Tải bản đầy đủ (.doc) (10 trang)

Về nguyên tác khi xét xử thẩm phán và hội thẩm độc lập và chỉ tuân theo pháp luật

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (153 KB, 10 trang )

A.PHẦN MỞ BÀI:
Nhà nước ta có những quy định pháp lý nhằm điều chỉnh hoạt động xét xử của Tòa án
bằng việc ghi nhận những nguyên tắc cơ bản, trong đó có nguyên tắc “ khi xét xử,
Thẩm phán và Hội thẩm độc lập và chỉ tuân theo pháp luật”. Nguyên tắc “ khi xét xử,
Thẩm phán và Hội thẩm độc lập và chỉ tuân theo pháp luật” là một trong những nguyên
tắc quan trọng, có tác động trực tiếp đến hiệu quả hoạt động xét xử của Tòa án.
Nguyên tắc này đã được ghi nhận từ rất sớm và phát triển cùng với sự phát triển của
Hiến pháp và pháp luật. Trong phạm vi bài viết này xin trình bày về nguyên tắc “ khi
xét xử, Thẩm phán và Hội thẩm độc lập và chỉ tuân theo pháp luật” - thực trạng và
phương hướng hoàn thiện.
B.PHẦN THÂN BÀI:
I. Một số vấn đề lý luận và pháp lý về nguyên tắc “ Khi xét xử, Thẩm phán và
Hội thẩm độc lập và chỉ tuân theo pháp luật”:
1. Cơ sở pháp lý của nguyên tắc “ Khi xét xử, Thẩm phán và Hội thẩm độc lập và
chỉ tuân theo pháp luật”
Điều 130 Hiến pháp 1992 quy định: “ Khi xét xử, Thẩm phán và Hội thẩm độc lập và
chỉ tuân theo pháp luật”. Trong suốt lịch sử lập hiến Việt Nam, nguyên tắc này luôn
được xem như một trong những nguyên tắc Hiến pháp điều chỉnh hoạt động của tổ
chức Tòa án.
Mặc dù trên thực tế nguyên tắc này đã được giải thích và áp dụng giống như tính
khách quan của Tòa án, song điều khoản Hiến pháp nói trên vẫn được xem như nền
tẳng hiến định cho nguyên tắc “ khi xét xử, thẩm phán và hội thẩm độc lập và chỉ tuân
theo pháp luật”. Không những được quy định trong Hiến pháp thành một điều khoản
riêng, nguyên tắc này còn được thể hiện trong tất cả các văn bản pháp luật cụ thể hóa
Hiến pháp về tổ chức và hoạt động của Tòa án, ví dụ Luật tổ chức và hoạt động của
Tòa án năm 2002, Pháp lệnh Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân, Bộ luật Tố tụng hình
sự năm 2003 và Bộ luật tố tụng dân sự năm 2004.
2. Mục đích, ý nghĩa:
Đã từ lâu, sự độc lập của hoạt động xét xử đã được ghi nhận trong pháp luật Việt
Nam, cụ thể là trong Hiến pháp 1946 và điều này đã trở thành một trong những nguyên
tắc quan trọng nhất của hệ thống tư pháp. Sự độc lập trong hoạt động xét xử của Tòa


