Tải bản đầy đủ (.docx) (17 trang)

Học thuyết giá trị lao động của chủ nghĩa mác lênin và ý nghĩa thực tiễn của việc nghiên cứu (liên hệ với một xí nghiệp hoặc ngành cụ thể)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (263.73 KB, 17 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ QUỐC DÂN

BÀI TẬP LỚN
Bộ mơn: Kinh tế chính trị
Giảng viên hướng dẫn: Trần Thị Thanh Hương

Họ và tên: Nguyễn Ngân Hà
Khoa: Marketing
Mã sinh viên: 11201185
Lớp: K62_Kinh tế chính trị Mác – Lênin_(220)_04@

Đề số 1: Học thuyết giá trị lao động của chủ nghĩa Mác
Lênin và ý nghĩa thực tiễn của việc nghiên cứu.
(Liên hệ với một xí nghiệp hoặc ngành cụ thể).


MỤC LỤC
Lời mở đầu
Nội dung
I.
Học thuyết giá trị lao động của chủ nghĩa
Mác - Lenin
1. Khái quát những lý luận về giá trị lao động của các
nhà kinh tế trước Mác.
a. Lý luận về giá trị lao động của William Petty
b. Lý luận về giá trị lao động của Adam Smith
c. Lý luận về giá trị lao động của David Ricardo
2. Học thuyết giá trị lao động của chủ nghĩa
Mác – Lenin.
a. Khái quát


b. Học thuyết giá trị lao động của chủ nghĩa
Mác - Lenin
c. Tác động của học thuyết đến việc nghiên cứu
học thuyết giá trị khác của C. Mác
II. Ý nghĩa thực tiễn của việc nghiên cứu học thuyết
giá trị lao động.
III. Liên hệ tới một xí nghiệp hoặc ngành cụ thể.
Kết luận

2
4
4
4
4
5
6
7
7
9
12
13
14
15

1


LỜI MỞ ĐẦU
Loài người từ khi bắt đầu sự sống đến nay đã trải qua nhiều hình thái
kinh tế - xã hội khác nhau. Ở mỗi giai đoạn phát triển, xã hội lại nảy sinh

những đòi hỏi về sự đổi thay. Và do đó, mỗi nấc thang lịch sử, con người lại
có những cách giải thích, biện giải nhất định về các hiện tượng kinh tế - xã
hội. Việc lí giải, hiểu biết về các hiện tượng đó ngày càng trở nên vô cùng
cần thiết đối với đời sống. Lúc đầu, chúng chỉ tồn tại dưới dạng các tư tưởng
kinh tế, sau đó, dần phát triển trở thành những quan niệm, quan điểm kinh tế
có tính hệ thống của các giai cấp khác nhau, nhằm đáp ứng được nhu cầu lý
luận và bảo vệ các lợi ích của giai cấp đó. Song, các trường phái lý luận qua
các giai đoạn lịch sử tuy khác nhau nhưng lại mang tính kế thừa, phát triển
khiến toàn bộ hệ thống nghiên cứu xuyên suốt lịch sử ln có một sợi dây
liên kết bền chặt.
Trường phái kinh tế chính trị học đầu tiên là chủ nghĩa trọng thương,
ra đời trong thời kỳ tích lũy nguyên thủy cơ bản. Đối tượng nghiên cứu của
kinh tế chính trị học lúc này là lĩnh vực lưu thơng và nó đánh giá cao vai trị
của tiền tệ trong việc tích lũy của cải. Con đường làm tăng lượng của cải sở
hữu chính là thương nghiệp, là ngoại thương. Họ đòi hỏi sự can thiệp của
Nhà nước vào nền kinh tế để tạo điều kiện cho chủ nghĩa tư bản ra đời.
Trên con đường thâm nhập vào sản xuất của tư bản, những vẫn đề
kinh tế của sản xuất nảy sinh vượt quá khả năng lý giải của chủ nghĩa trọng
thương. Xã hội bấy giờ đòi hỏi những lý thuyết mới. Để đáp ứng nhu cầu đó,
Kinh tế chính trị học tư sản cổ điển ra đời.
Kinh tế học chính trị tư sản cổ điển lần đầu tiên chuyển đối tượng
nghiên cứu từ lĩnh vực lưu thông sang lĩnh vực sản xuất. Ta không thể
không kể đến những cái tên xuất sắc của trường phái cổ điển như: W. Petty,
F. Quesnay, A. Smith, D. Ricardo. Điểm sáng của trường phái kinh tế chính
trị cổ điển Anh là học thuyết giá trị lao động. Có thể nói, đây chính là đỉnh
cao của lí luận kinh tế chính trị tư sản cổ điển.
Tuy nhiên, thực tế bấy giờ đã bác bỏ tư tưởng tự do kinh tế của trường
phái cổ điển. Điều này thể hiện sự bất lực của kinh tế chính trị học tư sản cổ
điển khi đứng trước những vấn đề thực của nền kinh tế mới. Trước bối cảnh
đó, giữ thế kỷ XIX, trên cơ sở của những thành tựu kinh tế , áp dụng chủ

nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử vào nghiên cứu kinh
2


tếm Mác – Ănghen đã làm nên một cuộc cách mạng trong lịch sử các học
thuyết kinh tế khác về cơ bản tren các phương diện: đối tượng nghiên cứu,
phương pháp nghiên cứu, nội dung, tính giai cấp,… Học thuyết của C. Mác
ra đời là sự kế thừa và phát triển của những đại biểu xuất sắc nhất trong triết
học, kinh tế chính trị học, chủ nghĩa xã hội khoa học trước đó.
Trong hệ thống các lí luận cơ bản của từng trường phái nói riêng và
của cả q trình phát triển lịch sử nói chung, lí luận giá trị lao động ln giữ
vai trị hạt nhân. Và học thuyết giá trị lao động của C. Mác được xem là đầy
đủ và tiến bộ nhất. Qua những bài giảng của cơ giáo, sách giáo trình và một
vài tài liệu tham khảo bộ mơn kinh tế chính trị, cá nhân em cảm thấy vơ
cùng tị mị và mong muốn nghiên cứu về học thuyết giá trị lao động của chủ
nghĩa Mác – Lenin. Em xin phép trình bày bài tập nghiên cứu lần này qua đề
bài1: Học thuyết giá trị lao động của chủ nghĩa Mác Lênin và ý nghĩa thực
tiễn của việc nghiên cứu. (Liên hệ với một xí nghiệp hoặc ngành cụ thể).

3


NỘI DUNG
I.

HỌC THUYẾT GIÁ TRỊ LAO ĐỘNG
CỦA CHỦ NGHĨA MÁC – LÊNIN

1. Khái quát những lý luận về giá trị lao động của
các nhà kinh tế trước Mác.

a. Lý luận về giá trị lao động của William Petty

William Petty là người đầu tiên đưa nguyên lý lao động quyết định giá
trị trong kinh tế chính trị học tư sản.
William Petty là nhà kinh tế học
người Anh sinh ra và lớn lên trong một
gia đình thợ thủ cơng. Ơng là người đa
tài và nghiên cứu nhiều lĩnh vực khác
nhau như vật lý, y học, âm nhạc, thống
kê, kinh tế… Ông đã đạt nhiều thành tựu
lớn: năm 1967 phát minh ra máy đánh
chữ, năm 1649 trở thành tiến sĩ vật lý,
năm 1651 ông được phong giáo sư về
giải phẫu và âm nhạc... Ông có một số
tác phẩm nổi tiếng về kinh tế như: “Bàn
về thuế khóa và lệ phí” (1662), “Số học
chính trị” (1676), … Ông được C. Mác
đánh giá cao và xem ơng là cha để của
nền chính trị kinh tế học ở Anh.
Trong những tác phẩm đầu tiên của mình, W. Petty còn mang nặng tư
tưởng của chủ nghĩa trọng thương nhưng gam màu này dần phai nhạt và đến
tác phẩm cuối đời của ơng thì khơng cịn dấu vết của chủ nghĩa này.
Phương pháp của ông đi từ những hiện tượng cụ thể, phức tạp đến
hững hiện tượng trừu tượng. Đó cũng là đặc trưng của kinh tế học thế kỷ
XVII.
4


W. Petty đã có những nhận xét đúng đắn khi vạch rõ vai trò của lao động
trong việc tạo ra giá trị, lao động là nguồn gốc thực sự của của cải. Trong

q trình nghiên cứu, ơng sử dụng thuật ngữ “giá cả”, chia ra thành “giá cả
chính trị” và “giá cả tự nhiên”. Theo ông, giá cả tự nhiên do lượng lao động
hao phí để sản xuất ra hàng hóa quyết định, cịn giá cả chính trị chính là giá
cả thị trường, nó thường thay đổi theo những điều kiện chính trị. Ơng cũng
đã thấy được mối quan hệ giữa năng suất lao động với “giá cả tự nhiên”.
Ngoài ra, W. Petty còn đề cập đến lao động giản đơn và lao động phức tạp
nhưng vẫn chưa phân tích thật đầy đủ. Tuy nhiên, ơng cịn chịu ảnh hưởng
của chủ nghĩa trọng thương khi cho rằng chỉ có tiền tệ mới tạo ra giá trị, lao
động trong các ngành khác chỉ tạo nên của cải khi so sánh với lao động tạo
ra tiền. Theo ông, giá trị của hàng hóa là sự phản ánh giá trị của tiền tệ,
giống như ánh mặt trăng là sự phản chiếu của ánh mặt trời. Đồng thời, W.
Petty cũng nêu lên nguyên lý nổi tiếng: “lao động là cha còn đất là mẹ của
của cải”. Đáng tiếc là ông chỉ đưa ra nguyên lý chứ khơng hề có sự lý giải..
Ở đây, rõ ràng, nếu ơng coi đó là hay yếu tố của q trình lao động sản xuất
thì hồn tồn đúng đắn, nhưng nếu coi đó là hai yếu tố hình thành giá trị thì
lại là sai lầm.
b. Lý luận về giá trị lao động của Adam Smith
Adam Smith là người đầu tiên trình bày một cách có hệ thống lý luận
về giá trị lao động.
Adam Smith (1723 - 1790) là nhà
kinh tế học nổi tiếng ở Anh. Ông xuất
thân từ một gia đình viên chức thuế quan
ở xứ Scotland. Adam Smith am hiểu
nhiều lĩnh vực như triết học, văn chương,
lịch sử, vật lý, toán học, kinh tế học…
Adam Smith được đánh giá là một đại
biểu xuất sắc của trường phái kinh tế học
chính trị tư sản cổ điển.
Ở thời kỳ của ông, chủ nghĩa tư bản
phát triển mạnh mẽ, giai cấp tư sản chiếm

địa vị thống trị trong công nghiệp, thương
nghiệp và nông nghiệp. Tuy nhiên, mâu
thuẫn chủ yếu lúc này không phải là mâu
thuẫn giữa giai cấp tư sản và giai cấp
công nhân mà lại là mâu thuẫn giữa giai cấp tư sản với tầng lớp bảo hồng
muốn duy trì trật tự phong kiến. Adam Smith đã xuất hiện với tư tưởng bảo
vệ chủ nghĩa tư bản mà không vạch ra những mâu thuẫn sâu bên trong nó.
5


