thức tiến hành 50
3. Các kết quả 55
LỚP TẬP HUẤN 58
1. Mục đích 58

2
2. Cách tiến hành 58
3. Các kết quả 59
4. Tiểu kết: 61
5. Việc làm trong thời gian tới: 61
NỘI
DUNG III. THỬ NGHIỆM 04 QUY TRÌNH GÂY ĐỘNG DỤC ĐỒNG
LOẠT VÀ THỤ TINH NHÂN TẠO CHO ĐÀN BÒ ĐIỆN BIÊN 63
1. Đặt vấn đề 63
2. Phương pháp nghiên cứu 64
3. Kết quả 667
4. Thảo luận 75

5. Tiểu kết 80
NỘI
DUNG IV. NGHIÊN CỨU ỨNG DỤNG QUY TRÌNH THỤ TINH CHO
BÒ VỚI TINH ĐÔNG LẠNH CỌNG RẠ TẠI ĐIỆN BIÊN 82
1. Đặt vấn đề 82
2. Vật liệu và phương pháp sử dụng 83
3. Các kết quả và thảo luận 83
4. Tiểu kết 87
NỘI
DUNG V. ỨNG DỤNG QUY TRÌNH KỸ THUẬT CHĂM SÓC BÒ CÓ
CHỬA VÀ BÊ LAI 88
1. Đặt vấn đề 88
2. Cách tiến hành 88
3. Các kết quả 88
4. Tiểu kết 92
PHẦN IV. BÀN LUẬN CHUNG VÀ KẾT LUẬN 94
KẾT
LUẬN 98
KIẾN
NGHỊ 100
PHẦN V. TÀI LIỆU THAM KHẢO 101
A. TÀI
LIỆU THAM KHẢO TIẾNG VIỆT 102
B.
TÀI LIỆU THAM KHẢO TIẾNG NƯỚC NGOÀI 102
PHẦN VI. PHỤ LỤC 115

3























PHẦN I. ĐẶT VẤN ĐỀ

4
Chăn nuôi trâu bò kết hợp với vườn rừng và canh tác nông nghiệp đã từ
lâu hình thành nét đặc trưng trong đời sống của đồng bào các dân tộc tỉnh
Điện Biên. Chăn nuôi trâu bò không chỉ là một lợi thế còn là công cụ để xóa
đói giảm nghèo, tăng tích lũy cho người dân, đặc biệt là đồng bào các dân tộc
ít người. Trong kế hoạch phát triển của Điện Biên, chăn nuôi lớn thâm canh
chắc chắn sẽ là một đị
nh hướng quan trọng. Tuy nhiên ở một mức độ phát

triển như hiện nay của Điện Biên, chăn nuôi trâu bò hộ gia đình ở một quy mô
vừa phải sẽ là định hướng trong vòng 10-20 năm tới. Quy mô chăn nuôi này
vừa đảm bảo tận dụng được nguồn thức ăn tại chỗ, các phụ phẩm của canh tác
nông nghiệp, trồng rừng, lại là một kiểu tiểu-ngân-hàng giúp cho người nông
dân tích lũ
y và sinh lời đồng vốn của mình. Do bò là động vật nuôi lâu năm,
kiểu tích lũy này còn tránh được các biến động như suy thoái kinh tế hoặc lạm
phát.
Trong những năm gần đây, đàn bò tỉnh Điện Biên đã phát triển khá
nhanh từ 27.633 con (năm 2005) đã lên tới 32.198 con (năm 2007). Tuy nhiên
do phương thức chăn thả tự do nên tình trạng đồng huyết của đàn bò gia tăng,
một mặt làm suy giảm khối lượng c
ủa bò, mặt khác làm giảm tính thích nghi
do tích tụ các gen bất lợi. Như vậy, để tránh được các yếu tố trên và cải thiện
năng suất đàn bò, thực sự đưa việc chăn nuôi bò mang lại lợi nhuận cho người
dân thì việc cải tạo con giống là một trong những vấn đề cần giải quyết. Trên
một nền chăn nuôi bò nhỏ lẻ, mang tính tận dụng, đưa ngay đàn bò thuần có
năng su
ất cao vào Điện Biên trong giai đoạn này là một thách thức. Tuy nhiên
cải tạo giống bò địa phương bằng phương pháp lai tạo, tận dụng được ưu thế
về năng suất chất lượng của bò lai và tính thích nghi của bò nội sẽ là đáp án
hợp lý cho phát triển đàn bò.
Thụ tinh với tinh bò zê-bu chẳng những duy trì được đặc tính thích nghi
hiện có của đàn bò địa phương mà còn giúp phục tráng, nâng cao năng suất,

5
cải thiện chất lượng thịt bò. Kỹ thuật thụ tinh nhân tạo đã được bà con các dân
tộc trong tỉnh đón nhận. Tuy nhiên do địa hình phân cắt, mạng lưới dẫn tinh
viên mỏng, bò lại động dục quanh năm, việc lưu giữ tinh đông lạnh trở nên
tốn kém do thời gian bảo quản kéo dài. Nguồn nhân lực và vật tư cho kỹ thuật

tập trung chủ yếu ở thành phố Điện Biên Ph
ủ, còn ở các huyện và các xã là rất
ít, nên việc áp dụng thụ tinh nhân tạo hiện tại còn rất hạn chế.
Nghiên cứu chủ động gây động dục cho bò cái đã được tiến hành từ khá
lâu, ngay cả khi chưa phát hiện được tồn tại các sóng phát triển nang trong
mỗi chu kỳ sinh dục ở bò. Đến khi Ginther và CS (1989) sử dụng máy quét
siêu âm buồng trứng hàng ngày ở bò, chứng minh tồn tại 2 đến 3 sóng phát
triển nang trong mỗi chu kỳ và suy ra khoảng th
ời gian 3-4 ngày sau khi rụng
trứng, trong buồng trứng của bò cái chu kỳ có ít nhất một nang trứng có kích
thước phát triển >10mm sẵn sàng đáp ứng cho kích thích rụng trứng [32], thì
chủ động gây động dục cho bò để thụ tinh trở nên một kỹ thuật phổ biến để
quản lý sinh sản của đàn bò.
Kích thích rụng trứng từ các nang ở sóng nang đầu tiên, Kastelic và
Ginther (1991) đã cho thấy nếu được thụ tinh trứng phát triển thành phôi và
bò cái mang thai giống nh
ư trứng rụng cuối chu kỳ [46]. Twagiramungu và
CS, (1994) còn chứng minh rằng thể vàng hình thành do kích thích rụng trứng
ở bò không khác gì các thể vàng hình thành do động dục và rụng trứng tự
nhiên [128]. Các công trình của Purley và CS, (1997) trên bò sữa [82], Short
và CS, (1990) trên bò thịt [108] cho thấy áp dụng gây động dục đồng loạt có
thể cho tỷ lệ đậu thai từ 50-70% số bò xử lý, tiết kiệm chi phí và đặc biệt
giảm nhẹ được công sức theo dõi phát hiện động dục bỏi đàn bò động dục và
rụng trứng rải rắc quanh năm.
Cơ sở lý thuyết và thực nghiệm nêu trên cho phép chủ động gây động
dục và rụng trứng ở bò, làm cho một nhóm bò hay cả đàn bò cái cùng động