án đặt ra xuất phát từ nhu cầu khách quan, từ bản chất của hoạt động xét xử. Hoạt động
xét xử khác với hoạt động lập pháp và hoạt động hành pháp chính là ở mục đích của
nó. Đây là hoạt động tài phán, bảo vệ công lý, nghĩa là xem xét các vụ việc thực tế
trong những trường hợp có sự vi phạm pháp luật hay có tranh chấp về các quyền và
nghĩa vụ của các chủ thể, từ đó đưa ra phán quyết nhằm bảo đảm pháp luật đã được
thực thi trên thực tế, bảo vệ công bằng xã hội và lẽ phải. Nói cách khác, Tòa án xét xử
độc lập là sự bảo vệ một cách đầy đủ, hiệu quả nhất quyền tự do, dân chủ của nhân
1
Vũ Thị Hồng Nhung – HC33A004
dân. Nguyên tắc này có ý nghĩa đặc biệt quan trọng trong hoạt động xét xử của Tòa án.
Có thể khái quát ý nghĩa của nguyên tắc này thành ba nhóm như sau:
Ý nghĩa chính trị xã hội: Nguyên tắc xác định vai trò, vị trí của cơ quan Tòa án trong
hệ thống các cơ quan nhà nước nói chung và cơ quan tư pháp nói riêng. Tư pháp độc
lập là một trong những yếu tố để thực hiện công bằng xã hội, xây dựng Nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa, mọi công dân đều sống và làm việc theo Hiến pháp và pháp
luật, pháp luật sẽ được chấp hành nghiêm chỉnh.
Ý nghĩa pháp lý: nguyên tắc là cơ sở pháp lý để Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân
tiến hành xét xử được khách quan, đúng pháp luật. Đây cũng là cơ sở đảm bảo Hiến
pháp và pháp luật được thực thi một cách nghiêm túc bởi những người thi hành pháp
luật và những người xét xử hành vi vi phạm pháp luật.
Ý nghĩa đối với hoạt động thực tiễn: Nguyên tắc này loại bỏ các sự tác động không
cần thiết, thậm chí tiêu cực của các cơ quan, tổ chức khác đến hoạt động xét xử của
Thẩm phán và Hội thẩm và đảm bảo sự bình đẳng, độc lập giữa các thành viên của Hội
đồng xét xử.
3. Nội dung của nguyên tắc:
Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân phải độc lập với nhau và độc lập với các yếu tố tác
động bên ngoài. Trước hết cần hiểu sự “ độc lập” trong nguyên tắc này được hiểu như
thế nào? Độc lập là việc không cơ quan tổ chức hoặc cá nhân nào được can thiệp vào
công việc xét xử. Mọi sự can thiệp từ bên ngoài đều bị gọi là bất hợp pháp. Nếu Thẩm
phán, Hội thẩm nhân dân bị chi phối, phải tuân theo những chỉ thị nào đó thì Hội đồng

xét xử không còn trách nhiệm gì đối với việc làm của mình nữa và như vậy phiên tòa
sẽ trở thành hình thức.
Tuy nhiên, Hội đồng xét xử không thể vì thế mà có quyền tùy tiện xét xử theo ý mình
mà gắn liền với quyền độc lập xét xử, đó là Hội đồng xét xử phải nghiêm chỉnh chấp
hành pháp luật, do đó pháp luật càng hoàn chỉnh, càng ổn định và cụ thể thì đó là cơ sở
để Hội đồng xét xử thực hiện quyền độc lập xét xử. Có thể hiểu độc lập bao gồm
những khía cạnh sau:
- Sự độc lập của Tòa án với các cơ quan nhà nước. Các cơ quan nhà nước không can
thiệp vào những vụ án cụ thể mà Tòa án xét xử.
- Độc lập giữa các Tòa án các cấp, Tòa án cấp dưới không chịu sự chỉ đạo của Tòa án
cấp trên.
- Độc lập giữa các thành viên Hội đồng xét xử với nhau. Thể hiện qua việc Hội thẩm
có ngang quyền như Thẩm phán.
Mặc dù, đề tài chỉ đưa ra vấn đề “độc lập” nhưng ở đây chúng ta cần hiểu ở cả góc
độ “tuân theo pháp luật” nữa, bởi hai luận điểm này có quan hệ chặt chẽ với nhau.
Khi xét xử, Thẩm phán và Hội thẩm độc lập không có nghĩa là xét xử tùy tiện mà
việc xét xử phải tuân theo pháp luật. Độc lập là biểu hiện của tuân thủ pháp luật. Nếu
2
Vũ Thị Hồng Nhung – HC33A004
Thẩm phán và Hội thẩm xét xử độc lập, không chịu bất cứ tác động nào thì phán quyết
của Hội đồng xét xử mới có tính khách quan, vô tư, quyết định của Hội đồng xét xử
phải đảm bảo đúng pháp luật. Mặt khác, tuân theo pháp luật là cơ sở để thể hiện tính
độc lập trong xét xử. Xét khía cạnh thuần túy của tính độc lập, để có thể tự mình đưa ra
phán quyết, Thẩm phán và Hội thẩm phải có kiến thức pháp luật và phải chấp hành quy
định của pháp luật. Từ sự phân tích ở trên, có thể nói rằng, yếu tố độc lập và chỉ tuân
theo pháp luật có mối quan hệ biện chứng với nhau, độc lập trong sự thống nhất với
việc tuân theo pháp luật.
II. Thực tiễn thực hiện nguyên tắc “ khi xét xử, Thẩm phán và Hội thẩm độc lập
và chỉ tuân theo pháp luật” hiện nAy:
1. Khái quát chung về thực trạng đảm bảo nguyên tắc “ khi xét xử, Thẩm phán và