Ông phân tích giá trị bằng việc phân tích giá cả biểu hiện bằng tiền
của giá trị hàng hóa. Hơn nữa, giá trị trao đổi là do lao động quyết định, giá
trị là do hao phí lao động để sản xuất ra hàng hóa quyết định. Lao động giản
đơn và lao động phức tạp ảnh hưởng khác nhau đến lượng giá trị hàng hóa.
Adam Smith đã đưa ra khái niệm đúng đắn về giá trị nhưng ông cũng vấp
phải vấn đề về giá cả sản xuất.
Ông khẳng định giá trị sử dụng không quyết định giá trị trao đổi và
kịch liệt phê phán lý luận lợi ích. Về cấu thành của giá trị hàng hóa, theo
Adam Smith trong sản xuất Tư bản chủ nghĩa, tiền lương, lợi nhuận và địa tô
là ba nguồn gốc đầu tiên của mọi thu nhập. Song, ông lại sai lầm khi coi các
khoản thu nhập là nguồn gốc đầu tiên của mọi giá trị trao đổi. Ơng đã nhầm
lẫn hau vấn đề hình thành giá trị và phân phối giá trị, xem thường tư bản bất
biến.
So với W. Petty, lý thuyết giá trị lao động của Adam Smith có sự tiến
bộ đáng kể. C. Mác đã đánh giá cao cống hiến của ông trong lý luận giá trị
khi phân biệt rõ ràng sự khác nhau giwuax giá trị sử dụng và giá trị trao đổi.
c. Lý luận về giá trị lao động của David Ricardo
Lý luận về giá trị lao động của David Ricardo đã đạt tới đỉnh cao
của kinh tế chính trị học cổ điển của giai cấp tư sản.
David Ricardo (1773 - 1823) sinh

ra trong một gia đình tư bản có địa vị
trong các gia đình giàu có ở Châu Âu.
Năm 1809, ơng viết tác phẩm “Giá cả cao
của vàng là bằng chứng của sự giảm giá
ngân phiếu”, từ đó, nước Anh có hai phái
kinh tế học là: phái tiền tệ của David
Ricardo và phái ngân hàng. Năm 1817,
ông xuất bản tác phẩm có tính chất lý
luận “Ngun lý cơ bản của chính trị kinh
tế học và thuế khóa”. Với tác phẩm này,
ơng được xem là người phát triển cao
nhất của trường phái kinh tế chính trị tư
sản cổ điển ở nước Anh.
Lý luận giá trị lao động chiếm vị trí
quan trọng trong học thuyết kinh tế của David Ricardo. Ông đã kế thừa và
phát huy tư tưởng của Adam Smith. David Ricardo khẳng định rằng: “Giá
trị của hàng hóa hay số lượng của một hàng hóa nào khác mà hàng hóa đó
trao đổi, là do số lượng lao động tương đối, cần thiết để sản xuất ra hàng
hóa đó quyết định, chứ không phải do khản thưởng lớn hay nhỏ trả cho lao
động đó quyết định”.
6


Ông cho rằng giá trị khác xa với của cải, giá trị khơng tùy thuộc vào
việc có nhiều hay ít của cải, mà tùy thuộc vào điều kiện sản xuất khó khăn
hay thuận lợi”. Theo ơng, sở dĩ có sự nhầm lẫn trong kinh tế chính trị là do
người ta quên rằng thước đo giá trị chưa phải là thước đo của cải bởi của cải
không phụ thuộc vào giá trị; giá trị hàng hóa được quy định bởi lượng lao
động chứa đựng trong hàng hóa, lượng lao động có tỷ lệ thuận với lao động
tạo ra hàng hóa. Ơng đã nhận thức được giá trị trao đổi được quyết định bởi

lượng lao động đồng nhất với con người chứ khơng phải lượng lao động hao
phí cá biệt. Nhưng sai lầm của ông nằm ở chỗ: ông cho rằng giá trị hàng hóa
được điều tiết bởi lao động lớn nhất hao phí trong điều kiện xấu.
David Ricardo đã trình bày lý luận của mình từ việc phê phán Adam
Smith. Ơng đã gạt bỏ tính khơng triệt để, khơng nhất qn về cách xác định
giá trị của Adam Smith. D. Ricardo kiên định với quan điểm: lao động là
nguồn gốc của giá trị và giá trị hàng hóa khơng phải do nguồn gốc thu nhập
hình thành, mà ngược lại được phân thành các nguồn thu nhập. Tuy nhiên,
mặt hạn chế trong lý luận của D. Ricardo lại nằm ở chỗ ông khơng nhận ra
tính hai mặt của lao động sản xuất hàng hóa.
Tóm lại, David Ricardo nói riêng và các nhà kinh tế học nói chung chỉ
chú ý phân tích mặt lượng giá trị, ít chú ý đến mặt chất và hồn tồn khơng
phân tích giá trị ấy. Đây là một trong những nhược điểm chủ yếu của kinh tế
chính trị cổ điển tư sản do thiếu quan điểm lịch sử, xem xét tiền tệ, tư bản là
hình thái tự nhiên vĩnh viễn.