6
dc v rng trng vo mt khong ngn thi gian, ng dc rng trng ng
lot, cho phộp dn tinh ng lot cho bũ. iu ny c ng dng trong thc

t chn nuụi bũ lm gim cụng theo dừi phỏt hin ng dc mi cỏ th bũ
cng nh ch ng qun lý n, ch ng thi im cho bũ sinh con cng
nh rỳt ngn c khong cỏch gia hai la
, nõng cao hiu qu chn nuụi
bũ.
nc ta, gõy ng dc ng lot mi ch c ng dng rt hn ch
trong cỏc ng dng cy chuyn phụi bũ (Bựi Xuõn Nguyờn v CS, 1990) [5]
v i vi n bũ sa (Lờ Vn Ty v CS, 2006) [6]. i vi tnh in Biờn,
ch ng gõy ng dc ng lot cho bũ chng nhng cú th rỳt ngn c
khong cỏch gia hai la m cũn h
u ớch trong cụng tỏc ci to ging ti
õy khi m to ra n lai zờ-bu ang l mt vn ch o nõng cao nng
sut n bũ ca tnh.
Theo quyt nh s 397/Q-UBND, ký ngy 20/04/2007 phờ duyt d
ỏn quy hoch phỏt trin n trõu bũ theo hng sn xut hng húa bn vng
giai on 2006-2015 ca y ban Nhõn dõn tnh in Biờn thỡ n 2015 ton
tnh s cú 72.000 bũ, trong ú 60% l bũ lai. Cn c vo tỡnh hỡnh bi
n ng
ca n bũ hin cú t 2005 n 2009 (Bng 2), cựng vi nhng c gng trong
vic nõng cao hiu qu ca cụng tỏc thỳ y, phũng bnh v chớnh sỏch khuyn
khớch chn nuụi bũ h gia ỡnh, ch tiờu v mt s lng hon ton cú th t
c. Tuy nhiờn ch tiờu 60% bờ lai l mt thỏch thc, v nu khụng t c
mc ny thỡ mc dự t tiờu chớ v s lng nhng cht lng n s rt thp
v
i lý do l trong sut thi gian ca k hoch n bũ s t giao phi, kh nng
ng huyt gia tng lm cho n bũ v tng th khụng nhng gim cht lng
m cũn gim c tớnh thớch nghi.
ti Nghiên cứu ứng dụng kỹ thuật gây động dục đồng loạt, nâng
cao hiệu quả thụ tinh nhân tạo nhằm tăng năng suất đàn bò tại tỉnh Điện


7
Biªn, đưa ra một cách làm giải quyết được các nhu cầu tạo bò lai trước mắt,
cải tạo giống bò cho Điện Biên và chuẩn bị dần nguồn nhân lực tại chỗ cho
phát triển lâu dài. Phương thức tiến hành là dùng nguồn nhân lực gồm các
chuyên gia của Viện Công nghệ sinh học, Viện Chăn nuôi Quốc gia, kết hợp
với nguồn nhân lực của địa phương (đã đào tạo, hoặc đ
ào tạo mới) chủ động
gây động và dẫn tinh cho đàn bò theo hình thức “cuốn chiếu”, từng xã hoặc
từng cụm xã một. Vì chủ động gây động dục nên chỉ cần bảo quản tinh trùng
đông lạnh trong một thời gian ngắn. Trong quá trình làm, kết hợp đào tạo cán
bộ tại chỗ với phương thức “cầm tay chỉ việc”. Như vậy chỉ trong khoảng 3-5
năm số bò lai sẽ có m
ặt áp đảo so với số bò còn lại ở các địa phương. Mở
rộng phương thức này ra toàn tỉnh, duy trì công thức lai trong vòng 5 năm thì
việc cải tiến năng suất đàn bò tỉnh Điện Biên và chỉ tiêu 60% bò lai vào năm
2015 là hoàn toàn hiện thực.
MỤC TIÊU CỦA ĐỀ TÀI
• Xây dựng quy trình gây động dục và rụng trứng đồng loạt cho đàn bò Điện Biên .
Xây dựng mô hình ứng dụng cải tạo đàn bò bằng phương pháp thụ tinh nhân tạo
kết hợp với gây động dục và rụng trứng đồng loạt tại Điện Biên.
Báo cáo này bao gồm 6 phần: phần I. Đặt vấn đề, giới thiệu về kỹ thuật và
khả năng
ứng dụng; phần II. Tổng quan tài liệu, trình bày ngắn gọn về Cơ sở lý
thuyết và Cơ sở thực nghiệm của kỹ thuật, tính khả thi, tính phù hợp và cần thiết để
cải tạo đàn bò tỉnh Điện Biên; phần III. Các nội dung, bao gồm 5 nội dung đã
đăng ký: 1) Điều tra hiện trạng sinh sản đàn bò Điện Biên, 2) Đào tạo k
ỹ thuật gây
động dục và thụ tinh nhân tạo, 3) Thử nghiệm 04 quy trình gây động dục và thụ tinh
nhân tạo cho đàn bò Điện Biên, 4) Nghiên cứu ứng dụng quy trình thụ tinh nhân tạo
với tinh đông lạnh cọng rạ tại Điện Biên và 5) Ứng dụng quy trình chăm sóc bò có

chửa và bê lai; phần IV. Thảo luận chung, Kết luận và Kiến nghị, phần V. Tài
liệu tham khảo
tiếng Việt, tiếng nước ngoài và phần VI. Phụ lục trình bày ảnh tư
liệu về các hoạt động của đề tài.

8









PHẦN II. TỔNG QUAN TÀI LIỆU

VỀ TÍNH CẤP THIẾT VÀ KHẢ THI CỦA ĐỀ TÀI


9
1. TẠI SAO NÊN PHÁT TRIỂN CHĂN NUÔI BÒ Ở ĐIÊN BIÊN
Phát triển nền nông nghiệp bền vững là điểm tựa cơ bản của nền kinh tế
nước ta. Mỗi một địa phương trồng cây gì, nuôi con gì để mang lại hiệu quả
kinh tế cao luôn luôn là một câu hỏi đặt ra cho các nhà quản lý. Những bài
học từ thành công cũng như thất bại các mô hình phát triển cây, con từ khi
phổ biến nền kinh tế hàng hóa cho đến nay cho thấy: xuất phát từ nền tảng các
cây con sẵ
n có của từng vùng, từng địa phương, đưa khoa học kỹ thuật để
nâng cao năng suất chất lượng, làm thương hiệu và thương mại sản phẩm là