Hội thẩm độc lập và chỉ tuân theo pháp luật” hiện nay:
Trong những năm qua nhiều Nghị quyết của Đảng đã được quán triệt thành các kế
hoạch hành động thể hiện quyết tâm của Đảng và Nhà nước ta trong việc cải cách tư
pháp. Những văn bản có tính chất chiến lược cho phép các cơ quan pháp luật xem xét
đánh giá và xây dựng kế hoạch chiến lược đáp ứng yêu cầu hội nhập hiện nay. Hệ
thống các văn bản pháp luật được ban hành khá đầy đủ, tương đối phù hợp với thực
tiễn làm cơ sở cho các cơ quan áp dụng pháp luật xét xử các vụ án hình sự, dân sự và
hôn nhân gia đình. Sau khi các văn bản luật được ban hành, cơ quan có thẩm quyền đã
có những hướng dẫn chi tiết và tập huấn cho các cán bộ tư pháp nắm bắt kịp thời và áp
dụng thống nhất pháp luật.
Trên thực tế, nguyên tắc “ Khi xét xử, Thẩm phán và Hội thẩm độc lập và chỉ tuân
theo pháp luật” đã được các chủ thể của hoạt động xét xử tuân thủ và ngày càng phát
huy ý nghĩa tích cực của nguyên tắc, bảo đảm hoạt động xét xử của Tòa án được khách
quan, đúng pháp luật, hạn chế đến mức tối đá án oan sai, thiếu chính xác. Điều này
được thể hiện rất cụ thể trong báo cáo của Tòa án nhân dân tối cao tại Hội nghị triển
khai công tác năm 2010 của ngành Tòa án nhân dân. Theo đánh giá chung của ông
Trương Hòa Bình – Chánh án Tòa án nhân dân tối cao, các phán quyết của Tòa án căn
cứ chủ yếu vào kết quả tranh tụng, trên cơ sở xem xét khách quan, toàn diện các chứng
cứ đã được thẩm tra tại phiên tòa, nên chất lượng xét xử được đảm bảo.
Tuy nhiên, bên cạnh những mặt đã đạt được thì vẫn tồn tại nhiều mặt hạn chế, những
biểu hiện của việc làm trái nguyên tắc, ảnh hưởng đến chất lượng xét xử của Tòa án,
xâm phạm đến quyền và lợi ích của công dân, gây dư luận xấu và bất bình trong quần
chúng nhân dân.
2. Một số yếu tố tác động tới sự độc lập của Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân
trong thực tế hiện nay:
Xét xử là chức năng của Tòa án đã được quy định trong Hiến pháp. Khi xét xử,
Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân độc lập và chỉ tuân theo pháp luật. Tuy nhiên, thực
3
Vũ Thị Hồng Nhung – HC33A004
tiễn xét xử còn có rất nhiều các yếu tố tác động làm ảnh hưởng đến các phán quyết của