2. Học thuyết giá trị lao động của chủ nghĩa Mác
– Lenin.
a. Khái quát
 C. Mác và chủ nghĩa Mác – Lenin.

Theo Nguyễn Văn Ngọc, Từ
điển Kinh tế học, Đại học Kinh tế
Quốc dân, C. Mác (Karl Marx) (18181883) là nhà triết học, nhà tư tưởng và
nhà hoạt động xã hội vĩ đại người
Đức. Trong cuốn Tư bản nổi tiếng của
mình (1867) ơng đã xây dựng học
thuyết về giá trị lao động, quá trình
sản xuất và phân phối giá trị thặng dư.
Cuốn sách này vạch ra những xung

đột, mâu thuẫn mang tính đối kháng
giữa giai cấp cơng nhân và giai cấp tư
7


sản. Vì vậy, nó được coi là cơ sở lý luận cho phong trào đấu tranh của giai
cấp công nhân. Ở nước xã hội chủ nghĩa, nó là cơ sở lý luận chung cho mơn
kinh tế chính trị, cả phần tư bản chủ nghĩa và xã hội chủ nghĩa. C. Mác là
người có đóng góp vĩ đại trong nghiên cứu kinh tế chính trị trên thế giới.
Theo quan điểm của các đảng cộng sản, Chủ nghĩa Marx–Lenin là thế
giới quan, hệ tư tưởng chính trị của giai cấp cơng nhân. Đảng Xã hội chủ
nghĩa Thống nhất Đức định nghĩa chủ nghĩa Marx–Engels–Lenin: "Được
gây dựng nên bởi Marx và Engels và tiếp tục được phát triển bởi Lenin, đó
khơng chỉ là thế giới quan khoa học của giai cấp công nhân, mà nó cịn liên
tục được làm phong phú bởi phong trào cộng sản quốc tế, trên cơ sở kinh
nghiệm xây dựng và thực tiễn của các cuộc đấu tranh giải phóng cách mạng
xã hội chủ nghĩa và cộng sản chủ nghĩa."
Chủ nghĩa Marx (còn viết là chủ nghĩa Mác hay là Mác-xít) là hệ
thống học thuyết về triết học, lịch sử và kinh tế chính trị dựa trên các tác
phẩm của Karl Marx (1818–1883) và Friedrich Engels (1820–1895). Từ khi
tập ba của tác phẩm "Tư bản" (Das Kapital) được xuất bản năm 1895, những
người Marxist đã cố gắng tích hợp các ý tưởng trong đó vào trong một
phương án chuẩn xác chung phục vụ cho việc xây dựng một trật tự xã hội xã
hội chủ nghĩa và/hay cộng sản chủ nghĩa.

 Tiền đề cho Chủ nghĩa Mác – Lenin và
học thuyết giá trị lao động

 Tiền đề kinh tế xã hội
Cuộc cách mạng công nghiệp Anh từ những năm 70 của thế kỷ XVIII

đến năm 1825 để lại nhiều hệ quả về kinh tế xã hội: máy móc ra đời và được
sử dụng rộng rãi khiến lực lượng sản xuất xã hội phát triển một cách mạnh
mẽ; gây phá sản hàng loạt các xí nghiệp vừa và nhỏ; thợ thủ cơng và nơng
dân rơi vào tình trạng thất nghiệp, cơng nhân bị bóc lột nặng nề; máy móc
phát triển khiến lao động phụ nữ và trẻ em trở nên rẻ mạt, tạo sức ép với lao
động nam. Cuộc khủng hoảng kinh tế năm 1825 càng làm gia tăng nạn thất
nghiệp. Cuộc sống nhân dân bấy giờ chìm trong khổ cực.
Ngồi ra, do ảnh hưởng từ cuộc cách mạng Pháp, tư tưởng tự do, bình
đẳng ngày càng có điều kiện phát triển. Giai cấp vơ sản được hình thành
ngày càng mạnh mẽ và phong trào công nhân ngày càng lớn mạnh. Tất cả
những yếu tố kinh tế xã hội đó đã tạo nên tiền đề hình thành nên chủ nghĩa
Marx.
8


 Tiền đề tư tưởng
Chủ nghĩa Marx là sự kế tụng trực tiếp triết học cổ điển Đức, kinh tế
chính trị cổ điển Anh và chủ nghĩa xã hội không tưởng ở Tây Âu.
Kinh tế chính trị của Marx là sự kế thừa có tiến bộ của kinh tế chính
trị cổ điển Anh. C. Mác đã thừa nhận tính hàng đầu của sản xuất, quy luật
kinh tế khách quan, giá trị và nguồn gốc lợi nhuận. Thêm vào đó, Mác cũng
giải quyết triệt để các vấn đề trong khi xây dựng lý luận giá trị lao động mới:
vạch ra được mâu thuẫn của hàng hóa và sản xuất hàng hóa, ý nghĩa và các
vấn đề liên quan của các quy luật giá trị. Trong đó, học thuyết giá trị lao
động được coi là nền tảng, là cơ sở lý luận cho những quan điểm nổi tiếng
của Mác như: lý luận về giá trị thặng dư, lời giải thích khoa học bản chất bóc
lột của chủ nghĩa tư bản.

b. Học thuyết giá trị lao động của chủ
nghĩa Mác – Lenin.