con đường tối ưu.
Chăn nuôi bò ở Điện Biên nói riêng và vùng Tây Bắc nói chung liệu có
phải là một lợi thế? Đúng vậy, bởi vì từ năm 2000 đến nay, giá thịt bò mặc dù
có nhiều biến động nhưng chưa khi nào giảm. Thị
t bò tươi sản xuất trong
nước vẫn gần như độc chiếm thị trường. Đô thị mở rộng nhu cầu thịt bò, đặc
biệt là thịt bò tươi ngày một tăng. Thịt bò trên thị trường đa dạng về chủng
loại nhưng chưa có thương hiệu để khẳng định về chất lượng. Nếu có một loại
thịt bò chất lượng tốt, s
ản xuất tại Điện Biên có thương hiệu “thịt bò Điện
Biên”, giá cạnh tranh thì người tiêu dùng sẽ đón nhận. Giống như “gạo tám
Điện Biên”, “sữa bò Ba Vì”, “Cà fê Đắc Lắc”, chất lượng của sản phẩm
được gắn với thổ ngơi của từng vùng. Nếu gạo tám Điện Biên đặc biệt hơn
các nơi khác do biến động nhiệt độ chu kỳ ngày đêm cũ
ng như các đặc điểm
về thổ nhưỡng thì các ảnh hưởng này cũng có thể làm nên thương hiệu “thịt
bò Điện Biên”
Chăn nuôi bò là nghề nuôi đã có từ lâu đời ở nước ta nói chung và ở
Điện Biên nói riêng. Nếu biết kết hợp tính truyền thống này với các kỹ thuật
và nguồn gen mới có thể thay đổi dần diện mạo của việc chăn nuôi theo
hướng thâm canh, nâng cao năng suấ
t chất lượng, đáp ứng nhu cầu thịt bò
tươi ngày một tăng trong nước và xuất khẩu.

10
Thêm vào đó nuôi bò ở Điện Biên còn tận dụng lợi thế của vùng đất đồi
rộng lớn chưa khai thác cũng như vị trí gần các cửa khẩu đi Lào, đi Trung
Quốc, tiện lợi cho việc xuất khẩu bò, thịt bò, các sản phẩm từ thịt bò.
Điện Biên so với những địa phương khác của Viêt Nam, lợi thế đặc biệt
là còn nhiều diện tích rừng hoặc

đất hoang để trồng rừng, nuôi bò, nuôi trâu là
một mắt xích trong các hoạt động canh tác nông nghiệp và trồng rừng, các
hoạt động này đang diễn ra sôi động ở Điên Biên và Tây Bắc nói chung.
Thảm thực vật dưới tán rừng, các phụ phẩm trồng lúa, trồng màu, trồng cây
công nghiệp tạo nguồn thức ăn cho trâu bò, phân trâu bò quay trở lại bón cho
cây trồng.
Về mặt kinh tế xã hội, Viêt Nam đang hội nhập toàn cầu, biến động giá
c
ả, lạm phát và suy thoái kinh tế đều có thể ảnh hưởng đến nền kinh tế nước
ta. Nhóm người bị ảnh hưởng đầu tiên và nặng nề nhất là nông dân, đặc biệt
là nông dân, đồng bào các dân tộc ít người ở vùng sâu vùng xa. Bò, trâu với
đặc tính là vật nuôi lâu năm, nếu đầu tư tiền vào nuôi trâu bò, người dân còn
có thể xem đây như ngân hàng tích lũy vốn của mình, đồng vốn luôn được
bảo vệ và gia tăng. Quan sát sự biến độ
ng tình hình kinh tế nước ta cho thấy
mặc dù VNĐ liên tục mất giá nhưng giá trị thịt bò luôn ổn định và gia tăng
(một kg thịt bò tươi vẫn đổi được 10-12 kg gạo). Nuôi bò cũng là cách hiệu
quả để giúp người nông dân xóa đói giảm nghèo cũng như tạo ra một khoản
tiền dự trữ cho các việc đột xuất như: chữa bệnh hay cho con đi học.
2. TÍNH PHÙ HỢP CỦA ĐỀ TÀI VỚI CHÍNH SÁCH PHÁT TRIỂN KINH TẾ
XÃ HỘI CỦA TỈNH ĐIỆN BIÊN
Đánh giá lợi thế là một tỉnh có tài nguyên về phát triển nông nghiệp,
trồng rừng cũng như tham khảo về trình độ phát triển không đồng đều của
đồng bào các dân tộc anh em, Lãnh đạo tỉnh Điện Biên cho rằng phát triển
chăn nuôi trâu bò là một nhiệm vụ quan trọng trong sản xuất nông nghiệp

11
trước mắt và lâu dài. Ý tưởng này đã được cụ thể hóa bằng quyết định số
397/QĐ-UBND, ký ngày 20/04/2007 phê duyệt dự án quy hoạch phát triển
đàn trâu bò theo hướng sản xuất hàng hóa bền vững giai đoạn 2006-2015.

Theo đó, mục tiêu phát triển đạt mức tăng đàn trâu 2006-2015 là 3,56% / năm,
bò phải tăng 10,14% /năm. Tổng đàn trâu vào năm 2015 đạt 141.300 con, đàn
bò đạt 72.600 con, trong đó bò lai chiếm 60%. Hàng năm bán thịt 13.000 đến
17.000 con trâu, bò giai đoạ
n 2006-2010 và 19.000 đến 23.000 con trâu bò
giai đoạn 2011-2015.
Dự án này cũng đưa ra một loạt các giải pháp quan trọng để đạt được
các mục đích:
Về thức ăn, dự án cho rằng cần cải tạo đồng cỏ tự nhiên thành đồng cỏ
chăn nuôi. Dự kiến diện tích sản xuất nông nghiệp của Điện Biên đến 2015 là
123.825 ha. Trong đó đất canh tác 117.790 ha (trồng lúa, lúa màu: 44.475 ha,
đất trồng cỏ chăn nuôi: 6.500 ha, đấ
t trồng các cây khác: 66.815 ha, đất trồng
cây lâu năm: 6.035 ha). Trong 6.500 ha đất đồng cỏ chăn nuôi có 2.000 ha đất
chuyên trồng cỏ và số còn lại 4.500 ha là đồng cỏ tự nhiên được cải tạo. Bên
cạnh việc mở rộng và thâm canh đồng cỏ thì tận dụng nguồn phụ phẩm nông
nghiệp như rơm, thân cây ngô, khoai, lạc để chế biến thành thức ăn cho trâu
bò cũng được quan tâm.
Về con giống, dự án đề ra ưu tiên xây dự
ng cơ sở chăn nuôi trâu bò
giống của tỉnh nhằm nuôi dưỡng và cung cấp giống trâu, bò tốt cho nhân dân,
sử dụng các giống bò ngoại (Sind, Bratman, Droughmaster, ), trâu ngoại
(Murah, ) để tạo ra con lai có năng suất cao, chất lượng tốt nhưng thích nghi
trong điều kiện của địa phương.
Về công tác thú y, vệ sinh phòng trừ dịch bệnh, dự án xem đây là giải
pháp quan trọng liên quan đến sản xuất hàng hóa và thị trường. Về bộ máy
c
ần bổ sung cán bộ làm công tác quản lý và thú y ở cấp huyện, xã cũng như