Tòa án.
Thứ nhất, cách thức tổ chức hệ thống Tòa án có tác động mạnh mẽ đến sự độc lập
của Tòa án khi xét xử. Kết quả nghiên cứu của các học giả trong và ngoài nước cho
thấy rõ cách thức tổ chức bộ máy nhà nước theo nguyên tắc phân quyền hay tập quyền
thì việc phân định rạch ròi giữa quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp là đòi hỏi khách
quan, cần thiết để hạn chế lạm dụng quyền lực, đảm bảo cho bộ máy nhà nước hoạt
động thống nhất và hiệu quả. Ở nước ta, hệ thống Tòa án được tổ chức theo cấp hành
chính (lãnh thổ), với cách thức tổ chức hệ thống Tòa án theo tiêu chí lãnh thổ thì bên
cạnh những ưu điểm như hoạt động xét xử của Tòa án bám sát nhiệm vụ chính trị, xã
hội của địa phương, giữa chính quyền địa phương và Tòa có mối quan hệ gần
gũi….nhưng còn bộc lộ những hạn chế làm ảnh hưởng đến tính độc lập của Thẩm phán
và Hội thẩm khi xét xử. Những hạn chế này có nguyên nhân từ việc Tòa án có những
mức độ khác nhau phải chịu sự chi phối của chính quyền địa phương… Chính sự rang
buộc này đã tác động đến tính độc lập của Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân.
Thứ hai, ngân sách cho Tòa án và hoạt động xét xử. Ngân sách cho hoạt động của
Tòa án là yếu tố quan trọng bảo đảm độc lập xét xử. Ở nước ta, nhiều năm qua, Nhà
nước đã có nhiều cố gắng bố trí nguồn tài chính để đảm bảo hoạt động của Tòa án. Tuy
nhiên, nguồn tài chính được bố trí chưa đủ đảm bảo để Tòa án thực hiện nguyên tắc
Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân xét xử độc lập, chưa có sự ưu tiên về tài chính cho
hoạt động của Tòa án. Khắc phục hạn chế này Nghị quyết 49 NQ/TW “ Về chiến lược
cải cách tư pháp đến năm 2020” khẳng định: “Nhà nước đảm bảo điều kiện vật chất
cho hoạt động tư pháp phù hợp với đặc thù của từng cơ quan tư pháp và khả năng của
đất nước”. Việc đảm bảo cơ sở vật chất cho hoạt động tư pháp nói chung và hoạt động
xét xử nói riêng là điều kiện để Thẩm phán và Hội thẩm được độc lập trong quá trình
giải quyết vụ án.
Thứ ba, các yếu tố cá nhân của Thẩm phán và Hội thẩm. Ngoài những yếu tố về
chính sách, cơ chế thì các yếu tố thuộc về cá nhân Thẩm phán, Hội thẩm có ý nghĩa
quan trọng trong việc thực hiện nguyên tắc đảm bảo Thẩm phán, Hội thẩm độc lập và
chỉ tuân theo pháp luật khi xét xử. Đó là những yếu tố sau:
- Nhiệm kỳ của Thẩm phán: Nhiệm kỳ của Thẩm phán là một trong những yếu tố có

ảnh hưởng đến sự độc lập của cá nhân Thẩm phán. Nếu Thẩm phán được bổ nhiệm
suốt đời hoặc với nhiệm kỳ dài thì tính độc lập của họ sẽ được bảo đảm hơn. Nếu
Thẩm phán trong suốt thời gian công tác của mình luôn phải đối mặt với việc tái nhiệm
hoặc bầu lại thì họ thường chịu nhiều ảnh hưởng từ phía các cơ quan có quyền bổ
nhiệm đối với họ nhiều hơn. Vì vậy, có xu hướng nhiều quốc gia đang phát triển ở các
nước Châu Á, châu Phi và Mỹ la tinh đang dần tiến tới cách thức bổ nhiệm chức danh
Thẩm phán suốt đời hoặc kéo dài nhiệm kỳ làm việc của Thẩm phán.
4
Vũ Thị Hồng Nhung – HC33A004
- Tiền lương và chế độ đãi ngộ: Tiền lương của Thẩm phán, Hội thẩm cũng là một
trong những điều kiện để đảm bảo tính độc lập xét xử của cá nhân Thẩm phán, Hội
thẩm. Các nguyên tắc cơ bản của lien hợp quốc về độc lập tư pháp quy định phải đảm
bảo mức lương thỏa đáng để họ có thể đưa ra một phán quyết công tâm, không thiên
vị, không tư lợi. Thẩm phán phải được đảm bảo có mức lương thỏa đáng, không chỉ
đảm bảo mức sống tối thiểu mà phải có mức sống khá trong xã hội. Ở các nước phát
triển trên thế giới, mức lương của Thẩm phán cao hơn mức lương của bất kỳ một công
chức nào khác. Khó có thể đòi hỏi Thẩm phán phải độc lập trong xét xử khi mức lương
của họ không đủ đảm bảo cho bản than và gia đình. Hiện nay, ở nhiều quốc gia đang
phát triển, cho dù luôn gặp phải các vấn đề về kinh tế nhưng cũng đảm bảo mức lương
thỏa đáng đối với việc nâng cao chất lượng và đảm bảo độc lập xét xử của Thẩm phán.
- Cơ chế đảm bảo tính mạng, sức khỏe, danh dự của Thẩm phán và thành viên gia
đình họ. Thẩm phán là một trong những “nghề nguy hiểm”, do tính chất hoạt động xét
xử mà Thẩm phán có thể bị tước bỏ mạng sống, bị thương tích, hoặc bị xâm phạm
danh dự, nhân phẩm bởi những người có lien quan đến vụ án. Vì vậy, đa số các quốc
gia đều thiết lập một cơ chế bảo vệ Thẩm phán để họ có thể yên tâm đưa ra các phán
quyết công tâm. Điều 40 Tuyên bố Bắc Kinh về các nguyên tắc độc lập tư pháp năm
1993 đã chỉ ra “ Các cơ quan hành pháp có thẩm quyền phải luôn luôn bảo đảm an
ninh và an toàn thân thể cho Thẩm phán và gia đình của họ”. Ở Việt Nam trong một
vài năm trở lại đây cũng đã xuất hiện nhiều vụ Thẩm phán bị hành hung, bị tạt axit và
bị đe dọa tính mạng khiến những người cầm cân nảy mực không thể yên tâm hoàn