Học thuyết giá trị lao động là một trong những học thuyết kinh tế về
giá trị. Theo học thuyết này, giá trị của hàng hóa là do lượng lao động cần
thiết để sản xuất ra hàng hóa đó quyết định. Học thuyết được đặt nền móng
vững chắc nhờ vào cơng lao to lớn của những lý luận trong các nghiên cứu
của William Petty, Adam Smith và David Ricardo như đã trình bày ở mục 1
trên đây. Có thể thấy, học thuyết này đã trải qua nhiều thời kỳ phát triển với
những kế thừa, phê phán và sửa đổi để phù hợp với nhận thức cùng tình hình
kinh tế, xã hội, văn hóa của từng giai đoạn. Quy luật giá trị cứ thế dần được
con người tiếp nhận và thấu hiểu trong quá trình trao đổi hàng hóa Nhưng
phải chờ đến lý luận của Mác, học thuyết giá trị lao động mới được phát
triển đầy đủ và hoàn thiện. Nhờ phát hiện được tính hai mặt của lao động
mới khẳng định được lao động nào tạo ra giá trị hàng hoá. Mác đã phân tích
nền kinh tế tư bản chủ nghĩa, khám phá ra giá trị sức lao động được xem là
hàng hoá, quy luật giá trị thặng dư và hệ thống các quy luật kinh tế của chủ
nghĩa tư bản, qua đó làm cho nhận thức về quy luật giá trị được đầy đủ hơn.
C. Mác chỉ ra rằng, những giá trị sử dụng của các loại hàng hố là mn
hình vạn trạng, không thể dùng số lượng để đo lường chúng là bao nhiêu.
Ơng nói: "Nếu bóc tách riêng giá trị sử dụng của hàng hố ra, hàng hố chỉ
cịn lại một thuộc tính, đó là thuộc tính sản phẩm lao động". Tức là, giá trị
của hàng hố chính là lao động tiêu hao để sản xuất ra hàng hố đó. Cho
nên, chúng ta thường nói rằng, lao động tạo ra giá trị. Trong chế độ tư bản
chủ nghĩa, để đạt được giá trị thặng dư, nhà tư bản bắt buộc phải tìm trên thị
9


trường loại hàng hoá mà bản thân giá trị sử dụng của nó có một thuộc tính
đặc biệt làm nguồn gốc cho giá trị, q trình sử dụng nó đồng thời là q
trình tạo ra giá trị. Loại hàng hố đặc thù đó chính là sức lao động của con
người. Ðiều cần lưu ý "lao động" và "sức lao động" là hai khái niệm không
giống nhau. Sức lao động là năng lực tiến hành lao động của con người. Sử

dụng sức lao động mới là lao động, mà lao động tức là tạo ra giá trị. Giá trị
của bản thân sức lao động bị quyết định bởi thời gian lao động bắt buộc (tức
giá trị chi phí trang trải sinh hoạt mà công nhân và người nhà của họ cần
đến) trong xã hội có nhu cầu về sức lao động sản xuất. Nhà tư bản mua lại
sức lao động theo giá trị sức lao động trên thị trường, nghĩa là có quyền sử
dụng sức lao động đó trong sản xuất, và cưỡng bức người lao động phải làm
việc cả ngày. Ví dụ như để họ làm việc 12 tiếng, thì trong vòng 6 tiếng (thời
gian lao động "bắt buộc"), người lao động đã có thể tạo ra sản phẩm đủ bù
cho chi phí đời sống của họ, 6 tiếng cịn lại (thời gian lao động "dư thừa")
họ tạo ra sản phẩm "dư thừa" mà nhà tư bản không phải trả thù lao nữa, tức
là giá trị thặng dư. Trong lịch sử lồi người, do có lao động thặng dư mới
sinh ra khả năng bất bình đẳng, người bóc lột người. C.Mác chỉ rõ: lao động
thặng dư không phải xuất hiện từ khi có tư bản. Trong xã hội được tạo nên
bởi kẻ bóc lột và người bị bóc lột, giai cấp thống trị đều thu được lao động
thặng dư trên thân thể của số đơng người lao động bị bóc lột ơng nói: "Sự
phân biệt các kiểu hình thái kinh tế - xã hội khác nhau như xã hội nô lệ và
xã hội thuê mướn lao động, chỉ là các hình thức khác nhau của việc tước
đoạt lao động thặng dư trên thân thể người sản xuất, người lao động ".
Công lao to lớn và điểm mấu chốt đã giúp Mác đưa lý thuyết giá trị
lao động tới đỉnh cao là phát hiện ra tính hai mặt của lao động sản xuất hàng
hóa, đó là lao động cụ thể và lao động trừu tượng. Ơng đã từng tự cơng nhận
mình: “Tơi là người đầu tiên phát hiện ra tính hai mặt của lao động sản
xuất hàng hóa và khoa kinh tế chính trị học xoay quanh quan điểm này”.
Lao động cụ thể là lao động hao phí dưới một hình thái cụ thể của một
nghề nghiệp chuyên môn nhất định. Lao động cụ thể có mục đích riêng, đối
tượng riêng, phương pháp riêng, thao tác và kết quả riêng. Tính đa dạng và
phong phú của của cải là do tính đa dạng và phong phú của những lao động
cụ thể quy định. Tất cả những lao động cụ thể hợp thành hệ thống phân công
lao động xã hội. Lao động cụ thể là phạm trù vĩnh viễn. Như vậy, với việc
phát hiện ra mặt thứ nhất của lao động sản xuất hàng hóa, C. Mác đã trả lời