12

nõng cao nng lc ca cỏc cỏn b ny cng nh tng cng cỏc dch v thỳ y
cỏc thụn, bn. H tr kinh phớ cho cụng tỏc phũng bnh. Tiờm chng phi
t >80% cho cỏc bnh: t huyt trựng, nhit thỏn, ung khớ than, bnh chõn
ming,
V nõng cao nng lc cỏn b k thut ti c s v nụng dõn, d ỏn
cho rng xõy dng k hoch o to cho cỏn b ca Trung tõm Phỏt trin
chn nuụi ca tnh Trung tõm ny tr
thnh n v nũng ct trong chuyn
giao cỏc tin b KHCN cho cỏc n v c s v nụng dõn. u t trang thit
b v o to cỏn b cho Chi cc thỳ y tnh. Hng nm cú k hoch hp tỏc
vi cỏc Vin nghiờn cu trung ng m cỏc lp tp hun v o to v cỏc k
thut chn nuụi ti in Biờn v trin khai cỏc ti phc v chn nuụi trõu
bũ.
Cỏc gii phỏp v phỏt tri
n c s h tng, v c ch, chớnh sỏch
phỏt trin chn nuụi trõu bũ trờn a bn tnh in Biờn cng c quan
tõm thớch ỏng.
Tuy khụng phi l thnh phn ca d ỏn phỏt trin n trõu bũ ca in
Biờn nhng ti: Nghiên cứu ứng dụng kỹ thuật gây động dục đồng loạt,
nâng cao hiệu quả thụ tinh nhân tạo nhằm tăng năng suất đàn bò tại tỉnh
Điện Biên trin khai giai on 2008-2010 l hon ton phự hp, cú kh nng
h tr, mt khỏc li trựng vi giai on trin khai d
ỏn phỏt trin n trõu bũ
ca tnh nh.
Trong cỏc gii phỏp ca d ỏn thỡ ti cú th h tr cho 3 gii phỏp
quan trng: con ging, k thut v ngun nhõn lc. V vn con ging,
ti nghiờng v ỏp dng th tinh nhõn to zờ-bu húa n bũ. Nh vy cú th
mt mt tn dng c li th thớch nghi ca n bũ a phng, mt khỏc ci
to n
ng sut v cht lng n. V k thuõt, gõy ng dc ng lot kt hp

vi th tinh nhõn to s y nhanh tc zờ-bu húa n bũ, õy cú th cụng

13
cụ quan trọng để đạt được chỉ tiêu 60% đàn bò là bò lai vào 2015. Kỹ thuật
này hoàn toàn có thể mở rộng ra toàn đàn nếu gây động dục đồng loạt để vừa
thụ tinh nhân tạo vừa cho bò đực giống đã chọn lọc nhảy trực tiếp. Đề tài
cũng có thể là hữu ích đối với dự án của tỉnh từ khía cạnh tạo ra đàn bò đực
lai có thể trạng tốt h
ơn so với đàn bò đực hiện có của địa phương, dùng đàn
đực giống này cải tạo thể trạng của đàn bò hiện tại, nâng cao dần thể trạng
của toàn đàn. Ngoài ra, các hoạt động đào tạo tập huấn của đề tài sẽ giúp tạo
cho Điên Biên có nguồn nhân lực kỹ thuật cũng như có các chuyên gia về ứng
dụng các kỹ thuật sinh sản và thụ tinh nhân tạo.
3. TẠI SAO PHẢI ÁP DỤNG GÂY ĐỘNG DỤC ĐỒNG LOẠT VÀ THỤ TINH
NHÂN TẠO ĐỂ CẢI TẠO ĐÀN BÒ ĐIỆN BIÊN
Sin hóa đàn bò (hay đúng hơn là zê-bu hóa đàn bò) đã được chúng ta
thực hiện từ những năm 70. Đến nay nhiều địa phương ở đồng bằng sông
Hồng đã cải tạo được tầm vóc đàn bò, có nơi bò lai-zebu đã thay thế hết đàn
bò vàng giống địa phương. Phối giống bằng thụ tinh nhân tạo đã thay thế việc
cho bò nhảy trực tiếp ở nhiều địa ph
ương.
Thụ tinh nhân tạo để ze-bu hóa đàn bò tỉnh Điện Biên vẫn còn là một
thách thức đối với Điện Biên nói riêng và các tỉnh Tây Bắc nói chung. Trước
hết do địa bàn rộng lớn, địa hình phân cắt, giao thông đến các huyện, xã còn
khó khăn, tiếp đến là chưa hình thành được mạng lưới dẫn tinh viên ở các xã
hoặc các cụm xã, thậm chí ở cấp huyện. Ở Điện Biên, thụ tinh nhân tạo mới
chỉ được Trung tâm Phát triển chăn nuôi triển khai tại ở địa bàn bán kính
khoảng 10 km cách Điện Biên Phủ.
Giống như ở các địa phương khác ở miền Bắc Việt Nam, đàn bò Điên
Biên động dục rải rắc quanh năm. Theo dõi động dục để thụ tinh nhân tạo kịp

thời là bất khả thi vì không có dẫn tinh viên và nguồn tinh tại chỗ, trong khi
bò đực, bò cái được chăn thả tập trung nên khả nă
ng tạp giao là phổ biến. Nếu

14
nh khụng cú cỏc bin phỏp ci to n thỡ mc dự n bũ tng t 6-8% mi
nm (Bng 1), thỡ n 2015 tng n bũ cú th t c s lng nh d kin
72.600 con, nhng cht lng, khi lng, tớnh thớch nghi li gim i do t l
ng huyt cao.
Nh vy, trin khai ti Nghiên cứu ứng dụng kỹ thuật gây động
dục đồng loạt, nâng cao hiệu quả thụ tinh nhân tạo nhằm tăng năng suất
đàn bò tại tỉnh Điện Biên l cụng c quan trng v l la chn tt nh
t
d ỏn phỏt trin 60% bũ lai ca tnh thnh cụng mt cỏch bn vng vo 2015.
4. C S Lí THUYT CA VIC GY NG DC NG LOT CHO Bề
TH TINH NHN TO
ó t rt sm, cỏc nghiờn cu v t chc hc nh lng phỏt hin
trong mt chu k ca bũ cú 2 n 3 súng nang. Cỏc súng nang ny c quyt
nh bi cỏc yu t di truyn, ó hỡnh thnh ngay trong phỏt trin cỏ th, cỏc
giai on phỏt trin trc dy thỡ, trong thi im bũ mang thai v ngay c
giai on bt dc sinh lý vn cú hin din ca cỏc súng nang. im khỏc bit
gia cỏc súng nang bũ cú chu k
so vi bũ cỏc giai on khỏc l kớch
thc nang c tụn ln hn hỡnh thnh mi súng nang. Bng phng phỏp
quột siờu õm hng ngy, cỏc nh khoa hc cho thy cú khong 70% qun th
bũ cú 2 súng phỏt trin nang trong mt chu k, khong 30% qun th bũ cú
n 3 súng nang trong mt chu k. Thờm vo ú cú tỏc gi cũn thy bũ sinh
ụi ch xy ra bũ cú chu k 3 súng nang. Th nghim gõy rng trng cỏc
nang c tụn, ngi ta thy rng bt c súng nang no mt khi nang c tụn
cho r

ng trng cng to ra mt trng tt cú th th tinh v cho u thai.
Nghiờn cu tng quan gia cỏc súng nang bũ, ngi ta thy rng
mt súng nang mi ch cú th hỡnh thnh khi nang c tụn ca súng nang
trc ó cho rng trng hoc thoỏi húa. Duy trỡ hm lng progesterone cao
trong mỏu nh b sung liờn tc t bờn ngoi hoc t viờn cú cha dn xut