thành nhiệm vụ. Vì vậy, cũng cần sớm hình thành cơ chế bảo vệ Thẩm phán để họ có
thể thực thi tốt nhiệm vụ xét xử của mình.
- Trình độ, năng lực, phẩm chất của Thẩm phán và Hội thẩm: Trình độ của Thẩm
phán và Hội thẩm có quan hệ mật thiết với tính độc lập xét xử của Tòa án, họ chỉ có
thể độc lập và chỉ tuân theo pháp luật, không bị phụ thuộc vào ai khác khi họ tự tin vào
khả năng, trình độ chuyên môn của mình. Yếu tố này đặc biệt cần thiết đối với các Hội
thẩm ở các nước theo truyền thống pháp luật Châu Âu lục địa – nơi mà Hội thẩm được
ngang quyền với Thẩm phán khi xét xử.
3. Một số biểu hiện của việc vi phạm nguyên tắc “khi xét xử, Thẩm phán và Hội
thẩm độc lập và chỉ tuân theo pháp luật ” trong thực tiễn:
Qua nghiên cứu, tìm hiểu hoạt động xét xử của Tòa án trên thực tế có thể thấy rằng,
việc chưa tuân thủ nguyên tắc “khi xét xử, Thẩm phán và Hội thẩm độc lập và chỉ tuân
thEo pháp luật” được biểu hiện khá đa dạng, song có thể khái quát ở những biểu hiện
chủ yếu sau:
5
Vũ Thị Hồng Nhung – HC33A004
Thứ nhất, theo quy định của Hiến pháp và pháp luật thì Thẩm phán và Hội thẩm phải
độc lập với nhau và chỉ tuân theo pháp luật, nhưng trên thực tế họ lại “không thể” độc
lập với nhau. Tại phiên tòa, cũng như Thẩm phán, Hội thẩm được quyền xét hỏi để làm
rõ các tình tiết khách quan của vụ án, được thảo luận và biểu quyết các vấn đề giải
quyết vụ án. Tuy nhiên, trên thực tế, Hội thẩm chưa phát huy được quyền riêng của
mình đã được pháp luật ghi nhận. Thông thường, đối với những vụ án không phức tạp.
Hội thẩm chỉ đến nghiên cứu hồ sơ một buổi trước sát ngày mở phiên tòa, thậm chí có
những vị Hội thẩm chỉ đến nghiên cứu cáo trạng hoặc là không nghiên cứu hồ sơ
nhưng vẫn tiến hành hoạt động xét xử tại phiên tòa. Những trường hợp này, Hội thẩm
sẽ không bị lệ thuộc vào các chứng cứ, tài liệu có trong hồ sơ vụ án nhưng lung túng
không triển khai được mô hình để điều tra, đánh giá chứng cứ tại phiên tòa, không xác
định được những vấn đề cần phải chứng minh của vụ án. Chính vì thế, Thẩm phán lại
phải tóm tắt nội dung vụ án, gợi ý cho Hội thẩm những vấn đề cần hỏi. Khi tham gia
xét hỏi, do nắm chắc nội dung của vụ án nên chủ tọa là người “độc diễn”, hỏi hết các