được câu hỏi: lao động cụ thể tạo ra giá trị sử dụng của hàng hóa.
Lao động trừu tượng là lao động sản xuất ra hàng hóa khi sự hao phí
sức lao động nói chung của con người khơng tính đến các hình thức cụ thể
1


của nó. Điều này là đúng đắn nhưng khơng hồn tồn bởi khơng phải mọi sự
hao phí sức lao động của con người đều gọi là lao động trừu tượng. Lao
động trừu tượng là phạm trù lịch sử. Với việc phát hiện ra mặt thứ hai của
cùng một lao động hàng hóa, C. Mác đã đưa ra một câu trả lời chắc chắn: lao
động trừu tượng tạo ra giá trị hàng hóa.
Do chế độ tư hữu về tư liệu sản xuất làm cho các nhà sản xuất độc lập
với nhau nên lao động cụ thể của họ là biểu hiện của lao động tư nhân. đồng
thời do có sự phân công lao động xã hội buộc các nhà sản xuất độc lập với
nhau nên lao động cụ thể của họ là biểu hiện của lao động xã hội.
Trên cơ sở tính hai mặt của lao động sản xuất hàng hóa, C. Mác đã
thực hiện một cuộc cách mạng trong kinh tế chính trị. Nhờ phát hiện này, C.
Mác đã xây dựng học thuyết của mình một cách có hệ thống và hồn chỉnh.
Tính hai mặt của lao động sản xuất hàng hóa đã giúp C. Mác lý giải được cơ
sở tạo ra các thuộc tính hàng hóa. Hàng hóa là sản phẩm của lao động. Một
hàng hóa có hai thuộc tính bởi lao động để sản xuất ra hàng hóa đó có tính
hai mặt. Hàng hóa là sự thống nhất biện chứng giữa giá trị sử dụng và giá trị.
Chính công dụng của vật phẩm được quan niệm là giá trị sử dụng của nó.
Giá trị sử dụng chỉ thể hiện ra khi con người tiêu dùng vật phẩm đó. Trong
điều kiện kinh tế hàng hóa thì giá trị sử dụng là cái mang giá trị trao đổi. Sở
dĩ hàng hóa trao đổi được bởi trong hàng hóa có giá trị. Giá trị là lao động
xã hội của người sản xuất hàng hóa kết tinh trong hàng hóa. Giá trị trao đổi
là hình thức biểu hiện của giá trị, với tiền tệ là một hình thái của giá trị
trao đổi. Với ý nghĩa đó, giá trị trở thành một phạm trù lịch sử. Quan niệm
này của C. Mác đã làm đảo lộn hồn tồn các quan điểm kinh tế chính trị

trước đó – những lý luận cho rằng giá trị khơng phan ránh quan hệ xã hội
nên nó là phạm trù vĩnh viễn.
Theo C. Mác, xét về mặt cơ cấu, giá trị hàng hóa gồm hai phần: giá trị
cũ và giá trị mới. Giá trị cũ là giá trị những tư liệu sản xuất được chuyển
dịch và giá trị của sản phẩm hàng hóa, ký hiệu là C. Giá trị cũ được hình
thành nhờ có lao động cụ thể. Giá trị mới được ký hiệu là (v + m). Khi nói
lao động trừu tượng tạo nên giá trị, giá trị hàng hóa được viết như sau: (C +
v + m). Điều này không đồng nghĩa với việc lao động trừu tượng tạo nên
toàn bộ (C + v + m) mà nó chỉ tạo nên phần giá trị mới. Như vậy, nói rằng
lao động là nguồn gốc của giá trị thì lao động nghiễm nhiên được hiểu là lao
động trừu tượng và phần giá trị do nó tạo ra chỉ là giá trị mới. Có thể nói, so
với các nhà kinh tế học tư sản cổ điển Anh, cấu thành giá trị của C. Mác
hoàn thiện hơn, tiến bộ hơn.
Ở phạm trù năng suất lao động, C. Mác đã giải thích rằng tăng năng
suất lao động chính là tăng hiệu quả có ích của lao động, làm cho giá trị sử
dụng của của cải tăng nhưng lượng giá trị tạo ra trong thời gian đó khơng
1


đổi nên giá trị của một đơn vị sản phẩm giảm. Đó là do hai mặt của lao động
có sự vận động ngược chiều nhau, khối lượng của cải vật chất ngày càng
tăng lên đi kèm theo đó là giá trị của nó giảm hoặc khơng đổi nên năng suất
lao động thuộc phạm trù lao động cụ thể.
Những cống hiến của C. Mác đã đưa ông đạt tới đỉnh cao trong việc
phát triển học thuyết giá trị lao động. Đến nay, C. Mác vẫn là người mang
những lý luận đúng đắn và đầy đủ nhất về giá trị lao động, chưa có một
nghiên cứu nào có thể chiếm vị thế của ông trong lĩnh vực này.

c. Tác động của học thuyết đến việc nghiên cứu
học thuyết giá trị khác của C. Mác