15
của progesterone vào âm đạo làm kéo dài sự tồn tại của nang độc tôn, người
ta không quan sát thấy hình thành sóng nang mới. Trong khi loại bò nang độc
tôn bằng cách làm giảm đột ngột hàm lượng progesterone trong máu, gây nên
rụng trứng nang độc tôn và hình thành sóng nang mới. Việc cản trở hình
thành sóng nang mới của nang độc tôn cũng được chứng minh khi phá hủy
nang độc tôn bằng cơ học như đốt hoặc hút bỏ.
Mặc dù nhất trí cơ bản về lý thuyết phát triển nang dạng sóng d
ọc theo
chu kỳ, các nhà khoa học vẫn chưa thống nhất về tỷ lệ bò có chu kỳ 2 hoặc 3
sóng nang trong quần thể bò. Nghiên cứu sâu ở quần thể bò sữa, Siroi and
Fortune (1988), Savio et al (1988), Ginther et al (1989), Gong et al (1996) cho
rằng có tới 80% bò trong quần thể có chu kỳ 2 sóng nang [33], [36], [95],
[112]. Hiện tượng này được xác lập bởi yếu tố di truyền hoặc di truyền kết
hợp với yếu tố môi trường vẫn còn là vấn đề còn bỏ ngỏ.
Khái niệm v
ề một sóng phát triển nang ở bò được đặc trưng bởi sự lớn
lên đồng thời của một số các nang nhỏ đạt đến một kích thước nhất định
(khoảng 3-4 mm), ở giai đoạn này các nang có cùng cơ hội để phát triển thành
nang độc tôn. Một cơ chế chọn lọc của cơ thể dẫn đến sự phát triển không
đồng đều nên chỉ có một nang lớn vượt lên tr
ở thành độc tôn duy trì tăng
trưởng, trong khi các nang khác lớn chậm dần rồi thoái hóa (Ginther et al.
1996; Knopf et al 1989) [34], [49].

Nang độc tôn đầu tiên của chu kỳ sinh dục là một nang trong tập hợp
một số nang có đường kính 2-5mm xuất hiện một ngày sau rụng trứng. Nang
được chọn lựa (lớn vượt lên) trong ngày thứ 3 và trở thành nang độc tôn ngày
thứ 5, thứ 6. Trong khi có một nang trở thành độc tôn thì các nang khác cận
kề trong tập hợp ban đầu lớn chậm đi và trở thành nang thoái hóa, trùng vào
thờ
i điểm mức FSH trong máu giảm xuống (Irland and Roche 1983, Adams et
al., 1992, Adams 1994, Sunderland 1994). Nang độc tôn phát triển đạt kích

16
thước tối đa 13-16mm vào ngày thứ 6 đến ngày thứ 7 của chu kỳ. Nang độc
tôn có một giai đoạn phát triển với kích thước ổn định được ghi nhận từ ngày
thứ 6 đến ngày thứ 10. Sau thời điểm này nang độc tôn giảm nhanh kích
thước và không còn nhận diện được vào ngày thứ 15. Thoái hóa nang độc tôn
đầu tiên cũng trùng hợp với một sóng nang mới xuất hiện vào thời điểm gia
tăng chuyển tiếp bài ti
ết FSH vào máu từ tuyến yên [9], [8], [43], [121]. Ở bò
chu kỳ hai sóng nang, nang độc tôn thứ hai sẽ là nang rụng trứng. Nhưng ở bò
có 3 sóng nang thì nang độc tôn thứ 2 vẫn chưa cho rụng trứng. Nếu nang độc
tôn ở bò chu kỳ 2 sóng nang bắt đầu tăng tốc lớn vào ngày thứ 10 thì nó sẽ
cho rụng trứng 11 ngày sau đó, tức là 21 ngày sau lần rụng trứng cuối cùng.
Nang cho rụng trứng ở bò có chu kỳ 3 sóng nang xuất hiện vào ngày thứ 16
và rụng trứng 7 ngày sau đó. Như
vậy, theo Pierson and Ginther (1987), Siroi
và Fortune (1988), Ginther et al (1989) thì khoảng cách giữa hai lần động dục
ở bò chu kỳ 2 sóng nang ngắn hơn ở bò chu kỳ 3 sóng nang (21 so với 23
ngày) [32], [75], [112]. Kích thước lớn nhất trung bình của nang độc tôn sóng
nang thứ 2 là tương tự như kích thước nang độc tôn ở sóng nang thứ nhất
(khoảng 16mm). Như vậy ở bò có chu kỳ hiện diện ít nhất 1 nang to (khoảng
12mm) trong tất cả các ngày của chu kỳ sau ngày thứ 4.

Sóng nang đầu tiên xuất hiện vào ngày thứ nhất c
ủa chu kỳ (sau ngày
rụng trứng), sóng nang thứ 2 ở bò chu kỳ hai sóng nang xuất hiện vào ngày
thứ 10. Ở bò chu kỳ 3 sóng nang, sóng nang thứ hai xuất hiện vào ngày thứ 9
và sóng nang thứ 3 xuất hiện vào ngày thứ 16. Adams et al. (1992) đã chứng
minh có mối tương quan chặt chẽ sự gia tăng bài tiết FSH và sự xuất hiện các
sóng nang [9]. Kết thúc mỗi một pha phát triển độc tôn luôn được báo trước
bởi sự tiêu biến các thụ quan đối với FSH và LH cùng với hoạt tính sả
n xuất
oestrogen của nang độc tôn (Irland and Roche 1983) [44]. Sự giảm tần suất
các xung LH cũng xuất hiện trước khi nang độc tôn thoái hóa (Savio et al