vấn đề, Hội thẩm không có gì để hỏi. Khi nghị án, Thẩm phán cũng là người đưa ra gợi
ý là nên giải quyết theo hướng này hướng khác, Hội thẩm là người biểu quyết theo.
Sau đó chủ tọa thay mặt Hội đồng xét xử tuyên án. Sự “quá chủ động” của Thẩm phán
làm cho Hội thẩm ở vào tình trạng lệ thuộc. Như vậy, tính độc lập xét xử không được
đảm bảo.
Thứ hai, khi xét xử, Thẩm phán xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật. Đây là quy
định cũng như lời thề của nghề Thẩm phán. Nhưng trên thực tế Hội đồng xét xử luôn
phải “thích nghi” với những mối quan hệ nhạy cảm – những sự tác động từ các yếu tố
bên ngoài.
- Sự tác động của Chánh án:
Thông qua hoạt động họp bản án, nhiều Chánh án đã can thiệp cụ thể vào việc xét
xử. Ngoài ý nghĩa tích cực hạn chế được sai sót trong xét xử thì việc tác động của
Chánh án đến hoạt động xét xử của Thẩm phán và Hội thẩm đều vi phạm nguyên tắc
“khi xét xử, Thẩm phán và Hội thẩm độc lập và chỉ tuân theo pháp luật”. Nếu chỉ đạo
đúng thì không sao, nhưng có trường hợp lạm dụng sự chỉ đạo để tác động trái pháp
luật vào hoạt động xét xử của Thẩm phán và Hội thẩm.
- Sự tác động của cấp ủy Đảng, các “lãnh đạo tòa”: Sự tác động này không mang tính
chất thường xuyên nhưng rõ rang trong thực tế có nhiều vụ án, sự tác động của cấp ủy
Đảng đã dẫn đến việc xét xử không chính xác nếu không muốn nói là sai pháp luật. Vụ
án Nông trường Sông Hậu ( Ba Sương ) là một ví dụ điển hình. Hiện nay, chưa có con
số thống kê về số vụ án xét xử có sự tác động của cấp ủy Đảng, của các “lãnh đạo Tòa”
nhưng trên thực tế cấp ủy Đảng và “ lãnh đạo Tòa” có nhiều biểu hiện về can thiệp vào
hoạt động xét xử của Tòa án. Đó là sự can thiệp của cá nhân, vì quyền lợi cá nhân,
nhân danh Đảng, nhân danh tổ chức để tác động mà hoàn toàn không theo nguyên tắc
6
Vũ Thị Hồng Nhung – HC33A004
lãnh đạo của Đảng và vì lợi ích của quốc gia. Sự tác động là vi phạm nguyên tắc xét xử
độc lập và chỉ tuân theo pháp luật.
- Sự tác động của các cá nhân, tổ chức khác: Đây là sự tác động thường xuyên đến
hoạt động xét xử của Tòa án. Trước hết là sự tác động của những người tham gia tố