Học thuyết giá trị lao động là nền móng cho các nghiên cứu của C.
Mác. Học thuyết áp dụng trực tiếp trong lý luận của ông về sản xuất hàng
hóa và hàng hóa. Theo đó, sản xuất hàng hóa ra đời do hai yếu tố: phân công
lao động xã hội và sự tách biệt về kinh tế của các chủ thể sản xuất. Hàng hóa
là sản phẩm của lao động, có thể thỏa mãn như cầu nào đó của con người
thơng qua trao đổi. Hàng hóa có thể ở dạng vật thể hoặc phi vật thể. Học
thuyết giá trị lao động đã lý giải rằng sản phẩm của lao động là hàng hóa khi
nhằm đưa ra trao đổi, mua bán trên thị trường. Hàng hóa có hai thuộc tính là
giá trị sử dụng và giá trị. Ngoài ra, C. Mác còn đưa ra quan điểm về lượng
giá trị của hàng hóa: lượng giá trị của hàng hóa là lượng lao động đã hao phí
để tạo ra hàng hóa.
Ngồi ra, giá trị lao động cũng là nền tảng nghiên cứu cho các yếu tố
khác tham gia vào thị trường như: tiền tệ, người sản xuất, người tiêu dùng,
các chủ thể trung gian và nhà nước.
Từ đó, C. Mác phát triển học thuyết về giá trị thặng dư – một trong
những học thuyết nổi tiếng nhất trong các nghiên cứu của ông. Ông cho rằng
giá trị thặng dư là kết quả của sự hao phí sức lao động trong sự thống nhất
của quá trình tạo ra và làm tăng giá trị. Quá trình sản xuất tư bản chủ nghĩa
là sự thống nhất giữa quá trình sản xuất ra giá trị sử dụng và quá trình sản
xuất ra giá trị thặng dư. C. Mác viết: “Với tư cách là sự thống nhất giữa hai
quá trình lao động và quá trình tạo ra giá trị thì quá trình sản xuất là một
quá trình sản xuất hàng hóa; với tư cách là sự thống nhất giữa quá trình lao
động và quá trình làm tăng giá trị thì quá trình sản xuất là một quá trình
sản xuất tư bản chủ nghĩa, là hình thái tư bản chủ nghĩa của nền sản xuất
hàng hóa”.

1



Có thể thấy, học thuyết giá trị lao động mang ý nghĩa nền tảng quan
trọng xuyên suốt các nghiên cứu của C. Mác. Ơng đã xuất sắc gây dựng cho
mình một nền móng vững chãi để xây lên cơng trình nghiên cứu đồ sộ của
cuộc đời mình.

II. Ý NGHĨA THỰC TIỄN CỦA VIỆC
NGHIÊN CỨU HỌC THUYẾT GIÁ TRỊ
LAO ĐỘNG

Việc nghiên cứu học thuyết giá trị lao động có ý nghĩa to lớn đối với
nền sản xuất Việt Nam. Trước đây, ở nước ta, với nền sản xuất lạc hậu, đặc
trưng sản xuất nhỏ và năng suất lao động rất thấp. Thực tế hao phí lao động
tương đối lớn cho đến nay vẫn tồn tại. Tuy nhiên, ta không thể dựa vào sản
pahamr công nghiệp để làm thước đo “thời gian lao động xã hội cần thiết”
để đo lường giá trị các hàng hóa. Ta đã từng sai lầm khi lấy gạo làm mặt
bằng giá dẫn tới việc kéo năng suất lao động của tất cả các ngành về ngang
bằng với ngành sản xuất nông nghiệp. Điều này làm lệch lạc lý luận về giá
trị lao động và che khuất những biểu hiện mới trong điều kiện hiện nay.
Vấn đề đặt ra hiện nay mà chúng ta cần lý giải là việc xuất hiện người
máy, trí thơng minh nhân tạo, hệ thống cơng nghệ thơng tin,… Nhiều sản
phẩm hàng hóa tạo ra khơng cịn do con người trực tiếp sử dụng sức lao
động mà tác động gián tiếp, thậm chí qua nhiều lần gián tiếp. Vai trò sức lao
động của con người khơng những thay đổi về lượng mà cịn thay đổi về chất:
thay vì lao động chân tay là chủ yếu, xã hội hiện đại hướng con người tới lao
động trí tuệ. Điều này cũng dẫn tới sự thay đổi về tư liệu sản xuất, khi khoa
học công nghệ liên tục có những thành tựu mới để hỗ trợ lao động sản xuất.
Đi kèm với sự phát triển của lao động trí tuệ, lao động hao phí trong
mỗi đơn vị sản phẩm cũng thay đổi. Trong kết cấu sản phẩm, nếu trước đây
lao động quá khứ chiếm từ 60% đến 70%, lao động sống chỉ chiếm 30% đến
40% thì ngày nay, trong một vài loại hàng hóa, lao động sống lại chiếm đến

60% - 70%. Chính vì lẽ đó, tính tốn lao động hao phí trong một đơn vị sản
phẩm cần được gián tiếp gắn với các quá trình lao động khác nhau để cùng
tạo ra một sản phẩm. Ngày nay, trong mối quan hệ tổng thể chung của nền
kinh tế, sự phát triển của phân công lao động xã hội đi cùng với khoa học
công nghệ khiến nhiều giá trị sử dụng khác nhau có thể thay thế cho nhau
dần xuất hiện.
Vận dụng học thuyết giá trị của C. Mác, chúng ta cũng cần lưu ý rằng
trong điều kiện ngày nay, nền sản xuất xã hội hóa ngày càng cao. Q trình
xã hội hóa đã vượt ra khỏi phạm vi quốc gia và trở thành quốc tế. Trong
1


thực tiễn, chi phí sản xuất quốc tế đã được hình thành. Việc tính tốn chi phí
sản xuất, lao động hao phí của một đơn vị sản phẩm khơng cịn chỉ riêng ở
nước ta mà phải đặt trong mối quan hệ chung đó. Vấn đề này đặt ra một vài
điều cần suy tính:
Thứ nhất, vì nước ta đi lên từ nền sản xuất nhỏ lạc hậu phong kiến,
trải qua sức tàn phá khốc liệt của chiến tranh nên để có thể tham gia tích cực
vào phân cơng lao động quốc tế, chúng ta phải nhanh chóng tiếp cận các
thành tựu khoa học, công nghệ, phát triển cơ cấu hạ tầng để tạo điều kiện
cho nền sản xuất hòa nhập với kinh tế thế giới.
Thứ hai, ta cần bổ sung và đào tạo nguồn lao động sống hiệu quả để
có thể tận dụng được sức lao động một cách tích cực, đồng thời đánh giá
cơng bằng, tạo chính sách khuyến khích lao động chất lượng cao để khích lệ,
thúc đẩy nền sản xuất phát triển.
Thứ ba, vận dụng học thuyết giá trị lao động trong tình hình cụ thể, ta
có thể thấy được tính thiết yếu của việc đào tạo một đội ngũ lao động có đủ
tiêu chuẩn cơ bản về chính trị vững vàng, gắn bó với q hương, có trình độ
chun mơn cao; đồng thời tạo ra một đội ngũ quản lý giỏi.
Thứ tư, nước ta cần mở rộng thị trường bằng cách phát triển mạng