17
1990). Gong et al (1996) còn chứng minh rằng: nang trứng phát triển đến giai
đoạn có đường kính dưới 4mm không phụ thuộc vào gonadotropin nhưng phụ
thuộc sống còn vào FSH giai đoạn phát triển từ 4-9mm, vào LH giai đoạn cận
rụng trứng (>9mm) [36], [95]. Những kết quả này là quan trọng trong điều
tiết các loại hooc-môn cho mục đích gây động dục và rụng trứng đồng pha.
Liệu nang độc tôn ở sóng nang thứ nhất có thể cho rụng trứng ?
Trong chu k
ỳ bình thường nang độc tôn đầu tiên không cho rụng trứng.
Nang độc tôn này phát triển trong lúc hiện diện một thể vàng hoạt động, chỉ
có thể bị thoái hóa khi không có mặt các xung LH, các xung này bị ức chế bởi
mức progesterone cao trong máu. Như vậy chỉ các nang độc tôn không bị
thoái hóa có mặt vào lúc thể vàng bị thoái hóa mới có cơ hội rụng trứng. Tuy
nhiên vẫn có thể gây rụng trứng các nang phát triển giai đoạn hoàng thể nếu
áp dụng các yếu tố
kích thích bởi các hóa dược.
Savio et al. (1990), Novaes et al. (1991) là những tác giả đầu tiên thử
gây rụng trứng với nang độc tôn đầu tiên khi họ dùng PGF2α, cho thấy nang

độc tôn đầu tiên cho rụng trứng và trứng rụng từ nang này thụ tinh và đậu thai
được [65], [95]. Trong khi đó Bagusi et al.(1993), Prescott et al. (1996), Gong
et al. (1995, 1996) đã dùng GnRH làm rụng trứng nang độc tôn đầu tiên [12],
[35], [36], [79]. Price and Webb (1989), Schmith et al. (1996) lại tiêm HCG
gây rụng trứng nang độc tôn đầu tiên [80], [100]. Trong tất cả các trường hợp
quan sát thấy phản ứng động dục và rụng trứng x
ảy ra với các thông số điển
hình giống như động dục và rụng trứng tự nhiên cuối chu kỳ, dẫn tinh các tác
giả đều thầy các rụng trứng này tốt vì dẫn tinh bò đậu thai.
Điều này về lý thuyết đã mở ra một khả năng mới: không nhất thiết
phải chờ sự phát triển của nang độc tôn cuối chu kỳ, động dục và rụng trứng
có thể xả
y ra với bất cứ nang độc tôn nào hình thành trong chu kỳ. Về mặt
thời gian, mỗi chu kỳ cách nhau 21-23 ngày trong khi đó mỗi sóng nang chỉ

18
cách nhau 7-8 ngày. Đây chính là cơ sở để người ta có thể rút ngắn khoảng
cách giữa 2 lần xử lý, và hệ quả là rút ngắn được khoảng cách từ lúc bò đẻ
đến lần phối giống đầu tiên, dẫn tới rút ngắn khoảng cách giữa hai lứa đẻ.
Phát triển nang trứng giai đoạn sau khi bò đẻ con (post-partum)
Sau khi đẻ, giai đoạn tái phục hồi tử cung xảy ra ở tất cả các động vật
có vú. Trong giai đ
oạn này xảy ra đồng thời việc tái thiết lập tính chu kỳ. Giai
đoạn này nhanh hay chậm phụ thuộc và rất nhiều yếu tố: bản thân con vật và
môi trường. Tái phục hồi các sóng nang càng sớm, con vật càng nhanh chóng
có khả năng thụ thai lại. Nghiên cứu kỹ giai đoạn này chính là chìa khóa để
áp dụng kích thích động dục và rụng trứng sớm, rút ngắn khoảng cách giữa
hai lứa đẻ.
Thể vàng của quá trình mang thai thoái hóa làm đột ngộ
t giảm lượng

progesterone trong máu là một trong các cơ chế quan trọng dẫn đến đẻ con.
Tồn tại sau khi đẻ một khoảng rất giao động gọi là giai đoạn bất thụ sau khi
sinh. Khoảng này phụ thuộc vào hàng loạt các yếu tố sinh lý, môi trường,
bệnh lý như: dinh dưỡng, thể trạng, cho con bú, bệnh dystocia, giống bò, tuổi
bò, tháng bò đẻ, bệnh lý tử cung và các bệnh mãn tính.
Giảm lượng progesterone, estradiol trong máu kích thích hệ trục
Hypothalumus-Hypophys-Gonads theo cơ chế
điều khiển âm tính ngược
(feedback) là gia tăng hàm lượng FSH trong máu trong vòng từ 5-14 ngày sau
khi bò đẻ (Peters et al. 1981) [73], tạo nên sóng nang đầu tiên trong giai đoạn
bất dục sau khi sinh. Các sóng nang không bị mất đi trong quá trình bò mang
thai nhưng kích thước các nang độc tôn của các sóng này thấp và bị thoái hóa
do mức progesterone quá lớn trong quả trình mang thai. Lúc FSH gia tăng
trong máu cũng là lúc sóng nang đầu tiên hình thành với các nang độc tôn có
kích thước điển hình (Roche and Mihm 1996) [90]. Có một loạt xung LH (với

19
tần suất dày, biên độ thấp) xuất hiện kích thích phát triển và duy trì độc tôn
nang (Savio et al. 1990) [96].
Một số công trình cho thấy có một vài sóng nang xuất hiện và phát
triển trước lần rụng trứng đầu tiên giai đoạn sau khi bò đẻ. Ở bò sữa, Dufour
and Roy (1985) quan sát thấy các nang có xoang lớn phát triển vào khoảng
15-35 ngày sau khi bò đẻ [23]. Savio et al., (1990) quan sát thấy các nang lớn
5-9mm phát triển vào 7-10 ngày sau khi bò đẻ, từ các nang này một nang độc
tôn tiếp tục phát triển vào ngày 10-13 sau khi bò đẻ, nang độc tôn đầu tiên sau
khi bò đẻ rụng trứ
ng ở phần lớn các bò (70-80%) [95]. Điểm đặc biệt là các
nang độc tôn rụng trứng sau khi bò đẻ thường rụng trứng “ngầm”, không kèm
theo các dấu hiệu bò động dục (Savio et al., 1990) [95].
Như vậy, tính chu kỳ ở bò được tái thiết trở lại sau thời kỳ phát triển

ngắn của thể vàng (short-lived CL) (Odde et al., 1990, Pratt et al., 1982) [67],
[78]. Thực tế có một sự gia tăng chuyển tiếp hàm lượng progesterone thường
xảy ra 10 ngày trước lần động dụ
c đầu tiên sau khi sinh con ở bò thịt
(Rawling et al., 1980, Peters et Reley 1982, Hungphrey et al 1983, Werth et
al., 1996) [40], [82], [85], [134].
Ở bò thịt cho con bú phát triển nang có sự thay đổi. Những nang trứng
lớn đến 8mm đã quan sát thấy vào ngày thứ 7 với sự gia tăng về số lượng từ
ngày 7 đến ngày 42 sau khi bò đẻ. Nhưng chỉ quan sát thấy nang độc tôn ở
11% số bò (Murphy et al., 1990, Stagg et al., 1995) [63], [115] và nang rụng
trứng đầu tiên chỉ thấy được 40 ngày sau khi bò sinh con (Roche and Boland
1991, Short et al., 1990) [89], [108]. Điều này cho thấy giai đoạn bất dục sau
khi sinh ở bò thị
t kéo dài không phải do trễ tái hồi phục phát triển sóng nang
mà do các nang độc tôn nhỏ, không rụng trứng được. Người ta quan sát thấy
xung bài tiết LH xuất hiện giai đoạn sau khí sinh ở bò cho con bú muộn hơn
so với bò vắt sữa (Peters et al., 1981) [73]. Điều này gợi ý là nang trứng