tụng. Họ có thể tác động trực tiếp hay gián tiếp thông qua các cá nhân có chức vụ
quyền hạn.
- Sự tác động của cơ quan báo chí, dư luận: Càng ngày báo chí và dư luận có tác động
rất lớn đến các hoạt động của đất nước và đặt biệt là hoạt động tư pháp. Xét cho cùng,
báo chí cũng chỉ là những quan điểm tranh luận của cá nhân, thậm chí đó là quan điểm
của tập thể, quan điểm đó có thể đúng và cũng có thể chưa chính xác. Nếu Tòa án xét
xử không theo luật và bị tác động bởi dư luận, báo chí thì rõ rang vi phạm nguyên tắc
“khi xét xử, Thẩm phán và Hội thẩm độc lập và chỉ tuân theo pháp luật”.
Thứ ba, có sự thống nhất và định hướng trước việc xét xử. Đó là việc họp án ban
ngành, họp bản án trong nội bộ cơ quan “duyệt án”. Pháp luật tố tụng hoàn toàn không
quy định việc báo cáo án, duyệt án. Tuy nhiên, trong thực tế xét xử thì việc báo cáo án,
duyệt án trước khi xét xử đã trở thành một thông lệ của các Tòa án địa phương. Thông
lệ này được đánh giá là lợi bất cập hại.
III. Một số giải pháp nhằm bảo đảm thực hiện nguyên tắc “khi xét xử, Thẩm
phán và Hội thẩm độc lập và chỉ tuân theo pháp luật” trong giAi đoạn hiện nAy:
Về hệ thống pháp luật: Cần tiếp tục hoàn thiện hệ thống pháp luật nói chung và các
quy định có lien quan trực tiếp đến việc thực hiện nguyên tắc “khi xét xử, Thẩm phán
và Hội thẩm độc lập và chỉ tuân thEo pháp luật”. Cần có một cơ chế pháp lý hoàn
chỉnh, rõ rang và thống nhất để tạo cơ sở cho Thẩm phán và Hội thẩm khi xét xử chỉ
tuân theo pháp luật. Cần có những văn bản hướng dẫ kịp thời để có cách áp dụng pháp
luật thống nhất trong xét xử. Cần trao cho Tòa án quyền giải thích pháp luật, phán xét
tính hợp pháp, hợp hiến của các văn bản quy phạm pháp luật do các cơ quan nhà nước
ban hành. Kinh nghiệm của các nước trong việc giải quyết vấn đề này là chuyển việc
giám sát và tuyên bố tính hợp hiến, hợp pháp của các văn bản quy phạm pháp luật cho
Tòa án. Cần ban hành Luật bảo vệ Thẩm phán. Có lẽ trước hết là có Nghị định của
Chính phủ, sau đó nâng lên thành Pháp lệnh, thành luật. Cần có những quy định pháp
luật phù hợp về chế tài áp dụng dành riêng cho các Thẩm phán theo nguyên tắc khoa
học, chế độ trách nhiệm rõ rang, thể hiện rõ nguyên tắc dân chủ và bình đẳng, bảo đảm
cả chất và lượng hoạt động, về uy tín của hệ thống tư pháp trong nhà nước XHCN để
ngăn chặn hiện tượng tiêu cực.

Về trình độ chuyên môn nghiệp vụ: Cần phải có sự đổi mới căn bản về công tác đào
tạo, bồi dưỡng Thẩm phán, thực hiện từng bước tiêu chuẩn hóa cán bộ ở trình độ cao
để đội ngũ Thẩm phán của nước ta ngang tầm với yêu cầu đòi hỏi của xã hội. Nội dung
7
Vũ Thị Hồng Nhung – HC33A004
đào tạo cần được xây dựng theo hướng hiện đại hóa nhằm trang bị kiến thức về hệ
thống pháp luật Việt Nam của một số nước trên thế giới.
Về đạo đức Thẩm phán: Hiện tại, việc giảng dạy đạo đức Thẩm phán tại cơ sở đào
tạo nghề và các trường luật còn chưa được chú trọng, thậm chí còn chưa được đề cập
đến. Các thẩm phán tương lai chưa hình thành được ý thức về đạo đức nghề nghiệp,
chưa có long tự hào về nghề của mình. Vì vậy, để nâng cao tinh thần trách nhiệm của
Thẩm phán, Hội thẩm trước hết cần đưa đạo đức nghề nghiệp Thẩm phán vào chương
trình đào tạo nghiệp vụ xét xử tại cơ sở đào tạo nghề như là một phần cơ bản của nội
dung đào tạo.
Về tổ chức hoạt động của cơ quan Tòa án: Ngành Tòa án nên bỏ hình thức họp bàn
án trong nội bộ cũng như họp ba ngành. Bỏ hình thức thỉnh thị án cấp trên, duyệt án.
Một số kiến nghị khác:
+Hiện nay, nhiệm kỳ của Thẩm phán được quy định là năm năm, sau năm năm, Thẩm
phán được xem xét để tái bổ nhiệm. Nhưng về lâu dài, nên xem xét nhiệm kỳ của
Thẩm phán lâu hơn, có thể tiến đến nhiệm kỳ suốt đời.
+Đảng và Nhà nước cần có sự quan tâm về vật chất hơn đối với ngành Tòa án nói
chung và cán bộ Tòa án nói riêng. Khi ngành được trang bị vật chất đầy đủ không phải
phụ thuộc kinh phí địa phương, khi đời sống của “ Quan tòa” được quan tâm đúng mức
đảm bảo cuộc sống thì cán bộ Tòa án có thể yên tâm để làm nhiệm vụ mà không phải
vướng bận chuyện “cơm, áo, gạo, tiền” như vậy khi xét xử sẽ công bằng hơn.
C. KẾT LUẬN:
Về cơ bản, việc quy định nguyên tắc “khi xét xử, Thẩm phán và Hội thẩm độc lập và
chỉ tuân thEo pháp luật” đã đáp ứng được yêu cầu đối với hoạt động xét xử, hạn chế
oan sai, xử sai. Tuy nhiên, thực tiễn thi hành nguyên tắc này vẫn còn những hạn chế
nhất định. Vì vậy, để nâng cao hiệu quả của việc thực hiện nguyên tắc cần có những