lưới giao thông vận tải.
Như vậy, học thuyết giá trị lao động mang ý nghĩa quan trọng khi áp
dụng trong thực tiễn xã hội, đặc biệt là đối với nền kinh tế Việt Nam hiện
nay.

III. LIÊN HỆ TỚI MỘT XÍ NGHIỆP
HOẶC NGÀNH CỤ THỂ.
Từ ý nghĩa thực tiễn đó, ta có thể áp dụng vào doanh nghiệp Biti’s –
doanh nghiệp giày lớn nhất tại Việt Nam hiện nay. Trước hết ta có thể thấy
Biti’s đã đạt được rất nhiều thành tựu lớn như: Top 40 thương hiệu doanh
nghiệp có giá trị nhất Việt Nam, Cúp vàng Top 10 thương hiệu Việt uy tín
chất lượng, Giải Thương hiệu Quốc gia do Bộ Công thương Việt Nam bình
chọn… Để đạt được thành tựu ấy, từ góc độ kinh tế chính trị, có thể thấy
những ưu điểm mà Bitis có được nhờ việc áp dụng học thuyết giá trị lao
động của C. Mác. Nhãn hàng này đã nhận thức rõ ràng được rằng: giá trị của
hàng hóa là do lượng lao động cần thiết để sản xuất ra hàng hóa đó quyết
định. Điều đầu tiên ta có thể kể đến đó là doanh nghiệp giày này đã áp dụng
hiệu quả thành tựu cơng nghệ trong q trình sản xuất hàng hóa. Điều này
1


đồng nghĩa với việc cùng một lúc, doanh nghiệp đã tối ưu hóa được cả tư
liệu sản xuất và sức lao động hiệu quả.
Tiếp đến, Biti’s đã tuyển dụng và đào tạo một đội ngũ lao động có
chun mơn cao. Lao động sống là nguồn lực lớn trong quá trình sản xuất
hàng hóa. Ta có thể thấy được Biti’s đã nhận thức rất rõ và đã áp dụng. Kết
quả là các sản phẩm của Biti’s được bày bán trên thị trường đều là những
sản phẩm chất lượng cao, có thiết kế và giá thành phù hợp với nhiều phân
khúc khách hàng, tạo thị trường rộng mở cho doanh nghiệp. Đằng sau đó là
đội ngũ gia cơng, tổ đội thiết kế, thẩm định giá, marketing… cùng năng lực

của những nhà quản lý có chun mơn tốt. Lực lượng lao động cùng với tư
liệu sản xuất được tận dụng triệt để đã giúp Biti’s có được vị thế vững chãi
trong thị trường giày dép nói riêng và thị trường tiêu dùng Việt Nam nói
chung.

KẾT LUẬN
Lý luận về giá trị lao động mang lịch sử hình thành lâu đời và C. Mác,
bằng cách kế thừa những ưu điểm những quan điểm thời đại trước và phát
triển những tư tưởng tiến bộ, đã có cơng lao to lớn trong việc hồn thiện học
thuyết lao động. Học thuyết giá trị lao động của chủ nghĩa Mác - Lenin giữ
vai trò quan trọng trong nề kinh tế thị trường nói riêng và xã hội lồi người
nói chung. Đây là một trong những học thuyết mang tính nền tảng để phát
triển những nghiên cứu khác trong kinh tế chính trị học.
Trên cơ sở nghiên cứu hồn thiện học thuyết, những lý luận thiết yếu
về giá trị và hàng hóa, chỉ rõ mối quan hệ và bản chất của nền sản xuất hàng
hóa. Đặc biệt, nhờ phân biệt được sức lao động và lao động trong sản xuất
hàng hóa cùng tính hai mặt của sản xuất hàng hóa, C. Mác đã tháo gỡ được
rất nhiều nút thắt bế tắc trong kinh tế học cổ điển Anh. Từ đó, ơng đã hồn
thiện quy luật giá trị, tìm ra được nguồn gốc và bản chất của tiền tệ, phân
tích đặc thù của quy luật giá trị trong chủ nghĩa tư bản, đưa đến phát hiện về
giá trị thặng dư, vạch rõ cơ chế bóc lột tư bản chủ nghĩa và những hình thái
chuyển hóa của giá trị thặng dư trong cuộc sống.
Qua việc nghiên cứu, phân tích, so sánh những lý luận thời đại trước
với học thuyết giá trị lao động của C. Mác, ta có thể thấy rõ những điểm tiến
bộ tích cực giúp ta nhận thức sâu sắc quá trình vận động, phát triển của kinh
1


tế - xã hội ở Việt Nam, đưa ra được những chủ trương, đường lối, chính sách
phát triển kinh tế phù hợp với các quy luật, điều kiện khách quan. Nó được

thể hiện rõ nét qua những chủ trương, đường lối của Đảng ta trong thời đại
hôm nay: phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, có
sự quản lý của nhà nước, đó là nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần, vận
động theo cơ chế thị trường.

1



×