20
không nhận đủ tín hiệu từ các gonadotropin (thiếu tín hiệu LH) để phát triển
đến giai đoạn rụng trứng.
Giải thích về hiện tượng không có biểu hiện động dục lần rụng trứng
đầu tiên sau khi sinh, Schallenberger và Parkopp (1985) [97] cho rằng não bộ
có một giai đoạn có độ dài rất giao động, tỏ ra trơ ỳ đối với hiệu ứng kích
thích của estradiol-17β cho bài tiết LH trong thời kỳ sau khi sinh. Điều này là
hợ
p lý bởi mức estradiol rất cao trong mang thai giai đoạn cuối đã tạo nên
trạng thái trơ thần kinh làm não bộ không thể trả lời các kích thích tạo nên
trạng thái động dục của estradiol. Do vậy khoảng thời gian từ khi bò đẻ con
đến khi bò động dục đi kèm với rụng trứng (tức là tái thiết lập đầy đủ tính chu

kỳ) có thể là rất ngắn 15 ngày và có thể dài hơn 100 ngày. Trong khi rụng
trứng ở bò sữa xảy ra 3 tu
ần sau khi sinh thì ở bò thịt nuôi con, rụng trứng chỉ
xảy ra sau 5-8 tuần, ngay cả khi các sóng nang đã phát triển trở lại sớm ngay
sau khi sinh (Stagg et al., 1995) [115]. Dinh dưỡng và quản lý đàn bò kém
cũng là nguyên nhân làm cho tính chu kỳ của bò chậm tái thiết lâp.
Điều khiển động dục ở bò bằng các hóa dược
Cho đến nay, mội cách điều khiển chu kỳ động dục ở bò là kéo dài
hoặc chấm dứt sự phát triển của thể vàng. Kéo dài pha hoàng thể
bằng
progesterone và các dẫn xuất của nó, còn rút ngăn pha hoàng thể thông qua
việc gây thoái hóa thể vàng bằng prostaglandin (PG). Tuy nhiên PG tác động
nên thể vàng không làm thay đổi tốc độ lớn nang do vậy các chất kích thích
phát triển nang như GnRH, PMSG, FSH, luôn là những hợp chất bổ sung
làm cho tính đồng pha của động dục và rụng trứng tăng lên.
Gây động dục đồng loạt bằng phương pháp làm thoái hóa thể vàng với
PGF2α

21
Tiêm PGF2α cho bò vào phần lớn thời gian trong chu kỳ sinh dục đều
gây nên thoái hóa thể vàng và như vậy làm giảm mức progesterone trong máu.
Hệ quả là làm thay đổi tương quan estradiol/progesterone làm thay đổi hình
mẫu bài tiết các hooc-môn gonadotropins dẫn đến phát triển nang đến giai
đoạn cận rụng trứng. Trong các nghiên cứu chi tiết, Kastelic (1994) [45] cho
thấy nang độc tôn có mặt vào lúc tiêm PGF2α trở thành nang rụng trứng. Ở
bò hậu bị, tiêm PGF2α vào thời điểm ngày thứ 5 đến ngày 8 của chu kỳ
, nang
độc tôn đầu tiên rụng trứng, nếu tiêm vào vào ngày 12, nang độc tôn thứ hai
rụng trứng (Kastelic and Ginther, 1991) [46]. Bò nhận một mũi tiêm PG đơn
độc trong khoảng ngày 8 đến 18 biểu hiện động dục trong vòng 2 đến 5 ngày

sau đó (Stevenson 1993, Seguin et al., 1983), nhưng thời điểm của chu kỳ lúc
tiêm ảnh hưởng đến thời điểm xảy ra động dục [104], [118]. Tanabe và Hahn
(1984) thông báo rằng một mũi tiêm PGF2α vào các ngày 7, 11 và 15 của chu
kỳ ở bò hậu bị tạo cho bò
động dục rất tập trung trong vòng 80 giờ sau khi xử
lý (86, 90, 98% tương ứng) [122]. Trong các nghiên cứu khác, động vật được
xử lý sớm hoặc muộn hơn có khoảng thời gian đến động dục ngắn hơn và ít
giao động hơn. Tiêm PG vào giữa chu kỳ (ngày 8-11) hoặc vào giai đoạn
muộn pha hoàng thể (ngày 12-15) cho thấy động dục xảy ra là 70 và 68 giờ
tương ứng sau khi tiêm (Stevenson et al., 1984, Watt and Fuquay 1985) [117],
[132]. Kastelic (1984) còn thông báo rằng tiêm PG vào ngày 12 làm khoảng
cách từ lúc xử lý đến khi xuất hi
ện động dục giao động và dài hơn so với tiêm
PG vào ngày 5, ngày 8 [45]. Bò được tiêm PG trong khoảng ngày 7-8, 15-16
động dục xảy ra sớm hơn so với bò tiêm ngày 12-14 (Gordon et al., 1996)
[37]. Điều này có thể liên quan đến một thực tế là ngày 7-8 và 15-16 trùng
hợp với đỉnh phát triển nang của bò chu kỳ 3 sóng nang.
Những kết quả trên gợi ý rằng khoảng giao động giữa thời điểm xử lý
và thời điểm bắt đầu động dục, rụng trứng là
đáng kể, phụ thuộc vào trạng

22
thái phát triển nang vào lúc tiêm thuốc. Nếu thoái hóa thể vàng xảy ra trước
giai đoạn phát triển ổn định nang độc tôn thì nang này sẽ rụng trứng, kết quả
làm ngắn lại khoảng từ lúc tiêm đến rụng trứng, (2-3 ngày). Nếu thoái hóa thể
vàng xảy ra sau thời điểm này thì nang độc tôn của sóng nang tiếp sau sẽ cho
rụng trứng với khoảng thời gian từ lúc xử lý đến lúc rụng trứng dài hơn (4-5
ngày) (Odde 1990, Lucy et al., 1992, Silcox et al., 1993, Roche and Mihm
1996) [66], [54], [90], [111].
Tóm lại, PGF2