giải pháp đồng bộ, khả thi. Các giải pháp này cần phải xác định phù hợp với yêu cầu
của cải cách tư pháp, quan điểm về Nhà nước pháp quyền được đề ra trong các chủ
trương chính sách của Đảng.
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
- Bàn về nguyên tắc độc lập xét xử của tòa án và việc tang cường tranh luận tại phiên
tòa xét xử hình sự/ Ths. Đỗ Thị Ngọc Tuyết/ Tạp chí Kiểm sát. Viện Kiểm sát nhân
dân tối cao, Số 7/2004, tr. 16 - 18, 32.
- Độc lập xét xử ở các nước quá độ: một góc nhìn so sánh/ Lưu Tiến Dũng/ Tạp chí
Toà án nhân dân. Toà án nhân dân tối cao, Số 20 và 21/2006, tr. 5 - 14 và 12 – 19.
8
Vũ Thị Hồng Nhung – HC33A004
- Trọng tâm của công tác cải cách tư pháp hiện nay là đảm bảo cho nguyên tắc tòa án
độc lập/ PGS.TS.Nguyễn Đăng Dung/ Dân chủ & pháp luật. Bộ Tư Pháp, Số 01/ Năm
2007, tr. 23 - 25
- Nguyên tắc “Khi xét xử, Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân độc lập và chỉ tuân theo
pháp luật”: Khóa luận tốt nghiệp/ Nguyễn Hữu Quảng - H.: Trường Đại học Luật Hà
Nội, 1997 . - 32 tr.; 28 cm.
- Nguyên tắc “Khi xét xử, Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân độc lập và chỉ tuân theo
pháp luật”:Khóa luận tốt nghiệp/ Vũ Văn Sang - H.: Trường Đại học Luật Hà Nội,
1997 . - 31 tr.; 28 cm
MỤC LỤC
- A.PHẦN MỞ BÀI…………………………………………………………….….1
- B.PHẦN THÂN BÀI………………………………………………………… …1
- I. Một số vấn đề lý luận và pháp lý về nguyên tắc “ Khi xét xử, Thẩm phán và Hội
thẩm độc lập và chỉ tuân theo pháp luật”…………………………………….…… 1
9
Vũ Thị Hồng Nhung – HC33A004
- 1. Cơ sở pháp lý của nguyên tắc “ Khi xét xử, Thẩm phán và Hội thẩm độc lập và
chỉ tuân theo pháp luật”………………………………………………………………1
- 2. Mục đích, ý nghĩa……………………………………………………………….1

- 3. Nội dung của nguyên tắc………………………………………………………2
- II. Thực tiễn thực hiện nguyên tắc “ khi xét xử, Thẩm phán và Hội thẩm độc lập và
chỉ tuân theo pháp luật” hiện nay……………………………………………… … 3
- 1. Khái quát chung về thực trạng đảm bảo nguyên tắc “ khi xét xử, Thẩm phán và
Hội thẩm độc lập và chỉ tuân theo pháp luật” hiện nay………………………… 3
- 2. Một số yếu tố tác động tới sự độc lập của Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân trong
thực tế hiện nay…………………………………………………………………… …4
- 3. Một số biểu hiện của việc vi phạm nguyên tắc “khi xét xử, Thẩm phán và Hội
thẩm độc lập và chỉ tuân theo pháp luật ” trong thực tiễn……………………….… 6
- III. Một số giải pháp nhằm bảo đảm thực hiện nguyên tắc “khi xét xử, Thẩm phán
và Hội thẩm độc lập và chỉ tuân theo pháp luật” trong giai đoạn hiện nay…….… 7
- C. PHẦN KẾT LUẬN……………………………………………………….…….8
10
Vũ Thị Hồng Nhung – HC33A004

×