α không làm thay đổi động học phát triển nang nên thời
điểm bắt đầu động dục phụ thuộc vào trạng thái nang lúc gây thoái hóa thể
vàng.
Quan sát về mức độ động dục đồng pha giữa các bò cho thấy: nếu tiêm
vào ngày 10-15 của chu kỳ cho mức độ đồng pha lớn hơn là tiêm vào ngày 5-
9 (King et al., 1982, Macmillian, 1983) [48], [58]. Một số tác giả khác cho
rằng mức đồng pha lớn hơn nếu tiêm PGF2α vào giai đoạn muộn của pha
hoàng thể (Watts and Fuquay, 1985) [132], nh
ưng số khác cho thấy không có
sự khác nhau (Tanabe and Hahn, 1984) [122]. Trạng thái nang vào thời điểm
thoái hóa thể vàng không ảnh hưởng đến thụ thai ở bò đối với mỗi lần bò
động dục. Thụ tinh cho bò hậu bị sau khi gây động dục bằng PGF2α giai đọan
sớm (ngày 5-8) và muộn hơn (ngày 12-15) kết quả là tỷ lệ đậu thai như nhau
(King et al., 1982, Stevenson et al., 1984, Tanabe and Hahn 1984) [48], [117],
[122].
Để điều khiển động dục tốt hơn, có một số quy trình x
ử lý với PG được
đề nghị. Phatak and Whitmore (1981) tiêm PG vào giai đoạn bất dục sau khi
sinh ở bò đã khám thấy thể vàng bằng cách sờ qua trực tràng, những bò này
động dục trong vòng 42-72 giờ sau và được dẫn tinh. Làm như vậy các tác giả
đã rút ngắn được thời gian “nghỉ” của bò từ 120 ngày xuống còn 98 ngày [77].
Nhưng cách xử lý này làm mất đi một vài ưu thế của việc gây động dục đồng

23
loạt vì phải mất công khám qua trực tràng của từng con bò. Một chương trình
gây động dục đồng loạt được sử dụng phổ biến là tiêm hai mũi PG cách nhau
11 hoặc 14 ngày ở bò cái hậu bị (Macmillian et al., 1978) [59] và bò cái
(Peters and Ball 1987) [70]. Khoảng cách giữa hai lần tiêm có thể ảnh hưởng
đến kết quả động dục đồng pha của bò (Macmillian et al., 1985) [60]. Quy
trình hai lần tiêm PG cách nhau 7 ngày được áp dụng cho bò 40-50 ngày sau

khi sinh cho đến khi bò động dục và dẫn tinh hết. Quy trình này làm gia tăng
tỷ lệ phát hiệ
n động dục và rút ngắn khoảng “nghỉ” ở bò cái (Seguin et al.,
1983, Stevenson et al., 1993) [104], [118]. Rosenberg et al., (1990) thấy ở bò
vắt sữa lứa đầu có sự động dục trễ ở bò xử lý hai mũi PG cách nhau 14 ngày
so với ở bò xử lý PG cách nhau 11 ngày [91]. Ngược lại, Selk et al., (1988),
Larson and Ball, (1992) không cho rằng có sự khác nhau về thời điểm bắt đầu
động dục ở bò thịt tiêm 2 mũi PG cách nhau 11 hoặc 14 ngày [50], [106]. Đậu
thai trong trường hợp bò động dục do xử lý PG không khác đậu thai bò động
d
ục tự nhiên (Roche, 1974, Hafs and Manns, 1975) [39], [88]. Có một bất tiện
là mức động dục đồng pha sau xử lý với PG thường là không tập trung, có bò
động dục 5 ngày sau khi xử lý (Lauderdale et al., 1974; Hafs and Manns 1975,
Pursley et al., 1997) [39], [51], [81]. Có một số cố gắng để giảm bớt giao
động phản ứng của bò sau xử lý PGF2α đó là kết hợp với các hooc-môn khác
như progesterone (Folman et al., 1990) [27], hCG, estradiol –benzoate (Peters
et al., 1977) [72], GnRH (Lopes and Gatius, 1989, Archbald et al., 1992) [10],
[53] hoặc không cho bú sữa đối với bò thịt bằng cách tách bê (De Silva et al.,
1984) [21]. Kết quả cho thấy mức độ
động dục đồng pha được cải thiện, đậu
thai tương đương so với trường hợp động dục tự nhiên. Tuy nghiên áp dụng
thực tế đối với các chương trình này còn rất hạn chế.
Stevenson et al., 1996, khảo sát hiệu ứng GnRH tiêm 7 ngày trước mũi
PGF2α thứ hai (PGF2α -GnRH - PGF2α), hai mũi PG cách nhau 11 ngày thấy

24
hiệu ứng kém hơn dùng hai mũi tiêm PG cách nhau 7 ngày [119]. Archbald et
al., (1994) xử lý bò vắt sữa đã kiểm tra có thể vàng bằng khám qua trực tràng
sau mũi PG đầu tiên: ở các bò này các tác giả tiêm hai lần PG cách nhau 8 giờ,
gây thoái hóa thể vàng, thấy hiệu quả hơn cách tiêm với 1 mũi PG.

Một hướng làm mới để tăng độ đồng pha cho các bò là phá hủy nang
bằng cơ học. Trong xử lý này một thiết bị hút nang đưa qua thành âm đạo,
loại bỏ tất cả các nang của bu
ồng trứng 5mm trở lên bất cứ giai đoạn nào của
chu kỳ. Cách làm này sẽ tạo ra sóng nang mới trong vòng 2 ngày. Tiêm PG
vào 4 ngày sau khi loại nang lớn, rụng trứng xảy ra ở 13/16 bò hậu bị
(Bergfelt et al., 1994) [14]. Đây là phương pháp không cần sử dụng các hóa
dược, rất hứa hẹn để gây động dục và rụng trứng đồng pha ở bò.
Điều khiển phát triển nang bằng sử dụng GnRH
Tiêm GnRH làm bài tiết gia tăng FSH, LH (McLeod et al., 1985 1991),
các hooc-môn này tăng c
ường hoạt lực buồng trứng [56], [57]. Tiêm GnRH
làm thay đổi động thái nang, gia tăng số lượng các nang có kích thước trung
bình, giảm số lượng các nang lớn bởi gây thoái hóa hoặc hoàng thể hóa các
nang này (Thatcher et al., 1989, 1992) [123], [124]. Tỷ lệ động dục, tính đồng
pha cũng như tỷ lệ đậu thai sau thụ tinh đều được gia tăng ở các bò có cả thể
vàng và nang lớn trên buồng trứng vào thời điểm tiêm GnRH, so với bò có
thể vàng mà không có nang lớn hoặc không có thể vàng mà có, hoặc không có
nang lớn (Twagiramungu et al., 1992) [126].
Tiêm GnRH có gây rụng trứng hoặc hoàng thể hóa nang độc tôn ?
Những công trình rất sớm cho thấy xử lý GnRH thời điểm sau khi bò
thịt sinh con gây rụng trứng rất giao động từ 10-80% số bò trong trường hợp
tiêm 1 mũi hoặc dẫn truyền liên tục GnRH (Fonseca et al., 1979; Riley et al.,
1981; Walter et al., 1982; Edwards et al., 1983) [24], [28], [87], [130]. Tiêm

×